7
Tôi không biết mình bất tỉnh bao lâu, chỉ biết khi tôi tỉnh lại thì mình đã ở làng Cải bên kia núi Soan. Làng này vốn nằm khuất trong núi, được chắn bởi rất nhiều rừng cây, cho nên khí hậu mát mẻ, thuận lợi nhất cho việc trồng cải. Cải ở đây ngon nhất cả vùng. Những năm được mùa, một bắp cải phải nặng gần bốn năm ký. Lá cải vừa giòn vừa ngọt, nấu canh ngon hết xẩy.
Tôi mở mắt ra thì đã thấy thằng bé Lâm ngồi bên cạnh. Nó ôm lấy tôi khóc như mưa, không ngừng gào – "Chị Minh, chị Minh."
Tôi ngẩn ra một lúc, nghe nó vừa khóc vừa kể. Thì ra khi tôi bị rơi xuống sườn núi ngất xỉu, may mà có mấy cụ già đi hái thuốc nhìn thấy, đem về chữa trị, còn giúp tôi lấy và chữa các vết đạn bắn. Nếu không tôi đã bỏ cái mạng nhỏ ở đó rồi. Tôi nhìn xuống cả người bị quấn đầy băng y như một cái xác ướp từ đầu tới chân. Nhích đi đâu thì đau tới đó.
Thằng bé Lâm kể lể một lúc lại nói đến thị xã của tôi. Nó bảo tối hôm đó cả xã đã bị địch thả bom thiêu rụi, người sống sót không nhiều. Bây giờ đã có quân đội đóng quân ở đó, không thể trở về được. Tôi nghe đến đó lặng đi nhìn thằng bé.
Nó cắn chặt môi, nước mắt chảy dài từ đôi mắt đen to hỏi tôi – "Chị Minh ơi, có khi nào ba má em cũng chết rồi không?"
Tôi khó nhọc nuốt nước bọt. Thằng bé mở đôi mắt to đỏ hoe nhìn tôi. Tôi nghĩ mình không lừa được nó. Tôi cúi đầu nói – "Chị... chị không biết."
Câu nói của tôi khiến nó bật khóc. Tôi ôm lấy nó, nén đau cứng nhắc vỗ về - "Đừng lo, chị ở đây với Lâm, chờ cho đến khi ba má Lâm quay lại. Nha?"
Nó ôm chặt lấy tôi, giống như một đứa trẻ nhỏ khóc mãi không thôi.
Thật ra lúc đó khi nhìn thấy Lâm, tôi gần như quên mất Sao Quả Tạ. Mãi về sau tôi mới sực nhớ đến hắn. Hỏi ra thì chẳng ai biết gì về sự tồn tại của hắn. Tôi cuống cuồng mặc kệ các vết thương và sự can ngăn của mọi người trong làng mà quay lại sườn núi, tìm ròng rã hết ba ngày trời cũng không thấy tung tích của hắn.
Hắn giống như là bốc hơi mất tích hoàn toàn vậy.
Có người còn tốt bụng khuyên tôi, có lẽ hắn bị thú rừng làm thịt tha đi đâu rồi, nói tôi đừng phí công nữa. Lời khuyên này khiến tôi không nhịn được rơi nước mắt.
Hắn như thế nào ăn hết bao nhiêu gạo, uống hết bao nhiêu nước, còn làm phí hết bao công sức của tôi mà đã chầu trời sớm như thế. Biết thế tôi cứ để cho hắn chết vùi lúc ở bờ kè sông Can cho rồi.
Tôi lấy mấy hòn đá gom lại thành một đống, xây cho hắn thành một cái mộ nhỏ.
Về sau này những ngày tháng tôi và thằng bé Lâm sống ở làng Cải, mỗi khi gặp chuyện không vui muốn khóc tôi đều ra đó nói chuyện với hắn.
Tôi và thằng bé Lâm ở lại làng Cải. Lúc đầu chúng tôi ở trong một cái nhà kho mà dân làng chuẩn bị cho người tị nạn. Họ chữa trị cho cả vết thương của tôi. Ngoài chúng tôi ra còn vài chục người nữa cùng xã. Trong số họ không có thầy Văn và những người tôi quen.
Dân trong làng góp gạo lại nấu cơm cho chúng tôi ăn. Trời lạnh buổi tối họ còn hảo tâm chia cho chúng tôi ít chăn mỏng.
Một số người ở lại, hơn quá nửa chỉ ở lại một thời gian rồi chuyển đi nơi khác. Tôi không biết họ đi đâu, có lẽ đi về miền Nam xa hơn, nơi họ cho rằng an toàn hơn ở đây.
Tôi hỏi Lâm muốn đi đâu. Thằng bé nói, nó muốn về nhà.
Thế nên chúng tôi ở lại làng Cải, chờ cơ hội để có thể trở về nhà. Có nhiều đêm tôi nằm mơ, mơ thấy tôi thức dậy ở nhà, ba má và anh trai tôi đang chờ quanh quanh mâm cơm có thịt có rau. Má tôi cằn nhằn gì đấy, ba tôi chỉ cười cho qua. Anh trai tôi hào hứng kể chuyện về tụi con gái, bảo anh ấy muốn lấy một bà chị nào đấy tôi không biết mặt.
Thế nhưng mỗi lần tỉnh dậy, tôi luôn nhìn thấy chiếc trần nhà cũ nát xa lạ. Bên cạnh tôi, thằng bé Lâm đang ngủ, trên gương mặt nó là nước mắt, biểu cảm đau thương giống như tiếc nuối vô vàn thứ.
Tôi và thằng bé đi làm thuê thu hoạch cải cho những người trong làng Cải kiếm tiền. Được một thời gian dành dụm, tôi và nó dọn ra thuê một phòng trọ chia nhau.
Hai năm cứ thế lặng lẽ trôi qua, tôi nghĩ tôi cũng chẳng thay đổi gì, nhưng thằng bé Lâm thì lớn nhanh như Thánh Gióng. Thoáng một cái nó đã cao vụt hơn tôi. Nó lớn rồi, tôi ở chung nhà với nó cũng bất tiện, căn nhà dường như nhỏ đi theo từng ngày. Giống như tôi chỉ cần xoay người khi ngủ sẽ đụng phải nó. Nó chỉ cần đưa tay lên sẽ chạm phải tôi. Nhưng chúng tôi không có sự lựa chọn. Chúng tôi học cách làm quen với sự bất tiện, giống như đó là con voi khổng lồ mọc trong nhà chúng tôi. Chúng tôi không thể đẩy nó ra khỏi cánh cửa chật hẹp, chỉ có thể tìm cách sống giữa những khoảng trống ít ỏi mà con voi đó để lại.
Có lẽ đêm bị địch thả bom là biến động cuộc đời quá lớn đối với Lâm, nó trầm tính hẳn, so với trước cũng ít nói cười hơn. Giống như sau một ngày, nó già đi cả chục tuổi vậy. Nó bỏ hoàn toàn chuyện học hành, chỉ chăm chăm muốn gia nhập quân đội. Vài tháng sau khi chúng tôi đến làng Cải, nó bỏ nhà đi chẵn một tuần. Tôi kiếm nó đến đỏ con mắt, cứ tưởng cả đời này không tìm được nó nữa thì nó thất thiểu trở về. Hỏi ra mới biết nó đi xuống tỉnh cách đó cả chục cây số xin gia nhập quân ngũ. Nhưng họ không cho, nói nó chưa đủ tuổi.
Nhưng nó không bỏ cuộc. Buổi sáng nó ra ngoài làm thuê ở ruộng cải, buổi tối đi theo tụi con trai mới lớn trong làng luyện đánh nhau.
Một thời gian dài trên mặt nó lúc nào cũng đầy những vết bầm tím. Tôi mắng thì nó trừng mắt nhìn tôi, nó bảo – "Học cho lắm vào làm gì? Địch đánh bom lên đầu thì cũng chết thôi. Địch tới em lấy cái gì mà đấu với tụi nó, đánh đố toán chúng nó chắc? Chẳng thà em đi tập luyện, có thể lực thì còn có thể đấu lại chúng nó."
Tôi nhìn đôi mắt đỏ hoe của nó, những điều muốn phản bác rốt cuộc cũng không thể nói ra. Tôi đành ngầm đồng ý cho nó. Thằng bé bị thương nhiều, khiến tôi cũng bắt đầu thành thạo về việc băng bó. Tôi biết cách nắn xương, biết cách cầm máu, biết cách giã máu bầm, biết làm nẹp, biết loại lá cây nào ăn sẽ giảm đau, loại lá cây nào ăn sẽ buồn ngủ.
Có đôi khi băng bó cho Lâm, tôi sẽ nhớ đến Sao Quả Tạ. Tôi cảm thấy có chút tiếc nuối cho hắn. Nếu hắn không xuất hiện quá sớm trong cuộc đời tôi, tôi nghĩ mình đã có thể chăm sóc hắn tốt hơn.
Chẳng biết Lâm luyện tập kiểu gì mà về sau thằng bé càng ngày càng cao lớn. Số lần tay chân mặt mũi bị thương phải nhờ tôi băng bó thưa thớt dần. Năm Lâm lên 14 tuổi, nó đã cao bằng những thanh niên 17 tuổi trong làng. Tụi trẻ con trong làng không ai trong làng dám đụng vào nó nữa.
Mỗi lần nghĩ đến Lâm, tôi không khỏi thở dài - "Mỗi ngày nó ăn hết của tôi ba bát cơm đấy."
Tôi lấy que củi chọt chọt lên mộ Sao Quả Tạ - "Anh bảo xem thằng nhóc này tôi phải bán nó ở đâu đây?"
"Bán ai đấy?" – Tiếng người vang lên đằng sau khiến tôi giật nảy mình.
Tôi quay lại thấy Lâm đang đứng khoanh tay trừng mắt nhìn tôi. Tôi cười giả lả, phủi quần đứng dậy. Lâm sải bước tới trước mặt tôi.
"Chị không ở nhà nấu cơm, chạy ra đây làm gì?" – Nó khoanh tay từ trên cao nhìn tôi.
Thằng nhóc này càng lớn càng hay giả bộ ông cụ non. Tôi thật không thích nó như thế. Nhưng tôi đâu dám nói ra. Nhìn nó bây giờ đi, nó đập một phát đảm bảo tôi không về chầu ông bà thì cũng phải ăn cháo thay cơm cả đời. Tôi cười lấy lòng nó – "Còn sớm, còn sớm mà. Ăn cơm làm gì vội?"
"Có biết mấy giờ rồi không? Mặt trời sắp lặn rồi." – Nó hất mặt về một phía. Tôi ngẩng đầu nhìn theo. Mặt trời đã xuống thấp, đỏ rực như một hòn than đỏ, nung nóng cả một vùng trời.
"Nhanh nhỉ, hết một ngày rồi." – Tôi không nhịn được trầm ngâm.
Thằng bé không đáp lời tôi.
Tôi mặc kệ, độc thoại không người đáp là nghề của tôi. Thế nên tôi nói tiếp - "Ngày mai em đi nhập ngũ thật à?"
Tôi chờ đợi sự phủ định trong lời nói của nó. Nhưng hoàn toàn không có, đáp lại tôi là sự im lặng, hoàn toàn im lặng.
"Không đi không được sao?"
Tôi hỏi, mặc dù biết rõ câu trả lời. Nó chờ ngày này đã lâu lắm rồi. Tôi thậm chí còn có chút nghi ngờ rằng nó khai gian tuổi để nhập ngũ. Nó không còn là đứa trẻ khóc nhè khi chúng tôi còn ở nhà nữa rồi. Chỉ mới hai năm, tôi cảm thấy nó còn già hơn cả tôi nữa.
Lâm vẫn không trả lời câu hỏi của tôi, nắm tay tôi lôi đi – "Về thôi, trễ rồi."
Tôi đi theo nó, hỏi – "Tối nay muốn ăn gì chị nấu?"
"Người ta đã nấu xong rồi. Chỉ còn chờ chị về nữa thôi." – Nó không thèm ngoảnh mặt lại mà đáp.
Tôi kéo tay nó lại. Nó ngoảnh đầu lại nhìn tôi. Trong tròng mắt đen của nó nhuộm màu hoàng hôn. Gió thổi mái tóc đen ngắn cứng còng của nó bay bay. Thằng bé này lớn lên cũng tốt tướng, không uổng công nuôi cơm của tôi suốt hai năm trời. Tôi lấy trong túi quần ra một chiếc vòng tết màu đen, đeo vào tay nó.
Thằng bé không nói tiếng nào, chỉ lẳng lặng để yên cho tôi cột cột thắt thắt quanh cổ tay.
Nó đưa tay sờ sờ lên mặt dây, sau đó ngẩng lên hỏi tôi – "Cái này..."
Tôi nhăn răng cười – "Đeo cái này, cho mày đỡ nhớ chị."
Nó đưa tay nâng một ít đuôi tóc ngắn đến cằm của tôi – "Tóc của chị..." – Lời nói của nó nhỏ dần giống như bị gió thổi đi.
Lâm lặng người vài giây, sau đó đột nhiên vòng tay ôm lấy tôi. Nó ghì tôi đến muốn nghẹt thở, chỉ vỏn vẹn nói đúng ba chữ – "Chờ em về."
Tôi thấy mắt cay xè, muốn khóc nhưng lại không muốn bị mất thể diện trước mặt nó, thế là đành nạt nó một câu – "Chờ cái gì, mày liệu hồn mà về nhà. Không về thì chị mày tới lôi đầu mày về đấy thằng nhóc."
Chúng tôi ăn bữa cơm cuối cùng trong im lặng. Ngay cả cơm cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ là cơm rau cải như mọi khi thôi. Thế mà tôi lại cảm thấy đắng nghét nuốt không trôi. Ngày hôm sau tôi chưa ngủ dậy thằng bé đã đi rồi. Ngay cả một câu tạm biệt cũng không có, tuyệt tình vô cùng.
Những ngày đầu nó đi, tôi phấp phỏm lo lắng. Cảm giác của tôi giống như một con gà mái mẹ vừa bị xổng con. Cũng may thằng bé cũng chịu khó viết thư về. Chữ của nó đặc biệt xiêu vẹo khó đọc. Chưa kể thư nào thư nấy ngắn cũn chỉ vài dòng, toàn là than thở về cuộc sống cực khổ của nó ở quân đội, bị các anh lớn trong đội bắt nạt như thế nào.
Nó càng kể khố, tôi lại càng yên tâm ăn ngon ngủ ngon. Chẳng qua thì nó vẫn đầy nhiệt huyết thế thôi.
Khi tâm trạng tôi bắt đầu bình ổn, lo lắng giảm bớt thì một ngày nọ tôi nhận được thư tín báo nó đã tử trận.
Ba tháng.
Lâm tử trận chỉ ba tháng sau khi nhập ngũ.
Tờ giấy trên tay tôi giống như báo cái chết của chính bản thân mình. Tôi loạng choạng ngã trên đất. Hoàng hôn đổ trên đầu tôi. Cách đây ba tháng, thằng bé vẫn còn đứng trước mặt tôi, ôm lấy tôi, nói với tôi rằng chờ nó trở về.
Nửa tháng trước nó còn viết thư về cho tôi, bảo rằng nó biết chỗ bán lược bằng ngà voi trên tỉnh, hỏi tôi có thích không nó sẽ mua cho tôi một cái. Tôi viết thư bảo nó là chắc chắn đồ giả, ngà voi thật thì nó mà có tiền mua chắc. Tôi vẫn còn đang đợi hồi âm của nó, rốt cuộc chỉ có một mảnh giấy vô nghĩa này trở về trả lời cho tôi.
Buổi tối hôm đó, tôi đốt đèn cầy, ngồi cả đêm nhìn tờ giấy. Tôi xem xét mực in, xem xét con dấu, xem xét nét chữ. Tôi đinh ninh cho rằng nó là đồ giả, chắc chắn là thằng bé bày ra để chọc ghẹo tôi. Nó chỉ mới vừa mới sang 14 tuổi, sao lại chết? Nó vẫn chưa có người yêu, chưa lấy vợ, chưa tìm được ba má, còn chưa quay về được nhà.
Tôi cầm mảnh giấy chạy lên hỏi tất cả những người cấp cao trong làng. Tôi cầu xin họ xác nhận cho tôi đây không phải là sự thật. Tất cả đều lắc đầu nhìn tôi. Tôi cho rằng họ già cả không biết gì cả. Tôi cầm đi hỏi các anh thương binh trong làng. Cho dù tôi năn nỉ cách mấy, họ cũng đều mang cùng một biểu cảm nhìn tôi.
Tôi không cần họ thương cảm. Tôi chỉ cần họ nói với tôi, rằng cái tờ giấy khốn khiếp ấy là hàng giả, rằng đây không phải là sự thật.
Không ai trả lời giúp tôi. Tôi tự nhủ bản thân mình, có lẽ tôi đang mơ. Tôi đưa tay vả vào mặt mình. Nếu là mơ, tôi muốn thức dậy ngay bây giờ. Giấc mộng này tôi không muốn mơ tiếp.
Tôi tự đánh mình một lần, hai lần, nhiều lần. Má tôi đau nhưng tôi vẫn không thức giấc. Có lẽ không đủ mạnh, tôi lại càng nặng tay. Vừa đánh tôi vừa cầu xin, làm ơn, cho tôi thức dậy. Ai đó cứu tôi ra khỏi cơn ác mộng này.
Nhưng không ai nghe lời cầu xin của tôi.
[...]
Những ngày sau đó tôi ăn không được, ngủ không được, một thời gian thì đổ bệnh. Trong cơn sốt cao mơ màng vật vờ, tôi nhìn thấy Lâm. Thằng bé không nói gì, nhưng khi tôi đến gần, lại nhìn thấy một lỗ đạn giữa trán của nó. Máu từ đó trào ra như lũ, chảy xuống tròng mắt, xuống đẫm gương mặt nó. Đầu của nó nghiêng qua theo một góc độ kỳ dị. Giống như một xác chết biết đi, nó quặt quẹo tiến lại gần, gọi tên tôi – "Chị Minh, chị Minh."
Tôi có lẽ đã chết, nếu không có cô hàng xóm tốt bụng phát hiện ra, đưa tôi tới chỗ phòng khám kịp thời. Khi tôi uống ly nước đắc nghét nồng nặc mùi thuốc bắc của thầy thuốc đưa cho, sự thật giống như hoà vào trong thuốc, chậm rãi ngấm vào người tôi.
Nếu ngày hôm đó, tôi kiên quyết giữ nó lại thì sao?
Nếu hai năm về trước, tôi kiên quyết không cho nó đi luyện đánh nhau?
Nếu ngay từ đầu, tôi loại bỏ những suy nghĩ về việc nhập ngũ của nó?
Tại sao tôi lại không làm thế?
Tại sao lại là Lâm?
Tại sao lại là chúng tôi?
Chúng tôi đã làm gì sai?
Tại sao chiến tranh lại rớt lên trên đỉnh đầu chúng tôi?
Rốt cuộc là vì sao?
Vì sao?
Muôn ngàn câu hỏi giống như bùng nổ trong đầu tôi. Những câu hỏi không ai có thể giúp tôi trả lời.
Nước mắt tôi lớp lộp độp trên chiếc ly trống không. Tôi cứ thế bật khóc.
Xin lỗi em.
Xin lỗi.
Khi trở về nhà, tôi đờ đẫn mở cánh cửa tủ gỗ xếp quần áo đặt ở góc nhà. Lúc Lâm còn ở nhà, lúc nào nó cũng than phiền tại sao cả cái tủ có sáu ngăn mà tôi chỉ chia cho nó hai ngăn. Tôi bảo, nếu thế thì mày chuyển giới tính thành con gái đi chị mày sẽ nhường mày thêm một ngăn. Lần nào nó cũng hậm hực nhìn tôi vẻ mặt bất công. Đến một hôm, có lẽ con giun xéo quá cũng quằn, nó cả gan cãi lại với tôi, còn oanh liệt bảo tôi nó sợ gì mà không chuyển. Tôi nghe thấy thế liền đi vào bếp cầm cây kéo ra. Tôi nghĩ thằng bé chỉ nghĩ đơn giản rằng chuyển giới tính thì mặc quần áo của chị nó là được. Thế nên khi nhìn thấy cây kéo, nó liền tái mặt.
Sau đó tôi không nghe thấy nó đòi hỏi về mấy ngăn tủ lần nào nữa.
Bây giờ nó đi rồi, trong tủ vẫn còn lại vài bộ đồ. Tôi run rẩy lấy ra một chiếc áo cũ của nó. Đây là chiếc áo tôi mua cho sinh nhật nó năm ngoái. Tôi thấy nó lớn nhanh quá nên mua loại rộng rộng, sợ nó mặc không vừa. Thế nhưng nó chẳng bao giờ mặc. Khi Lâm rời nhà, tôi bảo nó cầm theo, nhưng nó không chịu, bảo rằng ra ngoài mặc váy người ta cười cho.
Tôi nhìn chiếc áo đến ngẩn người.
Lặng lẽ như vậy?
Nhanh đến vậy?
Chỉ như thế, nó đã không còn tồn tại nữa?
Chỉ như thế, nó chỉ còn là những ký ức trong đầu tôi?
Giống như má tôi, ba tôi, anh trai tôi, giống như chú thím Ba, giống như Sao Quả Tạ.
Tôi mở chiếc ngăn tủ của mình, đưa tay lật quần áo xếp bên trên. Ở đáy ngăn, nằm gọn gàng ngay chính giữa là một khẩu súng ngắn. Chính là khẩu súng mà hai năm trước tôi đã gỡ ra khỏi tay của một xác chết khi rời khỏi nhà.
Tôi đưa tay cầm khẩu súng. Báng súng lạnh ngắt, nặng nề đè lên lòng bàn tay tôi.
Tôi đem khẩu súng cùng với quần áo của Lâm cất vào chỗ sâu nhất ở đáy tủ, sau đó khoá lại cẩn thận. Giống như đặt toàn bộ đau thương của chính bản thân trong chiếc hộp nhỏ, tôi đặt ven đường rồi lại phải bước tiếp.
--------
A/N: Đây chắc là nữ chính hay để quên nam chính nhất mà tớ từng viết :))
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip