Quan họ

Giait thích tên gọi “quan họ “ :
- Dân ca quan họ là loại hình văn hóa phi vật thể . Theo các nhà nghiên cứu văn hóa ,quan họ có từ tk 17 , bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm . Về mặt sáng tạo nghệ thuật dân ca quan họ đc coi là đỉnh cao của nghrej thuật thi ca . BN  có 44 làng quan họ gốc , đến nay còn gần 30 làng giữ đc lối chơi văn hóa quan họ
- Quan họ là một làn điệu , một loại hình dân ca đặc sắc , một lối hát giao duyên nổi tiếng của vùng đồng bằng bắc bộ việt nam mà tập trung chủ yếu ở vùng kinh bắc – BN .
- Tên gọi “ quan họ “ đã có từ rất xa xưa , ko ai biết chính xác vì sao lại có tên gọi này . Có rất nhiều giả thiết lí giải , nhưng cho đến nay chưa có giả thuyết nào có đủ tính thuyết phục. Có giả thuyết cho rằng “ quan họ “ là thể loại âm nhạc của “ họ nhà quan “ nên đc gọi là quan họ (khác với các thể loại dân ca khác , quan họ k đc sinh ra từ tầng lớp nhân dân lao động mà đc sinh ra từ tầng lớp trung lưu nông thôn . Cũng có truyền thuyết cho rằng : có một ông quan cưỡi ngựa đi qua làng diềm xá ( xã hòa lang ,huyện yên phong ) gặp 1 cô gái hát hay đang hát làn điệu dân ca , ông quan dừng ngựa lại để nghe , quan mê tiếng hát và đặt tên là làn điệu quan họ .
Người Quan Họ chỉ hát đối đáp theo từng nhóm xã hội nhất định - gọi là bọn Quan Họ. Trong đó, chỉ có bọn Quan Họ kết nghĩa mới hát đối đáp với nhau
Ðể hình thành nên nhóm, các chàng trai (hoặc cô gái) cùng làng xã phải trải qua một quá trình học hát dưới sự dìu dắt của các thế hệ đi trước. Khi đã có một vốn liếng bài bản nhất định, họ mới tự kết hợp lại thành từng nhóm liền anh hay liền chị. Sau khi đã hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết, họ mới bắt đầu đi tìm nhóm kết nghĩa với nguyên tắc nam phải chủ động tìm đến nữ. Thông thường, mối quan hệ kết nghĩa giữa các bọn Quan Họ được bắt đầu bằng việc các nhóm liền anh từng làng đi chơi hội để chủ động tìm bạn hát.
Theo phong tục quan họ nam mời trầu quan họ nữ. Sau đó họ hát với nhau những lời ướm hỏi, nếu ý hợp tâm đầu họ sẽ hẹn hò nhau ở làng bên nữ để tổ chức lễ kết nghĩa. Nơi tổ chức kết nghĩa có thể ở đình hoặc ở nhà bố mẹ chị Cả, chị Hai và do cụ Đám (còn gọi là ông trùm hoặc bà trùm) đứng ra làm chủ sự.
Lễ kết nghĩa được bắt đầu bằng những lời thăm hỏi tận tình hoặc những lời thề thốt. Sau đó, họ lại có buổi gặp nhau ở bên nam. Tại đây họ có thể hát thâu đêm suốt sáng để thổ lộ với nhau về tình cảm. Căn cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp: Anh Cả – Chị Cả, anh Hai- chị Hai, anh Ba – chị Ba, anh Tư – chị Tư… Lời ca trong quan họ chủ yếu nói về tình yêu nam nữ, sự gắn bó thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không hề nghĩ đến chuyện yêu nhau mà chỉ quan hệ trên cơ sở bình đẳng tôn trọng lẫn nhau
Một trong những niềm tự hào của người Kinh Bắc là dân ca quan họ. Những làn điệu dân ca quan họ trữ tình, mượt mà, da diết, ngọt ngào được trình tấu bởi những liền anh, liền chị lịch lãm trong chiếc áo năm thân mà không kém phần duyên dáng trong tà áo mớ ba mớ bẩy. Cứ thế, dân ca quan họ đi vào lòng người và trở thành phần hồn, thành món ăn tinh thần, thành nét văn hoá rất riêng của vùng đất kinh kì xưa.Dân ca quan họ là hát đối đáp nam, nữ. Họ hát quan họ vào mùa xuân, mùa thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện tình yêu lứa đôi, không có nhạc đệm kèm theo. Hiện nay có hai kiểu quan họ là quan họ truyền thống và quan họ mới:

Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn tuân theo luật lệ này. Người dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan họ". Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. "Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức. Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị "chơi quan họ" ưa thích đến tận ngày nay như La ràng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo... Sinh hoạt văn hoá Quan họ của liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Cuộc hát Quan họ được xem là Canh hát chính thống thường phải tuân thủ đủ trình tự các chặng: lề lối, giọng vặt và giã bạn. Trong ba chặng hát: Lề lối, Giọng vặt, Giã bạn - mỗi giai đoạn đều có những biểu hiện khác biệt ở phân nội dung ,cũng như hình thức cấu trúc bài bản. Lề lối là các bài Quan họ cổ, thường được hát ở nhịp độ chậm, bài bản có nhiều tiếng đệm, lời phụ. Người hát những bài Quan họ Lề lối phải biết kỹ thuật hát vang, rền, nền, nảy, ngắt, rớt mới có thể thực hiện tốt và "đúng chất" quan họ.

Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,...quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên thế giới. Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa, cải biên các bài bản truyền thống. Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài "Sông cầu nước chảy lơ thơ" do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống "Nhất quế nhị lan".Có bốn kỹ thuật hát đặc trưng: Vang, rền, nền, nảy. Hát quan họ có ba hình thức chính: Hát canh, hát thi lẩy giải, hát hội. Hát quan họ gắn liền với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ, tục "ngủ bọn". Mặc dù các phong tục này không được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dán các làng quan họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật dân ca quan họ này.Quan họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn so với ban đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết. Từ những năm 70 của thế kỉ trước, Sở Văn hóa Hà Bấc đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các dị bản đã được ghi âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân. Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà xuất bản âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được ghi âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cực kỳ cẩn thận để có thể lưu giữ cách dài lâu cho thế hệ mai sau. Quan họ đã được ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể long trọng công bố là Di sản phi vật thế đại diện của Nhân loại.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #dẫn