Tiểu luận: Quan điểm Mac - Lenin về cán bộ và công tác cán bộ

Phụ Lục

1.

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

2

1.1.

Khái niệm về cán bộ

.

2

1.2.

Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ theo quan điểm của Chủ Nghĩa Mác – Lênin

.

3

1.3.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phẩm chất của người cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý

4

1.4.

Quan điểm cả chủ nghĩa Mác-Lênin về công tác đào tạo, tuyển chon, sử dụng cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

6

2.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

..

8

2.1.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về của cán bộ

.

8

2.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ

.

12

2.3.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác cán bộ

.

13

2.4.

Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng

.

14

2.5.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ

.

16

3.

TÌNH HÌNH CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

.

20

3.1.

Tình hình, thực trang

.

20

3.2.

Nguyên nhân của thực trạng

.

22

3.3.

Giải pháp đổi mới, kiện toàn công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay

.

23

3.4.

Yêu cầu tiếp tục đổi mới, kiện toàn công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay

25

3.5.

Một số kiến nghị rút ra từ thực trạng và yêu cầu công tác tổ chức, cán bộ trong giai đoạn hiện nay

29

Lời nói đầu

Những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin là những di sản lý luận quan trọng và quý báu đói với thực tiễn cách mạng nước ta trong thời kỳ đổi mới đất nước theo định hướng XHCN hiện nay. Một trong những giá trị lý luận đó là tư tưởng về công tác cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Vận dụng lý luận cách mạng về công tác cán bộ của chủ nghĩa Mác Lênin, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm tới công tác cán bộ của Đảng. Người nhấn mạnh “Công việc thành công hoặc thất bại là do cán bộ tốt hay kém”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý về tiêu chuẩn hóa cán bọ cách mạng của Đảng, trong đó, đạo đức cách mạng của cán bộ, theo Người đó là phẩm chất gốc của người cán bộ cách mạng. Trên nguyên tắc tư tưởng của Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, suốt gần 80 năm nắm giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới công tác cán bộ. Bước vào thời kỳ đổi mới, nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã kịp thời xây dựng đường lối chiến lược cán bộ cách mnạg của Đảng trong tình hình mới. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba khóa VIII, Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với chúng ta không chỉ trong quá khứ, hiện tại mà còn cả trong tương lai. Chính vì vây mà việc nghiên cứu về vấn đề này là cần thiết và cấp bách; nhất là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang triển khai thực hiện Luật cán bộ, công chức được Quốc họi khóa XII kỳ họp thứ 4 thông qua và có hiệu lức thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.

1.

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

1.1.

Khái niệm về cán bộ

Theo các nhà nghiên cứu, thuật ngữ “cán bộ” bắt nguồng từ tiếng Trung Quốc, được du nhập vào nước ta khá sớm, được sử dụng phổ biến bào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thoạt đầu, thuật ngữ cán bộ được dùng nhiều trong quân đội, để phân biệt giữa người chiến sỹ với người lãnh đạo các cấp trong quân đội; sau đó, thuật ngữ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những người thoát ly khỏi nông nghiệp để hoạt động kháng chiến. Trong thực tiễn cách mạng ở nước ta trước đây, từ “cán bộ” thường được nhân dân gọi với ý nghĩa trân trọng, tự hào và kính phúc; nhất là đối với những chiến sỹ cách mạng, lớp người gắn bố với nhân dân, phục vụ sự nghiệp cao cả đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là những người “Đem chính sách của Đảng của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Như vậy theo Bác Hồ cán bộ là những người  có  trách nhiệm phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, Nhà nước chứ không phải là người đứng trên hoặc đứng ngoài nhân dân. Họ có trách nhiệm truyền tải đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của  Nhà nước đến với nhân dân để nhân dân hiểu cho rõ và tổ chức, vận động nhân dân thi hành. Đồng thời, cán bộ cũng là người có trọng trách phải gần gũi nhân dân, nắm được tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc của quần chúng nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước để Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cho đúng, phù hợp với quy luật vận động, phát triển của xã hội và đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, quan niệm về cán bộ được mở rộng hơn, bao gồm: Tất cả những người được bầu cử vào các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể; những người được bổ nhiệm đảm nhiệm một công tác quản lý hoặc được giao một công  tác chuyên môn nào đó (cán bộ giảng dạy, cán bộ khoa học kỹ thuật  ...);  cán bộ khung  từ tiểu đội trưởng trở lên trong lực lượng vũ trang. Như vậy, quan niệm về cán bộ cho đến nay có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các ý kiến đó, thông thường, được hình thành từ cách nhìn trực tiếp đối với từng loại cán bộ, theo phương pháp liệt kê các tiêu chí hoặc theo cảm tính, nên chưa phản ánh được một cách đầy đủ vềkhái niệm cán bộ.  Theo từ điển tiếng Việt thì “cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức”. Một công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam đã đưa ra định nghĩa: “Cán bộ là một khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng cho sự phát triển của tổ chức”. Các khái niệm trên về cán bộ đều đã khái quát rõ những đặc trưng của cán bộ như sau:

Một là

, cán bộ phải là những người được bầu hoặc được chỉ định hay bổ nhiệm để đảm nhận cương vị nhất định trong một tổ chức nào đó (đặc trưng này phân biệt cán bộ với người không có chức vụ, không có cương vị).

Hai là

, chức vụ, cương vị của người cán bộ liên quan đến lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động của một tổ chức nhất định (đặc trưng này để phân biệt giữa cán bộ với những người cũng có chức vụ, cương vị nhưng không coi là cán bộ, như trưởng tộc, trưởng hội đồng hương, trưởng hội đồng môn ...).

Bà là, cán bộ phải là người có uy tín, có vai trò nòng cốt, có tác động ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của tổ chức, điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động, duy trì, thúc đẩy và định hướng sự phát triển của tổ chức.

Như vậy, được coi là cán bộ đồng thời phải có đầy đủ ba đặc trưng trên. Những đặc trưng này là cơ sở để chúng ta phân biệt người cán bộ với những đối tượng khác. Nếu thiếu một trong ba đặc trưng trên đều đưa đến nhận thức phiến diện về cán bộ. Từ những đặc trưng trên, cán bộ được phân chia trên nhiều lĩnh vực, nhiều chức danh, cấp độ khác nhau. Trong từng loại cán bộ đều cần phải quy định tiêu chuẩn, tiêu chí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau.

1.2.

Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ theo quan điểm của Chủ Nghĩa Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác Lênin là một hệ thống lý luận khoa học tiên tiến của xã hội loài người, trong đó công tác xây dựng Đảng của giai cấp vô sản là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành của hệ thống lý luận đó. Đảng ở đây không phải là một khái niệm trừu tượng mà Đảng là những con người cụ thể, những đại biểu ưu tú của giai cấp, trong đó họ nổi lên những lãnh tụ, những người chủ chốt đứng đầu phong trào cách mạng vô sản. Thực tiễn trong lịch sử một giai cấp nào muốn trở thành giai cấp thống trị xã hội cũng đều phải tạo ra những lãnh tụ chính trị đủ sức lãnh đạo phong trào theo ý chí của giai cấp mình. Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội Cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công bằng, văn minh hơn so với các xã hội trước đó. Để đạt được mục đích lý tưởng, đòi hỏi giai cấp vô sản thông qua chính Đảng của mình, phải đào tạo ra những lãnh tụ giỏi, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Là lãnh tụ của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, V.I.Lênin đã kế thừa xuất sắc những quan điểm tư tưởng của C.Mác và Ph.Ang ghen, trong quá trình thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng Bônsê Vích Nga. Lênin đã đánh giá rất cao vị trí, vai trò của cán bộ trong hàng ngũ của Đảng: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.

Như vậy rõ ràng là Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ có thể thành công trên cơ sở có độ ngũ cán bộ được đào tạo như vậy, đó là sự thật hiển nhiên. Qua thực tiễn lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin tiếp tục khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có đủ bản chất hiện nay đó là then chốt. Nếu không  thế  thì  tất  cả  mọi  mệnh  lệnh  và quyết định chỉ là mớ giấy lộn”.

Do xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của cán bộ, Lênin đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn chế độ Nga hoàng, xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

1.3.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phẩm chất của người cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý

C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho sự phát triển lý luận và thực tiễn về công tác cán bộ của giai cấp vô sản. Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn là những người đem lý luận khoa học kết hợp với phong trào công nhân, lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới. Giai cấp vô sản vàchính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững chính quyền cần phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ thật trung thành và tài năng mới đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng của mình. Các ông cho rằng: "Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại và nếu không có những con người như thế thì, như Henvêxinxơ nói: thời đại sẽ sáng tạo ra con người như thế". Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ chính quá trình truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác đã khẳng định:"Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”. Khi cách mạng đang ở thời kỳ Đảng chưa nắm được chính quyền, C.Mác và Ph. Ăngghen chưa có điều kiện để bàn nhiều về vấn đề cán bộ. Nhưng hai ông đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một đội ngũ những người tuyên truyền, cổ động để truyền bá tư tưởng cộng sản; lãnh đạo, tổ chức các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Trên cơ sở đó, kết hợp với phong trào công nhân để sáng lập ra chính đảng của giai cấp công nhân. Lênin đã kế thừa và phát huy sáng tạo Chủ nghĩa Mác, trong tư tưởng và đạo đức của Lênin, Người luôn nhấn mạnh đến phẩm chất cách mạng và sự giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của người cán bộ. Người đòi hỏi:

Một là

, người cán bộ, đảng viên cộng sản phải làngười có giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có lòng trung thành vô hạn với Chủ nghĩa máclênin, với sự nghiệp của giai cấp vô sản, suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của giai cấp vô sản, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Đối với một đảng cầm quyền  người đảng viên phải luôn luôn rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng, trung thành với lý tưởng cộng sản, chấp hành đầy đủ mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Lênin đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm đảng viên là phải đảm đương trọng trách quản lý đất nước, quản lý xã hội; biết tự mình “làm gương cho quần chúng lao động thấy một mẫu mực về lòng trung thành đối với lợi ích của những người lao động”. Hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp vô sản, phục vụ nhân dân lao động.

Hai là,

người đảng viên của đảng cầm quyền phải là người có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Năng lực là trình độ hiểu biết, nắm vững quy luật phát triển của sự vật để cải tạo sự vật; là trình độ nhận thức lý luận và vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác; là khả năng chuyên môn, là bản lĩnh trong hoạt động thực tiễn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ba là, người đảng viên của đảng phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Đảng  mạnh  là  nhờ  có  tổ  chức  mạnh;  tính  tổ  chức và  kỷ  luật nghiêm  minh, chặt chẽ. Người nói: “Tính tổ chức là sự thống nhất của hành động thực tiễn”. Người luôn nhấn mạnh việc thống nhất ý chí và hành động, đoàn kết nhất trí trong Đảng. Cán bộ đảng viên phải quan hệ mật thiết với quần chúng; phải quan tâm chăm lo đến lợi ích của quần chúng, phát huy năng lực và trí tuệ của họ; tìm kiếm trọng dụng và đề bạt nhân tài trong quần chúng vào các cương vị lãnh đạo, quản lý Nhà nước; tôn trọng quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Lênin khẳng định: Chính cuộc đấu tranh cách mạng đã tôi luyện nên những người cộng sản kiên cường. Chỉ có qua việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng giao phó, chỉ có hoạt động trong tổ chức của Đảng, chỉ có “Tắm mình trong phong trào quần chúng và sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình người cán bộ, đảng viên mới trưởng thành, được tôi luyện và có những phẩm chất cao quý tốt đẹp”.

Lênin đặc biệt nhấn mạnh phải xây dựng những con người của bộ máy Nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự gương mẫu và vững mạnh. Đội ngũ cán bộ của Đảng cần thể hiện sâu sắc quan điểm: Quyền lực của cán bộ thực chất là quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhân dân trao cho cán bộ sử dụng quyền lực Nhà nước để quản lý, tổ chức xây dựng xã hội mới, để phục vụ nhân dân. Cán bộ phải chịu trách nhiệm về vận mệnh phát triển của dân tộc, về sự phồn vinh của đất nước, cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Nếu cán bộ không đủ đức, đủ tài, không tận tâm tận lực phấn đấu vì hạnh phúc của người dân;  lãnh  đạm,  bàng  quan,  thờ  ơ,  thiếu  trách  nhiệm  trước  tâm  tư,  tình  cảm, cuộc sống và quyền lợi của nhân dân thì không thể có được lòng tin nơi quần chúng nhân dân.

1.4.

Quan điểm cả chủ nghĩa Mác-Lênin về công tác đào tạo, tuyển chon, sử dụng cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Lênin đã nhiều lần nói về công tác đào tạo, tuyển chọn, sử dụng  cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là trong những năm lãnh đạo nhân dân Nga thực hiện “chính sách kinh tế mới (NEP)”. Trong những năm lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga, Chính quyền Xôviết và nhân dân các dân tộc Nga, nhất là trong những năm tháng cuối đời, V.I.Lênin luôn coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, rằng công tác cán bộ gắn liền với vận mệnh của Đảng, của Chính quyền Xô Viết, của nước Nga xã hội chủ nghĩa. Nó là khâu then chốt để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước và phát huy tối đa vai trò, tiềm năng sang tạo của quần chúng nhân dân lao động Nga. Trong tác phẩm “Thà ít mà tốt” (tháng 3 năm 1923) tác phẩm tập trung nói về công tác cán bộ trong bối cảnh thực hiện NEP nhận thấy tính cấp bách và ý nghĩa lớn lao của việc cải tổ bộ máy Đảng và Chính quyền Xôviết khi thực hiện NEP, song phải đau đớn thừa nhận là “đã năm năm, chúng ta ra sức cải tiến bộ máy nhà nước của ta. Nhưng đó chỉ là một hoạt động phí công, một hoạt động, qua năm năm, đã cho chúng ta thấy rõ rằng hoạt động đó chỉ là vô hiệu, thậm chí còn vô ích, hay thậm chí còn có hại là khác”, Lênin quả quyết: “Đã đến lúc phải thay đổi tình trạng đó”. Để thay đổi tình trạng đó, để tiến hành công việc cải tổ bộ máy một cách có hiệu quả, V.I. Lênin khẳng định: “Phải tuân theo quy tắc này: thà ít mà tốt…thà mất hai năm hay thậm chí ba năm, còn hơn là hấp tấp vội vàng mà không có chút hy vọng nào đạo tạo được nguồn nhân lực tốt”. Người nói thêm rằng việc giữ vững quy tắc ấy và vận dụng được nó vào tình hình thực tiễn của nước Nga khi đó là công việc hết sức khó khăn, bởi nó luôn phải “kháng cự lại một cách mãnh liệt”  với “quy tắc ngược lại” và đòi hỏi một sự kiên trì đến mức độ “phi thường”. Song, chỉ quy tắc đó, chúng ta mới có thể chỉnh đốn, V.I.Lênin nói, “một cách đúng mức”, “một cách hết sức nghiêm túc”, “một cách có hệ thống” bộ máy nhà nước của ta và chúng ta cũng mới có quyền hi vọng có được những cơ quan “đủ khả năng làm nhiệm vụ của nó”, “được sự tín nhiệm” của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản Nga và của toàn thể quần chúng nhân dân lao động Nga.Với nguyên tắc đó, Lênin cho rằng để xây dựng được một bộ máy quản lý nhà nước có chất lượng, đủ sức thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo và phát triển nền kinh tế đất nước theo tinh thần NEP, thì trước hết, chúng ta phải làm tốt công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ. Người viết: “Muốn đổi mới bộ máy nhà nước chúng ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa…, phải làm sao cho học thức thực sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống chúng ta”. Người đặc biệt nhấn mạnh việc tự học tập, tự rèn luyện trong thực tiễn công tác, coi trọng kiến thức thực tế, học hỏi kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tổ chức biên soạn sách giáo khoa, giáo trình về công tác quản lý, tổ chức thi tuyển cán bộ để chọn ra những người có năng lực quản lý thật sự. Nhận thức rõ hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào công tác tuyển chọn, và sử dụng đội ngũ cán bộ, V.I.Lênin yêu cầu Đảng Bônsêvích Nga phải đánh giá, tuyển chọn cán bộ theo các tiêu chuẩn: “về mặt trung thực, về lập trường chính trị, về mặt hiểu biết công việc, về năng lực quản lý”. Bộ máy quản lý đó chỉ có thể hoạt động một cách có hiệu quả khi nó đạt đến trình độ quản lý khoa học với những con người “trong sạch”, những con người “chỉ hành động khi đã suy nghĩ chin chắn”, “những phần tử thật sự có học thức mà người ta có thể tin chắc rằng họ sẽ không tin một lời nào, không nói một lời nào trái với lương tâm họ, những phần tử ưu tú ấy phải không sợ thừa nhận bất cứ một khó khăn nào và không lùi bước trước bất cứ một đấu tranh nào để đạt được mục đích mà họ sẽ tự cho mình một cách nghiêm chỉnh”. Coi việc lựa chọn cán bộ là khâu then  chốt trong  việc cải  tổ bộ  máy lãnh đạo đất nước, Lênin kịch liệt phê phán việc lựa chọn thành phần của Ban Chấp hành Trung ương các Xôviết toàn Nga theo hướng đại đa số ủy viên là người có chức vụ. Người đề nghị thông qua nghị quyết về việc tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành Trung ương các Xôviết toàn Nga là công nhân và nông dân  thường,  không  giữ  chức  vụ  chính  thức  nào.  Trong  thư  gửi  Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga ngày 23/05/1922, V.I.Lênin  đề  nghị  Bộ  Chính  trị  ra  nghị  quyết:  “Thừa  nhận là cần phải đảm bảo ít nhất 60% thành viên Ban chấp hành Trung ương Xôviết toàn Nga là công  nhân và nông dân, những người này không giữ chức vụ nào trong cơ quan Xôviết”. Bởi Người luôn coi những người công nhân, nông dân có năng lực, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa cùng với giới trí thức tiên tiến, trung thực là chỗ dựa để xây dựng bộ máy đảng và nhà nước hợp lý, dân chủ. Khi đề nghị thu hút rộng rãi hơn nữa quần chúng nhân dân lao động tham gia trực tiếp vào công việc quản lý đất nước, V.I.Lênin không cho rằng việc đó sẽ hạ  thấp  trình  độ  nghề  nghiệp  của  những  người  lãnh  đạo,  bởi  những  quần chúng này cũng phải đồng thời học quản lý. Nói vềviệc lựa chọn cán bộ quản lý, Lênin cho rằng cái cần ở họ không chỉ là sự hiểu biết công việc, năng lực quản lý, mà cả những đức tính tốt đẹp của họ. Nhưng người cũng cho rằng không đức tính tận tụy nào, không uy tín Đảng viên nào thay thế được sự tinh thông công việc. Theo Người, năng lực quản lý là  cái “không thể giải quyết được bằng  một  hành  động liều lĩnh hay  một  cuộc  xung  phong,  bằng sự  táo bạo hay bằng nghị lực, hoặc nói chung, bằng bất cứ một trong những đức tính tốt đẹp nhất nào của con người”. Năng lực quản lý đó chỉ có thể có được khi người làm công tác quản lý đạt tới một “trình độ văn hóa cần thiết”, một trình độ học vấn nhất định về lĩnh vực chuyên môn mà anh ta đảm nhận.  Nói về việc lựa chọn cán bộ quản lý, V.I.Lênin còn chỉ rõ việc lựa chọn đó phải thiết thực, nghĩa là người cán bộ quản lý được lựa chọn phải phù hợp với vị trí mà họ đảm nhận. Người nhấn mạnh rằng cần có sự kết hợp hài hòa các kiểu người lao động khác nhau khi hoạt động trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, rằng ứng với những nhiệm vụ khác nhau là những kiểu người lãnh đạo khác nhau. Một người cán bộ nào đó có hay không có những đức tính cần thiết  cho  phép  người  đó  hoàn  thành  công  việc  của  mìnhđó  là  câu  hỏi  mà V.I.Lênin luôn đặt ra trong hoạt động thực tiễn củangười.  

2.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

2.1.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về của cán bộ

Phát huy được truyền thống và những phương sách dùng người của cha ông để lại, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện và xây dựng một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ. Người đã từng nói: "Vì lợi ích mười năm phải trồng cây - Vì lợi ích trăm năm phải trồng người". Tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và sử dụng cán bộ là những di sản vô giá. Để thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế Quốc tế, trong bài viết này, chúng tôi trình bày tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và sử dụng cán bộ trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc".

Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chủ tịch đã thấm nhuần tư tưởng một khi đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Người viết "muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém", "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ để hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Sự thật là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ đều do cán bộ nghiên cứu, đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện. Đường lối chính sách của Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành công hay không đều phụ thuộc vào cán bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân, mà hạt nhân chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", chính là quan điểm về con người với tính chất vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Đó là biểu hiện cụ thể của quan điểm lấy dân làm gốc, để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, mà cả cuộc đời mình, Người phấn đấu hy sinh.

Từ nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của cán bộ trong giải quyết mọi công việc, mọi nhiệm vụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy cần phải có đội ngũ cán bộ tốt và để có đội ngũ cán bộ tốt, Đảng cần phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phải coi "huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng", phải biết lựa chọn cán bộ, phải biết đánh giá, sử dụng và đối xử đúng với cán bộ, "phải trọng nhân tài, phải trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta". Trước hết, Đảng phải nắm và biết rõ cán bộ. Muốn nắm và biết rõ cán bộ "phải thường xuyên xem xét cán bộ", nếu không thường xuyên xem xét cán bộ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói "là một khuyết điểm to". Người chỉ cho thấy tác dụng của việc thường xuyên xem xét cán bộ là "mỗi lần xem xét nhân tài là tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác những người hủ hoá cũng lòi ra". Trên cơ sở xem xét và hiểu rõ cán bộ, "lựa chọn những người trung thành và hăng hái cho công việc", "những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng, luôn chú ý đến lợi ích dân chúng", "những người có thể phụ trách giải quyết những vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn... Thất bại không hoang mang, thắng lợi không kiêu ngạo", "những người luôn giữ đúng kỷ luật" vào các cương vị lãnh đạo. Đó là những tiêu chuẩn cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra cho cán bộ lãnh đạo hơn 60 năm trước, nhưng vẫn còn đầy đủ giá trị đến hôm nay.

Điểm quan trọng trong công tác cán bộ theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là "phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng", "phải dùng cán bộ cho khéo". Người viết "khi cất nhắc cán bộ cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy mến phục không, nghĩa là phải xem xét uy tín của cán bộ trước quần chúng". Ngoài ra cần "phải xem người ấy xứng với việc gì". Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh "nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc", "nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người chỉ nói mà không làm vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại". Người phê phán "thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người", "thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều lúng túng". Người chỉ ra tác dụng to lớn của việc bố trí sử dụng đúng người, đúng việc "Nếu biết tuỳ tài mà dùng người sẽ thành công". Ngoài ra còn phải biết "phân phối cán bộ cho đúng" nghĩa là phải bố trí cán bộ cho các ngành, các khu vực, các cấp một cách hợp lý, "phải dùng người, đúng chỗ, đúng việc".

Song song với việc chỉ ra tầm quan trọng của việc "sử dụng đúng người đúng việc", "bố trí người đúng việc đúng chỗ". Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra trách nhiệm của cấp lãnh đạo trong việc bố trí, sử dụng

cán bộ, Người viết "có nhiều việc hay dở, một phần do cán bộ đủ năng lực hay không", "lãnh đạo khéo thì tài nhỏ có thể hoá thành tài to. Lãnh đạo không khéo thì tài to cũng hoá ra tài nhỏ", "cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế công việc nhất định chạy", "nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang nhất định không ai phục mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế có tội với Đảng, có tội với đồng bào". ở đây chúng ta đồng ý với Người rằng, cất nhắc và "dùng khéo cán bộ", dùng đúng cán bộ là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, bởi vì không đánh giá sử dụng đúng cán bộ sẽ dẫn đến lãng phí nhân tài và sự lãng phí nhân tài là sự lãng phí lớn nhất của đất nước.

Để cất nhắc, sử dụng "đúng người, đúng việc", dùng người "đúng chỗ, đúng việc", theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có quan điểm (thái độ) và phương pháp đánh giá đúng cán bộ. Trước hết "phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ không bị bỏ rơi". Đây chính là thái độ công tâm, công bằng và khách quan của Người trong đánh giá sử dụng cán bộ. Bác viết "trong thế giới cái gì cũng biến hoá. Vì vậy cách xem xét đánh giá cán bộ quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hoá, không nên "đem một cái khuôn khổ nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau", "quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau". Do đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh "xem xét cán bộ không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không phải xem một việc, một lúc mà phải xem cả lịch sử, tất cả công việc của họ". Trước khi cất nhắc cán bộ phải nhận xét, đánh giá rõ ràng: "Chẳng những xem xét công tác của họ

mà còn phải xem xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói bài viết của họ hay không? Chẳng những xem xét họ đối với ta như thế nào mà còn phải xem xét họ đối với người khác như thế nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xem xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không? Phải biết ưu điểm của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của họ". Như vậy, quan điểm xem xét cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tổng hợp, rất lịch sử và biện chứng, xem xét đánh giá cán bộ phải đặt trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Chỉ trên những quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ như vậy mới khắc phục được căn bệnh, những khuyết điểm chủ quan thường mắc trong công tác cán bộ như "ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài; ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực; ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình".

Như vậy, quan điểm đánh giá và sử dụng cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa toàn diện, vừa tổng hợp mà cốt lõi của nó là nguyên tắc khách quan, công bằng và công tâm. Chỉ trên quan điểm đánh giá, sử dụng cán bộ như vậy, chúng ta mới đánh giá, sử dụng đúng cán bộ, đánh giá, sử dụng đúng tài năng, đức độ của cán bộ để bố trí họ vào những vị trí hữu ích nhất cho dân, cho nước. Đồng thời, quan điểm đánh giá, sử dụng cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hàm chứa đầy tính nhân văn. Tính nhân văn trong quan điểm về cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được biểu hiện ở niềm tin, tình thương yêu và thái độ vừa nghiêm khắc vừa độ lượng đối với cán bộ. Muốn cho cán bộ làm được việc, Người nhấn mạnh, cần phải tạo ra môi trường "khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến", "khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc". Đồng thời người lãnh đạo "cần phải tôn trọng lòng tự tin, tự

trọng của các đồng chí mình". Khi giao việc cho cán bộ "phải để cho cán bộ có quyền tuỳ cơ ứng biến mới có thể phát huy được tài năng của họ, mới phát huy được sáng kiến của họ "phải hoàn toàn tin họ không nên sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác, nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào, kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn không xong". Chủ tịch Hồ Chí Minh nói "nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan dễ bảo "đập đi hò đứng", không dám phụ trách, như thế là một việc thất bại cho Đảng. Đảng phải thương yêu cán bộ "nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều phó mặc"; "Thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm", "thấy khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay để vun trồng cái thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ". Theo Người, thương yêu cán bộ chính là ở thái độ thưởng phạt công minh, có thành tích thì khen, có khuyết điểm phải phạt. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiều lần "Người đời ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu", "ai cũng có khuyết điểm", "có làm việc thì có sai lầm". "Chúng ta không sợ sai lầm khuyết điểm". "Chỉ sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm". Phải biết cải tạo họ "không phải vì một sai lầm to lớn, mà đã vội cho họ là cơ hội chủ nghĩa, đã cảnh cáo, đã tạm khai trừ. Những cách làm quá đáng như vậy đều không đúng, "phải độ lượng và có thái độ thân thiết giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm". Người viết "cố nhiên cần dùng cách giải quyết thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo... Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt", lẫm lỗi có việc to, việc nhỏ nên theo Người cũng phải xử phạt công minh "cần phải phân tích rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải xử phạt cho đúng". Như vậy, đối với những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ cần phải xem xét xử phạt một cách công minh, đồng thời cũng phải độ lượng, khoan dung, chỉ cho họ thấy sai lầm, khuyết điểm và tạo điều kiện để họ khắc phục sai lầm, khuyết điểm để tiến bộ.

Tóm lại từ nguyên tắc "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "vấn đề cán bộ quyết định mọi việc". Hồ Chủ tịch đã có những quan điểm và phương pháp đánh giá sử dụng cũng như đối xử với cán bộ hết sức đúng đắn và khoa học "xem xét cán bộ là để tìm nhân tài". "Phải biết tuỳ tài và dùng người", "phải biết sử dụng đúng người đúng việc", phải biết bố trí cán bộ đúng chỗ, đúng việc. Tổng quát hơn như Người thường nói "phải biết dụng nhân như dụng mộc". Dùng người là nghệ thuật, dùng người là quốc sách. Để sử dụng đúng cán bộ khâu quan trọng nhất là phải đánh giá đúng cán bộ. Để đánh giá đúng cán bộ, đánh giá một cách công tâm một cách công bằng, khách quan, một cách chí công vô tư, phải có tinh thần hay tấm lòng "độ lượng vĩ đại", phải xem xét toàn diện trên quan điểm duy vật lịch sử, xem xét đánh giá cán bộ trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Không sử dụng đúng cán bộ đó là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, và để có được đội ngũ cán bộ "có gan phụ trách, có gan làm việc" dám nghĩ, dám làm, năng động sáng tạo, Đảng phải đào tạo huấn luyện họ, tin tưởng, thương yêu họ và có thái độ thưởng phạt công minh.

"Nghệ thuật" dùng người của Bác chính là ở chỗ "khéo dùng cán bộ", "khéo lãnh đạo" để "tài nhỏ hoá ra to". Khéo ở đây không có nghĩa là "vỗ về nuông chiều cán bộ", ưa dùng những người nhát gan, dễ bảo "đập đi hò đứng", những bà con anh em, bạn bè quen biết, những người tính tình hợp với mình, những kẻ "khéo nịnh hót mình".

Khéo ở đây chính là nghệ thuật dùng người, biết cất nhắc sử dụng "đúng người, đúng việc", dùng người "đúng việc đúng chỗ", biết "tuỳ tài mà dùng người". Khéo ở đây chính là chỗ khiến cho cán bộ "cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến", "có gan phụ trách, có gan làm việc". Nghệ thuật dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tinh thần "độ lượng vĩ đại", "chí công vô tư" khi xem xét cán bộ và đặc biệt ở tài năng "thuyết phục, cảm hoá" lôi kéo những người lầm lỗi, có khuyết điểm về với mình để giúp họ tiến bộ, biết sử dụng những người trái chính kiến với mình để "thêm bạn bớt thù".

Có thể nói tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, về đánh giá sử dụng cán bộ là kết tinh truyền thống dùng người của cha ông ta trong lịch sử, là đỉnh cao của "nghệ thuật" hay "phương sách" dùng người. Bí quyết thành công của mọi sự nghiệp cách mạng. Đó là những tư tưởng vĩ đại, đầy tính nhân văn và khoa học. Hơn 60 năm qua, những tư tưởng đó đã trở thành những bài học, những nguyên tắc trong sự nghiệp trồng người của Bác, trong công tác cán bộ của Đảng. Nhờ đó mà Đảng và Bác Hồ đã tập hợp được "hiền tài", đã thu hút được nhân sĩ yêu nước, đã lôi kéo được tất cả các lực lượng đoàn kết xung quanh mình làm nên kỳ tích Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, đại thắng mùa xuân 1975 hào hùng, và những thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.

2.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ

Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập ĐCS Pháp năm 1920; là người sáng lập ĐCS Việt Nam đầu năm 1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của ĐCS Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là do nhân dân giao cho.

Về vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.

Luận điểm khái quát nhất của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ là: cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành, là trâu ngựa của nhân dân.

2.3.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác cán bộ

Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và ngược lại. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, thử thách, rèn luyện, sử dụng, đãi ngộ. Sau năm 1920, khi đã trở thành người cộng sản, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của ĐCS Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hồ Chí Minh là tìm kiếm những thanh niên Việt Nam yêu nước, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện họ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; gửi những người ưu tú hoặc có nhiều triển vọng tốt vào đạo tại các trường của Trung Quốc và của Quốc tế Cộng sản. Từ khi thành lập ĐCS Việt Nam đầu năm 1930 trở đi, Hồ Chí Minh luôn luôn chú ý huấn luyện và xây dựng lực lượng cán bộ. Chính do như vậy, cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng CNXH ở miền Bắc.

2.4.

Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng

Yêu cầu về tư cách. Có ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao quát toàn bộ các mặt của nó mà Hồ Chí Minh hay nêu:

Một là:

Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.

Hai là:

Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”

[2]

. Hồ Chí Minh đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”

[3]

.

Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ là phù hợp với lợi ích của Đảng, của cách mạng. Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của Đảng, nhưng cũng có lúc không, vì thế Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng”

[4]

; đảng viên và cán bộ “phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng””

[5]

.

Ba là:

Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào cách mạng. Người cán bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng bản làng, phum, sóc, thôn xóm…

Yêu cầu về phẩm chất, năng lực. Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu.Đây cũng chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ cách mạng. Không ít lần, Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”

[6]

, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân-phong kiến “một người làm quan cả họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân-phong kiến”, v.v. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”

[7]

. Trung thành ở đây trước hết đòi hỏi cán bộ phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kể cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không kiêu căng, chủ quan, tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang mang, dao động; “vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi”

[8]

; phải luôn luôn có ý thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.

Đồng thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn có việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không như thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.

Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, bằng hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục; đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học mãi (V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí Minh cho rằng, ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ có lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Hồ Chí Minh suốt đời chăm chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc sống, và quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là để có bằng cấp, để thăng chức.

Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách công tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu sát, tỷ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt dầu từ những việc cơ bản, không cận thị (tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát; phải chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo công văn nhưng công việc không chạy.

Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng như điều tất yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát triển của một Đảng Mác – Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người.

Riêng về phong cách công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; Biết chọn trình tự ưu tiên công việc; Thường xuyên tổng kết công tác; Phải luôn luôn có sáng kiến; Sâu sát, gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; Phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ; Có lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.

2.5.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ

Phạm vi của vấn đề công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng, xin nêu chủ yếu một số nội dung sau đây:

- Hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ. Đây là yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu không đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề ra chính sách cán bộ một cách đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ phải có những yêu cầu riêng. Đồng thời, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn toàn công minh, khách quan. Yêu cầu về mặt này cho chúng ta thấy không thể đem cái thước đo chất lượng của cán bộ vùng thành thị để đo chất lượng cán bộ vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; không thể đem thước đo chất lượng cán bộ lĩnh vực này vào đo chất lượng cán bộ ở lĩnh vực khác.

Người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”, như thế mới không phạm những căn bệnh: 1. Tự cao tự đại; 2. Ưa người ta nịnh mình; 3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; 4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu phạm một trong bốn bệnh đó thì người làm công tác cán bộ cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xem xét một người cán bộ không nên chỉ xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ cả toàn bộ công việc của người cán bộ đó. Quan niệm của Hồ Chí Minh là: trong thế giới, cái gì cũng biến hoá, tư tưởng con người cũng vậy, cho nên xem xét cán bộ phải toàn diện, xem xét cả một quá trình công tác của người cán bộ. Có người trước đây có sai lầm nhưng nay đã sửa chữa được, có người nay không có sai lầm nhưng sau lại mắc sai lầm, có người trước đây đi theo cách mạng nay lại phản cách mạng, ngược lại có người trước đây không theo cách mạng nay lại tham gia cách mạng… nghĩa là quá khứ, hiện tại, tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau. Do đó, xem xét cán bộ phải xem xét cả lịch sử của họ, toàn bộ công việc của họ.

Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt. Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”.

Phải “khéo dùng cán bộ”, “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người, thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều lúng túng, nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều thành công.

Hồ Chí Minh phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác cán bộ. Tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Khuyết điểm này, như Hồ Chí Minh chỉ ra, nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đoàn kết đồng chí, gây ra những mối nghi ngờ…

Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm toàn diện khi xem xét để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ: Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại.

Hồ Chí Minh phê phán những bệnh sau đây: 1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngoài; 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực; 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình.

Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung:

-

Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí công vô tư đối với cán bộ, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi.

-

Phải có tinh thần rộng rãi mới có thể gần gụi với những người mà mình không ưa.

-

Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những cán bộ còn kém, giúp cho họ tiến bộ.

-

Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà cách xa cán bộ tốt.

-

Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lòng gần gụi mình.

Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi. Hồ Chí Minh hay nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong công tác cán bộ nói chung cũng như trong chính sách cán bộ nói riêng. Người phê bình một cách nghiêm khắc việc ưa kẻ nịnh người làm công tác cán bộ, tìm cách lợi dụng chức quyền để đưa anh em, họ hàng, bạn bè thân quen vào chức này chức nọ. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương cục bộ. Theo Người, những bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, v.v. Đều do bệnh hẹp hòi mà ra.

Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh cũng đề cập việc kết hợp cán bộ tại chỗ với cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hòi mà cán bộ cấp trên phái đến và cán bộ địa phương không đoàn kết chặt chẽ. Hồ Chí Minh cho rằng, phải chữa cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hòi, khắc phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa cán bộ trên điều về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có hai hạng cán bộ đó đoàn kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm nhiều, thì nền tảng của Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái đến, trình độ thường cao hơn, kinh nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc công việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc mới chạy”. Theo quan điểm của Người, tốt nhất là kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ; song nếu không có hoặc thiếu thì điều động cán bộ ở nơi khác về. Chúng ta thấy rằng, đây chính là thực hiện quan điểm coi Đảng ta là một cơ thể sống, đội ngũ cán bộ là một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể và cần phải được bố trí công tác ở bất cứ địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ đức và tài, có tính đến đặc điểm, yêu cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.

Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ mới và cán bộ cũ cũng được Hồ Chí Minh đề cập không ít trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Hồ Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu, tự nhiên, hợp quy luật của vấn đề này, khi cho rằng: “Số cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng”. Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ mới “vì công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến hơn”. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới…Hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau…Cán bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vâỵ, nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mớichữa khỏi bệnh hẹp hòi”.

- Phải chú trọng đến công tác đề bạt cán bộ. Hồ Chí Minh lưu ý việc phải xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt rồi thì phải theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra người cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Hồ Chí Minh viết rõ: cất nhắc cán bộ không nên làm theo lối giã gạo, nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi thì không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên; một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm quý trọng cán bộ khi cho rằng: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong công tác cán bộ, phải chú ý việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà Hồ Chí Minh cho rằng, đây là công việc gốc của Đảng khi đặt trong mối quan hệ với nội dung vai trò của cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một công việc quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên. Ở đây, có mấy điểm đáng chú ý mà Hồ Chí Minh đã nêu:

-

Học phải thiết thực, “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”.

-

Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tế.

-

Sắp xếp thời gian và bài học phải hợp lý.

-

Tuyệt đối chống bệnh chủ quan, hẹp hòi, ba hoa.

-

Các tài liệu huấn luyện phải do cơ quan lãnh đạo xét kỹ.

-

Những giờ học tập đều tính như những giờ làm việc.

-

Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác khác mà định.

-

Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

-

Những người lãnh đạo phải tham gia giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng.

-

Đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương xứng với yêu cầu, “không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa và thực tiễn sâu sắc. Đó là những quan điểm cơ bản chỉ đạo chung vào công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng hiện nay, thời kỳ Đảng tiếp tục cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp phát triển đất nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

3.

TÌNH HÌNH CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.

Tình hình, thực trang

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao trong đó đội ngũ cán bộ là nòng cốt. Nếu họ không có đủ uy tín sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cần đội ngũ cán bộ, đảng viên có tài đức. Ở nước ta hiện nay các cơ quan, đơn vị đã chú trọng công tác xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức theo đúng quy định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác cho từng giai đoạn. Vai trò của cấp ủy và chính quyền được thể hiện rõ ràng, cụ thể và có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức.Tuy nhiên, công tác quy hoạch cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý vẫn còn nhiều bất cập. Tiêu chuẩn để lựa chọn cán bô, công chức vào quy hoạch còn quá chung chung, chưa được cụ thể hóa đối với từng loại công chức. Mục tiêu quy hoạch cán bộ, công chức chưa được xác định rõ ràng ở từng cấp, từng đơn vị. Tỷ lệ công chức được bổ nhiệm từ nguồn quy hoạch thấp. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và cán bô, công chức lãnh đạo, quản lý chưa chủ động xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức kế nhiệm cho ngành, địa phương mình. Chưa thực hiện tốt các khâu sau quy hoạch như kiểm tra, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí công chức theo quy định.

Việc bố trí, sử dụng công chức các cấp trong thời gian qua về cơ bản đảm bảo đúng ngành nghề được đào tạo; phát huy được năng lực, sở trường của công chức. Hàng năm, các cơ quan, đơn vị đều có kế hoạch rà soát bố trí công chức đảm bảo cơ cấu, phù hợp năng lực chuyên môn từng vị trí công tác và thực hiện tốt chính sách luân chuyển, điều động công chức theo quy định. Tuy nhiên, ở một số cơ quan, đơn vị việc sử dụng, phân công công tác cho công chức vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết những tiềm năng của đội ngũ công chức hiện có. Vẫn còn tình trạng phân công thực hiện công việc trái với khả năng, trình độ, sở trường, ngạch, bậc đang giữ. Việc sử dụng công chức chưa hợp lý ở một số vị trí trong cơ quan nhà nước hiện nay có tình trạng quá tải trong thực hiện công việc, nhiệm vụ; số lượng biên chế đủ, thậm chí thừa nhưng vẫn có nhu cầu tuyển dụng thêm.

Nhà nước đã dành một khoản kinh phí tương đối lớn để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo kế hoạch hàng năm và từng giai đoạn; ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng.  Nội dung chương trình đạo tạo, bồi dưỡng đã được đổi mới cải tiến cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

Chất lượng đào tạo được quan tâm và có những chuyển biến tích cực nhưng trên thực tế vẫn chưa mang tính căn bản. Điều này thể hiện ở một số mặt như sau: Việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thực thi nhiệm vụ cụ thể chưa được chú trọng; phương pháp đào tạo còn nặng về thuyết trình; nội dung chương trình đào tạo còn trùng lặp; kết quả đào tạo, bồi dưỡng chưa được đánh giá một cách đầy đủ, kịp thời và khách quan; tính quy hoạch trong đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng chưa cao

Công tác thanh tra, kiểm tra công vụ, giải quyết khiếu nại tố cáo công chức đã được triển khai thực hiện, hàng năm Thanh tra Sở Nội vụ đều có Kế hoạch thanh tra công vụ, nhằm phát hiện những hạn chế, tồn tại trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp khắc phục, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về cán bộ, công chức.

Tuy nhiên, công tác thanh tra công vụ chưa được quan tâm đúng mức; lực lượng công chức làm thanh tra công vụ mỏng nên khó kiểm soát được hành vi vi phạm công vụ của công chức.

-

Thực trạng tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách; khen thưởng, kỷ luật

Trong thời gian qua, chế độ chính sách đối với đội ngũ công chức mà đặc biệt là chính sách tiền lương đã từng bước được điều chỉnh, cải thiện góp phần từng bước ổn định đời sống cho công chức. Tuy nhiên, chế độ chính sách và môi trường làm việc vẫn chưa đủ sức khuyến khích được người tài; người năng động, sáng tạo, làm việc có hiệu quả; vẫn còn tình trạng bình quân chủ nghĩa, cào bằng, làm nản lòng công chức. Chính sách tiền lương tuy có cải tiến nhưng vẫn lạc hậu, chưa đủ bù đắp giá trị sức lao động của công chức; chưa đảm bảo cho công chức có cuộc sống ổn định, chuyên tâm vào công việc. Chính sách về nâng ngạch, nâng bậc lương còn nặng về thâm niên, chưa phản ánh đúng chất lượng và hiệu quả công tác của công chức. Chính sách thu hút, tập hợp người tài vào làm việc trong các cơ quan nhà nước của tỉnh tuy đã ban hành nhưng chưa đủ mạnh, thiếu đồng bộ nên chưa đủ sức thu hút. Do chế độ chính sách mà đặc biệt là chế độ tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu của công chức nên xảy ra tình trạng một số công chức tạo ra nguồn thu nhập thêm bằng cách dựa vào vị trí công tác được phân công để hưởng các khoản thu nhập ngoài tiền lương.

3.2.

Nguyên nhân của thực trạng

-

Đội ngũ công chức của tỉnh được hình thành từ nhiều nguồn, đến từ nhiều địa phương khác nhau; nhiều công chức đã trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, song đa số tham gia, trưởng thành sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Vì vậy, một số trường hợp chưa được đào tạo một cách hệ thống, bài bản. Một số được đào tạo thì phần đông là đào tạo trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.

-

Cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, đội ngũ công chức của tỉnh mới chỉ bước đầu được làm quen nên chưa nắm vững được cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, trừ một số mới được đào tạo về quản lý kinh tế thị trường. Nguyên nhân này đã tác động rất lớn đến chất lượng đội ngũ công chức của tỉnh, nhiều công chức tỏ ra lúng túng và hẫng hụt kiến thức trước những thay đổi công việc và vị trí công tác.

-

Quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng, dẫn tới sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính; thay đổi những tiêu chuẩn đối với người thực hiện công việc…Nguyên nhân này làm cho khoảng cách giữa yêu cầu của công việc và năng lực hiện có của người thực hiện công việc có xu hướng ngày càng xa nhau.

-

Sự không đồng bộ và chưa chặt chẽ của hệ thống pháp luật về công chức là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng tới chất lượng công chức hành chính nhà nước của tỉnh, trong việc đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công việc hiện tại; yêu cầu của hội nhập, yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.

-

Chính sách tiền lương chậm được cải tiến nên việc thu hút, khuyến khích đội ngũ công chức hành chính nhà nước làm việc còn gặp nhiều khó khăn. Chế độ tiền lương chưa tương xứng với nhiệm vụ, với cống hiến của công chức, để công chức yên tâm, chuyên cần với công việc ở vị trí công tác của mình trong bộ máy nhà nước.

-

3.3.

Giải pháp đổi mới, kiện toàn công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Để đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, phải coi việc đổi mới tư duy về công tác tổ chức, cán bộ là vấn đề quan trọng hàng đầu; tiếp đó là đổi mới cách làm. Có tư duy đúng, lại phải có cách làm đúng mới đi đến kết quả mong muốn.

Nhiều nghị quyết của Đảng đã chỉ ra những gì không còn phù hợp, những gì đang cản trở để khắc phục nhằm đưa việc đổi mới công tác tổ chức, cán bộ lên ngang tầm nhiệm vụ mới. Trong các văn kiện đó, Đảng đã đưa ra một số quan điểm, nguyên tắc để định hướng cho việc đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, như: "Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ", "tập trung dân chủ và tập thể quyết định vấn đề cán bộ"; "lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ"; “lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ để bố trí cán bộ"; “dân chủ hóa, công khai hóa công tác cán bộ, trước hết là dân chủ hóa, công khai hóa việc đánh giá, nhận xét cán bộ...".

Trong công tác cán bộ, Đảng đặc biệt chú ý vận dụng quan điểm đồng bộ, hệ thống. Đảng cho rằng, đổi mới công tác cán bộ bao gồm nhiều mặt: Xác định tiêu chuẩn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, sử dụng, quản lý, chính sách cán bộ...; trong sử dụng cán bộ, chú ý tính đồng bộ từ bố trí, sắp xếp, đề bạt đến luân chuyển cán bộ; trong quản lý cán bộ, chú ý cả theo dõi, kiểm tra, khen thưởng, kỷ luật lẫn giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra đối với cán bộ; trong đào tạo cán bộ: có đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng thêm; chú ý đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng đào tạo; trong quy hoạch cán bộ, đã chú ý cả số lượng, chất lượng đối với từng loại, từng cấp cán bộ, quy hoạch theo yêu cầu trước mắt và lâu dài, nhiều người dự bị cho một chức danh, nhiều chức danh cho một người dự bị,...

Trong khi chú ý tính nhiều mặt như vậy, từ thực tiễn công tác tổ chức, cán bộ qua gần 25 năm đổi mới lại thấy rõ cần phải nhận thức được đúng vị trí của từng khâu công tác cán bộ: đánh giá cán bộ là tiền đề; quy hoạch là cơ sở; đào tạo là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, thường xuyên, lâu dài; luân chuyển là khâu đột phá; chính sách cán bộ đúng đắn là công cụ quan trọng; quản lý cán bộ một cách khoa học là nhiệm vụ thương xuyên; sử dụng, phát huy cán bộ là mục tiêu xuyên suốt. Trong hệ vấn đề đã được đổi mới, trong công tác cán bộ cần lưu ý thêm 2 vấn đề:

Một là, dân chủ hoá công tác cán bộ. "Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ" - đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Song, việc thực hiện nguyên tắc đó lại đòi hỏi phải dân chủ hóa công tác cán bộ. Giữa bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và dân chủ hoá trên lĩnh vực công tác cán bộ không mâu thuẫn nhau. Đảng lãnh đạo để dân chủ được phát huy đúng hướng. Dân chủ hoá công tác cán bộ xuyên suốt tất cả các khâu, các mối quan hệ, nhưng quan trọng nhất là bầu cử và bổ nhiệm cán bộ. Đã áp dụng yêu cầu về số dư trong hầu hết các cuộc bầu cử các chức danh. Trong bổ nhiệm, đã giải quyết tương đối tốt mối quan hệ giữa vai trò quyết định tập thể cấp ủy với vai trò của người đúng đầu cơ quan, đơn vị; coi trọng quyền của thủ trưởng trong quyết định cán bộ dưới quyền.

Hai là, đã nhận diện ngày càng rõ hơn sự suy thoái, biến chất trong Đảng để định hướng công tác tổ chức, cán bộ vào việc khắc phục chúng (1). Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, suy thoái biểu hiện ở phai nhạt lý tưởng; dao động niềm tin vào nền tảng tư tưởng, vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh dạo của Đảng; mơ hồ trước âm mưu diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc; tham nhũng, lãng phí, quan liêu; cơ hội, thực dụng; chạy theo chức - quyền - danh - lợi; bè cánh, bao che cho nhau, kèn cựa địa vị, gây mất đoàn kết nội bộ; dối trá; nói không đi đôi với làm; đạo đức giả, sống buông thả, sa đoạ, truy lạc. Cá biệt, suy thoái biến chất về tư tưởng chính trị, một số ít người đã xin ra khỏi Đảng hoặc chống lại Đảng.

-

Suy thoái biến chất diễn ra ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. Mỗi lần kiểm điểm sau lại thấy tình trạng suy thoái biến chất so với lần trước tăng thêm về số lượng, nghiêm trọng hơn về tính chất, phổ biến ở mọi ngành, mọi cấp; lớn hơn về lượng tiền của nước, của dân bị thất thoát vì tham nhũng, hối lộ.

-

Suy thoái, biến chất không chỉ diễn ra có tính chất riêng lẻ ở những cán bộ, đảng viên riêng lẻ, mà đã trở thành có tính chất tập thể, thậm chí ở cả một tổ chức Đảng, một cấp uỷ Đảng, thành những đường dây giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa bên dưới với bên trên cùng ăn cánh với nhau để tham ô, lãng phí, để chia chác, để dấu tội, chạy tội, v. V..

-

Suy thoái biến chất diễn ra có khi rất trắng trợn, có khi rất tinh vi, nhưng nói chung ngày càng tinh vi hơn.

Trong khi khẳng định bước tiến quan trọng nêu trên về nhận thức công tác tổ chức, cán bộ của Đảng, cũng thấy rằng trên những vấn đề này hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thật rõ. Chẳng hạn, vấn đề "nhất nguyên chế” chức bí thư và chủ tịch nên áp dụng đến đâu là tốt, vấn để thẩm quyền và mối quan hệ giữa ban cán sự đảng và đảng uỷ, đảng đoàn một số loại hình tổ chức nhà nước các cấp; vấn đề đại hội bầu uỷ ban kiểm tra, trực tiếp bầu bí thư cấp uỷ; việc thống nhất thanh tra nhà nước và cơ quan thanh tra đảng cùng cấp; vấn đề quyền của thủ trưởng trong việc bổ nhiệm cấp giúp việc và cấp dưới trực tiếp; làm thế nào để hạn chế, tiến tới xoá bỏ tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy tuổi, chạy huân chương...

3.4.

Yêu cầu tiếp tục đổi mới, kiện toàn công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay

-

Bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra cho việc tiếp tục đổi mới, kiện toàn công tác tố chức, cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Giờ đây, công tác tổ chức, cán bộ của Đảng ta được đặt ra trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng ; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng; trình độ dân trí, đảng trí ngày càng được nâng cao; sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn diện hơn; cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang diễn ra với những bước tiến như vũ bão trên thế giới ; bên cạnh những thời cơ lớn, chúng ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức cam go. Nhiệm vụ chính trị trọng đại lúc này là phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những điều kiện mới và nhiệm vụ chính trị hiện nay đặt ra những yêu cầu mới trong công tác tổ chức, cán bộ của Đảng:

-

Các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao tầm trí tuệ và phẩm chất; từ đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực vượt qua thách thức, đẩy lùi nguy cơ, khai thác có hiệu quả các nhân tố là thời cơ cho sự phát triển của đất nước.

-

Môi trường kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đòi hỏi cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng sự kiên định, sự năng động, nhạy bén, đồng thời, có sức đề kháng cao trước những tác động tiêu cực của chúng.

-

Đảng phải chiến thắng trong cuộc đấu tranh chống suy thoái trong Đảng, làm cho Đảng ta thực sự là tấm gương về đạo đức, văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

-

Các tổ chức đảng phải thực hành dân chủ, đoàn kết rộng rãi trong sinh hoạt Đảng, làm cho Đảng trở thành tấm gương về dân chủ, đoàn kết trong xã hội.

-

Yêu cầu tiếp tục đôi mới, kiện toàn công tác tổ chúc, cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay

-

Phải dồn sức tập trung chỉ đạo đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng tổ chức từ Trung ương tới cơ sở, trong đó, lấy chuyển biến từ cơ sở làm nền tảng, làm mục tiêu và thước đo kết quả tổng hợp của công tác xây dựng Đảng; chuyển biến từ Trung ương là khâu quyết định.

Thực tiễn đời sống chính trị cho thấy, trong cấu trúc của hệ thống quyền lực, người và tổ chức chính trị càng cao, tác động tích cực hoặc tiêu cực của nó tới các bậc thấp hơn càng mạnh mẽ, tác động lan toả của nó càng rộng lớn. Một bí thư cấp uỷ hoặc một cấp uỷ cơ sở sai lầm, tác động của sai lầm đó chỉ trong phạm vi cơ sở nhỏ hẹp. Một bí thư hoặc một tập thể cấp uỷ cấp cao mà yếu kém, sai lầm, mức độ tác động sẽ hết sức trầm trọng trong một phạm vi rộng. Bởi vì, sự đúng đắn hay sai lầm của cấp này mang tầm chiến lược đường lối, quan điểm chỉ đạo trên phạm vi rộng, thậm chí trên phạm vi cả nước. Do vậy, trong khi xem cấp cơ sở là nền tảng, cần thấy vai trò quyết định của cấp cao. Công tác tổ chức, cán bộ của Đảng cần được bắt đầu từ đó. "Đầu có xuôi, đuôi mới lọt".

-

Công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay phải góp phần xây dụng cho được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh ; kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, có tinh thần đoàn kết, hợp tác và phong cách làm việc khoa học.

Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trước hết là của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị .

-

Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chế hoạt động và sinh hoạt của tổ chức từ Trung ương đến cơ sở.

Trong những năm gần đây chúng ta xây dựng và từng bước hoàn thiện Quy chế làm việc của Đại hội Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; nhiều cấp uỷ cấp dưới cũng đã xây dựng các quy chế tương tự. Cần từ thực tiễn vận hành các quy chế đó để tổng kết, rút kinh nghiệm, tiếp tục hoàn thiện để các quy chế này ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu hoạt động của Đảng trong điều kiện mới hiện nay.

Xây dựng và thực hiện Quy chế. Dân chủ trong Đảng, đổi mới sinh hoạt cấp ủy, đại hội Đảng các cấp cũng là một đòi hỏi bức xúc để nâng cao dân chủ trong Đảng.

Hai là, thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào nhân dân để đẩy mạnh công tác tổ chức, cán bộ của Đảng. Muốn vậy, cần nhanh chóng triển khai quyết định của Đại hội X về việc xây dựng quy chế phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác xây dựng Đảng, kể cả công tác tổ chức và cán bộ.

Ba là, thực hiện các biện pháp đồng bộ củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú trọng những địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, các đảng bộ, chi bộ yếu kém; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ; kiện toàn đội ngũ cấp uỷ, bí thư chi bộ; bồi dưỡng, tạo nguồn, thực hiện chính sách, từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đi đôi với việc đề cao trách nhiệm quản lý đảng viên của chi bộ, yêu cầu đảng viên có cương vị càng cao càng phải gương mẫu chấp hành sự quản lý của chi bộ.

Củng cố tổ chức đảng ở tất cả các cấp, trọng tâm hiện nay là cấp cơ sở. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong tất cả các loại hình cơ sở; phải phát triển tổ chức đảng ở địa bàn hiện nay còn trống, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các tổ chức nghề nghiệp... Gắn xây dựng tổ chức cơ sở đảng với xây dựng hệ thống chính trị, với phong trào quần chúng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở Phát triển đảng viên mới trong công, nông, trí thức,... Các khu vực sở hữu, kể cả trong giới chủ doanh nghiệp tư nhân.

Bốn là, tiếp tục đổi mới nhận thức về vai trò của dân trong công tác tổ chức, cán bộ

Công tác tổ chức, cán bộ của Đảng không có mục tiêu tự thân, mà nhằm làm cho Đảng hoàn thành tốt làm chức trách được nhân dân giao phó, thực hiện tốt hẻm quyền lực do nhân dân ủy quyền.

Lâu nay chúng ta mới chỉ nói tới nhân dân uỷ quyền cho Nhà nước thực hiện một số quyền của mình mà từng người dân chưa trực tiếp thực hiện được. Xuất phát từ nhận thức mới về vai trò của dân đối với Đảng, đã đến lúc phải khẳng định rằng, tự nó, Đảng không có quyền, mọi quyền lực mà Đảng có được là do nhân dân uỷ quyền cho Đảng. Đó là quyền lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành những cải biến căn bản trong đời sống xã hội nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đảng thực hiện quyền lãnh đạo do lân uỷ quyền cho Đảng rằng việc Đảng thay mặt dân đưa ra Cương lĩnh, đường lối...cho sự phát triển đất nước; lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá các vấn đề đó thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch... Và lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo nhân dân thực hiện các quyết định đó cuả Nhà nước. Để cho sự uỷ quyền đó không dẫn tới dân mất quyền, dân phải có quyền kiểm tra, giám sát việc Đảng thực hiện quyền của dân. Việc triển khai xây dựng và thực hiện quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác xây dựng Đảng, kể cả công tác tổ chức, cán bộ như Đại hội X nêu ra chính là phương thức để dân kiểm tra hoạt động của Đảng, bảo đảm Đảng không thoán quyền của dân, cán bộ thực sự là đầy tớ của dân.

Năm là, đẩy mạnh dân chủ hoá, công khai hoá trong công tác cán bộ. Việc dân chủ hoá, công khai hoá này phải được thể hiện ở tất cả các khâu của công tác cán bộ, từ tuyển chọn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ đến giám sát cán bộ sau bầu cử, bổ nhiệm. Quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và các thành viên trong tập thể lãnh đạo cơ quan sử dụng cán bộ và cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ.

Sáu là, kiên quyết khắc phục tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương"

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XI nhấn mạnh sự cần thiết phải: “có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương”. Nếu được Đại hội XI chấp nhận, thì đây là lần đầu tiên ở tầm Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những căn bệnh có tác động hết sức trầm trọng, nặng nề tới năng lực lãnh đạo và năng lực chiến đấu của Đảng, có tác động vô cùng tiêu cực tới việc củng cố niềm tin của nhân dân vào đội tiên phong cách mạng, nếu không khắc phục, có thể đưa sự nghiệp tới tiêu vong.

Muốn khắc phục căn bệnh trên, cần tiếp tục đổi mới nhận thức về hệ tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta theo nguyên tắc đánh giá và sử dụng cán bộ phải căn cứ vào năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; đổi mới hệ thống chính sách cán bộ theo hướng giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý và chính sách đối với những người có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi tương dương; xoá bỏ tình trạng "tiến thân bằng lãnh đạo, quản lý" là con đường độc đạo đối với đại đa số cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách công tác theo hướng tổng kết hợp hài hoà giữa dân chủ và quyết đoán, từ đó, hoàn thiện thêm một bước cơ chế lựa chọn hiền tài trong lãnh đạo, quản lý; nâng cao văn hoá lãnh đạo để hạn chế tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp...

3.5.

Một số kiến nghị rút ra từ thực trạng và yêu cầu công tác tổ chức, cán bộ trong giai đoạn hiện nay

-

Dành sự quan tâm đúng múc hơn cho việc đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đối với ngay cơ quan cấp cao của Đảng, Nhà nước

Lâu nay chúng ta dành chú ý đặc biệt cho cấp cơ sở cả về tổ chức đảng lẫn cán bộ. Điều đó không sai. Bởi lẽ, đây là nơi trực tiếp nhất trong việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; uy tín của Đảng được nhân dân thấy rõ qua vai trò trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng, của đảng viên ở cơ sở. Song, như trên đây đã trình bày, cán bộ cấp cao, cấp uỷ ở cấp cao có vai trò cực kỳ quan trọng về nội dung lãnh đạo của Đảng, về tác động lan toả, về phạm vi bao quát của sự lãnh dạo đó. Sự đúng sai của cấp này cả về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống lẫn năng lực lãnh đạo ảnh hưởng hết sức lớn tới toàn bộ sự nghiệp. Ngày nay phương tiện thông tin đại chúng hiện đại cho phép người dân nắm bắt nhanh, nhạy mọi hành vi của cấp cao, nên ảnh hưởng của cấp này càng rộng và nhanh. Dân trí ngày một phát triển, họ đủ trình độ phân biệt sự đúng sai của cấp cơ sở và sự đúng sai của cấp trên cơ sở, biết được ở cấp nào là quan trọng nhất.

Từ cách đặt vấn đề như vậy, trong khi khẳng định tầm quan trọng của việc tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cũng cần nhấn mạnh sự bức xúc của việc xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng, Quy chế dân chủ trong hoạt động của các cơ quan cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong công tác cán bộ, trong khi cần nhấn mạnh vai trò nền tảng của cán bộ cơ sở, cũng cần khẳng định vai trò quyết định của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược, cấp cao của Đảng và Nhà nước.

-

Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giũa lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu công tác tổ chức, cán bộ

Trong cơ chế kinh tế ở thời kỳ trước đổi mới, do tuyệt đối hoá sở hữu chung đã dẫn tới tình trạng “cha chung không ai khóc"; trong công tác cán bộ, cả trước đây và hiện nay chúng ta vẫn khẳng định vai trò quyết định của tập thể cấp uỷ dẫn tới tình trạng nếu đề bạt sai, bổ nhiệm sai thì không có cá nhân nào chịu trách nhiệm cụ thể. Trên vấn đề này, cần nêu cao hơn nữa trách nhiệm của những người giới thiệu, người đề cử để cấp uỷ xem xét. Trách nhiệm này kéo dài trong suốt thời gian cán bộ được giới thiệu và được cấp uỷ chấp nhận đề nghị đề bạt, bổ nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao ở lần bổ nhiệm, đề bạt đó. Nếu có sai phạm mà nguyên nhân là do giới thiệu nhầm, cán bộ giới thiệu phải chịu trách nhiệm. Về cấp giúp việc thủ trưởng và cấp dưới, nên để thủ trưởng lựa chọn, cấp uỷ cho ý kiến. Như thế, người giúp việc thủ trưởng (cấp phó) và cấp dưới sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm trước cấp trưởng, trước cấp trên; sự đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm trên cơ sở nhiệm vụ được phân công giữa cấp trưởng và cấp phó sẽ tốt hơn. Kiện toàn và nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu giúp cấp ủy có cơ sở đưa ra quyết định đúng đắn về tổ chức, cán bộ.

-

Nghiên cứu lại hệ tiêu chí định lượng các đặc trưng định tính của cán bộ để cất nhắc, đề bạt theo hướng coi trọng thực chất. Không rơi vào chủ nghĩa hình thức thiên về bằng cấp, lứa tuổi...; đặc biệt chú trọng năng lực tự vươn lên qua thực tiễn của cán bộ và dự báo sự phát triển hơn nữa của họ để đề bạt, bổ nhiệm.

-

Xây dựng và thực hiện văn hoá tự chỉ trích, nhận lỗi và từ chúc, xem đó là việc tất yếu và bình thường của một chính đảng cách mạng, của người cách mạng vì lợi ích tối cao của Tổ quốc và nhân dân. Năm 1956, Đảng xin lỗi nhân dân vì sai lầm trong cải cách ruộng đất và một cán bộ cấp cao của Đảng đã nhận một cương vị khác, thấp hơn. Năm 1986 Đảng đã thẳng thắn thừa nhận yếu kém, sai lầm của mình trong xây dựng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như trên phạm vi cả nước trước đó. Những việc làm đó càng củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng ta, nói lên tinh thần trách nhiệm rất cao của Đảng trước nhân dân, trước dân tộc, nhờ vậy, Đảng mạnh lên.

-

Tại Đại hội XI khi kiểm điểm việc thực hiện các quyết định của Đại hội X, nên dành thời gian thích đáng cho vấn đề xây dựng quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với hoạt động của Đảng, kể cả công tác tổ chức và cán bộ. Là đảng cầm quyền, có bốn việc quan trọng nhất mà Đảng ta phải làm: Một là hoạch định cho được một đường lối đúng đắn; hai là, xây dựng và phát huy cho được một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; ba là, tạo lập được một đội ngũ cán bộ cầm quyền mạnh về cả phẩm chất lẫn năng lực; bốn là, phát huy cho được sức mạnh của toàn dân tộc để hiện thực hoá các quyết định đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Công tác tổ chức, cán bộ liên quan tới cả bốn nhiệm vụ quan trọng đó. Cho nên, đây là vấn đề của mọi vấn đề Việc giải quyết có hiệu quả vấn đề này trở thành trung điểm củng cố vị trí cầm quyền của Đảng. Song, đây cũng là vấn đề khó. Một số điều nêu ra trên đây chỉ là những suy nghĩ ban đầu trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành quả đã có trong nhiều công trình khoa học khác để bạn đọc tham khảo. Còn phải tiếp tục đào sâu mới hy vọng mang lại hữu ích nào đó cho Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: