III: Nhà Tiên Tri (Chương 19)



 Chương 19 


Chuông cửa reo lên và Thom dẫn vào một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi có mái tóc nâu rối bù, mặc quần jean và chiếc áo phông Weird Al Yankovic, bên ngoài là chiếc áo khoác thể thao cũ sờn. 


Ngày nay, bạn không thể tham gia vào trò chơi điều tra hình sự mà không hiểu rõ về máy tính nhưng cả Rhyme và Cooper đều nhận ra được hạn chế của mình. Khi sự can thiệp của công nghệ số vào vụ Năm Hai Hai đã rõ ràng, Sellitto lập tức yêu cầu sự giúp đỡ từ Đơn vị Tội phạm máy tính của Sở Cảnh sát New York, một nhóm đặc biệt gồm ba mươi hai thám tử và một đội ngũ nhân viên hỗ trợ.


Rodney Szarnek bước vào căn phòng, liếc nhìn về phía màn hình máy tính gần nhất và nói "Hey" như thể đang nói chuyện với nó. Cũng hệt như vậy, khi quay về phía Rhyme, anh ta chẳng hề tỏ vẻ quan tâm đến cơ thể thương tật của anh mà chỉ để tâm tới thiết bị điều khiển không dây gắn vào tay vịn chiếc xe điện, trong có vẻ thực sự ngưỡng mộ. 


"Hôm nay là ngày nghỉ của anh à?", Sellitto hỏi, liếc nhìn cách phục sức của anh chàng chuyên gia vi tính trẻ tuổi, giọng nói thể hiện rõ sự không hài lòng. Rhyme biết anh chàng thám tử thuộc về trường phái cổ điển, nhân viên cảnh sát cần phải ăn mặc đúng mực.


"Ngày nghỉ á?", Szarnek lặp lại, chẳng hề nhận ra sự chỉ trích trong câu hỏi. "Không. Làm sao tôi có ngày nghỉ cho được?" 


"Chỉ muốn hỏi thôi."


"Hừm. Giờ thì, chuyện này là thế nào?" 


"Chúng tôi cần giăng bẫy."


Ý tưởng Lincoln Rhyme đề xuất, đến thẳng SSD và hỏi trực diện, không rào đón về một kẻ sát nhân, thực ra không ngây thơ như vẻ bề ngoài của nó. Khi anh nhìn thấy trên trang chủ của công ty tuyên bố rằng bộ phận PublicSure của SSD hỗ trợ các đơn vị cảnh sát, anh có linh cảm Sở Cảnh sát New York cũng là một khách hàng của họ. Nếu đúng vậy, nhiều khả năng kẻ sát nhân có thể tiếp cận vào hệ thống các hồ sơ của Sở. Một cuộc điện thoại ngắn đã cho biết câu trả lời, Sở Cảnh sát New York đúng là một khách hàng của họ. Phần mềm PublicSure và các chuyên gia tư vấn của SSD cung cấp các dịch vụ quản lý dữ liệu cho thành phố, bao gồm việc hệ thống hóa thông tin, báo cáo và biên bản các vụ án. Nếu một nhân viên tuần tra trên đường cần kiểm chứng thông tin, hay một thám tử mới vào được giao thụ lý một vụ án mạng cần lục lại lịch sử của vụ án, PublicSure sẽ chuyển mọi chi tiết cần thiết đến tận bàn làm việc, tới máy tính trên xe tuần tra, hay thậm chí tới PDA hay điện thoại di động, chỉ trong vòng vài phút. 


Với việc cử Sachs và Pulaski tới công ty này hỏi thẳng việc ai có thể tiếp cận được các file dữ liệu của các nạn nhân và người bị cài bẫy, Năm Hai Hai có thể biết được họ đang lần theo dấu hắn và sẽ tìm cách thâm nhập vào hệ thống máy tính của Sở Cảnh sát New York thông qua PublicSure để tìm hiểu nội dung các báo cáo. Nếu hắn làm thế, họ có thể lần được dấu vết của kẻ đã truy cập vào các file dữ liệu này.


Rhyme giải thích tình hình cho Szarnek, anh chàng gật gù ra vẻ hiểu biết, như thể ngày nào anh ta cũng thực hiện những cú giăng bẫy như vậy. Tuy nhiên, anh ta sững sờ khi được biết tên công ty rất có thể có mối liên hệ với kẻ sát nhân, "SSD? Nhà khai thác dữ liệu lớn nhất thế giới. Bọn họ nhặt nhạnh mọi thông tin về tất cả những đứa con của Chúa đang hiện diện trên hành tinh này". 


"Có vấn đề gì sao?"


Vẻ vô tư lự của một con sâu máy tính biến mất, anh chàng nhỏ giọng đáp, "Tôi hy vọng là không". 


Anh ta bắt tay vào việc với chiếc bẫy của họ, vừa làm vừa giải thích những gì đang thực hiện. Anh ta loại bọ khỏi các file dữ liệu mọi chi tiết về vụ án mà họ không muốn Năm Hai Hai biết được, rồi chuyển thủ công toàn bộ những file dữ liệu nhạy cảm này tới một máy tính không kết nối Internet. Sau đó, anh ta đặt một chương trình lần tìm dấu vết có cảnh báo qua giao diện đồ họa vào trước file dữ liệu của vụ "Myra Weinburg: cưỡng dâm/giết người" trên server của Sở Cảnh sát New York. Thêm vào đó những file phụ để dụ kẻ sát nhân như "Tung tích các đội tượng nghi vấn", "Phân tích pháp y" và "Nhân chứng", tất cả chỉ chứa đựng những ghi chú chung chung về quy trình khám nghiệm hiện trường. Nếu bất cứ ai truy cập vào chúng, cho dù là xâm nhập trái phép hay thông qua một kênh chính thống, thông báo về danh tính nhà cung cấp dịch vụ cũng như địa chỉ của người truy cập sẽ được gửi ngay lập tức tới cho Szarnek. Họ có thể biết ngay người vừa truy cập vào những file đó là một cảnh sát có lý do chính đáng hay ai đó từ bên ngoài. Nếu đúng trường hợp thứ hai, Szarnek sẽ báo cho Rhyme hoặc Sellitto và họ sẽ cử ngay một Đội Can thiệp khẩn cấp tới địa chỉ đó ngay lập tức. Szarnek cũng thêm vào một lượng lớn thông tin và dữ liệu khác, chẳng hạn như các thông tin công khai về SSD, tất cả đều được mã hóa, để đảm bảo kẻ sát nhân sẽ phải mất nhiều thời gian kết nối nhằm giải mã dữ liệu, nhờ đó sẽ giúp họ có cơ hội chắc chắn tìm ra hắn hơn.


"Sẽ mất khoảng bao lâu?" 


"Mười lăm, hai mươi phút."


"Tốt. Khi cậu hoàn tất nó, tôi muốn kiểm tra xem liệu ai đó từ bên ngoài có thể xâm nhập vào những file này được không?" 


"Xâm nhập vào hệ thống của SSD?"


"Đúng thế." 


"Ê, nghe này. Bọn họ có hết lớp tường lửa này tới lớp tường lửa khác."


"Dẫu vậy chúng tôi vẫn cần phải biết." 


"Nhưng nếu như một trong số người của họ chính là kẻ sát nhân, tôi đoán ông không muốn tôi gọi điện tới công ty đó đề nghị họ phối hợp, đúng không ?"


"Không sai." 


Khuôn mặt Szarnek ỉu xìu. "Vậy thì tôi sẽ phải tự tìm cách xâm nhập."


"Cậu có thể làm vậy một cách hợp pháp chứ?" 


"Có và không. Tôi sẽ thử đánh giá các bức tường lửa. Sẽ không phạm pháp nếu tôi không thực sự xâm nhập vào hệ thống của họ, đánh sập nó và gây ra một vụ tai tiếng ầm ĩ trên truyền thông đại chúng mà kết cục sẽ khiến tất cả chúng ta phải ngồi nhà đá bóc lịch" Anh ta nói thêm với giọng u ám, "Hoặc tệ hơn thế nữa."


"Okay, nhưng trước hết tôi muốn có chiếc bẫy. Càng nhanh càng tốt." Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Sachs và Pulaski hẳn đã hoàn tất nhiệm vụ loan tin về vụ án tại Đá Xám. Szarnek lôi một chiếc máy tính xách tay nặng trịch từ trong túi ra và đặt lên một chiếc bàn gần đó. "Liệu tôi có thể kiếm được một... Ồ, cảm ơn."

Thom đang mang đến một bình cà phê cùng tách. 


"Đúng thứ tôi đang định hỏi. Thêm đường, không sữa. Dân máy tính dù sao vẫn là dân máy tính, dù anh ta có là cớm đi nữa. Không thể nào làm quen nổi với thứ người ta vẫn gọi là ngủ." Anh ta thả đường vào tách cà phê, khuấy cho tan rồi uống một hơi nửa tách trong khi Thom vẫn đứng bên cạnh. Cậu điều dưỡng lại rót đầy tách. "Cảm ơn. Giờ chúng ta đang có những gì trong tay?" Anh ta nhìn về phía Cooper đang cắm cúi làm việc. "Ái chà."


"Ái chà?" 


"Anh vẫn xài một chiếc modem cáp với tốc độ truyền 1,5 megabyte trên giây thôi sao? Anh biết đấy, giờ người ta đã sản xuất màn hình màu cho máy tính rồi và còn có cả thứ có tên là Internet nữa."


"Vui quá nhỉ", Rhyme lẩm bẩm. 


"Hãy gọi cho tôi khi vụ này kết thúc. Chúng ta sẽ đi lại dây và chỉnh lại mạng LAN (Viết tắt của Local Area Network: Mạng máy tính cục bộ, một hệ thống mạng dùng để kết nối các máy tính trong một phạm vi nhỏ), lắp đặt FE* (Fast Ethernet: Ethernet tốc độ cao (có tốc độ truyền dữ liệu 100Mbit/giây, trong khi tốc độ truyền dữ liệu của Ethernet cổ điển là 10Mbit/giây) cho anh."


Những FE, LAN kỳ quặc... 


Szarnek lấy kính đổi màu ra đeo, nối chiếc máy tính của anh vào máy của Rhyme rồi bắt đầu gõ liên hồi lên bàn phím. Rhyme nhận thấy một số chữ cái trên mặt phím đã mờ tịt, bàn di chuột ố vàng vì mồ hôi. Có vẻ như cả bàn phím của chiếc máy tính bị phủ đầy bụi.


Cái nhìn của Sellitto về phía Rhyme như muốn nói, "Mỗi người một tật". 





Người đầu tiên trong số hai người đàn ông bước vào văn phòng của Andrew Sterling là một người trung niên, dong dỏng, với khuôn mặt kín đáo. Ông ta trông giống như một tay cớm đã nghỉ hưu. Người thứ hai, trẻ hơn và có vẻ thận trọng, là ví dụ điển hình cho một quản lý cấp thấp tại công ty lớn. Anh ta trông giống anh chàng tóc vàng trong bộ phim sitcom Frazier


Về người thứ nhất, suy đoán của Sachs không sai bao nhiêu; ông ta không phải là cảnh sát, nhưng lại là cựu đặc vụ FBI, đang phụ trách công tác an ninh của SSD, Tom O'Day. Người còn lại là Mark Whitcomb, Phó Ban Kiểm soát.


Sterling giải thích, "Tom và các chàng trai bộ phận an ninh của ông đảm bảo những người bên ngoài không gây ra điều gì bất lợi cho chúng tôi. Bộ phận của Mark đảm bảo chúng tôi không gây ra chuyện gì xấu cho cộng đồng. Chúng tôi giống như một người đang đi qua bãi mìn. Tôi tin chắc những gì cô tìm hiểu được về SSD cũng cho cô thấy chúng tôi chính là mục tiêu nhắm tới của hàng trăm đạo luật tiểu bang và liên bang về quyền cá nhân – đạo luật Graham-Leach-Bliley về việc viện cớ để sử dụng sai mục đích thông tin cá nhân, luật Cấm gian lận trong báo cáo tín dụng, luật Chi trả và Giải trình bảo hiểm y tế, luật Bảo vệ đời tư cá nhân của người điều khiển phương tiện cơ giới. Và vô số luật cấp tiểu bang nữa. Ban Kiểm soát đảm bảo chúng tôi nắm rõ được luật chơi và giữ cho hoạt động của mình trong khuôn khổ cho phép". 


Tốt thôi, cô thầm nghĩ. Hai người này sẽ là lựa chọn hoàn hảo để loan rộng thông tin về cuộc truy tìm Năm Hai Hai và thúc đẩy kẻ sát nhân tìm tới cái bẫy đang được giăng ra.


Viết nguệch ngoạc lên một tờ giấy ghi chú màu vàng, Mark Whitcomb nói, "Chúng tôi muốn đảm bảo khi Michael Moore* (Michael Francis Moore: Đạo diễn phim nổi tiếng người Mỹ) làm một bộ phim về các công ty cung cấp dữ liệu, chúng tôi sẽ không trở thành vai chính trên sân khấu". 


"Đừng đùa", Sterling vừa nói vừa bật cười nhưng khuôn mặt vẫn hiện rõ sự lo ngại thực sự. Ông ta hỏi Sachs, "Tôi có thể chia sẻ với họ những gì cô vừa cho tôi biết chứ".


"Tất nhiên rồi, xin cứ tự nhiên." 


Sterling tường thuật lại tất cả một cách cô đọng và rõ ràng. Ông ta đề cập tới mọi chi tiết, thậm chí cả tới nhãn hiệu cụ thể của các bằng chứng.


Whitcomb cau mày trong lúc lắng nghe. O'Day im lặng ghi lại tất cả, không hề mỉm cười. Sachs hoàn toàn tin chắc thái độ lạnh lùng đúng kiểu FBI này không phải là một thói quen học được mà là một nét tính cách bẩm sinh. 


Sterling nghiêm giọng nói, "Vậy đấy. Đó là vấn đề chúng ta đang phải đối mặt. Neew SSD dính dáng đến vụ này dưới bất kỳ hình thức nào, tôi muốn được biết rõ và tôi muốn có các giải pháp. Chúng tôi đã phân định ra bốn nguồn gốc tiềm năng của nguy cơ này. Hacker, những kẻ đột nhập, nhân viên của công ty hoặc khách hàng. Các anh nghĩ sao?".


Cựu đặc vụ O'Day nói với Sachs, "Được rồi, hãy bắt đầu xem xét từ các hacker. Chúng tôi có hệ thống tường lửa tốt nhất trong giới kinh doanh. Tốt hơn của Microsoft hay Sun. Chúng tôi sử dụng công ty ICS có trụ sở tại Boston để đảm trách về an ninh mạng. Tôi có thể nói với cô chúng tôi giống như kho báu trong các trò chơi vậy, mọi hacker trên thế giới đều muốn phá vỡ hệ thống an ninh của chúng tôi. Và chưa từng có ai làm được điều đó kể từ khi chúng tôi chuyển tới New York năm năm trước. Có vài trường hợp xâm nhập được vào các server quản trị khoảng mười hay mười lăm phút. Nhưng chưa từng có một vụ xâm nhập nào vào innerCircle, và đó là nơi nghi phạm chưa xác định được danh tính của các vị cần tiếp cận để tìm những thông tin hắn cần cho những tội ác của hắn. Việc xâm nhập vào một server đơn lẻ không có ích gì, hắn cần xâm nhập được vào ít nhất ba hay bốn server hoàn toàn độc lập với nhau". 


Sterling nói thêm, "Còn về một kẻ bên ngoài đột nhập, chuyện này cũng không thể xảy ra. Chúng tôi có hệ thống an ninh ngoại vi tương tự như hệ thống được sử dụng tại Cục An ninh quốc gia. Chúng tôi có mười lăm nhân viên bảo vệ thường trực và hai mươi nhân viên bảo vệ bán thời gian. Bên cạnh đó, không vị khách nào được phép tới gần các server của innerCircle. Chúng tôi kiểm soát tất cả mọi người, không để ai tự do đi lang thang, kể cả các khách hàng". Sachs và Pulaski đã được tháp tùng đến gian tiền sảnh bởi một người trong đám nhân viên bảo vệ đó – một anh chàng trẻ tuổi không hề có khiếu hài hước và việc hai người là cnahr sát cũng chẳng hề làm anh ta mất cảnh giác.


O'Day nói thêm, "Chúng tôi đã có một sự cố cách đây ba năm. Nhưng không có thêm bất cứ lôi thôi nào từ dạo đó". Ông ta nhìn Sterling. "Chính là vụ tay phóng viên." 


Vị tổng giám đốc gật đầu. "Một anh chàng phóng viên bốc đồng do một trong những tờ báo lá cải phát không cử đến. Anh ta đang viết một bài báo về đánh cắp danh tính và quyết định rằng chúng tôi chính là hiện thân của cái ác. Axciom và Choicepoint đã có được linh cảm đúng đắn và không cho anh chàng này vào trong trụ sở của họ. Tôi đã tin vào tự do báo chí, vậy là tôi trò chuyện với anh ta... Anh ta đi vệ sinh, sau đó nói rằng bị lạc đường. Anh ta quay lại đây vui vẻ phấn chấn đến mức khó tin. Nhưng có cái gì đó không bình thường. Nhân viên bảo vệ của chúng tôi đã kiểm tra cặp của anh ta và tìm thấy một chiếc máy ảnh. Trong đó là những bức ảnh chụp các kế hoạch kinh doanh được bảo vệ dưới chế độ bí mật thương mại, thậm chí cả các mật mã."


O'Day nói, "Anh chàng phóng viên không chỉ mất việc mà còn bị truy tố với tội danh xâm nhập mang tính tội phạm. Anh ta đã được tận hưởng sáu tháng trong nhà tù tiểu bang. Như tôi được biết, kể từ đó đến nay anh ta không thể tìm được cho mình một công việc ổn định với vai trò phóng viên". 


Sterling hơi cúi đầu xuống và nói với Sachs, "Chúng tôi rất, rất xem trọng công tác an ninh".


Một thanh niên xuất hiện trên ngưỡng cửa. Thoạt đầu cô nghĩ anh ta là Martin, người trợ lý của vị tổng giám đốc nhưng cô nhanh chóng nhận ra ấn tượng đó chẳng quan chỉ do vóc người và bộ vét màu đen giống nhau. "Ngài Andrew, tôi xin lỗi phải quấy rầy." 


"À, Jeremy."


Vậy ra đây là anh chàng trợ lý thứ hai. Anh ta nhìn vào bộ cảnh phục của Pulaski, sau đó nhìn sang Sachs. Thế rồi, cũng giống như Martin, khi anh ta nhận ra mình không hề được giới thiệu, anh ta tảng lờ mọi người có mặt trong phòng trừ ông chủ của mình. 


"Carpenter", Sterling nói. "Tôi cần gặp ông ta hôm nay."


"Vâng, ngài Andrew." 


Sau khi người trợ lý ra ngoài, Sachs hỏi, "Còn các nhân viên thì sao? Có ai đó đã gặp rắc rối về vi phạm nội quy không?"


Sterling nói, "Chúng tôi luôn điều tra rất kỹ về thân thế nhân viên của mình. Tôi sẽ không cho phép tuyển dụng bất cứ ai từng rắc rối pháp lý ngoại trừ vi phạm luật giao thông. Và điều tra thân thế là một trong những chuyên môn của chúng tôi. Nhưng ngay cả khi một nhân viên muốn truy cập vào innerCircle, anh ta cũng không thể đánh cắp được bất cứ dữ liệu nào. Mark, hãy cho cô đây biết về những khu biệt lập đi". 


"Tất nhiên rồi, ngài Andrew." Quay sang Sachs, anh ta nói, "Chúng tôi có những bức tường lửa bê tông".


"Tôi không phải là một chuyên gia công nghệ cao", Sachs nói. 


Whitcomb bật cười, "Không, không, chẳng có gì công nghệ cao ở đây cả. Bê tông theo đúng nghĩa đen. Tương tự như với các bức tường và sàn. Chúng tôi chia nhỏ các dữ liệu ra sau khi thu thập được và lưu trữ chúng ở những địa điểm riêng rẽ theo đúng nghĩa vật chất. Cô sẽ hiểu rõ hơn nếu tôi cho cô biết sơ qua về phương thức hoạt động của SSD. Chúng tôi bắt đầu với tôn chỉ dữ liệu chính là tài sản chủ đạo của mình. Nếu ai đó sao chép lại được innerCircle chúng tôi sẽ phá sản chỉ sau một tuần. Vậy nhiệm vụ số một là bảo vệ tài sản của mình. Trên thực tế những dự liệu này bắt nguồn từ đâu? Từ hàng ngàn nguồn khác nhau: các công ty thẻ tín dụng, ngân hàng, hồ sơ lưu trữ của các cơ quan chính phủ, cửa hàng bán lẻ, giao dịch trực tuyến, nhân viên tòa án, cơ quan đăng kiểm phương tiện cơ giới, bệnh viện, công ty bảo hiểm. Chúng tôi coi mỗi sự kiện làm phát sinh ra dữ liệu là một biến cố, có thể là một cuộc gọi tới số 800* (Số điện thoại đặc biệt gọi miễn phí), việc đăng ký một chiếc xe, một yêu cầu chi trả bảo hiểm y tế, lập hồ sơ một vụ tranh tụng, một đứa trẻ ra đời, một đám cưới, một quyết định mua hàng, trả lại hàng hóa, một lời phàn nàn... Trong nghề của cô, một biến cố có thể là một vụ cưỡng dâm, một vụ trộm, hay một vụ giết người – bất cứ tội ác nào. Tương tự là việc mở hồ sơ một vụ án, chọn bồi thẩm, mở phiên tòa, kết án".


Whitcomb nói tiếp, "Mỗi khi dữ liệu về một biến cố tới SSD, đầu tiên nó sẽ được chuyển tới Trung tâm Tiếp nhận, tại đây dữ liệu sẽ được đánh giá. Vì lý do an ninh chúng tôi thực hiện chính sách bảo mật dữ liệu, tách riêng tên người liên quan và thay bằng một mã số". 


"Mã số bảo hiểm xã hội?"


Một thoáng biểu cảm lướt qua khuôn mặt Sterling lần đầu tiên kể từ khi Sachs gặp ông ta. "À không. Những mã số bảo hiểm xã hội đó được thiết lập riêng cho các tài khoản hưu trí do chính phủ quản lý. Từ lâu lắm rồi. Thật tai hại khi chúng lại trở thành dữ liệu để xác nhận danh tính, vừa không chính xác, vừa dễ dàng bị đánh cắp hay mua lại. Rất nguy hiểm, không khác gì để một khẩu súng đã nạp đạn và không cài chốt an toàn trong nhà. Mã số của chúng tôi là một dãy mười sáu chữ số. Chính mươi phần trăm người Mỹ trưởng thành có mã số SSD. Hiện tại, bất cứ đứa trẻ nào có đăng ký khai sinh ở bất cứ đâu tại khu vực Bắc Mỹ đều được tự động gán cho một mã số." 


"Tại sao lại là mười sáu chữ số?", Pulaski hỏi.


"Như thế sẽ cho phép chúng tôi thoải mái mở rộng", Sterling nói. "Không bao giờ phải lo hết số. Chúng tôi có thể tạo ra gần một tỷ tỷ mã số. Trái đất này sẽ hết không gian sống trước khi SSD hết số. Các mã số này giúp hệ thống của chúng tôi được bảo vệ tốt hơn và việc xử lý dữ liệu cũng nhanh hơn nhiều so với sử dụng tên thật hay số bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, sử dụng mã số vô hiệu hóa nhân tố con người và loại trừ mọi ý kiến đánh đồng. Về mặt tâm lý, chúng ta chắc chắn đã có sẵn những định kiến của mình về ai đó có tên là Adolf, Britney* (Britney Spears, ca sĩ nhạc pop nổi tiếng người Mỹ) , Shaquilla* (Shaquilla Rashaun O'Neal, cựu cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp Mỹ) hay Diego* (Diego Ribas da Cunda, cầu thủ bóng đá người Brazil) thậm chí trước cả khi chúng ta gặp họ, chỉ vì tên của họ. Một con số sẽ loại bỏ những nhiễu loạn đó. Và cải thiện tính hiệu quả. Mark, tiếp tục đi." 


"Tất nhiên rồi, ngài Andrew. Sau khi tên người đã được thay thế bằng mã số, Trung tâm Tiếp nhận sẽ đánh giá biến cố, quyết định xem nó thuộc về lĩnh vực nào và chuyển nó tới một hoặc có thể nhiều hơn, trong ba khu vực riêng rẽ – các khi lưa trữ dữ liệu biệt lập của chúng tôi. Khu A là nơi chúng tôi lưu trữ các dữ liệu về đời tư, sở thích cá nhân. Khu B là tài chính. Bao gồm lịch sử về lương, giao dịch ngân hàng, báo cáo tín dụng, bảo hiểm. Khu C là các hồ sơ, tài liệu công và chính phủ."


"Sau đó các dữ liệu được sàng lọc", Sterling lại chen vào lần nữa. "Những tạp nhiễm bị loại bỏ và dữ liệu được đồng bộ hóa. Chẳng hạn, trong một số bản khai, giới tính của cô sẽ được ghi là 'Nữ', một số bản khai khác là 'Nữ giới'. Cũng có khi là một số 1 hay một số 0. Cô cần phải thống nhất chúng lại." 


"Chúng tôi cũng loại bỏ những nhiễu loạn – những dữ liệu không chất lượng. Có thể đây là những dữ liệu sai hoặc có quá nhiều chi tiết, hay quá ít. Nhiễu loạn gây ra những tạp nhiễm, và tạp nhiễm cần phải được loại bỏ", ông ta nói câu này một cách cương quyết. Một thoáng biểu cảm nữa. "Những dữ liệu đã qua sàng lọc sau đó sẽ được lưu vào một trong những khu biệt lập của chúng tôi cho tới khi một khách hàng nào đó cần tới nhà tiên tri."


"Ý ông là gì?", Pulaski hỏi. 


Sterling giải thích, "Vào những năm 1970, các phần mềm cơ sở dữ liệu trên máy tính đưa ra một bản phân tích hiệu quả hoạt động trong quá khứ cho các công ty. Tới những năm chín mươi, dữ liệu cho biết hiện tại họ đang làm ăn ra sao. Hữu ích hơn. Giờ đây chúng tôi có thể dự báo những gì người tiêu dùng sẽ làm và hướng dẫn khách hàng của mình tận dụng điều đó".


Sachs nói, "Vậy là các vị không chỉ tiên đoán tương lai. Các vị đang cố thay đổi nó". 


"Chính xác. Nhưng liệu còn lý do nào khác để tới gặp một nhà tiên tri hay không?"


Đôi mắt ông ta rất bình thản, gần như thích thú. Nhưng Sachs vẫn cảm thấy không thoải mái, nhớ lại vụ va chạm với các đặc vụ hôm trước ở Brooklyn. Như thể Năm Hai Hai đã làm đúng những gì ông ta vừa mô tả: dự đoán một cuộc đấu súng giữa họ. 


Sterling ra hiệu cho Whitcomb, anh này tiếp tục, "Okay, vậy là các dữ liệu, không còn chứa đựng bất cứ cái tên nào mà chỉ có những con số, đi tới ba khu lưu trữ biệt lập nằm ở các tầng khác nhau trong các vùng kiểm soát an ninh khác nhau. Một nhân viên làm việc trong khu vực biệt trữ về đời tư, sở thích cá nhân hay khu biệt trữ về tài chính. Không ai làm việc ở bất cứ khu biệt trữ nào có thể tiếp cận thông tin ở Trung tâm Tiếp nhận và kết nối giữa tên, địa chỉ của một người với mã số mười sáu chữ số của người đó".


Sterling nói, "Đó chính là điều Tom muốn nói khi anh chàng khẳng định một hacker cần xâm nhập vào từng khu biệt trữ dữ liệu một cách độc lập". 


O'Day nói thêm, "Chúng tôi theo dõi hai mươi tư trên bảy. Nếu ai đó không được phép đang cố tìm cách xâm nhập vào một khu biệt trữ, chúng tôi sẽ biết ngay lập tức. Những kẻ đó sẽ bị sa thải tức khắc và gần như chắc chắn bị bắt giữ. Bên cạnh đó, cô không thể tải về bất cứ thứ gì từ các máy tính trong các khu biệt trữ, không có cửa cho việc này, thậm chí nếu cô tìm cách đột nhập vào nơi đặt một máy chủ và dùng thiết bị kết nối trực tiếp với phần cứng, cô cũng không thể mang nó ra được. Tất cả mọi người đều bị kiểm tra – toàn bộ nhân viên, các nhân sự quản lý cao cấp, nhân viên bảo vệ, phụ trách hệ thống chữa cháy, lao công. Thậm chí cả ngày Andrew. Chúng tôi có thiết bị phát hiện kim loại và kiểm tra mật độ vật liệu gắn tại mọi lối ra vào các khu biệt trữ và Trung tâm Tiếp nhận, kể cả cửa thoát hiểm".


Whitcomb tiếp tục bài lên lớp, "Cô buộc phải đi qua một thiết bị từ trường. Nó sẽ xóa hết mọi dữ liệu số trong bất cứ thiết bị nào cô mang theo người, Ipod, điện thoại hay ổ cứng. Không có ai ra khỏi những căn phòng đó mà mang theo được dù chỉ một kilobyte dữ liệu". 


Sachs nói, "Vậy là việc đánh cắp dữ liệu từ những khu biệt trữ đó – cho dù là hacker bên ngoài, những kẻ đột nhập vào tận nơi hay từ nhân viên bên trong công ty – đều gần như không thể".


Sterling gật đầu, "Dữ liệu là tài sản duy nhất của chúng tôi. Chúng tôi canh giữ chúng như những thánh tích". 


"Thế kịch bản còn lại, ai đó làm việc cho một trong các khách hàng thì sao?"


"Như Tom vừa nói, theo như cách thủ phạm hoạt động, hắn cần tiếp cận được hồ sơ lưu trữ trong innerCircle về từng nạn nhân cũng như về những người đã bị bắt nhầm." 


"Đúng thế."


Sterling giơ hai tay lên như một vị giáo sư. "Nhưng khách hàng không được tiếp cận các hồ sơ này. Mà dù sao đi nữa chúng cũng không phải thứ họ muốn. InnerCircle chứa các dữ liệu thô không đem lại lợi ích gì cho họ. Thứ họ cần là kết quả phân tích dữ liệu chúng tôi thực hiện. Khách hàng đăng nhập vào Watchtower- hệ thống quản lý dữ liệu mà chúng tôi nắm bản quyền – hay các chương trình khác như Xpectation hoặc FORT. Chúng sẽ tìm kiếm dưới hình thức có thể sử dụng được. Nếu cô muốn só sánh với việc khai mỏ, việc Watchtower làm là tìm kiếm quặng vàng giữa hàng tấn đất đá." 


Cô trả lời, "Nhưng nếu một khách hàng mua một danh sách địa chỉ đặt hàng chẳng hạn, họ rất có thể sẽ thu được đủ dữ liệu về một trong số các nạn nhân trong các vụ án của chúng tôi để gây ra những tội ác đó, đúng không?". Cô hất đầu chỉ về phía bản danh sách bằng chứng trước đó cô đã đưa cho Sterling, "Chẳng hạn, kẻ chúng tôi tìm kiếm có thể lấy được danh sách tất cả những người đã mua một loại kem cạo râu, bao cao su, băng dính, giày thể thao, vân vân".


Sterling nhướn một bên mày lên. "Hừm. Sẽ là một lượng công việc khổng lồ, nhưng về lý thuyết hoàn toàn có thể... Được thôi. Tôi sẽ tập hợp danh sách tất cả các khách hàng của chúng tôi đã mua dữ liệu trong đó có tên những nạn nhân của các vị – trong ba tháng gần đây, được không? Không, có lẽ là sáu." 


"Như thế là đủ." Cô lục tìm trong chiếc cặp của mình, nó ít ngăn nắp hơn nhiều so với bàn làm việc của Sterling, đưa cho ông ta một danh sách các nạn nhân và những người bị bắt giữ.


"Chúng tôi đã thỏa thuận với khách hàng và được quyền chia sẻ thông tin về họ. Không có rắc rối gì về pháp lý nhưng sẽ mất vài giờ để tập hợp các thông tin lại." 


"Cảm ơn ông. Giờ tôi có một câu hỏi cuối cùng liên quan tới các nhân viên của ông... Cho dù họ không được phép làm điều đó tại các khu biệt trữ, liệu họ có thể tải về một hồ sơ từ chỗ làm việc của mình không?"


Ông ta gật đầu, có vẻ như rất ấn tượng về câu hỏi của cô, dù câu hỏi đó hàm ý rất có thể một nhân viên của SSD chính là kẻ sát nhân. "Phần lớn nhân viên không thể làm được việc đó. Một lần nữa xin nhắc lại, chúng tôi cần bảo vệ dữ liệu của mình. Nhưng có một số ít người có đặc quyền được gọi là 'quyền tiếp cận không hạn chế'". 


Whitcomb mỉm cười, "Đúng thế, nhưng nghĩ xem những người đó là ai, ngài Andrew".


"Nếu có một nghi vấn xuất hiện, chúng ta cần kiểm tra mọi khả năng." 


Whitcomb nói với Sachs và Pulaski, "Vấn đề là những nhân viên có quyền tiếp cận không hạn chế đều là nhân sự cao cấp ở đây. Họ đều là gắn bó nhiều năm với công ty này. Chúng tôi giống như một gia đình. Chúng tôi cùng tiệc tùng với nhau, có những buổi gặp gỡ thân tình...".


Sterling giơ tay lên ngắt lời anh ta, "Chúng ta cần phải làm tới cùng, Mark. Tôi muốn làm rõ chuyện này, bằng bất kỳ giá nào". 


"Những ai có quyền tiếp cận không hạn chế?", Sachs hỏi.


Sterling nhún vai, "Tôi. Hoặc giám đốc phụ trách bán hàng, giám đốc hoạt động chuyên môn. Tôi nghĩ giám đốc nhân sự của chúng tôi cũng hoàn toàn có thể lấy được một hồ sơ, dù tôi chắc anh ta chưa từng làm vậy. Và còn sếp của Mark, giám đốc bộ phận kiểm soát". Ông ta cung cấp tất cả tên cho cô. 


Sachs liếc nhìn Whitcomb, anh ta lắc đầu, "Tôi không có quyền đó".


O'Day cũng không. 


"Thế các trợ lý của ông?", Sachs hỏi Sterling, ám chỉ tới Jeremy và Martin.


"Không... còn về những người làm công tác bảo trì sửa chữa – đám kỹ thuật viên thì những nhân viên thường không thể lấy được trọn vẹn một hồ sơ, nhưng hai quản lý phụ trách bộ phận này có thể làm được việc đó. Một người phụ trách ca ngày, một người phụ trách ca đêm." Ông ta cũng cung cấp tên hai người cho cô. 


Sachs nhìn vào danh sách. "Có một cách đơn giản để biết họ vô tội hay không."


"Cách nào?" 


"Chúng tôi biết kẻ sát nhân có mặt ở đâu vào chiều Chủ nhật. Nếu họ có bằng chứng ngoại phạm, họ sẽ nằm ngoài diện nghi vấn. Hãy để tôi nói chuyện với họ. Ngay bây giờ, nếu có thể."


"Được", Sterling nói và tỏ vẻ tán đồng với đề xuất của cô, Một "giải pháp" đơn giản cho một trong các "vấn đề" của ông ta. Thế rồi cô nhận ra một điều: Lần nào nhìn vào cô trong buổi sáng nay, ông ta đều nhìn thẳng vào mắt cô. Không giống như nhiều người, nếu không muốn nói là hầu hết những người đàn ông khác Sachs từng gặp, Sterling chưa từng một lần để mắt đến cơ thể cô, thậm chí không hề tỏ vẻ ve vãn. Cô thầm nghĩ không rõ chuyện phòng the của ông ta ra sao. Sachs hỏi, "Tôi có thể một mình xem xét hệ thống an ninh tại các khu biệt trữ dữ liệu không?". 


"Okay."


Sterling gật đầu ra hiệu cho O'Day, ông này bước ra ngoài sảnh rồi quay trở lại với tay nhân viên bảo vệ mặt lạnh như tiền đã dẫn Sachs và Pulaski từ gian tiền sảnh rộng mênh mông dưới tầng trệt lên. 


Sterling in ra một tờ thông hành cho cô, ký tên rồi đưa cho nhân viên bảo vệ, anh chàng này dẫn cô ra ngoài.


Sachs cảm thấy nhẹ nhõm khi Sterling không phản đối yêu cầu của cô. Cô có lý do riêng để muốn tự mình nhìn thấy các khu biệt trữ dữ liệu. Như thế, cô không chỉ làm cho nhiều người hơn biết đến cuộc điều tra – với hy vọng cá sẽ cắn câu – mà cô còn có thể hỏi tay nhân viên bảo vệ về các biện pháp an ninh nhằm kiểm chứng lại những gì O'Day, Sterling và Whitcomb đã nói với mình. 


Nhưng anh chàng này không hề có ý định hé răng, như thể anh ta là một cậu bé đã được bố mẹ dặn kỹ không được nói chuyện với người lạ.


Hai người đi qua những cánh cửa, qua những hành lang dài, xuống một cầu thang, rồi leo lên một cầu thang nữa. Chẳng bao lâu sau Sachs đã hoàn toàn mất phương hướng. Cô rùng mình. Không gian xung quanh ngày càng co hẹp lại, chật chội, âm u. Cảm giác sợ hãi bị cầm tù lại bùng dậy trong cô; trong khi những khung cửa sổ của Đá Xám vốn đã nhỏ, nhưng tại đây, gần sát các khu biệt trữ dữ liệu, chúng còn không tồn tại. Cô hít một hơi thật sâu. Chẳng ăn thua gì. 


Sachs liếc nhìn biển tên của anh chàng bảo vệ. "Này, John?"


"Vâng, thưa bà?" 


"Các cửa sổ làm sao vậy? Hoặc là nhỏ xíu, hoặc là chẳng hề có cái nào."


"Ngài Andrew lo rằng người ta có thể tìm cách chụp ảnh các thông tin từ bên ngoài, chẳng hạn như các mật mã truy cập. Hay các kế hoạch kinh doanh." 


"Thật sao? Chẳng lẽ ai đó có thể làm được việc này?"


"Tôi không biết. Thỉnh thoảng chúng tôi lại được lệnh tiến hành kiểm tra các vọng quan sát nằm gần tòa nhà, cửa sổ của các tòa nhà đối diện công ty. Chưa từng phát hiện ra một trường hợp khả nghi. Nhưng ngài Andrew vẫn muốn chúng tôi duy trì hoạt động này." 


Các khu biệt trữ dữ liệu là những khu vực thật kỳ quặc, mọi thứ đều được mã hóa bằng màu. Thông tin cá nhân màu xanh dương, tài chính màu đỏ, chính quyền màu xanh lục. Các khu biệt trữ này đều có không gian rất rộng, nhưng điều này cũng không giúp cô thoát được cảm giác ám ảnh bị cầm tù. Trần nhà rất thấp, các căn phòng đều tối om, những lối đi lại chật chội xen giữa những hàng máy tính. Một âm thanh đều đều không ngừng vang lên, nghe giống như tiếng gầm gừ trầm trầm. Hệ thống điều hòa nhiệt độ làm việc hết công suất, hoàn toàn hiểu được nếu tính đến số lượng máy tính được lắp đặt cũng như lượng điện năng chúng tiêu thụ, nhưng không khí vẫn ngột ngạt khó thở.


Quả thực, cô chưa từng nhìn thấy nhiều máy tính đến thế trong đời. Đó là những khối hộp lớn màu trắng và thật lạ lùng, được định danh không phải bằng cái mà bằng những miếng đề can hình các nhân vật hoạt hình như người Nhện, người Dơi, Barney* (Con khủng long bằng bông màu tím và xanh lá cây, một nhân vật trong chương trình truyền hình dành riêng cho trẻ em từ 1-8 tuổi ở Mỹ), Road Runner* (Chú gà tây đáng yêu, nhân vật chính trong các bộ phim hoạt hình nổi tiếng Looney TunesMerrie Melodies) hay chuột Mickey. 


"Spongebob* (Nhân vật hư cấu trong series truyền hình hoạt hình SpongeBob SquarePants)?", cô vừa hỏi vừa hất hàm ra dấu về phía một tấm đề can.


Lần đầu tiên John mỉm cười. "Một biện pháp an ninh nữa mà ngài Andrew đã nghĩ ra. Chúng tôi có những người chuyên tìm kiếm trên mạng bất cứ ai đề cập đến SSD và innerCircle. Nếu có ai đó nói đến công ty kèm theo tên một nhân vật hoạt hình, như 'Wile E. Coyote*' (Chú sói, kẻ thù của Road Runner, trong phim Wile E. Coyote luôn cố tìm mọi cách bắt chú gà tây) hay 'Siêu nhân', có nhiều khả năng người đó đang quan tâm quá mức tới những chiếc máy tính này. Những cái tên này dễ nhận ra hơn nhiều so với khi chúng tôi chỉ đơn thuần đánh số các máy tính." 


"Thông minh đấy", cô nói, thầm nghĩ tới sự hài hước oái oăm khi Sterling thích con người được mã hóa thành số, trong khi lại đặt tên cho những chiếc máy tính của mình.


Hai người bước vào Trung tâm Tiếp nhận, được sơn bằng tông màu xám tối om. Nơi này còn nhỏ hơn các khu biệt trữ và khiến cảm giác sợ hãi bị cầm tù của Sachs mỗi lúc một mạnh lên. Cũng như tại các khu biệt trữ, vật trang trí duy nhất là biểu tượng hình tháp canh với khung cửa sổ tỏa sáng, cùng một bức ảnh Andrew Sterling khổ lớn, trên mặt ông ta nở một nụ cười tạo kiểu. Phía dưới bức ảnh là dòng chữ: "Bạn là Số Một!". 


Có thể câu tán dương này được dành cho thị phần hay một giải thưởng mà công ty đã đạt được. Hoặc cũng có thể là một câu khẩu hiệu nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của các nhân viên. Tuy vậy, Sachs cảm thấy câu nói như một lời báo điềm gở, như thể đang nằm đầu một danh sách không hề muốn có mặt.


Nhịp thở của cô nhanh dần khi cảm giác bị giam hãm mỗi lúc một mạnh lên. "Cảm thấy khó chịu, đúng không?", anh chàng nhân viên bao vệ hỏi.

Cô mỉm cười, "Cũng hơi hơi". 


"Chúng tôi luôn đi tuần nhưng không ai muốn ở lại các khu biệt trữ lâu hơn thời gian buộc phải có mặt."


Lúc này cô đã phá vỡ được tảng băng cách biệt giữa hai người và có được từ John không chỉ những từ cộc lốc, cô hỏi anh ta về hệ thống an ninh, để kiểm tra xem Sterling và những người khác có nói đúng sự thật không. 


Có vẻ như họ đã nói thật. John lặp lại đúng những gì vị tổng giám đốc đã nói: Không máy tính hay vị trí làm việc nào trong các căn phòng này có cổng hay khe cắm để tải dữ liệu, chỉ có bàn phím và màn hình, không gì khác. Những căn phòng này đã được cô lập hoàn toàn, không tín hiệu vô tuyến nào có thể thoát ra ngoài. Anh ta cũng giải thích lại điều mà Sterling và Whitcomb vừa cho cô biết lúc trước, rằng dữ liệu từ mỗi khu biệt trữ sẽ vô dụng nếu không kết hợp với dữ liệu từ các khu khác cũng như từ Trung tâm tiếp nhận. Không có nhiều biện pháp an ninh trực tiếp trên từng màn hình máy tính, nhưng để vào được bên trong các khu biệt trữ, bạn cần có thẻ nhận dạng, một mã số để mở cửa và phải qua máy quét nhận dạng sinh trắc học hoặc một nhân viên bảo vệ vạm vỡ sẽ giám sát từng bước đi của bạn (cũng chính là những gì John đang làm, cho tới lúc này, một cách không được tế nhị cho lắm).


Chế độ an ninh ben ngoài các khu biệt trữ cũng rất nghiêm ngặt đúng như các nhân sự cao cấp đã cho cô biết. Cả cô và anh chàng bảo vệ đều bị kiểm tra kỹ lưỡng khi họ ra khỏi mỗi khu biệt trữ và phải đi qua máy đò kim loại cùng một khung cửa dày cộp được gọi là thiết bị xóa dữ liệu. Trên cỗ máy có in lời cảnh báo: Đi qua hệ thống này, toàn bộ dữ liệu số trong máy tính, ổ cứng, điện thoại di động và các thiết bị khác sẽ bị xóa vĩnh viễn. 


Trong khi hai người quay lại văn phòng của Sterling, John nói với cô, theo anh ta được biết chưa từnng có ai đột nhập vào SSD. Dù vậy, O'Day vẫn thường xuyên yêu cầu họ luyện tập phòng chống xâm nhập. Như phần lớn nhân viên bảo vệ, John không mang súng nhưng Sterling đề ra quy định ít nhất phải có hai nhân viên bảo vệ được vũ trang thường trực hai mươi bốn giờ mỗi ngày.


Trở lại văn phòng của vị tổng giám đốc, cô thấy Pulaski đang ngồi ở chiếc ghế so fa bọc da lớn kê gần bàn làm việc của Martin. Dù không phải là người thấp bé nhưng lúc này cậu ta dường như bỗng nhỏ lại giống một anh chàng sinh viên bị gọi lên văn phòng hiệu trưởng. Trong lúc cô vắng mặt, cậu cảnh sát trẻ đã bắt tay vào kiểm tra trường hợp của Samuel Brockton - sếp của Whitcomb - người có quyền tiếp cận không hạn chế. Ông ta đã ở Washington D.C, hồ sơ đăng ký của khách sạn cho thấy ông ta đang dùng bữa trong phòng ăn vào thời điểm xảy ra vụ án mạng hôm qua. Cô ghi lại chi tiết này, sau đó liếc nhìn danh sách những người có quyền tiếp cận không hạn chế. 



Andrew Sterling, Chủ tịch, Tổng Giám đốc.


Sean Cassel, Giám đốc Marketing và Bán hàng. 


Wayne Gillespie, Giám đốc Hoạt động Chuyên môn.


Samuel Brockton, Giám đốc đốc Bộ phận Kiểm soát. 


Bằng chứng ngoại phạm – hồ sơ khách sạn xác nhận có mặt tại Washington.


Peter Arlonzo-Kemper, Giám đốc Nhân sự. 


Steven Shraeder, Phụ trách Đội Kỹ thuật và Hỗ trợ, ca ngày.


Faruk Mameda, Phụ trách Đội Kỹ thuật và Hỗ trợ, ca đêm. 



Cô nói với Sterling, "Tôi muốn nói chuyện trực tiếp với họ càng sớm càng tốt".


Vị tổng giám đốc gọi trợ lý của mình và được biết ngoại trừ Brockton, những người còn lại đều đang ở trong thành phố. Nhưng Shraeder đang phải khắc phục một sự cố phần cứng tại Trung tâm Tiếp nhận và Mameda phải ba giờ chiều mới có mặt. Ông ta lệnh cho Martin tìm một phòng họp còn trống và gọi họ lên để cảnh sát thẩm vấn. 


Sterling ra lệnh ngắt liên lạc với hệ thống liên lạc nội bộ, rồi nói, "Thám tử, giờ đến lượt cô. Hãy trả lại sự trong sạch cho chúng tôi... hoặc tìm ra tên sát nhân".   




[Hết chương 19]



---



Chương 20: "Anh không thể thè lưỡi liếm  một hung khí giết người  được, Lincoln."




Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip