Chương 18. Văn Tuyên

Sau bữa tối, dưới sự nài nỉ của hai con, Từ Diễm bèn xướng vài ba câu hát cho bọn nó nghe. Từ Lương vỗ tay bảo: "Được quá chứ! Sau này nhỡ cha bị bãi quan thì nhà mình đi mở gánh hát, lấy cha làm ông bầu kiêm luôn kép đàn, dễ thường ăn nên làm ra hơn cả buôn bán nữa!"

Thấy sắc mặt cha biến đổi, Từ Lương vội chạy vòng ra sau kháng ngồi thụp xuống, chỉ nhướn lên cặp mắt tinh ranh. Từ Diễm lại chẳng hùa theo nó, nét mặt khó đăm đăm: "Con dám nói chuyện với cha mình thế à? Xưa nay ta có để con thiếu ăn thiếu mặc? Ta chưa dạy con tam cương ngũ thường, chính tâm tu thân* sao? Con đã đọc sách không xong, tính toán cũng chẳng ra ngón nghề, suốt ngày chỉ biết rong chơi khắp nơi làm chuyện vô bổ! Ta chưa nói rõ thì con càng lì ra phải không!"

* Tam cương: ba mối quan hệ quân thần, phụ tử, phu thê; ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Sách Đại học nêu ra Tám điều mục của người quân tử, trong đó nói rằng để "tu thân" (hành xử đứng đắn) thì trước phải có "chính tâm" (lòng dạ ngay thẳng).

Chữ cuối cùng thốt ra là tiếng gằn trong họng Từ Diễm, Tuyển đứng bên cạnh không khỏi chấn động. Bấy giờ Từ Lương mới sửng sốt, bắt đầu nhận ra mấy câu đùa vừa rồi không vui chút nào.

Như để minh chứng cho suy nghĩ của cậu, Từ Diễm cầm đàn hồ ném mạnh xuống đất, đầu mày chau gắt, giọng điệu thấm giận dữ: "Trước đây ta đi theo bầu gánh là vì hoàn cảnh túng thiếu, đói bụng ăn quàng, chứ ai đời là người đọc sách mà lại muốn vướng vào cái danh xướng ca vô loài* ấy, thật chẳng khác nào tự chọn cho mình kiếp sống rượu cheo cháo thí*, ở trên sân khấu thì ngẩng cao đầu nhưng xuống đài rồi chẳng còn dám giơ mặt mày cho ai xem. Ta nuôi nấng dạy bảo con đến bây giờ chẳng nhẽ chỉ để trong đầu con ló ra những ý tưởng đấy?"

* Xã hội phong kiến phân ra bốn giai cấp: "Sĩ, công, nông, thương", những nghề không thuộc Tứ dân được xem là ti tiện, thấp kém (kỹ nữ, bầu gánh, đồ tể...). Từ đó có câu "xướng ca vô loài" (gốc: xướng ca vô loại) hàm ý nghề đàn ca hát xướng không có bất kỳ vị trí đứng nào trong xã hội cũ.
Nguyên văn: "Rượu cheo, cháo thí, nghe hát nhờ". Rượu cheo là rượu khao làng trong dịp cưới hỏi, cháo thí là cháo được bố thí. Câu này ám chỉ kẻ thích chơi bời nhưng luôn tìm cách lợi dụng hoàn cảnh để không bị mất tiền. Hồi xưa, quý tộc thường nuôi con hát trong nhà để mua vui nên Từ Diễm mới ví kép hát với câu thành ngữ trên. Lúc này anh đang giận vì Lương nói hỗn, nếu thực sự khinh nghề hát đến thế thì anh đã không ca vài câu.

"Phụ thân xin hãy bớt giận, Nhị ca không cố ý." Nếu cánh tay không bị cha giữ chặt, Từ Tuyển đã quỳ xuống xin lỗi thay anh.

Từ Diễm ngó lơ nó, nói tiếp: "Năm nay con đã mười sáu, là tuổi sắp sửa mai mối dạm ngõ, vậy mà còn chưa chịu tầm sư học nghệ, kiếm cho ra ngón nghề để tu chí nuôi thân, thế là con muốn ta phải trầy trật đến khi tóc bạc lưng còng để dìu dắt cả con cháu của con nên người nên ngợm hay sao?"

Từ Lương không đáp lại chữ nào, đầu cúi gằm, hai má đỏ như gấc. Từ Diễm cầm tay út nam đứng dậy, bỏ về An Nhàn cư. Thị nữ trao thuốc mới sắc cho Tuyển, cậu đem đến bên giường, khuyên cha uống nhân lúc còn ấm.

Thấy nó nói năng dè dặt, Từ Diễm hỏi: "Con nghĩ ta đã nặng lời à?"

Cha đang hỏi về anh trai, bên đông bên đoài, Từ Tuyển không dám qua quýt với bên nào, suy nghĩ rồi đáp: "Người làm quan trong triều tị hiềm nhất là điều tiếng. Phụ thân lên tới vị trí này không dễ, luôn đặt ra yêu cầu khắt khe trong từng ngôn hành cử chỉ. Do vậy, dù biết Nhị ca chỉ đùa dai nhưng người phải nghiêm khắc để nhắc nhở bọn con, ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều phải hiểu đâu là lời có thể đùa, đâu là lời không được phép nói, bởi vì tiếng gió lọt ra ngoài có thể sinh sự không mong muốn."

Đó là cậu đã nói giảm nói tránh, vì chỉ riêng việc Từ Lương cả gan so sánh quan triều đình với kép hát mà bị tố cáo lên công đình (nơi xử kiện) thì hậu quả chắc chắn sẽ không dừng lại ở vài câu răn đe, thậm chí còn liên lụy đến hoạn lộ của cha bọn họ.

Từ Diễm nhẹ nhàng gật đầu: "Con là người tỉ mỉ và biết suy xét, giả như ta lâm mệnh hệ gì thì vẫn còn con lo liệu cho cái nhà này."

Tuyển kinh hãi: "Sao người lại nói như vậy? Phụ thân làm sao có thể lâm mệnh hệ gì được?"

"Tuy nhiên," Hắn nói tiếp, "con quá hiền lành, nên có tật thiếu quả quyết. Ta biết con không bằng lòng với đứa hầu tên Minh Tiền. Nó làm sai, con nhắc hai ba lần mà nó không sửa thì hoặc là phạt nó nhớ đời, hoặc là đuổi phứt nó đi, con thấy nó còn nhỏ nên cứ bỏ qua thì chính con đã không vui mà nó cũng chẳng khá hơn được. Gia thất không có tôn ti trật tự, chủ nhường nhịn tớ, tớ nói leo chủ thì còn có thể thống gì?"

"Chuyện nhỏ này cũng làm phiền đến phụ thân, là hài nhi bất hiếu." Cậu hổ thẹn quỳ xuống, trong mắt đã ngấn lệ.

"Đứng lên đi." Từ Diễm bưng bát thuốc đã gần nguội lên uống rồi trao lại cho con: "Ta vốn không muốn nhắc nhở nhiều, dù anh con có làm đủ thứ vô bổ trên đời thì ta cũng sẽ không vì thế mà giận, nhưng hiện tại các con vẫn chưa có sức để gánh vác hậu quả từ những ngôn hành thiếu suy nghĩ của mình."

Từ Tuyển ghi khắc từng lời cha nói, hành lễ cáo lui.

Cung lúc ấy, trong khuôn viên Đông cung đèn nến tĩnh lặng. Chủ nhân của họ vừa về đã khép mình vào thư phòng, hoạn quan chấp chưởng Triệu Mạnh Đức đôn đốc bọn tôi tớ se sẽ miệng mồm, cẩn thận tay chân. Chiều nay Trung Thư Tỉnh đem đến một bản sao chiếu lệnh, tự tay thân tín của Thái tử là Thống lĩnh Trần Thiện Gia mang vào thư phòng, hiện tại đã hơn một canh giờ mà Trần Thống lĩnh vẫn chưa trở ra.

Sau khi nội thần cũ bị cắt chức, Thái tử đã lệnh phủ Nội Vụ điều đến một người có thâm niên để bù vào chỗ khuyết, đó là Triệu Mạnh Đức. Trước đây gã là cung phụng quan ở cung Khôn Ninh, sau khi trung cung tạ thế thì bị điều sang Nội Quan giám dạy dỗ cung nhân mới vào, thành thử dù từng phục vụ Tiên hậu nhưng gã lại không thân thuộc với Đông cung. Lúc mới đến, Mạnh Đức đã chuẩn bị tinh thần để nghe một trận răn dạy thị uy, vậy mà Thái tử chẳng đoái hoài, chỉ hỏi sơ các chức vụ gã từng làm rồi cho qua.

"Triệu công công." Một giai nhân da phấn má đào tiến lại, gật đầu chào Triệu Mạnh Đức rồi nhỏ nhẹ hỏi: "Điện hạ vẫn còn bận sao?"

Thị là nàng hầu dạo trước mới đến Đông cung, họ Nghê, độ đôi tám tuổi trăng. Biết thị đang được ân sủng, Mạnh Đức nhiệt tình hé cười: "Hay Nghê phụng nghi sang trắc điện ngồi chờ? Trời xuân tuy đã ấm lên nhưng gió hãy còn mạnh lắm."

Phụng nghi là danh vị thấp nhất trong số thị thiếp của Thái tử. Nghê thị cười lặng lẽ: "Sao dám làm phiền công công, tôi đứng chờ được rồi."

Thị chờ một lát thì cửa thư phòng mở ra, Trần Thiện Gia thấy thị thì chắp tay chào, thị nhún gối đáp lễ rồi đón lấy chiếc bát sứ men xanh từ trên tay tỳ nữ. Dường như Thái tử còn mải chìm đắm trong cuộc đàm đạo với Trần Thống lĩnh nên dù đã có tiếng thông báo, nghe Nghê thị hành lễ, y vẫn ngoái nhìn vẻ bất ngờ: "Sao nàng đến đây?"

Nghê phụng nghi dịu dàng đáp: "Thiếp thấy mấy hôm nay tiết trời trở gió, biết điện hạ thường bận rộn đến khuya nên sai người bắt chim câu để hầm canh cho điện hạ tẩm bổ. Điện hạ cần cù chính sự, thiếp ngu dốt không biết khuyên gì nên chỉ có thể dùng chút tài mọn này để hầu hạ điện hạ."

Lê Hành Chi hiểu ý tiến lên nhận bát canh. Lưu Dung chìa tay đỡ Nghê thị đứng dậy, thấy hôm nay thị trang điểm nhẹ nhàng, trên trán không vẽ hoa điền, bèn cười bảo: "Hôm trước ta đến cung Ninh Thọ thỉnh an thì thấy Quý phi cùng với chư nương tử đang khoe Thái hậu phấn son mới do ty sức chế tạo, trong đó có loại bột hoa điền rất thơm, để lát nữa Hành Chi đem đến cho nàng."

Nghê phụng nghi thẹn thùng: "Thiếp trang điểm không khéo như các nương nương đâu ạ, điện hạ đưa thiếp thì phí đi mất."

"Nhân lúc còn xuân thì nên sắm sửa cho đẹp, Đông cung ít hoa, cần các nàng điểm tô thêm màu sắc." Thái tử nửa đùa nửa thật, ráng hồng trên má Nghê thị càng lan rộng khắp, thị cảm tạ rồi cáo lui.

Hành Chi sớt một muỗng canh ra cái chung nhỏ như chén trà rồi dùng kim bạc thử độc theo thông lệ, sau đó dâng canh cho Thái tử nếm. Lưu Dung gật đầu: "Thị chỉ mới vào cung chưa đầy năm mà đã nắm được khẩu vị của ta, quả là rất bỏ tâm tư." Mấy ngày nay có lẽ do trở trời hay sao mà Thái tử bị nhạt miệng, bát canh này của Nghê thị đã vừa khéo làm vui lòng Thái tử.

"Sẵn có khẩu vị, điện hạ muốn dùng thêm món mặn khác không ạ?" Hành Chi ướm hỏi.

"Thôi, lấy chút điểm tâm ngọt đến, ta đang cần suy nghĩ."

Cô ứng lời rồi lui ra ngoài gọi Mạnh Đức và Ngô Cư vào hầu. Ngô Cư cầm đèn, còn Mạnh Đức đứng trước án thư đợi lệnh. Lưu Dung đặt bát sứ sang một bên, làm như sực nhớ ra hỏi: "Bữa trước người của phủ Nội Vụ đưa vải may xiêm y mùa hè đến cho các nương tử chọn phải không?"

"Dạ phải."

"Các nương tử chọn thế nào?"

"Dạ, đều theo quy tắc." Mạnh Đức dòm sắc mặt Thái tử, nói tiếp: "Nhưng chắc là Thải phụng nghi thấy Nghê phụng nghi nhỏ tuổi nên có đưa lời giành hai xấp vải mà Nghê phụng nghi ưa thích, Nghê phụng nghi cũng không phản đối ạ."

Lưu Dung hé cười: "Chuyện vớ vẩn này mà ngươi cần nói với ta?"

"Nô tài lắm lời!" Gã quỳ xuống tự vả má, thoáng nhìn Thái tử rồi lanh trí bảo: "Nô tài sẽ đến phủ Nội Vụ lấy cho Nghê phụng nghi vải mới ngay ạ!"

"Trên giá có một quyển kinh Thủy Sám* do ta chép, ngươi lấy đưa sang chỗ Thải thị, nói thị đóng cửa chuyên tâm chép kinh, chừng nào chép được kha khá thì hãy ra ngoài."

* Bài kinh tụng khi sám hối, hoặc cần tiêu trừ nghiệp chướng.

Mạnh Đức đứng dậy làm ngay, Ngô Cư thì cúi đầu trộm cười. Việc Thải thị lên mặt chiếm hời không chỉ mới đây nhưng Nghê thị không giống phần lớn thiếu nữ ở độ tuổi này sẽ uất ức đi mách lang quân mà cô đều nhịn cả. Tính cô an tĩnh dịu dàng, cư xử hòa ái với tôi tớ, bởi vậy bọn nó mến cô. Nó cười vì cái ả làm cô khổ phải nhận quả đắng.

"Cười cái gì?" Lưu Dung liếc nó: "Sang đây mài mực."

Y mới viết được dăm dòng thơ thì Triệu Mạnh Đức nhanh chân trở vào, thần sắc âu lo não nùng, quỳ xuống nói ngay: "Bẩm điện hạ, điện hạ... hành cung vừa mới truyền tin, đức ông... quy tịch rồi!"

Thoạt tiên Thái tử sững người như bàng hoàng, sau đó gác đầu bút chưa kịp rửa vào giá, run run giọng nói: "Gọi Hành Chi hầu hạ ta thay xiêm y."

Triệu Mạnh Đức sửa soạn đội nghi trượng với áo tang, lọng trắng. Lưu Dung mặc áo vải gai, để đầu trần, vấn tóc bằng một cây trâm gỗ, tiến thẳng đến cung Càn Thành. Dụ Đế vừa hay tin thì ngay sau đó đã thấy Thái tử buồn rầu đến vấn an, cặp mắt không khỏi rơm rớm: "Đông cung có hiếu, nay trẫm sức vóc không đủ, khó lòng đưa tang, vậy truyền cho Thái tử và Văn Tuyên vương cùng chủ trì đại lễ, thay trẫm tận hiếu với Thượng hoàng.

"Phần trẫm từ lúc này cho đến khi phát tang sẽ nghiêm ngặt trai giới, mời pháp sư sớm chiều tụng kinh, siêu độ đức ông sớm nhập Niết Bàn!"

Dù các Ngự y hết sức khuyên rằng Thiên tử không nên ăn chay trong khi bệnh nhưng ngài vẫn khăng khăng giữ ý đấy, lại còn quệt lệ nói rằng: "Trẫm thân là con mà không thể tận hiếu, sao lại có thể hưởng thụ an nhàn vào lúc này được?" Không thể lay chuyển Thiên tử, Ngự y đến hỏi Lưu Dung, y đáp lại: "Nghĩa tử là nghĩa tận nhưng không thể vì vậy mà bất trung bất hiếu với người sống. Các ngươi am hiểu y lý, thấy nên thế nào thì làm thế đó, đừng để bệ hạ biết là được." Nghe vậy, các Ngự y mới yên tâm trở về hầu hạ Thiên tử.

Vì Thượng hoàng quy tịch ở hành cung nên Thái tử và hoàng thân phải di chuyển đến hành cung để cử hành lễ tắm xác, tiếp đến là tiểu liệm, lễ phạn hàm – tức đặt vàng và ngọc quý vào miệng người chết để xua đuổi tà ma, sau đó khâm liệm, đưa thi hài nhập quan, chờ qua một ngày rồi chuyển linh cữu về kinh thành. Trên đường linh cữu đi, muôn dân đóng cửa treo phướn trắng, chỉ được cúi mặt hoặc khóc, ai dám hé cười, bất kể thế nào đều quy vào tội khi quân, bắt bỏ tù đợi xử. Vào Hoàng thành, linh cữu được đặt ở mé Đông điện Cần Chính, lúc này bá quan văn võ mới được đến trước linh cữu rập đầu và khóc thương.

Trong mấy ngày lễ bái, tất thảy quần thần đều nghe thấy tiếng khóc của Văn Tuyên vương cất lên thống thiết não nùng đến độ ai không biết hẳn sẽ nghĩ người chết là một đức ân nhân mà hoàng thân cắn cỏ xin được báo đáp. Lưu Anh ngất đi mấy lần giữa chập vì trước đó y đã nhiều đêm thức trắng để kề bên giường chăm sóc Thượng hoàng. Khi thấy hoàng thân lại có dấu hiệu kiệt sức, Thái tử ra hiệu cho nội thị đưa hoàng thân vào trong nghỉ ngơi, rồi quay đầu nói với Lưu Lăng: "Cháu vào chăm sóc cha đi, hôm nay y đến giới hạn rồi. A Cơ, cháu lên đây với ta."

Lưu Cơ cầm lại mong muốn theo vào cùng cha và em, dịch đầu gối lấp vào vị trí bên cạnh Thái tử. Lưu Trang thấy sắc mặt Lưu Dung cũng tương đối xanh xao, sai người bưng trà rót nước đến: "Thái tử điện hạ và A Cơ nên uống một chút nước đi. Con cũng vậy, A Minh."

Tạm dừng để uống chén trà rồi các vị tiếp tục cử hành lễ bái đến chiều muộn. Mãi khi trăng lên, Văn Tuyên vương mới hồi tỉnh, thấy hai con trai đang chụm đầu thầm thì trò chuyện, cất tiếng hỏi: "Lễ hôm nay... xong rồi sao?"

Cổ họng y đau rát, giọng khàn đục như bị cảm nặng. Lưu Cơ vừa mừng vừa lo ghé vào bên giường: "Phụ vương tỉnh rồi. Thái y nói người bị suy nhược cơ thể nghiêm trọng nên Tứ thúc bảo ngày mai người không cần dự lễ đâu, xin phụ vương an tâm giữ gìn sức khỏe, cứ để bọn con lo liệu."

"Thiên tử đã lệnh cho ta và Thái tử thay ngài tận hiếu, sao ta không có mặt trong lễ được?" Lưu Anh muốn dậy, Lưu Lăng đỡ sau lưng cho người ngồi lên dùng chút cháo loãng. Lót dạ xong, y lại nói ngày mai mình không thể vắng mặt, Lưu Cơ khuyên nhủ không được, khó hiểu chau mày: "Trước đó phụ vương đã dốc lòng tận tụy chăm sóc đức ông rồi, sao bây giờ người còn phải gắng gượng quá sức như vậy chứ?"

Lưu Anh nhìn con trai, cặp mắt y giờ khắc này trong suốt như gương, mép môi rướn lên nét cười cùng quẫn: "Sinh ra là con cái Thiên gia, chúng ta vốn đã mắc nợ thiên hạ. Thiên hạ nhìn vào chúng ta, bàn về chúng ta, học hỏi chúng ta, kỳ vọng chúng ta trở thành bậc thánh nhân trí sáng đức hiền, ban ân giáng phúc, thu phục bốn phương. Cho dù bản thân ta có bất cam đến cỡ nào, ta cũng phải nhịn xuống; cho dù có gian nan thế nào, ta cũng không được để lộ ra. Thiên hạ cung phụng chúng ta, cũng đòi hỏi chúng ta trả cho thiên hạ những vị thánh nhân như thế..."

Chợt mắt ướt nhòe, y nghiêng mặt đi để các con không trông thấy vẻ khó coi, gằn giọng nói tiếp: "Bệ hạ ban phong hiệu cho ta là Văn Tuyên, ngụ ý rằng: 'Lời nói và hành động quang minh chính đại, để lại nhân đức cho đời sau'. Bệ hạ có ân huệ vô cùng vô tận với ta, làm sao ta có thể phụ ngài?"

Hai con trai của y cũng rưng rưng ánh lệ. Lưu Cơ mím môi cố kìm nước mắt, còn Lưu Lăng thì đã bắt đầu khóc, sau đó thình lình quỳ xuống nói: "Thế còn bọn con thì sao? Phụ vương tận hiếu, chẳng nhẽ lại nỡ lòng để bọn con giương mắt nhìn phụ vương chịu khổ? Cái hiếu của phụ vương muôn người đã thấy, nhẽ nào người lại không đoái hoài đến cái hiếu của bọn con?"

"Lăng Nhi!" Lưu Cơ thốt lên: "Đệ đừng làm khổ người nữa!"

Lưu Lăng nức nở lau mạnh mắt, bất đồ chạy ra ngoài. Cơ toan đuổi theo em nhưng cha giữ lấy cậu, lắc đầu, sau đó nói: "Thời Nghiêu Thuấn có Hứa Do sống ẩn dật ở núi Cơ, khi vua định truyền ngôi cho Hứa thì Hứa xin thôi, ra sông mà rửa tai* cho sạch. Tên con được lấy từ chữ Cơ này, ta luôn mong đời này mình có thể tận lực hoàn trả ân vua, để mai sau con được sống cuộc đời thanh tĩnh như đức Hứa."

* Điển tích "Rửa tai": truyền thuyết kể rằng vua Nghiêu nghe biết Hứa Do là người hiền, cố ý vời ông lại để truyền ngôi nhưng Hứa Do từ chối, sau đó ra sông rửa tai (vì chót nghe vua nói muốn nhường ngôi cho mình). Núi Cơ, sông Dĩnh được cho là nơi Hứa Do sống đời ẩn dật.

Lưu Cơ nén lệ, gật đầu thề: "Con nhất định sẽ không phụ lòng người đâu!"

Lưu Anh hướng mắt ra ngoài, thở dài: "Đi tìm em con về, đừng để nó làm gì thất lễ."

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip