Chương 30. Tuyệt cú*
* Tất cả các câu đối trong chương đều thuộc về tác giả.
Vì bất hòa với trưởng bối nên năm đó Lý Ức ở lại kinh khá lâu. Thời ấy trong kinh có một văn đàn do Văn Tuyên vương mở ra tên là Thi xã Lâm An. Cứ độ qua Tết Thượng Tị, thi xã sẽ tụ họp các tao nhân mặc khách uống trà đàm đạo, ngâm vịnh đề thơ. Nhà họ Lý ngụ trong kinh cũng được mời, do có người không may ngã ngựa vào chút chót nên họ bảo Lý Ức đi thay. Vốn Lý Ức không thích tiệc xã giao, song y nghe nói Văn Tuyên là người nhân đức nên mới bằng lòng.
Hôm tiệc Lý Ức ngồi với anh em họ, cỗ bàn gần với chủ tọa. Văn Tuyên và Tương vương cùng chủ trì thi xã. Người Lý thị giới thiệu: "Trong số anh em, anh này đứng hàng thứ năm nên điện hạ cứ gọi là Ngũ lang."
Lưu Thục tương tư đã lâu, hôm nay hội ngộ, khó tránh khỏi hồn xuân chao đảo, tình tứ đầy lòng, lấy lời hàm ý đưa ra vế đối: "Dặm liễu sương sa, bốn phương xe hương ngựa báu cùng chung bước."
Lý Ức đối lại rằng: "Đào lý du xuân, mười dặm vương công khách nhã lại trùng phùng(1)."
(1) "Dặm liễu sương sa" (đường dài xa xôi) kết hợp với cụm "cùng chung bước" ngầm gợi nhắc chuyện hai người từng gặp nhau trên đường. Lý Ức lấy "đào lý du xuân" dựa trên điển cố của Địch Nhân Kiệt đời Đường – "đào lý" ám chỉ người có tài văn chương, vì vậy, "đào lý du xuân" tả thực cảnh họp thi xã, tại đây bọn họ "lại trùng phùng".
Thấy y đối đáp hay, Tương vương mừng rỡ rót rượu bồ đào tiến cống cho Lương Tiễn bưng xuống chỗ y. Lưu Anh cười nhìn Thục: "Chờ cái gì? Còn không mau giải thích, rõ ràng các người biết nhau từ trước rồi!"
Lưu Thục bèn kể ra mối duyên bọn họ đi chung đường và bầu bạn thế nào. Lưu Anh lắng nghe, không khỏi cảm khái: "Muôn dặm đất đai, đời người được mấy buổi tao ngộ đáng giá như thế?" Rồi bảo Lý Ức, "Chắc hẳn Ngũ lang không có nhiều cơ hội lên kinh, vì là lần đầu tham dự thi xã, ta mệnh cho anh làm một bài, không giới hạn thể loại và hạn vận, không cần căng thẳng, chỉ để ra mắt các bạn văn chương tại đây."
Nội thị trải giấy mài mực, đỡ khách tiến lên phục mệnh đức vương. Lý Ức nghĩ chẳng mấy lâu, nhúng bút viết láu một bài tuyệt cú:
"Đầy chén dạ, ngát rượu bồ đào.
Chưa kịp nhắp, tỳ bà giục đi.
Cười chi người say nơi chiến địa,
Xưa nay chinh chiến mấy kẻ về*?"
* Nguyên là "Lương Châu từ" của Vương Hàn.
Quan khách rào rào vỗ tay tán thưởng. Lưu Anh phải đứng dậy ngợi khen: "Bài này hay quá, nghe mà cảm được cái tình của lính đồn thú biên thùy! Nhưng Ngũ lang là công tử trâm anh, cảm hứng từ đâu mà viết được bài này?"
Lý Ức đáp: "Năm kia thần có dịp ra Bắc, đi ngang qua thành quách bị quân Ngụy tàn phá, nghe người ta kể xác rữa chất đống, máu chảy thành sông, đời sống nhân dân lầm than cơ cực. Trong lòng thần đau đớn, dồn nén bấy lâu, hôm nay bỗng nếm được rượu nho Tây Vực tiến cống, bất giác hồi tưởng, xuất thần ra thơ."
Ở những năm này, sự kiện "Ngụy vương chiếm đất" là tâm bệnh của Thiên tử và chư thần, nghe y vô tình nhắc đến, Văn Tuyên vương biến sắc, lập tức dẫn dụ sự chú ý của quan khách sang chủ đề khác.
Ngồi lâu, Lý Ức thấy hơi mệt nên vào buồng nghỉ. Y đang nằm trên kỷ thì có tiếng gõ cửa, đối phương vồn vã nói: "Là ta."
"Điện hạ." Lý Ức định dậy, Lưu Thục nói ngay: "Miễn lễ, miễn lễ. Ở đây không có người ngoài, Ngũ lang không cần câu nệ, cứ gọi ta là Ấu Đạo."
"Thần quen Ấu Đạo lúc chưa biết Tương vương, nay đã biết Tương vương, làm sao còn gọi Ấu Đạo?" Dù nói thế, y vẫn cứ nằm thưa chuyện với đức vương, càng lộ ra vẻ 'xương như băng mỏng, khí như trăng thu'.
Lưu Thục đáp: "Nước Nhược* vẫn chảy, Ấu Đạo vẫn nhớ Ngũ lang, chẳng lẽ Ngũ lang lại quên Ấu Đạo?" Nói rồi ra hiệu cho Lương Tiễn chuyển món đồ từ tay nội thị đến.
* Một con sông thần thoại ở Tây Vực, chảy quanh chân núi Bồng Lai, nước sông không nâng nổi một cọng lông nên tàu thuyền đi qua đều đắm cả. Nói đến "nước Nhược" là nói đến những gì trong sạch và nguyên sơ.
"Nếu Ngũ lang không tin thì hãy xem." Tương vương cầm tay Lý Ức đặt lên ống tiêu: "Kể từ ngày chia tay, ta luôn mang theo ống tiêu mà chúng ta từng hợp tấu. Đến cả dây đeo cũng chưa từng thay đổi."
Lý Ức chau mày tránh khỏi tay đối phương: "Điện hạ, năm ngoái vì không biết ngài là Tương vương nên tôi đã nhiều lần thất lễ. Nay thân phận chúng ta đã khác: ngài là nòi rồng giống phượng, tôi là áo vải thường dân, người trên kẻ dưới nên lấy lễ nghi làm đầu."
Lưu Thục vừa nhớ vừa mong y đã bấy lâu, cầm lòng chẳng đặng đáp lại: "Ngũ lang không cần nói thế. Hôm nay hội ngộ, ta thấy Ngũ lang càng thêm phong độ ngời ngời, thanh tân phóng khoáng, tựa như thần tiên trên đỉnh Vu Sơn*. Tích xưa có Tiêu lang* thổi sáo làm chim phượng bay múa, thế mới thấy rồng phượng cũng muốn gần gũi với thần tiên..."
* Ở đây lồng ghép hai điển tích: Một là tích Sở Tương vương từng ân ái với thần nữ Vu Sơn, mà Lưu Thục và vua Sở đều có chữ "Tương" trong tước hiệu; Thứ hai là tích Tiêu Sở thổi sáo hay đến nỗi chim phượng bay đến, Lưu Thục dùng "rồng phượng" để nói về bản thân, còn "thần tiên" (ứng với tích Vu Sơn) để khêu gợi Lý Ức.
Tục ngữ nói: 'Lắm tài thì nhiều tật', mà tật xấu của Lý Ức ắt là tính nóng như Trương Phi. Nghe phải lời sỗ sàng cỡ này, y giận quá hất đổ chén trà trên bàn, chẳng màng lễ nghĩa vùng dậy gằn tiếng: "Ngày hôm nay điện hạ nhất định phải phá hủy danh dự của tôi sao?"
Chuyện sau đó không cần phải kể rõ. Lưu Thục buồn rầu bỏ đi, Lưu Anh ngờ vực nên gạn hỏi hắn tường tận.
Bấy giờ gần bên Tương vương có một nội thị tên An Cống, hôm đó đã đem ống tiêu đến cho Lương Tiễn. Tại tiệc hoa quế cùng năm, An Cống và nội thần bên Mục vương xảy ra xô xát, bị đối phương đánh cho ngã nhào bất động. Nội thần của Mục vương biết mình gây họa, âm thầm xin ý kiến chủ. Vốn là người hà khắc, Lưu Đán không hề hỏi lại Nhị đệ, lệnh chúng cứ tùy nghi giải quyết. Sau khi biết chuyện, Lưu Thục rất giận anh Cả tự tiện, nhưng cũng chỉ đành dĩ hòa vi quý cho êm chuyện.
Thời điểm đó còn là cột mốc sôi nổi của chính sách thuế mới nhằm hạn chế người Tây Dương, lúc này Trương Trọng Quyền tại chức ở Thương bộ ty*, trực tiếp dưới quyền Trần Biểu. Mối quan hệ giữa Hoàng hậu và Quý phi nhờ đó mà nên thân mật, Mục vương càng có thế trên triều đình.
* Cơ quan trực thuộc bộ Hộ, quản lý tô thuế.
Trung cung có chứng phong thấp, cứ trở trời là sẽ đau. Đầu xuân, vì đức bà bị đau nhiều nên Tương vương thỉnh chỉ vào cung để hầu bệnh. Bấy giờ vùng ven kinh kỳ có một lũ hung đồ bất bình với chính sách tô thuế nên tụ tập gồm hơn bốn trăm tên gây rối trật tự, Yên vương lĩnh chỉ phái đi chiêu hàng. Rạng sáng cửa cung mở sớm, Lưu Thục bị đánh thức, hay tin Đổng công tử trọng thương, đang nằm ở Thái Y viện.
Đức vương vội vã đến thăm. Lưu Trang đang ngồi ở ngoài thay thuốc, còn Đổng Húc thì được cứu chữa ở bên trong. Lưu Thục thấy vết chém trên cánh tay em mà phát sợ: "Không phải đệ đi thuyết phục bọn cướp ư? Sao lại thành ra nông nỗi này?"
Lưu Trang đanh mặt khoát tay: "Huynh suốt ngày ở trong cung, chẳng biết gì cả. Dù là giặc giã hay trộm cướp, hễ động đến binh đao thì đều thành một đám đầu trâu máu liều, chỉ biết đâm chém lung tung chứ nói năng được gì!"
"Vậy còn Đổng Húc ra sao rồi?" Lưu Thục định vào trong xem nhưng bị Tam đệ kéo lại: "Ta chỉ bị thương ngoài da mà huynh đã sợ đến thế này, nhìn thấy Chiêu Nhuận trong kia không khéo huynh chết ngất mất."
Lưu Thục càng sợ: "Chỗ ta có mấy lạng nhân sâm và đương quy tốt, ta sẽ đem ngay cho Đổng công tử dùng!"
Ngay lúc ấy có mấy tiếng kêu kinh hãi, đích tử bất ngờ chạy vào. Tương vương quát khẽ: "Đệ không được vào đây! Mau đi ra ngoài!"
Sắc mặt Lưu Dung hơi tái nhưng vẫn đứng nguyên. Lưu Thục nhanh chóng dẫn y ra, khiển trách: "Ai cho đệ đến đây? Nơi này không sạch sẽ, có biết không?"
Đích tử im lặng, hẳn là đang lấy lại bình tĩnh sau quang cảnh vừa rồi. Y nắm tay anh, cúi đầu đạp bước dưới hàng tán hòe dọc con đường, mặt trời dần mọc, chiếu sáng đụn tuyết trên chạc cây trắng xóa như gương bạc. Một lúc sau, y cất tiếng: "Trời còn chưa sáng huynh đã chạy ra khỏi cung, đệ nghe bảo Tam ca về, cứ tưởng huynh ấy bị làm sao..."
"Nó có bị sao cũng không tới lượt đệ đến xem. Giả như nó nằm trong màn thì đệ làm được gì? Ngồi gảy đàn cổ vũ tinh thần cho nó à?"
Đức vương nói tiếp: "Thân cư Thiên gia, nhất cử nhất động đều sẽ bị người đời để ý. Hôm nay đệ chạy vào đó, người hiểu biết sẽ nói: 'Chẳng qua là có lòng quan tâm huynh đệ', còn kẻ tối dạ lại nói: 'Thân là con đẻ của quốc mẫu mà chẳng biết giữ gìn, không biết đâu là nơi nên đến, đâu là nơi không được đến'. Việc này là nhỏ, chứ đụng phải việc lớn tất sẽ làm ngôn quan có lời tiến tấu, làm phiền lòng mẫu hậu. Đệ còn khờ dại, không khỏi quên mất quy tắc nhưng chẳng lẽ người hầu lại không nhắc nhở?"
"Là đệ khăng khăng muốn đến, bọn họ không dám trái lời."
"Lời của chúng ta không phải lúc nào cũng đúng, chính vì vậy, người biết khuyên can chúng ta luôn tốt hơn những kẻ chiều lòng chúng ta. Hôm nay chúng để đệ chạy vào Thái Y viện, ngày mai, ngày mốt chúng sẽ để đệ chạy vào điện Cần Chính, Chính Sự đường. Một khi lôi đình trút xuống, ai dám thở mạnh? Giả như phụ hoàng không trách tội thì làm sao xoa dịu ngôn quan ngự sử? Bọn họ chín người mười ý, lý lẽ sôi trào, tất thảy đều muốn lôi ra nguồn gốc tội lỗi. Cái lưỡi của họ bén như dao, vươn xuống không đặng, mà vươn lên không tới, dù vậy những mũi dao đó cứ ngày ngày đêm đêm chìa ra trước mặt đệ, dùng 'di huấn thánh nhân' để ép buộc đệ phải đi vào khuôn khổ mới thôi."
Lưu Thục thở dài vuốt tóc em: "Thân cư Thiên gia, những thích ghét mừng giận người thường có thể tùy ý biểu lộ ra, còn chúng ta thì không được như vậy. Chúng ta phải thuận theo ý thần dân mà buồn vui, thậm chí nhìn lên mưa nắng của Trời mà trai giới khắc khổ... Chúng ta thích ai thì càng không nên thể hiện ra. Sự sủng ái của chúng ta tất sẽ khơi dậy sóng gió, đưa người ấy trở thành cái đích cho chư thần chỉ trích, sau đó minh thương ám tiễn sẽ nối đuôi kéo đến, thành ra lại hại họ..."
Lưu Dung cau mày suy tư rồi hỏi: "Giống như chuyện mẫu hậu thích mẫu đơn anh ạ?"
Tương vương hơi ngạc nhiên, sau đó đáp: "Ừm... có thể hiểu là vậy."
.
Ba ngày sau, Đổng Húc qua cơn nguy khốn. Do Lưu Trang cần y để thẩm tra lời khai của bọn cướp nên sắp xếp cho y tĩnh dưỡng ngay trong cung. Lúc Tương vương đến thăm, Đổng Húc đang dựa trên kỷ ngắm một con dao Ba Tư, hoa thược dược bay tới phủ đầy tay áo, đầu tóc sực những mùi thơm.
"Nếu thay con dao thành chén rượu thì chúng ta đã có một bức 'Dương Quý phi say rượu' ở ngay phía trước rồi!" Đức vương cảm khái.
Đổng Húc ngồi dậy cười: "Tôi nghe ai nói quàng xiên đằng sau lưng mình đấy? Nếu có gan thì sang đây đọ mồm mép với tôi nào."
Lưu Thục cũng cười: "Xem cái giọng điệu ngoa ngoắt kìa. Nó đi chọc người khác thì được chứ bị nói lại thì liền giãy lên như con trâu điên ấy. Ta phải cẩn thận, không khéo bị húc mất!" Đoạn tiến lại cầm con dao lên xem. Húc nói: "Bén lắm, điện hạ cẩn thận."
"Tinh xảo thật, là đồ trang trí à?"
"Dùng được lắm. Đâm, chém, cắt, xẻ, cứa, hay gọt hoa quả đều ngọt." Chiêu lang chỉ vào mình: "Đâm xuyên giáp được luôn."
"Thế ra ngươi bị thứ này lụi trúng đó hả?" Tương vương ngạc nhiên.
Bọn họ đương nói thì Mục vương đến. Lưu Đán hỏi thăm rồi bảo: "Tháng sau trong dinh mở tiệc 'tiễn xuân', ta đã mời hai gánh hát, đến hôm đó sẽ dựng một rạp ở hậu viện để thết chúng nữ quyến, một rạp ở tiền sảnh thết đám đàn ông. Kể từ mùa thu năm ngoái chúng ta chưa tụ tập thêm lần nào, dịp này ta muốn các anh em đến giải khuây một bữa."
Đổng Húc tỏ vẻ tiếc nuối: "Ai cũng biết tôi thích tụ tập nhưng xem tình hình thì Yên điện hạ khó mà rỗi được. Đại điện hạ cứ cho phép chúng tôi kiếu trước vậy."
Lưu Đán nghe vậy hừ cười: "Ta đang nói Lưu Trang, ngươi là gì mà trả lời thay cho nó? Riết rồi ở dinh Yên vương chẳng biết ai là chủ nữa." Nói đoạn quay sang Lưu Thục, "Lưu Trang thì có thể bận chứ đệ dám nói bận thử xem. Ta đang định hôm đó nhờ đệ viết cho đôi liễn tiễn xuân."
Lưu Thục đồng ý. Mục vương vỗ vai em, lại nhìn xuống Đổng Húc: "Ta chẳng biết khi nào Lưu Trang có thì giờ, ngươi ở trong cung thì khéo truyền lời của ta cho nó. Nếu nó không đi thì cũng không cần báo lại. Ta biết nó hăng hái hơn hẳn chúng ta, công trạng ở ngay trước mắt, bắt nó ngơi tay thì sợ người khác sẽ nói ta cố tình ngáng chân nó. Chờ phụ hoàng thưởng công rồi chúng ta đi đòi tiệc rượu cũng chưa muộn."
Đổng Húc vẫn mỉm cười, nhưng trong mắt chẳng thấy vui vẻ, đợi Mục vương đi khuất rồi y mới lầm bầm: "Âm dương quái khí, có gan thì nói thẳng ra..."
Lưu Thục lừ mắt: "Đúng là huynh ấy hẹp hòi nhưng Lưu Trang cũng có lỗi. Lúc tiến cung nó không dò hỏi trước, xen vào đúng lúc phụ hoàng đang nghị sự với Đại ca, thế là vô ý đoạt luôn cả phần việc mà huynh ấy đã dày công xếp đặt. Đại ca nhịn được mới là lạ. Huynh ấy nói mát mấy câu cho bõ tức đấy thôi, ngươi còn dám oán thầm?"
Húc cười nhạt: "Tôi không oán mới là lạ! Ngài xem chúng tôi tuy lập công nhưng có sung sướng gì? Tôi thì bị thương nằm một đống, còn Yên điện hạ vừa đắc tội với Mục điện hạ vừa rước lấy việc nhọc thân, trong khi đáng lẽ bây giờ ngài ấy nên ở trong dinh nghỉ ngơi ăn Tết. Sớm biết có công trạng kiểu này thì ngược về ngày đó tôi liều chết cũng phải ôm chân Yên điện hạ nấp trong nhà, nhường đám cướp cạn cho Mục điện hạ lo tất!"
Nói rồi chán nản nằm vật xuống kỷ. Tương vương vốn yếu lòng trước người đẹp, thở dài ra dấu cho nội thị lấy áo choàng đến, tự tay đắp cho Chiêu lang: "Bây giờ oán hận có ích gì? Lưu Trang phải lo cho xong vụ này mới không phụ ơn mưa móc. Về phía Đại ca, ta sẽ lựa lời khuyên giải huynh ấy xem sao."
Đổng Húc xoay lại: "Thôi thôi, Tương điện hạ đừng nên thì hơn. Ngài xương yếu lòng mềm, nói sao lại miệng lưỡi cay nghiệt của Mục vương?"
Y nhặt một bông thược dược đặt vào tay Tương vương: "Thời gian này ngài cũng vất vả hầu bệnh trung cung. Tôi và ngài gặp nhau thì cứ như hai cái ấm sắc thuốc* va chạm phát ra tiếng 'leng keng' ấy. Tôi nhớ ông Tô Đông Pha có câu: 'Anh đào thược dược rải đầy đất, tóc bạc giường thiền đều lỡ làng*' nên là ngài không cần bận tâm thay chúng tôi đâu."
* Nói người hay bệnh, thường xuyên uống thuốc.
Bài "Họa Tử Do 'Tống Xuân'" của Tô Thức. Tử Do là tên tự của Tô Triệt, em ruột Tô Thức. Tô Thức mượn cảnh xuân đang qua đi để nói lên sự buông bỏ của ông đối với hoạn lộ. Còn Đổng Húc thì khuyên Lưu Thục đừng nói vì Lưu Đán sẽ chẳng nghe.
Đến ngày tiễn xuân, Tương vương đúng hẹn đến chơi, bấy giờ trong dinh Mục vương vừa dâng lễ cúng như trong Lễ Ký chép: 'Mỗi năm cúng bốn lần, vào lúc chuyển mùa để tưởng nhớ cảnh sắp qua đi'. Lưu Thục nhúng bút viết đôi câu đối tặng Đại ca:
"Gió quạt đưa hương, yến oanh tỉnh rượu tủi hổ tình Xuân;
Chuông khánh vọng lại, khanh tướng khiêm mình nghe tiếng sấm Hạ(2)."
(2) "Yến oanh" chỉ người con gái, "gió quạt" tả chiếc quạt tròn mà con gái hay cầm. "Chuông khánh" là nhạc cụ trong việc tế lễ, "tiếng sấm" tức tiếng vua.
Hai câu này vừa nhã nhặn vừa trang trọng. Lưu Đán vừa lòng cầm tay em dắt vào tiệc: "Vẫn là Ấu Đạo hiểu ta. Viết hay lắm!"
Do là tiệc nhà, phần lớn tân khách là con em Trương thị, Trần thị và đám đàn ông thông gia với Mục vương. Lưu Thục đang hỏi thăm bọn họ thì có con hát cầm hốt* đến mời chọn vở diễn. Người này mày mắt có duyên, khổ người mềm mại, trên búi tóc cài một bông hoa lựu. Lưu Đán nhận thấy Thục thường liếc nhìn kép hát kia, biết 'bệnh cũ*' của em tái phát, bèn ra dấu cho kép hát sang đó hầu rượu.
* Thời xưa, người ta viết tên vở diễn khán giả chọn lên cái hốt.
Tức "bệnh Long Dương".
Lưu Thục cầm chén rượu, hỏi nó tên gì. Nó nói nó họ Vương, lấy tên tự là Nguyệt Quan. Đức vương bèn sai nó ném tiền thưởng cho lũ con hát. Nguyệt Quan hẳn là một đứa dày dặn kinh nghiệm, giơ tay nhấc chân rất ư là nhàn nhã, động tác ném bắt nom rất là thích mắt.
Đang khi Lưu Thục uống đã ngà ngà, nghiêng đầu thì thầm nói chuyện với Nguyệt Quan. Bất chợt có tiếng vỡ đồ, ai đó la lên: "Ngũ lang! Không sao chứ?"
Tương vương choáng người, kinh ngạc nhìn trừng trừng phía đó. Lý Ức đi theo đầy tớ vào thay áo, Thục vẫn còn sững sờ nhìn theo, Nguyệt Quan gọi mãi mới hoàn hồn. Bấm bụng ngồi rốn thêm một lúc, rốt cuộc hắn vẫn bịn rịn người kia, bèn viện cớ đi vào nhà khách.
Bước chân Tương vương rảo như bay, Lương Tiễn và các cung tì đuổi theo. Kiến trúc của nhà khách thông ra hai cánh vườn qua cửa biên chạm hoa, đoán chừng đức vương thấy nhà Đông ồn ào nên rẽ qua nhà Tây tìm kiếm, quả thật đâu đó trên khúc hành lang, bọn họ nghe thấy tiếng nhạc rì rầm. Lưu Thục ra hiệu cho một mình Lương Tiễn đi theo. Hai chủ tớ se sẽ tiến lại khúc quành ngó ra, ở dưới hiên có mấy con hát búi quả đào, mặc áo xanh, tuổi không lớn hơn đích tử Dung, xúm quanh Lý Ức.
Y đã thay áo, dùng một cây đàn ngắn không biết mượn của đứa trẻ nào để minh họa các ngón gảy đàn. Chuyển động các ngón tay y đẹp vô cùng, từ móc, gạt, bật, đè, vuốt, chụm, thu vào, lướt dây, bật liên tục... được triển khai lưu loát như nước chảy mây trôi. Nói xong, y đưa đàn cho một đứa trẻ. Nó cố gắng bắt chước dáng vẻ của y, song vai lưng cứng nhắc khiến cho ngón đàn thô ráp, âm thanh lủng củng, chọc chúng bạn cười ầm lên. Nó xấu hổ quá, bật dậy chạy về phía Lưu Thục đang nấp.
Thấy người lạ, nó sợ hãi kêu lớn tiếng, bọn trẻ còn lại nháo nhào bỏ chạy. Lúc này Lưu Thục bước ra khỏi khúc quành. Trong một lúc, không ai hé răng trước, sau đó Lý Ức khẽ hỏi: "Tương vương điện hạ?"
"Làm sao Ngũ lang nhận ra là ta?"
"Nhờ tiếng bước chân. Vả lại, ngự hương của điện hạ thường pha thêm cam tùng và hồi hương, mùi rất ấm." Lý Ức toan hành lễ nhưng Tương vương vội nói 'bình thân', rồi nao nao hỏi: "Hôm nay Ngũ lang có mặt, vì sao không đến chào ta một tiếng?"
"Thật đúng là phía tôi bất cẩn, trước khi đi không kiểm tra kỹ, giữa đường bánh xe bị trật, sửa mãi mới chạy tiếp được. Lúc tôi đến thì khách đã vào tiệc, rạp hát đã diễn nên không tiện đi chào ai."
Lưu Thục hỏi lại: "Chứ không phải vì lời ta đã nói?"
Lý Ức cúi đầu lướt ngón tay trên dây đàn, đại khái có những lời không thể nói quá thẳng, lúc sau y mới thì thầm: "Tri âm nói cho tri âm nghe, không phải tri âm thì gảy đàn làm gì*? Cổ nhân có câu: 'Vành vạnh trăng treo, bao giờ có được?*' chẳng phải là đang nói về tôi và ngài sao?"
* Ngạn ngữ cổ.
Từ "Đoản ca hành kỳ 02" của Tào Tháo, nguyên là để tỏ lòng ái mộ nhân tài. Ở đây, Lý Ức cho rằng Lưu Thục đang nhầm lẫn lòng "mến tài" của y thành mến y.
Nghe lời ấy, Lưu Thục chẳng mừng cũng chẳng giận, chỉ thở dài một tiếng giơ tay áo che đi biểu cảm có thể phản bội ngữ khí bình tĩnh của mình: "Nếu Ngũ lang đã cho là vậy, chẳng bằng lựa ngày đẹp trời đến dinh ta làm khách, cùng ta xướng họa chuyền chén, hòa nhịp cầm tiêu..."
Mấy ngày sau, Lý Ức giữ lời đến dinh làm bạn với Tương vương. Đang khi hai người bình phẩm thi từ thì nội thần trưởng quản dẫn theo một nam tử trẻ tuổi đến bái kiến: "Mục điện hạ sai người đưa anh này đến, nói rằng ngài ấy tạ lỗi với điện hạ chuyện xảy ra vào mùa thu năm ngoái ạ."
Lưu Thục nhớ ngay đến vụ việc An Cống chết oan, đưa mắt nhìn đứa trai kia, mất một lúc mới nhận ra: "Ngươi là Vương Nguyệt Quan?"
Nó đáp: "Tạ điện hạ nhớ tên nô."
Tương vương không nhìn lâu, phẩy tay với nội thần: "Sắp xếp cho nó rồi đưa lễ đến dinh Mục vương theo thông lệ."
Bọn họ đi rồi Lý Ức mới lên tiếng hỏi, Lưu Thục kể hết không giấu giếm gì y: "Nếu ta từ chối huynh ấy thì hóa ra ta lại trở thành kẻ nhỏ nhen sao?"
Lần khác, Yên vương sai Đổng Húc đến bái tạ Tương vương về chuyện tặng thuốc bổ. Lúc này đức vương và Ngũ lang đang đàm đạo trên gác. Đổng Húc tiến vào, thấy Lý Ức ngồi trên sập, nhưng không biết là ai. Lưu Thục cầm một tấm thiếp vẫy Húc tiến lại xem. Y hành lễ rồi đọc:
"Tiếng thu dậy đất, trọn chữ 'trinh' vẫn hiềm mối quan hoài;
Tay cung đứt đoạn, vùi xương trắng mà bất toại lòng trung(3)."
Đổng Húc liền khen: "Câu từ thật hào hùng lâm li! Diệu nhất là ở cặp tiếng 'hiềm' đối với 'bất toại' như nuốt mật đắng mà viết ra! Đây không phải chữ của điện hạ, vậy hẳn là của vị công tử này?"
Lưu Thục cười bảo: "Ngươi nằm dưỡng thương lâu quá nên lẩn thẩn luôn rồi à? Nhìn kỹ lại xem."
Đổng Húc nhìn lại rồi kêu 'ái chà': "Thì ra là thiếp tiến vua của chư thần! Rõ ràng có ghi tên mà mắt mũi tôi để đâu. Chủ khách thanh lại ty Lang trung, Tứ Dịch quán* Toản tu Từ Cẩn An... tôi không biết người này."
* Vào thời Minh, Tứ Dịch quán trực thuộc bộ Lễ, có chức năng nghiên cứu chuyên sâu lịch sử và văn hóa ngoại quốc để phục vụ cho việc giảng dạy và đào đạo các phiên dịch viên cùng quan chức ngoại giao. Toản tu là chức quan biên soạn nội dung.
Chủ khách thanh lại ti (bộ Lễ) phụ trách việc tiếp rước công sứ ngoại quốc.
Hằng năm vào các dịp lễ, chư thần sẽ dâng thiếp thơ liễn mừng cho hoàng thân quốc thích thưởng lãm. Thiếp của Từ Diễm được viết từ tận mùa thu năm ngoái. Tương vương rảnh rỗi ghé Thư cục tìm đọc, thấy đáng ngẫm nên mượn về.
Tương vương nói: "Theo ta thấy, ý của thiếp này hay thì hay thực nhưng dùng từ ngữ nặng nề quá, hai tiếng 'hiềm' và 'bất toại' quá sắc lạnh, đọc lên mà như nếm được vị sắt trên môi(3)."
(3) Vế đầu viết về Chiêu Hòa, vế sau về Lý Đông Đình. "Hiềm" tức là ôm hận; "bất toại" nghĩa là chưa thỏa mãn được (chí nguyện). "Tiếng thu" lấy ý từ "Thu thanh phú" của Âu Dương Tu đời Tống, có nghĩa là tiếng binh đao, trận mạc. "Tay cung đứt đoạn" nói đến việc chúa Ngụy chặt tay Lý Đông Đình.
Húc cười: "Tôi lại thấy viết vậy mới hay. Điện hạ đừng trách tôi nói thật, văn chương của các vị tuy hoa mỹ ưu thương nhưng thường vận dụng vòng vo, xa lìa thực tế, nói nặng chính là 'không bệnh mà rên'. Riêng về điều này thì Từ Lang trung hơn hẳn các vị."
Tương vương lắc đầu đặt thiếp xuống: "Ngươi chẳng hiểu gì cả, tục ngữ nói: 'Bĩ quá thì thái đến*, vinh hết thì ắt nhục', muôn sự trên đời đều không tránh khỏi quy luật này. Văn chương đâu chỉ là về chữ nghĩa câu cú, nó là cái hồn, cái khí, cái vận, cái hạn của người ta. Bởi vậy, kẻ mê không hiểu được đạo thiền*, người tục không viết được văn hay. Từ Lang trung ở vị trí thấp bé mà đã có thể viết ra câu từ dường ấy thì tương lai ắt phải đương đầu với nhiều gian truân."
* "Bĩ cực thái lai": cái khó qua thì điều thuận lợi đến.
Triết lý nhà Phật.
Đổng Húc cười cười tỏ vẻ thụ giáo.
Bấy giờ Lý Ức lên tiếng: "Văn của điện hạ phiên nhiên tự tại, vô vi nhi trị*, ấy là vì lòng điện hạ thoát khỏi cõi tục, tìm kiếm đào nguyên. Nếu câu từ của người này không hợp thời thì điện hạ viết lại thế nào?"
* Chủ trương chính trị của Đạo gia, nôm na là gỡ bỏ sức ép của cường quyền, thuận theo ý dân để cai trị.
"Hiếm khi thấy Ngũ lang để tâm đến việc gì, Ngũ lang biết người này à?" Lưu Thục cười hỏi.
Lý Ức vén tay áo mài mực. Thục không gạn, trải giấy nhúng bút, ngẫm ngợi một lúc rồi viết láu hai câu. Đổng Húc thò đầu đọc:
"Xõa tóc mây quấn quanh sơn hà, đắp mộ xanh làm thành cột mốc;
Giương tay cung bắn đổ thành quách, vùi xương trắng chống đỡ ngôi cao(4)."
"Thánh nhân không câu nệ, theo đời mà biến thông(4)." Lý Ức thở dài nói: "Điện hạ dạy phải lắm."
(4) "Cột mốc" nói đến mốc biên giới giữa hai quốc gia (mộ của vợ chồng Chiêu Hòa "đánh dấu" vùng đất bị Ngụy chiếm). "Ngôi cao" có thể hiểu là ngôi mộ hoặc ngai vua.
Lời trong "Ngư phủ" của Khuất Nguyên, Đào Duy Anh dịch. Vì nhận ra cái lòng "uất hận" của Từ Diễm qua hai câu (3) nên Lưu Thục ngấm ngầm răn đe rằng: trên đầu có Thiên tử, ý vua chưa thuận thì kẻ làm bề tôi chớ nên nghĩ quá xa.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip