Chương 12: Trận Trong Trận

"Toàn thân anh rét run, vừa giận vừa sợ vì không dám tin mình vậy mà lại bị người ta bày mưu tính kế... từng bước từng bước gài vào "mê trận", bị chôn chặt trong đây."

Đoàn đưa tang lặng lẽ đi dọc con đường đất dẫn ra nghĩa trang làng.

Giấc này ở quê nhà nhà đều sập then cửa đi ngủ, chưa kể nhà họ Lê ở vùng ngoại ô biệt lập nên càng quạnh quẽ, đơn chiếc. Giờ đây già trẻ gái trai nhà bọn họ đều mặc trên người những bộ đồ tang mỏng như lá lúa bay phất phơ trong gió, đầu đeo khăn tang, đoàn người áo trắng nhích từng bước qua mấy cánh đồng đằng đẵng.

Chú ý đoàn đưa tang này, trẻ con thì đi vào giữa, người lớn đi bên ngoài, gắt gao nắm chặt tay con mình để tránh thất lạc. Gia đinh cầm đuốc hai người đi trước hai người đi sau. Gia đinh khiêng đồ làm lễ cúng thì chia nhau đi sau lưng mợ Cả đang ôm di ảnh, rất có quy củ. Quả là nhà đã chết nhiều người, chuyện ma chay rất chuẩn mực, có sợ mà không hề rối loạn. Cả đoàn tuyệt nhiên không dám phát ra âm thanh quá lớn, vừa đi vừa thấp thỏm như bước trên dây mỏng, sợ chọc trúng thứ xui xẻo.

Khiêng quan là bốn người thanh niên cường tráng lúc đầu hôm giúp Cẩm Ngọc đỡ quan tài xuống, giờ đây quỷ nhi được dẹp yên nên quan tài không còn nặng nề bất thường, bốn người đã dư sức khiêng rồi.

Cách chín bước lại thấy Cẩm Ngọc sột soạt hốt vàng mã rãi hai bên đường.

Vừa đi Cẩm Ngọc vừa kín đáo ngước nhìn những chạc cây đưa ra hai bên, ngoài những con dơi treo ngược ngủ trên cây ra, anh không thấy thằng quý tử nhà mình đâu cả. Thấy cha ra cũng không biết mừng, lần này không biết lại đi la cà ở đâu rồi.

Khi đến gần cổng làng thì con đường chia nhánh, trục đường chính đi thẳng về phía Đông, đoạn phụ rẽ nhánh sang trái. Chỉ cần đặt chân qua khỏi cổng làng thì sẽ sang địa phận của làng khác, còn con đường mòn bên trái được người ta phác cỏ rẽ lối chính là đường dẫn tới nghĩa trang trên sườn đồi, nhà họ Lê có một mảnh đất chôn riêng ở nơi đó.

Diễn Trinh vừa đi chôn đồ xong, bây giờ mới gấp gáp đuổi theo hội tụ cả đoàn. Bộ dạng thở phì phò của cô Tư Trinh thu hút ánh nhìn tò mò của mọi người, nhưng cô cũng không định giải trình, chỉ tiến lên truyền đạt lại gì đó rất kín kẽ cho "thầy Sinh" nghe.

Cẩm Ngọc gật đầu an ủi cô: "Cũng may cô không quay đầu hay trả lời họ."

"Tôi không biết nữa, lúc đó ruột gan tôi nảy lên hưng phấn muốn quay đầu lại coi ai gọi mình, tôi thấy bứt rứt trong người lắm, cũng may tôi đâm ghim băng vào tay, máu đổ ra mới tỉnh người." Giờ kể lại cô vẫn còn hoảng hốt run sợ, má lẫn môi tím tái như mới từ cõi chết trở về. Đừng nói là gặp quỷ, hôm nay cô không những gặp mà còn gặp đến tận hai lần, một lần bị chạm vào, còn một lần thì bị mê hoặc tinh thần.

Bao nhiêu năm đèn sách góp phần hình thành tam quan trước đó... qua sự việc lần này phải đập đi xây lại mất.

"Bởi vậy tôi mới dặn kĩ cô đừng quay lại hay trả lời. Làm những chuyện giao dịch với ma quỷ luôn luôn nguy hiểm. Cô thương con Trân mà hi sinh mình thì con Trân cũng thương cô, xem như tích đức."

"Dạ..." Cô Trinh mím môi trút tiếng thở dài, nhận lấy khăn tang và áo tang anh Hai đưa mặc vào, cũng nhanh chóng hòa vào dòng người trắng muốt tiến dần về phía ngã ba.

Bỗng tại ngã ba rẽ vào đường mòn, thấp thoáng có một bóng người tách khỏi đoàn, dáng người lom khom ôm bàng quang như muốn tìm chỗ xả nước trong lòng ra. Đó dường như là một lão gia đinh quản lí việc chặt củi ở nhà sau, hơi lớn tuổi, ông lão đi hẳn ra ngoài cổng làng, đứng sát mé bờ rào tre định tiểu tiện ngay tại đó.

Cẩm Ngọc thoáng nhíu mày, đẩy rổ vàng mã cho cô Trinh cầm còn bản thân tiến bước qua bên đó lên tiếng can ngăn ông lão: "Đêm hôm giờ Tý không nên đi tiểu tùy tiện, nhất là gần đất nghĩa địa."

Nhưng khi bước tới gần hơn, ánh đuốc từ gần đó hắt qua... thì ngay lúc này ông lão quay mặt lại nhìn anh.

Không có mắt!

Hốc mắt "người" này rỗng tuếch như hai cái hố sâu hút, nhìn mà kinh hãi! Cẩm Ngọc giật mình không nhẹ, lui lại vài bước trong khi "ông lão" kia vẫn giữ vẻ bình thản như thể chẳng có gì kì lạ. Trong lúc vẫy vẫy, một vài giọt nước tiểu khai ngáy còn văng lên mũi chân anh, anh nghe "người" đó cười: "Thầy mà cũng sợ ma sao thầy?"

Trong tích tắc, đầu óc anh nặng trịch đông đặc như bị dìm xuống nước sông lạnh lẽo, tiếng lửa cháy lách tách từ ngọn đuốc phía sau đột ngột ngưng bặt.

Anh quay đầu lại thấy đoàn người vẫn đi tiếp, không ai thấy ông lão cũng không ai chú ý anh, như thể hình ảnh đó chỉ mình Ngọc trông thấy thôi vậy. Nơi cõi lòng anh như có gió lớn quét ngang. Khi anh quay lại, nơi ông lão đứng chỉ còn lại một vạt cỏ đổ rạp xuống, ướt sũng nước tiểu, còn người đã hoàn toàn vắng bóng.

Thứ này... là người hay ma?

Chờ đã! Hiện tại trong vô thức anh đã bước ra ngoài địa phận của làng, không biết là tự khi nào.

Ngọc khẽ rùng mình. Trong lòng một nỗi nghi ngờ mơ hồ bắt đầu nhen lên. Có gì đó rất không đúng đang diễn ra!

Bảo sao từ khi bước chân tới địa phận gần nhà cô Trinh anh đã thấy lạ, rất nhiều biểu hiện giống như điềm báo cảnh cáo tới anh nhưng bị anh xem nhẹ mà phớt lờ đi. Chuyện này chưa vội kết luận, nhất định phải kiểm chứng lại. Toàn thân anh rét run, vừa giận vừa sợ vì không dám tin mình vậy mà lại bị người ta bày mưu tính kế... từng bước từng bước gài vào "mê trận", bị chôn chặt trong đây.

Đại loại anh có suy đoán rằng, dường như từ khi anh đến đây, có một loại pháp trận nào đó đã bắt đầu quay cuồng và kích hoạt. Hay nói cách khác, bản thân anh chính là điều kiện cuối cùng để xác lập sát trận, một khi trận đã động, phong thủy vây hãm, trừ khi phá được trận thì mới có thể sống ra khỏi làng. Vì thứ duy trì pháp trận cũng chính là sinh khí của kẻ bị giam trong trận.

Nhưng cái quan trọng là Cẩm Ngọc còn không biết thứ mình thực sự đang đối diện là gì.

Nếu là trận, vậy nó được hình thành từ yếu tố nào? Trên người anh có gì mà lại kích phát nó? Cô Trinh kia anh tin là cổ sẽ không hại anh, vì cổ cũng suýt chết nếu anh không ra tay cứu giúp. Chỉ có thể nói... ngoài bà Cả và cô Trinh thòm thèm chìa khóa ra, nhà họ Lê này phải có một bàn tay ẩn danh nữa cũng thọc vào ý đồ muốn tranh chấp!

Dẫu vậy, anh vẫn bước qua cổng quay trở lại làng, giờ đây mới nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc và tiếng đuốc cháy hừng hực, cô Trinh hỏi anh đang yên đang lành tự nhiên đi đâu qua bên đó, thần sắc mê man của Cẩm Ngọc làm cô hơi sợ. Nhưng anh không trả lời, mải suy nghĩ, cứ thế theo đoàn tiếp tục lên đường.

Nghĩa trang đã rất gần kề.

Có Cẩm Ngọc chỉ đạo, việc chôn cất bé Trân diễn ra rất suôn sẻ. Hàng loạt nấm mồ lấp xấp dựng lưng chừng triền đồi, ánh đuốc lay động trong cơn gió khuya tháng sáu, khiến cả đoàn đưa tang như một con rắn trắng lặng lẽ trườn tới. Chiếc quan tài nhỏ được đặt xuống huyệt trong tiếng tụng niệm khe khẽ.

Khi từng xẻng đất cuối cùng phủ kín mặt nắp quan thì cả nhà họ Lê ai cũng trút tiếng thở phào, Cẩm Ngọc không ngây thơ như họ. Anh biết cánh cửa này khép lại, một cánh cửa tự động khác lại được mở ra, là cửa lồng trong cửa, từ khi nhận ủy thác này thì khéo sao anh đã lọt vào "sát cục" rồi. Người đàn ông trầm mặc rũ mi, hơi thở nhè nhẹ như sương hắt ra, sau cùng chỉ có thể trấn tĩnh trở lại nghĩ đối sách tiếp theo.

***

Đêm đầu tiên trôi qua kinh hồn bạt vía.

Qua sáng ngày thứ hai ở Đông Phố, Cẩm Ngọc ngủ không yên, từ vài manh mối nhỏ đến cả kẻ đấu pháp gián tiếp với anh trong gương, cả đêm xâu chuỗi sự việc mà vẫn chưa tìm được điểm đột phá nào.

Anh biết không thể cứ nằm không chờ chết mà phải hành động, liền thay bộ áo dài trắng mới toanh, lại đội khăn vấn, tỉ mẩn cải trang thành Chung Sinh không chút sơ hở, ra sảnh gặp bà Cả Thi và bà cụ họ Lê. Tách trà rót ra chưa kịp uống, Cẩm Ngọc đã nói rõ ý định: "Tôi muốn ra xem phong thủy mộ phần ông cụ Lê Văn Giàu, cũng là cha chồng của bà."

Lê Văn Giàu là cha của Lê Văn Mải. Khác với ông cụ Giàu được đem đi chôn giữa tít hai ngọn núi để phục vụ mục đích phong thủy thì ông Mải khi mất được quyến thuộc chôn tại nghĩa trang gia tộc, cũng chính là nơi mới hồi hôm bọn họ vừa từ đó trở về.

Nghe vậy, bà cụ họ Lê gật đầu, nhưng bà Thi thì lại khác, sắc mặt thoáng biến đổi không được tự nhiên. Cái điệu bộ chực nói điều chi nhưng ánh mắt liếc sang mẹ chồng đang ngồi chống gậy bên mé bàn thờ như có điều kiêng kị ấy, Ngọc thu hết vào mắt. Lòng có điều khó nói, bà đành lấy mắt tích cực ra dấu với Cẩm Ngọc, kiểu như dặn dò: "Thầy hành sự cẩn thận."

Bụng Cẩm Ngọc đã hiểu, chắc trong cái giao kèo thầm kín giữa bà Thi với gã Chung Sinh có dính líu tới cái mả kia, cả cái chìa khóa cô Trinh nói cũng nằm trong đó.

May thay, lúc này thân phận anh vẫn chưa bị lộ nên bà Thi cứ tưởng anh là "thầy Sinh" thiệt, là một người đồng minh với bà. Ngọc giỏi nhất là giả mù sa mưa, quen nếp gặp người nói tiếng người gặp ma nói tiếng ma, anh đưa tay vuốt nhẹ cọng râu mép tỏ vẻ trầm tư rồi chớp nhẹ mắt một cái về phía bà Cả như ra hiệu: "Yên tâm đi, tôi biết nên làm gì."

Bà Cả Thi yên chí liền nói: "Thầy Sinh, giờ tôi sẽ gọi con Tư và con Út ra dẫn thầy đi, mới năm rồi hai đứa nó vừa đi viếng mộ nội, chắc hẳn còn nhớ đường."

Câu vừa dứt, bà vú áo tím hôm qua nay đã thay bộ nâu sồng, đứng chực nơi cửa vội chạy đi tìm hai cô chủ. Nhưng lúc này Ngọc chợt nhận ra bất thường, anh nheo mắt, khẽ nghiêng người tới gần hai người đàn bà, nghiêm trọng hỏi: "Bà cho tôi hỏi một tiếng "nhớ đường" đó nghĩa là sao? Mộ tổ tiên chôn cất đàng hoàng, lại nằm trong đất long mạch chỉ điểm, lẽ nào ngoài hai cô gái trẻ đó ra thì trong nhà chẳng còn ai biết đường vô hay sao?"

Bà Thi nghe hỏi thì môi hơi run, ánh mắt hằn vết chân chim của người đàn bà không giống đang nói dối, đáp: "Thưa thầy Sinh, chuyện đó cũng lạ lùng lắm. Năm đó cha chồng tôi mất gấp, trong nhà lục đục rối ren, theo nhiều thầy nên mỗi ông chỉ một ý, người thì bảo chôn nơi nghĩa trang gia tộc, người thì kêu chôn ngay trong vườn nhà, người thì nói phải đem lên giữa hai ngọn núi có long mạch để con cháu hưởng phước phần. Nhưng mà..." Bà Thi hơi nhìn qua mẹ chồng như hỏi ý kiến, được bà đồng ý thì mới nói tiếp: "Chôn chính xác ở đâu giữa hai ngọn núi thì nhà tôi thiệt tình không rõ."

Ngọc nhíu mày: "Bà là vợ, còn bà là dâu cả, chuyện hệ trọng này sao lại không rõ?"

Bà Cả Thi đưa mắt nhìn mẹ chồng, rồi hạ giọng: "Bởi vì cái mả của cha chồng tôi đó vốn không cho lập bia, cũng không đề tên tuổi gì. Lúc chôn thì cả nhà đi theo, nhưng đứng ở xa tít, chỉ có ông nhà tôi và mấy ông thầy phong thủy lo liệu, kêu là không cho lộ danh, có tên có tuổi e đụng chạm long mạch, phản tác dụng. Họ còn dặn ai tới mộ cũng không được khóc, không được xướng tên người chết."

Cẩm Ngọc nghe tới đây thì cõi lòng ngờ vực rối như tơ vò. Sao đi đến đâu cũng đụng sương mù vậy chứ?

Một ngôi mộ tổ tiên không lập bia, không đề tên, không để người thân rõ ràng vị trí, đây là chuyện rất không đúng nếu luận về âm phần. Những ông thầy phong thủy kia nghe kể coi bộ cao minh mà sao hành xử kì khôi vậy?

Một gia tộc quyền thế mà cả bà mẹ chồng cũng không biết chính xác nơi yên nghỉ của chồng mình? Con trai mê tín đến mất trí thì thôi đi, lẽ nào người làm mẹ cũng không ai can ngăn?

Anh lại hỏi tiếp theo thói quen nghề nghiệp, khái quát lời khách hàng: "Vậy cả nhà mấy người chỉ biết đại khái chôn ở hai ngọn núi chứ không biết chính xác là ở đâu sao?"

Bà Thi gật đầu, gượng nói: "Đúng vậy. Chỉ có chồng tôi là biết rõ. Mấy năm còn sống, cứ đến ngày giỗ ông cụ, ổng dắt tụi nhỏ và tôi đi lên núi cúng bái. Nhưng ổng không chỉ đích xác chỗ, có bữa lên đó cúng chỗ gốc chò, có bữa lại cúng dưới gò mối. Lúc thì nơi lùm cây mọc thành dáng lạ, lúc thì đặt mâm cúng trên tảng đá to bằng mặt phản. Tôi có hỏi thì ổng nói không nhất thiết phải đúng, miễn lòng thành là được."

Càng nghe càng thấy u u minh minh. Anh cười lạnh trong lòng, nếu anh mà là ông Lê Văn Giàu thì có chết cũng phải hiện về kéo giò mấy đứa con cháu bất hiếu này. Đến chút đạo lý thờ mẹ kính cha còn không biết mà đòi phù hộ làm ăn phất lên? Nghe thầy phong thủy xúi bậy liền làm theo, bất kính với cha mẹ, bất kính với người khuất mặt khuất mày, hai chuyện này tuyệt nhiên không thể tha thứ!

Bà Thi còn không hay anh nghĩ gì nên nói tiếp: "Còn con Tư với con gái Út tôi mấy năm nay hay đi cúng giỗ. Tới gần ngày là tụi nó khăn gói đi sớm, mỗi lần đi cúng về trong nhà tự nhiên yên ổn, làm ăn khởi sắc, ít gặp chuyện xui xẻo nên hai đứa cứ nghĩ chắc cúng trúng chỗ huyệt của nội rồi. Thành ra tôi mới kêu hai đứa dẫn thầy đi đó thầy Sinh."

Chẳng mấy chốc mà cô Tư Trinh cùng cô Út Ngà cũng ra tới nơi, đầu đội nón lá, tay xách bông trái nhang đèn để chuẩn bị lên đường.

Cô Ngà này khá mờ nhạt, hôm qua giờ Cẩm Ngọc không chú ý đến, cô này có vẻ rụt rè nhưng ánh mắt rất đề phòng, cảnh giác với tất cả mọi người trong nhà. Đây chắc là con của bà Hai đi? Vì là con bà Hai, lại là con gái nên trong nhà này đối với cô ai cũng là thù địch, chắc từng bị chèn ép không ít.

Không dong dài nữa, Cẩm Ngọc đứng lên cầm lấy túi hành trang của mình, nói với hai người đàn bà quyền lực nhất nhà hiện giờ: "Tôi tự có phương pháp để tìm đúng mả của ông cụ. Chuẩn bị giúp tôi bốn quả trứng gà, càng mới đẻ càng tốt. Trứng có cồ* ấy."

Bọn họ lập tức chuẩn bị trứng cho anh, xong xuôi cả ba người cùng dợm gót lên đường. Tiến thẳng đến hai ngọn núi nơi chôn cất người chết, cũng chính là nơi mà Cẩm Ngọc nóng lòng đón chờ dáng núi non phì nhiêu, long mạch hoàn mỹ đến chừng nào mà khiến cơ ngơi gia tộc dệt chiếu từng xưng bá nhất nhì kinh thương Lục tỉnh phải táng mạng ra nông nỗi này.

***

Thấp thoáng đi tới giữa trưa, bọn họ cuối cùng cũng đến được chân núi Hàm Rồng.

Cô Trinh gạt mồ hôi trên trán, cùng em gái và "thầy Sinh" ngồi nghỉ trưa bên đường sẵn uống miếng nước cho đỡ khô cổ, rồi cô mới nói: "Thầy Sinh, giờ chúng ta cứ men theo con đường mòn trước mặt đi vòng qua nửa núi là tới mảnh đất giáp với núi Hàm Rắn rồi, ở nơi tiếp giáp không có thung lũng mà tồn tại một triền đất rất đẹp, đó chính là nơi chôn cất nội tôi, còn có mạch sông nhỏ chảy qua nữa, quả đúng phong sinh thủy khởi. Anh xem, con sông này là bắt từ bên đó qua đây."

Nói rồi cô tiến tới muốn vốc nước ở đó mà uống, liền bị Út Ngà "xì" một tiếng: "Nước rừng nước rú chị cũng uống được, không biết kiêng cử gì, ai biết bên trong chứa thứ gì chứ?"

"Chứa thứ gì được? Nước trong vắt mà."

Ngọc tán thành: "Cổ nói đúng, tốt nhất đừng uống, dễ đau bụng lắm."

Út Ngà cười khẩy: "Vừa rồi tôi mới thấy sắp nhỏ chăn dê núi đi ngang đây, chị uống đi, có khi uống nước tiểu của nó."

Mặt cô Trinh đỏ phừng cứng họng, vốn dĩ không chọc ghẹo mà đứa em út này vẫn thích cự lộn với cô, luôn âm thầm soi xét từng hành động của cô để mỉa mai.

Ngay lúc hai người còn định tranh cãi thì bỗng họ chợt nghe thấy tiếng trẻ con từ xa truyền tới, âm thanh trong leo lẻo, lại đọc có vần có điệu một bài thơ rất lạ tai như bài đồng dao, mà cũng không giống đồng dao lắm:

"Nhà rường hai cột một căn

Chim loan chim phụng chạm trong chạm ngoài,

Cửa hào quang không ai mở cũng chẳng ai gài

Chỉ mình công tử nằm hoài trong cung."*

Cẩm Ngọc nghiêng đầu không biết nghĩ cái gì, chỉ thấy miệng nhoẻn lên một cái. Phải rồi, đây là một câu đố dân gian, đã rất lâu rồi anh mới được nghe lại.

Mà đáp án của câu đố đó cũng chính là thứ bọn họ đang đi tìm. Chính là một cái mả!

__

Chú thích:

(*) Trứng có cồ: Trứng gà được thụ tinh, sau 21 ngày ấp được ra gà con.

(*) Bài thơ này là câu đố dân gian, khá lâu đời, đáp án là ngôi mộ/mồ/mả

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip