TOA THUỐC TRỪ BỆNH LUÔN LUÔN
TOA THUỐC TRỪ BỆNH LUÔN LUÔN
ĐÒI HỎI XÁC THỊT
Khi hoàng Đế hỏi về toa thuốc trị bệnh cho một người luôn luôn đòi hỏi xác thịt, không bao giờ thỏa mãn. Tố Nữ kể câu chuyện như sau:
"Có một nữ nhân tuổi đã 30 nhưng việc tình dục đòi hỏi như thiếu nữ mới ngoài 20. Nàng luôn luôn cần gần gũi đàn ông, không có dương khí trong mình thì nàng không sao chịu được, âm hộ nước nôi dầm dề nhiều khi chảy ra ướt cả quần."
Lý do có sự kiện này là vì trong âm hộ của nàng có một loại trùng làm tổ. Đó là loại trùng thật nhỏ (cở 3 phân Tàu), hình đuôi ngựa. Trùng này có 2 loại, đầu đỏ và đầu đen. Loại đầu đỏ không linh hoạt bằng loại đầu đen.
Trị bệnh này thỉ dung phương pháp như sau: Dùng bột mì nấu chín, vo thành một vật giống như dương cụ lớn nhỏ tùy theo ý thích của bệnh nhân, chế vô đó một ít nước tương, đâm vô đâm ra nơi âm hộ đến một lúc thì các con trùng đó cũng theo ra. Cứ tiếp tục như vậy như là giao hợp với nam nhân, tới khi lấy hết tất cả trùng ra. Thường trùng này làm tổ thì độ 30 con trong một âm hộ.
GHI CHÚ:
1. Chuyện của Tố Nữ khó tin nhưng cũng chẳng qua chỉ là cach thỏa mãn dục tình của nữ nhân với lời tư an ủi rằng đó là một phương thức chửa bệnh xấu của mình mà ngày nay phụ nữ Tây phương thường dùng với dụng cụ tương tự.
2. Ngày nay các bệnh về tình dục không thỏa mãn có 2 loại:
· Đàn bà mắc bệnh đòi hỏi không bao giờ biết thỏa mãn và lãnh cãm.
· Đàn ông tảo tinh (xuất tinh quá sớm tức là khóc ngoài quan ải) và vô năng (bất lực, không làm nên trò trống gì).
Cả 4 trường hợp đều là bệnh này tương phản với bệnh kia ở trong một tính phái. Bệnh sanh ra do việc giao hợp quá mạnh bạo, gấp rút mà ra. Vậy để chữa bệng này cần phải dùng vật lý trị liệu (thuốc men) và tinh thần trị liệu.
Trời sinh ra nam nhân khác với nữ nhân, tính dục dễ dàng bị kích thích. Nhưng người dễ bị kích thích quá thì có hại vì hứng tình lên nhanh thì xìu xuống cũng nhanh. Trong trường hợp này bệnh dễ mắc là tảo tiết. Mắc chứng này rồi thì sớm muộn gì cũng mắc chứng vô năng. Người vợ của bệnh nhân này vì không được thỏa mãn khi giao hợp với chồng nên bị măc chứng lãnh cãm.
Tóm lại loại bệnh này là bệnh làm cho sự giao hợp suy nhược. Trái với vô năng và lãnh cãm là giao hợp bao nhiêu lần không thấy đủ, không muốn nghĩ. Đây cũng là một loại bệnh cần chữa trị.
3. Toa thuốc trừ bệnh tảo tiết hay vô năng là toa thuốc Ủy kê tán (thuốc bột) hay Ủy kê hoàn (thuốc viên). Toa thuốc gồm:
Nhục tùng dung 3 phân
Ngủ vị tử 3 phân
Viễn chí 3 phân
Xà sàng tử 4 phân
Thố ty tử 3 phân
Đem cả 5 loại nghiền thành bột, mỗi ngày đến lúc bụng đói thì dùng một muỗng canh, hoặc pha trong rược, hoặc them mật mà vò thành viên. Thuốc rất hiệu nghiệm, không có nữ nhân bên cạnh để sẳn sàng gầy cuộc vui thì không nên dùng thuốc này. Trong vòng 60 ngày uống thuốc này thì có thể hạ ngã 40 người đàn bà khác nhau dễ dàng.
Truyện kể có một người Thái Thú tại Tứ xuyên tên là Lữ Kính Đại, ông ta dùng thuốc này vao nhưng năm đã quá 70 tuổi vậy mà vẫn sinh được thêm 3 người con nữa. Sách cũng kể là khi ông dùng thuốc thì sự giao hoan quá mạnh khiến cho phu nhân sinh ra nhiều bệnh chứng, âm hộ đau nhức, phu nhân không thể ngồi được.
Không muốn sử dụng thuốc này nữa, ông Thái Thú đem bỏ ra sau vườn. Một con gà trống ăn phải liền trèo lên đạp mái một con gà tơ, gà trống lên được thì không chịu xuống nữa, mỏ vẫn cắn cái mồng của gà mái cho đến khi con này giựt đứt ra.
Tên Ủy kê tán có từ sự tích này.
Chuyện và toa thuốc nói trên ghi trong sách "Ngọc phòng bí quyết" và "Động Huyền Tử ".
4. Trong sách "Cổ kim lục nghiệm pháp" có ghi câu chuyện như sau:
Vua Tùy Dương Đế xuống chiếu cầu ai có toa thuốc cường dương thì dâng lên vua. Triều đình nhận được một biểu chương như sau:
"Phu nhân của thần thiếp tên là Hoa Phù. Khi ông ta lên 80 tuổi thì việc phòng trung không còn có thể sinh hoạt được nữa. Cả hai vợ chồng thiếp đều buồn. Một ngày kia phu quân thiếp nhận được một toa thuốc thần diệu là "Ích đa tán" từ sự chỉ vẽ của một người bạn. Ích đa tán gồm các dược liệu như sau:
- Sanh địa hoàng 1 tiền. Rửa sạch thái mỏng ngâm vào một lít rượu. Thời gian sau vớt ra ngiền thành bột.
- Quế tâm 2 phân
- Cam thảo 5 phân
- Bạch truật 2 phân
- Hàn thái 5 phan
Đem 5 vị thuốc này nghiền nát thành bột, sau bữa ăn uống chung vơi rượu, mỗi ngày dùng 3 lần, mỗi lần dùng một muỗng canh.
Sau khi dđiều chế xong, phu nhân của thần thiếp chưa kip sử dụng thì qua đời. Thần thiếp có một người giúp việc trong nhà năm ấy đã ngoài 70 tên là Ích Đa. Tên này nhiêu bệnh nê thân thể suy nhược, hay đau lưng nhức mỏi, đầu tóc bạc phơ, mỗi khi di chuyển rất là khổ sở, thần thiếp tội nghiệp đem thuốc Ích Đa Tán không còn dùng nửa đối với thần thiếp mà cho hắn ta. Không ngờ chỉ dùng trong một tháng, thì lưng hắn đã thẳng không còn cong nửa, da lại hết nhăn, tóc lại trở nên đen, mặt mài hồng hào, tươi mát như thanh niên độ cường tráng. Trong thời gian này thần thiếp có hai nữ tỳ tên là Phan Tức va Cẩn Thiện, cả hai đều lấy Ích Đa, hai năm sau cả hai nàng sinh với hắn bốn đứa con. Ích Đa tối ngày lân la ngoài đường rượu chè, chờ đến tối vợ về bày cuộc mây mưa. Vợ chịu không thấu nên một hôm Cẩn Thiện bỏ chạy trong tệ thất, Ích Đa rượt vợ tận phòng thiếp, bắt đè xuống giao hợp ngay tại đây. Chứng kiến sự mạnh mẽ, cường dương khác thường của Ích Đa, thần thiếp hứng tình nên thuận lòng nhảy vào cuộc vui. Thần thiếp tuy quá 50 tuổi nhưng trước cảnh này cũng không đè nén được mình nên để cho xác thịt đẩy đưa. Thời gian qua thần thiếp có với Ích Đa 2 con. Một mình hắn quan hệ với 3 người đàn bà nhưng vẫn không thấy mỏi mệt chút nào, tinh lực vẫn dồi dào, cuộc vui vẫn hào hứng. Một ngày nọ thần thiếp nghĩ rằng mình thông gian và có con với người hầu cận là một việc vô cùng tệ, mất giá trị mình nên lừa dịp giết Ích Đa đi. Thần thiếp mổ dương vật hắn ra xem xét tại sao hắn mạnh như vậy thì thấy dương vật hắn thoa đầy chất hoàng tuỳ. Nếu Hoàng Thượng muốn chinh phục nữ nhân thì phải dùng Ích Đa tán và sử dụng Hoàng tuỳ. Đây là một toa thuốc tuyệt diệu, thần thiếp kính dâng lên bệ hạ."
Đây là một biểu tấu rất thật. Phản ứng về tình dục của người phụ nữ cũng rất thực. Triều đình lưu trữ biểu chương này chứng tỏ rằng y giới trong triều đình rất là chú ý đến khía cạnh dục tính của vấn đề.
5. Ngoài các toa thuốc trên còn có các toa như "Cực yếu phương", "Cát Thị phương", "Lão bà phương", " Bản thảo của Tô Kính", "Bí mật yếu thuật phương". Trừ "Cực yếu phương" thất truyền từ lâu, các toa thuốc khác vẫn còn truyền tụng cho đến ngày nay coi như thứ thuốc bổ dương hữu hiệu và có kết quả chứng nghiệm.
· "Cực yếu phương" gồm:
- Sà sàn tử 2 phân
- Thố hệ tử 2 phân
- Ba kích thiên bì 2 phân
- Nhục tùng dung 2 phân
- Viễn chí 1 phân
- Ngũ vị tử 1 phân
Các dược liệu trên được nghiền nát thành bột, mỗi lần dùng một nửa tiền pha với rượu, dùng trong 20 ngày thì có kết quả (tinh khí hăng cường, giao hoan không biết mệt).
· "Cát thị phương" chuyên trị:
- Nam nhân dương cụ không thức nỗi, xìu trơ
- Nữ nhân âm bế đến nỗi khong thích giao hợp
Dược liệu gồm:
- Nhục tùng dung
- Thố ty tử
- Sà sàn tử,
- Chí viễn
Mỗi thứ một lượng, đem nghiền nát thành bột, pha với rượu. Mỗi ngày dùng ba lần, mỗi lần dùng một muỗng canh.
· "Lão bà phương" cũng là toa thuốc trị dương cụ không giương, gồm:
- Câu dĩ
- Xương bồ
- Thố ty tử
Mỗi thứ một phân, nghiền nát, moi ngày dùng ba lân, mỗi lần dùng một muỗng canh, trong một tháng thì dương vật cứng như sắt, như gang.
· "Bí mật yếu thuật dương ":
- Lấy một tổ ong vào tháng tám, ép suốt một đêm rồi đem vào bỏ vào trong một cái túi nhỏ rồi đem treo trên một cành tre, đến một ngày thì tổ ông biến thành "Âm can diệu dược", một thuốc kích dục hữu hiệu.
Khi trong mình không thể hứng tình mà muốn giao hoan thì lấy tổ ong đó cắt ra vài miếng. Chia là hai phần.
- Phần thứ nhất để lên lửa riu riu, và nấu cho đến khi âm ấm.
- Nửa phần còn lại cho vào lòng bàn ray, nhổ nước bọt vào cho mềm rồi đem thoa lên dương vật để như vavậy cho khi khô những bụi xác rớt xuống hết rồi giao hợp. Nên nhớ nếu muốn tăng cường cảm khoái thì chà lên quy đầu, nếu muốn dương vật tăng trưởng lên to lớn hơn, thì nên thoa xung quanh cua nó.
- Khi giao hợp nên pha phần đang để lửa âm ấm llia với rượu mà uống.
· Còn một phương pháp làm cho dương vật bị liệt giương lên dược là lấy "dầu ba đậu" hay thuỷ ngân thoa lên vùng lông trước khi muốn giao hợp.
Tất cả những thuốc và phương pháp trên là dùng để chữa chứng không lên của thằng nhỏ, một mặt chửa trị nhưng một mặt khác cũng là kích thích thêm phần khoái cảm.
6. Muốn giảm bớt tình dục quá sung mãn của nam nhân người nữ có thể thuyết phục để châm cứu họ. Điểm châm cứu là điểm "tam tâm giao" cách ba tất kể từ gót chân đi lên. Giảm bớt sự dương cường của nam nhân người nữ có thể tránh thnụ thai hay khỏi mệt trong những lần giao hoam mình không đủ sức chịu đựng.
7. Các thứ nói trên chỉ là phương cách đi tìm khoái cảm, vấn đề quan trọng hơn là làm sao trẻ mãi không già, truờng thọ mà vẫn thụ hưởng được khoái cảm.
Cổ thư còn ghi lại những sự tích về mặt này.
Dương quí phi muốn cho Đường Huyền Tôn sủng ái mình nên luôn luôn chú trọng trau chuốt về ba mặt sức khoẻ, sắc đẹp và tính kỷ (kỷ thuật giao hợp sao cho tạo sướng khoái tối đa cho nhười giao hợp với mình). Quí phi ăn nhiều trái vải (lệ chi) vì thứ trái cây nầy có dược tính làm cho thề lực kiện khang. (Tuy nhiên không ăn nhiều quá để có thể bị chứng máu cam vì trái vải tính nhiệt). Sự kiện thích ăn một trái gì đó để tăng cường thể lực ở đâu cũng có. Bên Ai cập này xưa các Hoàng hậu muốn cho da thịt mình bóng loáng, đẹp đẽ đã cho ngâm trân châu vào rượu để uống. Quí phi cũng còn dùng những loại thuốc bổ âm khác, đặc biệt là qua các thức ăn như yến và trái vải.
Trái vải rất có tác dụng lên can tạng (gan) và tì tạng (bao tử) nghiã là có thể làm tiêu trừ những độc khí trong thân thể và có tác dụng chấn tỉnh tinh thần khiến không cảm thấy mệt nhọc, bãi hoãi.
8. Cổ tịch của Trung Hoa khi nói về nhưng cách cường tinh bổ dược có nhắc đến một khí cụ dùng cho nữ nhân hình dáng tương tự như dương cụ, do đo ta thấy rằng ngày xưa cũng đã biết tính cách gợi dục cuả vật chất.
Dễ tháy nhất trong việc nầy là chuyện dùng trái đào. Đem một trái đào nhâm trong giấm chua thì có được một thứ gọi là "thôi dâm dược" thứ thuốc kích thích dâm. Ngòai tính chua, đào còn có hình dạng như bộ phận sinh dục của nữ nhân, là một thứ có tính cách gợi dục, khi nhìn trái đào thì con người sẽ liên tưởng ngay đến chuyện đàn bà và mây mưa. Chuyện truyền kỳ ghi lại trong sách "Liệt tiên toàn truyện " về bà Tây vương mẫu xuống trần năm Nguyên Phong nguyên niên tặng cho Hán Vũ Đế bảy trái đào tiên mọc ngoài Đông hải tiên sơn để chúc cho Vũ Đế sống lâu cũng có ý nghĩa xa gần về tình dục. Người đời Hán có nhiều người theo phái tính đào (tính cách gơị cái giống nữ của trái đào) nên đặt ra chuyện nầy.
9. Kinh Thi của Trung Hoa (loại ca dao của ta) có câu "đào chi yêu yêu, xử nữ vu quy, nghi kỳ thất gia..." là tả người con gái đẹp trước khi về nhà chồng, mặt mơn mởn xinh tươi như trái đào. Ở Nhật Bản "Phương diện tập" cũng ghi chép những câu ca miêu tả người đẹp. Điều đó cho ta thấy rằng loài người ở đâu cũng thế thường ca ngợi sự hoan lạc của tính ái (sung sướng của giao hợp), và gom góp các chuyện tươi đẹp của nhân gian thành các bài ca dao.
10. Loài người là loài duy nhất biết tạo ra trong trí mình sự liên tưởng và sự không tưởng, cho nên khi dùng thuốc thì phải tin tưởng nó có hiệu quả. Có tin thì thuốc mới công hiệu, còn không tin thì uống bao nhiêu thuốc cũng vô ích mà thôi. Trong chuyện "Quỉ giao" có kể chuyện một người bị bệnh giao hợp không thỏa mãn đêm đêm nằm mộng thấy mình hành sự với yêu quái. Mộng này sinh ra vì sự tưởng tượng tới tình dực ban ngày mà thôi. Tự kỷ không nghĩ chuyện ân ái thì mộng cũng không còn
Một nhà sáng tác nhạc người Nhất tên là Bình Vĩ Xương Hoàng khi nằm bệnh viện trị bệnh kế thạch đã tự chữa bằng cách niệm danh Bồ Tát mỗi ngày một vạn lần. Ông dự trù niệm như vậy trong năm năm thì sẽ khỏi bệnh, nhưng chỉ trong vòng một năm thì đã khỏi. Nguyên do hết bệnh vì ông an tâm niệm kinh và hô hấp dài. Khi hít vào lượng dưỡng khí lớn tim và phổi được kích thích để hoạt động, trong thân thể sẽ sinh ra các phản ứng hữu ích. Hô hấp dài hạn để tập trung ý chí vào một chủ điểm sẽ quên hết tất cả phiền não cũng là một yếu tố tâm ý tốt khiến cho mau lành bệnh. Tin tưỡng mình sẽ hết bệnh cũng là một yếu tố trong sự việc này.
11. Sách "Bí quyết ngọc phòng " có ghi thuật làm cho dương cụ dài ra như sau: Dùng sơn thúc, tế tân, nhục tùng dung, mỗi thứ một lượng bằng nhau. Tất cả được trộn trong mật chó. Đem treo trong phòng ba mươi ngày thì lấy xuống cà xát vô dương vật. Cách này có thể làm cho dài ra thêm một tấc (Tàu).
Sách "Lục nghiệm phương" có chỉ cách làm cho âm đạo nhỏ lại và nóng như sau: Dùng thanh mộc hương hai phân, hợp với sơn châu bốn phân. Ngiền cả hai thành bột, dùng nước miếng của mình vê thành những viên nhỏ bằng hạt đậu, sau đó dùng những viên này xát bên ngoài âm hộ thì rất có hiệu quả.
12. Các thứ thuốc và phương pháp áp dụng có hiệu quả chắc chắn có bạn sẽ tự hỏi: Người viết sách này tin rằng ngắn có thể biến thành dài. Nhỏ có thể làm cho lớn. Lớn có thể làm cho nhỏ. Tin là một yếu tố tâm lý cần thiết để thực hiện có hiệu quả. Việc cọ xát, thoa bóp chính nó đã làm cho máu huyết cho đó lưu thông thêm, kích thích thêm cơ năng tình dục nên ít ra cũng có hiệu quả phần nào. Thuốc chỉ là một phần, tin là chuyện sẽ thành mới là phần quan yếu trong việc cường tráng và cường tinh.
THẾ GIAO HỢP CƠ BẢN
Chương này nói về các vị thế cơ bản khi giao hợp. Cũng là đại khái ba mươi vị thế cơ bản, những biến thể nho nhỏ không được kể như một vị thế,
1. NAM THƯỢNG VỊ (Nam nhân ở trên)
1.1 CHÍNH THƯỜNG VỊ (Vị thế cơ bản)
Nữ nằm ngữa, hai chân dang ra, không cần bẹt lắm. Nam nhân nằm sấp bên trên. Hai đầu gối và hai cùi chỏ chống lên giường để nâng đỡ sức nặng khỏi đè lên bạn ngọc. Vị thế này căn bản là hai đùi nam nhân ở giữa hai đùi của nữ nhân.
Vị thế phía trên của nam nhân là vị thế nắm quyền chủ động thỏa mãn lòng tự tôn và cảm thức ưu việt của nam nhân. Vị thế này cũng thỏa mãn lòng khao khát được vỗ về ôm ấp, bảo vệ của người nữ.
Trong vài trường hợp đặc biệt nếu dương vật dễ bị trật ra khi đâm vô rút ra thì nữ nhân nên kê một cái gối phía dưới mông để thay đổi vị thế của âm đạo.
Đây là kiểu phổ biến nhất, chính thức từ đó biến thái thành nhiều kiều khác nhau. Tư thế này tự nhiên nhất vì khi đến tuyệt đỉnh của sự thống khoái thì nam nữ ai cũng có khuynh hướng ôm choàng xiết mạnh người bạn mình. Vị thế này thích hợp nhất cho sự cho sự ôm xiết đó.
Khuyết điểm của vị thế này là không áp dụng được đối với người có dương vật ngắn vì rất dễ trượt ra ngoài, cũng không dùng được đối với người nam quá mập vì không đút vào sâu trong động tiên được. Nữ nhân khi có thai bụng đã nổi lên thì tránh dùng lối này, dễ động thai vì bị đè nặng vì khi quá sướng người nam không còn nhớ để tránh.
1.2 THÂN TRIỂN VỊ (Chân kéo thẳng)
Dùng vị thế cơ bản nói trên, sau đó nửa chừng cuộc tình nữ nhân khép hai đùi lại, duỗi thẳng chân. Hai đùi nam nhân kẹp hai đùi nữ nhân ở giữa. Cách này làm cho âm đạo khép lại, kẹp sát bóp dương vật, cọ sát nhiều, tăng thêm khoái cảm cho nam nhân. Về mặt nữ sự cọ sát này cũng là cho dương vật cọ sát thành âm đạo, kích thích mạnh âm hạch tạo nên trạng thái khoái cảm tuyệt vời mà những vị thế khác ít khi có.
Vị thế này không phù hợp với nữ nhân nào có âm đạo quá nhỏ hoặc tử cung không phát triển toàn vẹn.
Ưu điểm quan trọng của vị thế thân triển vị là kích thích được nam nhân trong trường hợp tinh lực kém, dương cụ căng giương lên không hết sức cũng giao hợp được dễ dàng vì âm hộ kẹp nó lại, da qui đầu bị tiếp xúc nhiều làm cho sự kích tăng lên thêm.
1.3 CAO YÊU VỊ (Vị thế lưng cao)
Đây cũng là biến thế của chính thượng vị (vị thế một), trong đó nữ nhân kê gối phía dưới mông để phù hợp với tình trạng của nam nhân. Nam nhân ở vị thế quỳ thay vì nằm ở giữa hai đùi của nữ. Vị thế này khiến cho dương vật nằm ngang và vì không có trở ngại nên độ kết hợp sâu hơn hai vị trí nói trên.
Đêm tân hôn vị thế này là tốt nhất vì dương vật đi theo đường của âm đạo - không kiểu cọ, không đâm ngang, đâm chếch - khiến cho sự đau đớn của lần kết hợp ban đầu được giảm đến mức tối đa. Sau đêm tân hôn một hai ngày cũng nên dùng vị thế này vì cái đau đớn của khoái lạc đầu đời chưa lành hẳn hoặc vì âm hạch có thể bị đỏ, sưng sau lần màng trinh bị phá rách.
Khuyết điểm của vị thề này là cuộc tiếp xúc không mang đến khoái cảm cực đại cho nữ nhân vì dương cụ đi thẳng đường quá, không chếch không cọ vào thành của âm đạo.
Bị kê gối nên nữ nhân cũng không được thoải mái, dễ mệt nên vị thế này kông nên sử dụng khi nữ nhân ốm yếu hay đang mệt nhọc. Lúc có mang càng không nên sử dụng.
1.4 KHUẤT KHÚC VỊ (Vị thê thu mình)
Nữ nhân nằm ngửa, hai đùi co rút lại vào phía thân mình, đầu gối chạm vào ngực, hai chân cách một gốc vừa phải, độ 135 độ là vừa. Nam nhân theo tư thế của chính thượng vị (vị thế 1) nghĩa là nằm úp lên trên mình bạn vàng, hai tay chống xuống giường, đâm chênh chếch từ sau tới.
Vị thế này kết hợp hai cơ quan sinh dục được sâu vì đâm thẳng đường của âm đạo. Đó là một vị thế rất dễ thụ thai, tinh trùng được bắn thẳng vào cổ tử cung, dể tồn tại ở đây một thời gian, để kêt hợp với trứng.
Tư thế này người nam có thể tự do lay chuyển, tự do ôm sát hay cách xa nữ nhân để quan sát loã thể của nàng nên có thêm khoái cảm về thị nhục, kích thêm sướng khoái. Nữ nhân trái lại thành âm đạo không được cọ sát nên không được vui sướng lắm. Đêm tân hôn tuyệt đối không dùng lối này. Cũng vậy không nên dùng đối vơí nữ nhân có âm đạo quá cạn.
2. NỮ THƯỢNG VỊ (Nữ nhân nằm trên).
2.1 PHẢN VỊ (Vị thế ngược)
Phản vị là vị thế giao hợp ngược với chánh thường vị ở đoạn trước. Phản vị chủ yếu là nam nhân nằm ngửa hai đùi dang ra giao phần chủ động cho nữ nhân, nữ nhân quỳ ở hai đùi của nam nhân, rồi nằm sấp lên trên.
Cách này dương vật không chủ động đươc sự đâm vô rút ra của mình nên dễ trợt ra ngoài. Ta có thể chữa cách này bằng cách kê gối phía eo vừa giữ cho thằng nhỏ khỏi đi lạc vừa tăng thêm kích thích cho nữ nhân vì không vướng đùi nên thằng nhỏ như là được vươn mình dài ra hơn. Khoái lạc nam giới tăng thêm vì được quan sát và sờ mó sự lòng thòng của đôi nhũ hoa nhiều khi rung chuyển lắc lư theo nhịp điệu dao động của nữ nhân.
Nữ nhân dễ đạt được cao trào hứng thú, vì nửa thân trên phải cố thẳng làm cho âm đạo đổi vị thế, tử cung gò lên, qui đầu của dương vật để tiếp xúc và kích thích. Sự gợi cảm sinh ra là do sự kích thích này. Mặt khác cũng là do tâm lý "làm chủ cuộc tình" của nữ nhân.
Thường dùng chánh thường vị, thỉnh thoảng vợ chồng cũng nên đổi món qua phản vị để tạo mới mẻ tìm thêm hứng thú.
2.2 KỴ THỪA VỊ (Vị thế cởi)
Nam nhân vẫn nằm ngữa như vị thế vừa nói ở trên. Nữ nhân cỡi lên trên mình chàng, hai chân choàng qua hai bên. Dương vật và âm đạo đối nghinh với nhau cho nên rất dễ "chơi". Vì miệng âm đạo hướng xuống dưới nên tinh trùng bắn vào tử cung ít khiến cho cuộc hành lạc này khó thụ thai. Muốn tránh thụ thai tốt nhất là nên dùng phương pháp này. Nói vậy chứ đây không phải là phương pháp ngừa thai hoàn toàn, bởi vì vẫn có mức độ tinh trùng xâm nhập tử cung, mặc dù ít hơn bất cứ vị thế nào khác.
Ưu điểm của vị thế này là tạo cảm giác mới mẻ, trẻ trung cho nữ nhân. Họ cũng dễ dàng xoay trở khi giao tình, họ chủ động trong cuộc và thụ hưởng được khoái lạc tối đa.
Nếu nữ nhân dùng hai đùi kẹp hai đùi của nam nhân lại thì sự sướng khoái càng tăng hơn vì sức kẹp khiến âm đạo bị khép lại sự cọ sát giữa hai cơ quan sinh dục càng nhiều.
Trong vị thế này, nửa thân trên của nữ nhân thẳng, nhủ hoa buông xuống, nam nhân nằm dưới mặc tình quan sát, sờ mó và tưởng tượng mình đang được người đẹp phục dịch chiều chuộng. Mặt khác, cảm giác e lệ, xấu hổ của người nữ bộc lộ trên nét mặt cùng lúc với sự sướng khoái, khiến cho hai đàng hưởng thêm phần nhục cảm. Tuy nhiên khi sự xấu hổ này lên đến tối đa, đàng gái yêu cầu đàng trai nhắm mắt lại đừng xem thì nam nhân cũng nên giả vờ nhắm mắt (hí hí, nữ nhân cũng biết vậy nhưng sự xấu hổ bớt đi).
2.3 KIỂU NẰM NGHIÊNG
2.3.1 Nghiêng mặt đối
Thay vì nằm ngửa lên, vị thế này hai bên nam nữ nằm nghiêng trên giường, đối mặt nhau. Nam nhân dùng tay vỗ về, sờ mó loã thể của nữ nhân, hai đùi nam nhân nằm giữa hai đùi nữ, hai đùi nữ nhân co ôm chặt eo của nam nhân. Tư thế này ít hoạt chuyển nên ít mệt cho cả hai. Khuyết điểm là nam nhân không được tự do, trong việc tấn thúc (nắc) còn nữ nhân cả đùi bên duới phải chịu cả sức nặng của hạ bán thể của nam nhân (hai đùi) nên cảm độ khoái lạc không thể lên được tới mức tôí đa.
Vị thế không thuận lợi nên kiểu nằm nghiêng thằng nhỏ không đi sâu vào tuyệt cùng của âm đạo.
Tuy nhiên ưu điểm của thế này là không ồn ào, ít tiếng động. Nhiều người ngủ chung phòng, nhà chật cha mẹ ngủ mà có con cái ngủ gần tư thế này lý tưởng không tư thế nào bằng. Mình vui mà không gây sự chú ý và không làm phiền người khác.
2.3.2 Nghiêng mặt lưng.
Như cái tên của nó, hai đàng nằm nghiêng trên giường. Nam nhân nằm phía sau ôm nữ nhân, bắp vế sát mông nữ. Nhưng nếu nam nhân để ngực mình chạm với lưng nữ nhân thì phía thằng nhỏ khó vào, bởi vậy ngực phải dang ra lưng để hạ bán thân tiếp xúc mà thôi. Nữ nhân cần phải co chân lại để nam nhân dễ xâm nhập.
Nam nhân dùng tay tự do (phía trên) sờ mó vỗ về nữ nhân. Nam nhân chân trên có thể gác lên đùi nữ nhân hoặc xếp vế bên đùi nữ nhân ở trên giường.
Tư thế này nam nhân hưởng nhiểu khoái lạc hơn nữ nhân vì ở vị thế tấn công và hưởng thêm cảm giác ở bắp vế trong khi đó nữ nhân chỉ kích thích ở âm đạo mà không được kích thích ở đầu tử cung nên tuyệt đỉnh khoái lạc có cường độ không cao. Để giải trừ khuyết điểm đó nam nhân nên sờ mó thêm âm hộ của nữ nhân và se se đầu nhũ hoa của bạn mình.
Tư thế này thích hợp cho thời điểm nữ nhân đang hoài thai vì bụng không bị đè. Mặt khác khoa lâm sàng cho biết khi phụ nữ mang thai thì tử cung dần dần tới sát xương chậu và âm đạo ngắn hơn lúc bình thường, thể vị giao hợp này dương cụ giao hợp không sâu nên rất thích hợp vì không sợ bị xẩy thai.
Mức khoái cảm do vị thế này đem lại không cao nên không tạo được tuyệt độ khoái lạc cho nên lúc có kinh cũng có thể áp dụng được. Đối với nữ nhân bị bệnh bất cảm (cảm ứng không được nhiều) đây là vị thế rất phù hợp.
2.4 VỊ THẾ LƯNG
2.4.1 Thế nằm
Giống như cách thường vị, nhưng ở đây nữ nhân nằm sấp, nam nhân nằm lên trên lưng. Hai đùi nữ nhân có thể bẹt ra hay khép lại. Nan nhân cũng dựa theo đùi của nữ nhân mà hành động, nàng khép haiv đùi, mình ở ngoài; nàng banh hai đùi, mình ở giữa.
Vị thế này mông của nữ nhân có tác dụng như một cái gối êm xốp cho nam. Trường hợp người nữ gầy ốm, xương xẩu, kiểu thường và kiểu cởi, làm cho nam nhân mất bớt hứng thú vì chạm các khớp xương, kiểu nằm sấp này tránh những khuyết điểm đó.
Trong trường hợp nữ nhân mập mạp nhiều thịt, mông to vị thế này khôngthích hợp vì "trái độn" đã ngăn trận sự xâm ngập của dương cụ khiến sự tiến vào không được sâu.
Khi có mang dĩ nhiên là tuyệt đối cấm dùng vị thế này. Khuyết điểm quan trọng của vị thế này là sự sút ra của dương cụ, khi kích vì miệng âm đạo mở, từ trên xuống dưới (như một cái cổ giếng) trong khi dương vật tấn kích xuyên về phía trước. Nữ nhân không thích vị thế này vì bị đè, khoái cảm ít, xung kích xâm nhập ngắn, đâm cạn sợt không đến đâu, vận động không đuợc tự do. Nam nhân trái lại thích dùng vị thế này vì có sự thỏa mãn về thị giác, kích thích nhiều, hai tay lại được tự do choàng qua mình bạn mân mê mấy thứ đồ phụ tùng.
2.4.2 Thê quỳ
Nữ nhân nằm sấp trên giường, nhưng cong hai đầu gôí lên về phía ngực, phía mông hơi chỏng lên cao, phía đầu hơi cúi xuống thấp hơn. Nam nhân quỳ ở chỗ mông của bạn, lưng thẳng hai tay ôm lấy chỗ eo của nàng để điều chỉnh độ kết hợp.
Khi giao hợp bằng vị thế này, qui đầu tiếp xúc với âm đạo mãnh liệt. Dương vật được cọ sát nhiều, nên khoái cảm có cường độ rất lớn. Nếu muốn tăng thêm khoái cảm thì nên dùng gối kê đầu gối của nàng để mông chỏng lên cao hơn nữa làm cho độ nghiêng sau trước được nhiều. Cách này là cho cổ tử cung đưa ra hứng tất cả tinh dịch cho nên là vị thế rât dễ bị thụ thai. Muốn tránh mang bầu không nên dùng thế này.
Đặc biệt, nữ nhân khỏi làm gì cả, tất cả điều do nam nhân chủ động, nữ nhân chỉ cần xoay xoay hậu bộ của mình, hoăc làm những động tác gì khác tỏ ra mình cũng có khoái cảm, để kích thích thêm nhục tình cho nam giới.
Đặc biệt vị thế này thường phát những tiềng động "nhẹp nhẹp" ta không ưa thích, điều này không có hại gì, đừng nên chú ý mất vui. Tiếng động phát sinh ra do âm đạo bị đè nén mà mở ra chứa không khí, vận động giao hợp làm cho không khí bị bung ra, tiếng động phát sinh từ đó.
2.5 TỌA VỊ (vị thế ngồi)
2.5.1 Ngồi đằng trước.
Nam nhân ngồi trên giường. Nữ nhân ngồi trên đùi nam nhân, trở ngược lại... Hai người ôm lấy nhau: nữ nhân ôm cổ nam nhân ôm eo.
Nữ nhân phải dạng đùi ra choàng qua mình nam nhân nên miệng âm đạo hở, dương cụ dễ tiến vào. Khi đến cực điểm của khoái lạc, nam nhân nên bỏ eo ôm mông nữ để tăng cường thêm. Vị thế ngồi này khiến cho âm hộ hơi co rút lại, dương vật có cảm giác như bị bóp lại nên càng cương cứng thêm. Khuôn ngực của nữ trình bày trước mặt nam, đặt sát vào hay bú núm vú cũng là điều cần thiết.
Nam nhân rung động hai đùi của mình để kéo theo sự rung chuyển mông của người đẹp. Sự rung chuyển này một mặt kích thích cuộc giao hợp làm cho xương chậu của nàng thay đổi vị thê khiến cho cuộc kết hợp được lâu hơn, thằng bé đi vào tận cùng trong thâm cung bí sử.
Tư thế này rất thích hợp khi nữ nhân có thai.
Nếu nam nhân không ngồi mà quỳ trên đâu các ngón chân và đầu gối mình thì sự xâm nhập cạn hơn vị thế đã nói trên, sự kích thích khoái lạc vì vậy cũng ở mức độ vừa phải, rất an toàn cho người nữ có mang.
Nếu nữ nhân mập béo mà nam nhân cũng muốn áp dụng tư thế này thì nên cho nữ nhân ngã về sau, hai tay chống xuống giường, vì ngồi thẳng như người bình thường thì dương vật không thể đâm lút vào. Nếu nam nhân mập phệ thì vị thế này cũng phải được cải tiến như trên (ngã về sau).
2.5.2 Ngồi đằng sau lưng
Nam nhân ngồi thẳng, hai đùi duỗi ra song song. Nữ nhân ngồi trên đùi chàng, đưa lưng về phía nam nhân, hai chân để bẹt ra để bên ngoài đùi của bạn. Nam nhân hai tay, hoặc ôm eo của nữ để làm cử chỉ kích thích và xung độ̣ng, hoặc chồm tới trước tới vuốt nựng đôi nhũ hoa. Phối hợp nhịp nhàng giữa sự lắc đùi của nam và sự đu đưa mông của nữ thì thời gian giao hợp đuợc kéo dài lâu hơn.
Trong vị thê này người nữ có vẻ như chủ động: ngồi sâu, nhỏm lên, quay tròn rút lui... Nư tính phát triển tối đa ở vị thế này. Cũng là một cách thay đổi món ăn vốn dễ chán ngấy nếu luôn dùng các món cũ.
Muốn đô kết hợp lâu hơn, đậm hơn, lút hơn nữa nữ nhân nên cong lưng về phía trước và xoạc hai chân rộng ra để âm đạo được nở nhiều. Nam nhân khi dùng vị thế này nên nhớ sờ mó nhũ hoa và khám phá bằng tay âm hạch của nữ để tăng cường cường độ kích thích....
2.6 LẬP VỊ (Vị thế đứng)
Nam nhân đứng ở sau lưng nữ, cho vào từ phía sau. Cách này chỉ thực hiện dễ dàng khi nữ nhân hơi cong đầu gối và đưa mông về phía sau một chút. Để đứng vững, nữ nhân chống hai tay lên đâu gối, nam nhân hơi cúi xuống mới cho vào được. Hai đùi của nữ nhân cũng nên banh ra để đứng được vững đồng thời âm đạo cũng mỡ rộng hơn, trình ra con đường dễ dàng cho dương vât xông pha. Cho được tối đa sướng khoái, nam nhân luồn đùi mình vào giữa hai đùi nữ nhân, hai tay luồn lên nắm cập nhũ hoa hoặc ôm lấy bụng của nàng.
CỬU PHÁP
(Chín tư thế giao hợp)
1. THẾ RỒNG UỐN KHÚC
Hoàng đế hỏi Huyền Nữ: "Khanh đã nói đến chín diệu thuật, nay khanh đã tường tả cặn kẽ để ta có thể cho sao lục thành sách cất giữ cho khởi mất đi mật pháp quí giá."
Huyền Nữ đáp: "Phép thứ nhất có tên là Rồng Uốn Khúc. Người nữ nằm dưới, mặt hướng lên trời để người nam nằm úp lên mình. Hai vế đùi người nam ở trong hai vế đùi người nữ. Người nữ uống cong hạ thể để ngọc hành cọ sát vào âm hạch. Như thế, từ từ, thong thả mới để dương cụ lọt vào vào vòng cấm địa. Nguời nam có thế rồi mới điều khiển hoạt trượng liên tiếp vào ra theo luật bát thiển nhị thâm, nghĩa là đút vô tám cái cạn rồi mới thọt vào hai cái sâu. Xong mười cái như vậy kể là một chu trình, một hiệp, một luợt. Xong chu trình ấy thì tạm rút ra ngoài rồi lại vào trở lại làm tiếp hiệp hai, rồi thứ ba, thư tư... liên tiếp như vậy vơí tôn chỉ: lúc cứng rút ra, hơi mềm mềm rồi lại cho vào. Tôn chỉ ấy là: "Chết qua, sống lại" hay "vào sống ra chết". Làm như thế, ngày ngày người nam thêm mạnh, người nữ thêm khoái, tình xuân dào dạt, âm hộ co thắt, trăm bệnh điều khỏi."
Trong chín phép, phép này được gọi là rồng uốn khúc vì âm ở dưới, dương ở trên. Đại đa số nam nữ điều theo cách này mỗi khi giao hợp. Người nam, hai tay hai chân giúp cho thân thể cong lên, uốn xuống tựa như con rồng đang uốn khúc nhất là trong lúc thi hành thuật pháp phòng chung "tám cạn hai sâu".
Trong tư thế này người nam có trọn người nữ trong tay, được thêm khoái cảm của sự chinh phục. Người nữ ngực và âm quản được chạm sát thân thể người nam. Như vậy nữ nhân cùng một lúc hưởng sự sướng khoái của giao hợp và sự vuốt ve nhẹ nhàng lúc ban đầu (ngọc hành cọ sát vào âm hạch).
GHI CHÚ:
1. Tư thế này là tư thế hoà hợp, nên tránh sự cuồng bạo, cần sự nhịp nhàng tương đối trong khi dùng sức.
2. "Tám lần cạn hai lầ̀n sâu" và "vào sống ra chết" (hay chết qua sống lại) là sự áp dụng một cách nhuần nhuyễn hai nguyên lý dưỡng trường và kích thích trong giao hợp. Dưỡng truờng áp dụng cho người nam làm sao cho cuộc hoan lạc dài tới đến gần băn tinh thì ngưng lại, tránh không bị kích thích quá độ để bị xuất tinh khi cuộc giao vừa mới khởi đầu. Kích thích là áp dụng cho người nữ, tạo cảm xúc tối đa và tránh nhàm chán, cho phải lúc cạn, lúc sâu, sâu, lúc mềm, lúc cứng...
3. Tây Âu gọi tư thế Rồng Uốn Khúc là tư thế chính của Thần Ái tình. Ta gọi là Rồng Uốn Khúc và đưa lên làm pháp thứ nhất trong chín pháp đủ biết Đông Tây đồng quan niệm rằng đây là tư thế tuyệt diệu trong thuật phòng trung.
4. Khi lâm trận ta rất dễ quên nguyên lý tám lần cạn hai lần sâu và vào sống ra chết. Không nhớ dể mà áp dụng thì nam nhân dễ có khuynh hướng làm hùng hục như trâu, xả láng sáng về sớm, như vậy cuộc mây mưa không kéo dài lại làm cho nam nhân mệt mỏi và nữ nhân ấm ức. Đó là khuyết điểm trong luật phòng trung.
2. THẾ HỔ: HỔ RÌNH MỒI (thế thứ nhì trong cửu pháp)
Tư thế này đòi hỏi người nữ nằm áp mặt xuống giường, đầu phục xuống, bộ mông cong lên. Người nam quỳ đàng sau, giữa hai vế người nữ. Hai tay nam nhân ôm lấy bụng nữ nhân, đưa dương cụ vào tận bí cung, hoạt động cho lanh lẹ, lánh sang phải đâm sang trái chừng ba bốn chục lần tùy theo sức khống chế. Bí cung của người nữ lúc co lúc dãn; âm thủy trao ra.Lúc bấy giờ nam nhân tạm hưu binh, nghỉ khoẻ. Như thế trăm bệnh chẳng sinh lại thêm cường tráng.
GHI CHÚ:
1. Tư thế này người nam thật giống như hổ rình mồi. Thế này đích thực là bước tiến hóa của con người so với loài vật. Vì người ta khi giao hợp vẫn thuận nam trên nữ dưới, nhưng trong các loài vật chúng vẫn thuận ôm lưng nhau. Từ thuở xa xưa, các nhi đồng nam nữ bất luận ở đâu cũng đã từng trông thấy những cảnh tượng giao hợp của chó méo gà vịt và đã có ấn tương ấy trong đầu. Đến khi động lòng hiếu kỳ muốn bắt chước xem sao, nam nhân chủ động nhưng phái nữ cũng phải thuận tình nên khi đã tìm thấy môt tư thế đầy hứng thú.
2. Người nam ở ngoài sau có cái thú là được ôm hết bờ vai tròn, tấm lưng trơn mịn, vòng eo thon thon, vòng mông chắc nịch. Hai tay nếu không muốn bám cho chắc, thì có thể dùng để xoa, vuốt từ bộ nhũ hoa xuống đến âm hộ. Trong khi dương cụ vẫn hoạt động vào ra, xiêng ngang tả hữu, càng lúc càng linh hoạt. Thỉnh thoảng, đôi tay lại rời ra để xoa bóp, nắn đôi mông, ép đôi mông lại hoặc căng nó ra. Tuy nhiên có một điều là khi thực hành tư thế này người nữ để âm hộ cùng giang môn một lượt nếu nam nhân không cân thận hoặc vụng về có thể đưa dương cụ lọt vào giang môn tạo cho nữ nhân một cảm giác cực kỳ đau đớn.
3. Trong tư thế này, âm hạch của nữ nhân không hưởng khoái cảm được chạm sát với dương cụ xong bù lại thì dương cụ tiếp nhận sâu hơn, lại được tự do lúc lắc, nhấp nhô hòa hợp với cử chỉ của nam nhân. Tiết tấu ấy tuyệt diệu và làm tăng thêm phần nhục cảm. Nam nhân trong khi xoa nắn, vỗ về sẽ vô cùng khoái cảm nếu gặp được bộ mông to nở. Tiêu chuẩn thẩm mỹ quốc tế định là bộ mông phải nở hơn bộ bụng ít nhất là hai mươi phân tây.
4. Nhiều người còn sùng thuợng những bộ mông to. Những dân tộc thông minh thường chuộng những bộ mông to, có lẽ vì mông to thì xuơng chậu to, dễ sinh sản và dễ sinh những đứa con có bộ xuơng sọ to, điều kiện căn bản của một đứa trẻ thông minh, mạnh khoẻ.
3. THẾ VUỢN LEO CÂY (phép thứ ba trong cửu pháp)
Huyền Nữ giảng tiếp: "Thế thứ ba này gọi là thế vượn leo.Người nữ nằm giữa giơ hai cẳng lên không. Nam nhân đối diên vơí nữ nhân, quỳ xuống, đỡ lấy hai cẳng nữ nhân đặt lên vai mình. Âm bộ nữ nhân lúc này vừa tầm tiếp nhận dương cụ. Âm hạch đuợc chà sát. Người nữ cảm thấy vô cùng khoái lạc và âm thuỷ bắt đầu chảy ra. Dương cụ cứ việc tung hoành và người nữ sẽ đạt đến khoái cảm tột đỉnh. Theo tư thế này trăm bệnh sẽ đuợc tiêu trừ. Nguời nam trong tư thế này ôm lấy hai chân nữ nhân, trông cũng giống như con vượn đang leo cây. Người Trung Hoa rất ưa tư thế này. Hiện còn các bản vẽ trong Xuân Cung đồ".
GHI CHÚ:
1. Hai thế "Hổ Rình Mồi " và "Vượn Leo Cây " điều có những ưu thế tuơng đồng. Thế nào cũng giúp cho nữ nhân lộ trọn vẹn cả bộ xuân tình và để cho nam nhân và để cho nam nhân mãn ý xoay sở. Bộ vị của cả hai cũng dễ dàng thích hợp. Trong thế Hổ thì người nữ cong mông lên, cao thấp tuỳ theo tình hình trong thế Vượn thì dùng một chiếc gối hay đệm tuỳ theo dầy mỏng đặt xuống dưới mông. Như thế dù cho người nam thuộc hạng béo phệ chăng nữa thì dương cụ cũng sẽ được đưa vào đến tận cùng của xuân cung, không bị cái bụng mỡ cản trở khoái lạc.
2. Những nam nhân mà thằng con không đủ kích thước đều thích thực hành như thế. Áp dụng tư thế này người nam sẽ hoàn toàn hạnh phúc nếu nữ nhân có đôi đùi thon thon và đôi chân nhỏ sạch.
3. Ngày xưa người ta đa khám phá rằng đôi chân có lliên hệ nhiều đến tính dục. Chẳng cứ gì ở Trung Hoa, mà từ lâu rồi, ở Tây Ban Nha, ở La Mã, chân người đàn bà phải được che đậy kín đáo. Đi hài cũng không đuợc dùng hài hở mũi. Chân chỉ để cho chồng hoặc tình lang trông thấy hay ve vuốt mà thôi, tuyệt đối cấm kỵ người ngoài. Trong tư thế "Vượn Leo Cây" này thì đôi chân nữ nhân có vai trò tính dục mạnh ở chỗ tạo thêm khoái cảm cho cả hai bên nam nữ.
Người nữ có đôi chân thon thon, tất nhiên có dáng đi uyển chuyển, hoạt động lanh lẹ, mình mẩy dẻo dai, dễ cho sự oằn oại, giúp tạo thêm hứng tình cho nam nhân. Những ngón chân hồng hồng nho nhỏ cũng sẽ như những trái bồ đào để cho chàng nếm mút.
4. Trong cuốn "Tăng Ni Nghiệt Hải" (một cuốn sách đời Minh nói chuyện ái ân trong cửa thiền) có nói đến một vị Đạt Ma sở trường hai món Rồng Uốn Khúc và Vượn Leo Cây này. Sách nói rằng hai phép này hoà hợp vơí nhau làm tăng truởng duơng cụ và là cho nữ nhân đạt khoái cảm tối đa.
4. THẾ VE SẦU: Ve bám cội cây (phép thứ tư trong cửu pháp)
Huyền Nữ lại nói đến thế Ve Sầu. Trong thế này người nữ nằm sấp, ngay ngắn, để người nam nằm úp lên trên lưng, dương cụ được đưa vào xuân cung từ phía sau. Nữ nhân uốn cong bộ mông để dương cụ cọ sát vào hai cánh cửa ngoài cung truớc khi cho phép vào lọt trong cung cấm. Nam nhân hoạt động ra vào chừng năm mươi bốn lần là đã có thể thấy nữ nhân xuân tình dào dạt, xuân cung mở rộng, trơn tru.
Đạt đến tình trạng này thì nam nhân nên ngưng ngay.Thế này có thể tiêu trừ những chứng bệnh sanh ra do thất tình lục dục như: buồn giận, mừng lo, tư lự sợ hãi ghen ghét... gây nên.
GHI CHÚ:
1. Trong thế này, nữ nhân nằm úp sấp nên không thoãi mái chân tay và toàn thân, chỉ còn hoạt động được bộ mông mà thôi, do đó rất hợp với nữ nhân vì phụ nữ nào cũng thích uốn éo.
2. Nam nhân tuy rằng nằm úp trên người bạn tình nhưng không nên dùng tất cả sức nặng của mình mà đè lên, phải chóng tay xuống giường nâng bớt trọng lượng của thân mình. Hai chân duổi ra bám lấy sàn giường phụ giúp thêm. Nàng, do đó không cảm thấy sức nặng của chàng đè xuống sẽ dễ dàng ngoạ nguậy, lắc lư, sà qua sàn lại khi cao hứng, hơi thở tuy dồn dập mà cảm thấy thản nhiên, không thấy khó khăn không bị tức ngực...
3. Vì thế của người nam bám nhẹ nhàng như vậy người xưa liên tưởng đến hình ảnh con ve sầu bám cội cây.Thế này nam nhân hoạt động nhiều, tuy nhiên nếu xuân cung của nữ nhân không dược sâu thẳng đúng mức hay cây nấm linh chi của chàng không không dài đủ chỗ thì nên dùng một cái gôí chêm xuống dưới phần chính của nàng, để vừa vào sâu, vừa tránh trường hợp rạt rào xuân ý, nước nôi mà dương cụ trật vuột ra ngoài, lạc đường lạc sá. Khi sinh hoạt theo thế này có thể hai đàng cùng hội ý để đồng thời chuyển sang thế nằm nghiêng. Nữ nhân nãy giờ bị gò bó bây giờ nằm nghiêng sẽ lấy lại được phần chủ động, tha hồ lắc lư. Nam nhân cũng giải phóng được đôi tay của mình trong việc nâng cả trọng lượng của mình nên có dịp nghỉ ngơi, nhường lại việc thao túng cho người bạn tình.
4. Xưa Võ Tắc Thiên cùng với Hoàng Đế vẫn thường xuyên dùng lối Ve Sầu Bám Cội Cây này, chứng tích nay vẫn còn trong các bích hoạ ở huyện Đông Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc và trong bài phú "Thiên Địa Âm Giao Hoan Đại Lạc Phú" của Bạch Hành Giản một người họ hàng của thi hào Bạch Lạc Thiên.
5. THẾ RÙA: Rùa bay (phép thứ năm trong chín phép)
Huyền Nữ giảng tiếp đến phé thứ năm trong chín phép. Đó là thế Rùa bay.
Trong thế này người nữ phải nằm ngửa, hai chân lên sát vào bụng. Người Nam quỳ xuống quay mặt về phía người nữ. Hay tay dang hai đùi người nữ ra và đẩy đùi người nữ cho lên cao chạm tới nhũ bộ (vú́). Lấy dương cụ cọ sát âm hạch, rồi cho vào dò thử nông sâu.
Người nữ lúc này rất cảm thây khoái lạc tuyệt cao, tự nhiên ngọ nguậy thân thể. Âm thuỷ rạt rào cứ theo chổ nào trống thì tràn ra, để cho duơng cụ được ra vào thong thả. Đợi đến khi nữ nhân trào mạnh ra thì hãy thu chiến thu binh.
Nếu lúc này người nam rút ra kip, tất giữ được tinh lực khiến thân thể cườ̀ng tráng bội phần.
GHI CHÚ:
Trong tư thế này, khi người nữ cảm thấy khoái lạc mà bình thuờng bị kềm chế đôi chân phải co lên cho đến ngực lại bị nam nhân đẩy cho cao thêm tất nhiên phải lồng lộn, lúc thì uốn lưng, lúc thì lắc mông, hoạt động mạnh bạo không lúc nào ngơi. Người nam phải theo thế khi tung lên, khi đè xuống, khi đâm bên phải, khi đâm bên trái tuởng như con Ô Quy đang đằng vân giá vũ trong trận điên đảo tả tơi.
Trong thế "Rùa bay" dương cụ được vào xuân cung sâu nhất vì hai đùi người nữ co lên cao. Đùi càng co cao thì mông cũng càng cao bấy nhiêu và âm bộ được phơi bày ra càng thêm ngồn ngộn. Trước mắt người nam trông cũng đủ no mắt. Nhiều người nữ cảm thấy e lệ trong tư thế này.
Nhiều nữ nhân nằm theo phép này, âm mao thấy đen ngòm một khoảng. Những sợi tơ này không chỉ mọc hạn chế quanh âm hộ mà nhiều khi lan rất xa.
Đã có những dân tộc, vào một thời kỳ nào đó thích xén cụt những khu rừng rậm ấy. Ví dụ như ở cổ La Mã ở Cổ Hy Lạp thì lại khác ta có thể thấy trên bức tượng "Helen of Troy" nàng có âm mao rõ ràng.
Âm mao phái nữ cũng như râu ria nam rất quan trọng về sinh lý cũng như về biểu tượng tính phái cho nên những dân tộc văn minh hiện nay đã biết chăm sóc chải chuốt, vun xới, không cần đợi đến ông thầy tướng nói đến chuyện "có hay không" nữa.
6. THẾ PHƯỢNG: Phượng múa
Giảng về thế trên Huyền Nữ nói rằng: "Người nữ phải nằm ngửa cong chân lên và hơi dạng hai đùi để cho nam nhân nằm giữa hai đùi mình. Nam nhân chống tay và đưa dương cụ vào xuân cung, mà sát âm hạch. Người nữ phụ giúp nam nhân lắc lắc lại khoảng 24 lượt.
Huyền Nữ nói trong thế này: "Người nữ tiếp nhận dương cụ, xuân cung mở rộng, âm thuỷ sẽ tràn đầy. Hứng lên đến độ này mà biết cuốn cờ, im trống thì sẽ được tiêu giải trăm bệnh".
GHI CHÚ:
Phượng là con trống, Hoàng là con mái nhưng ta thường gọi chung là "phượng hoàng" để chỉ sự keo sơn, luyến ái của đôi cặp.
Lại cũng thường nói là Rồng, Phượng, nên thế Phượng này cũng tương tự như thế Rồng chỉ có điều khác ở nơi đôi vế. Theo thế Rồng âm hộ người nữ dể cong lên, theo thế Phượng Tiên cong xuống. Ấy cũng bởi vì con người không ai giống ai, từ thể chất đến sở thích và khả năng và cho đến cả thói quen nữa. Những điều khác biệt này, nếu nói rộng ra thì cũng liên quan cả đến vấn đề quốc thổ, chủng tộc và qua các thời đại: như dân tộc Mỹ, Âu, Phi, trời sinh đã to lớn, đàn bà ngực nở, mông dày..., còn người Á, vật thể khiêm nhường v.v... Thời Trung Cổ, người Âu châu có thiên vị yêu chộng những người có ngoại hình thon thon (hai vòng bụng và vòng mông không xê xích nhau mấy), tiến đến thời kỳ ưa chộng mỹ thuật lưng eo. Ở Trung Quốc xưa người ta thích nguời chân bó, rồi thích thay đổi theo thời thuợng. Con người cũng có những sự khác nhau về thẩm mỹ, về luyến ái quan, người thích béo, người thích gầy, người thích rậm, người thích thưa, thích đen, thích trắng. Do đó tư thế giao quan cần được chấp nhận bởi sự tương thông tương cảm của cả hai, không nên do đơn phương tự quyết. Vậy thì tuỳ theo thể lực, sở thích và kinh nghiệm để đi đến sự hòa hợp.
Thế Rồng Bay hay thế Phượng cũng là giúp ích cho sự hòa hợp ấy để cho cả hai đạt được tới cao trào.
7. THẾ THỎ: Thế thỏ liếm lông
Huyền nữ giảng đến phép thứ bảy về Thế Thỏ, nói rằng: "Thế này người nam phải nằm giữa, duỗi thẳng chân, người nữ xoay lưng lại dạng chân, chóng tay xuống nệm, quỳ bằng hai đầu gối co, cưỡi lên nguời nam, đầu cúi xuống nhòm chỗ đích. Dương cụ nam nhân chà xát vào hai cánh cửa và âm hạch của xuân cung. Nữ nhân cảm thấy khoái hoạt, âm thủy rạt rào, đưa dương cụ vào tận trong đến lúc đạt tới cao trào thì hãy ngưng ngay động tác để cho bách bệnh khỏi sinh ra.
GHI CHÚ:
Trong thế này, nữ nhân có lúc cúi đầu cong lưng xuống để tự xem mình, trông hệt như con thỏ bạch cúi xuống liếm lông, liếm bẹn. Người nam nằm duới có cái hứng thú là đôi tay được tự do nâng đỡ bộ mông, bộ đùi nguời nữ và muốn thưởng thức chỗ nào trên thân thể nữ nhân cũng được. Nhưng phần linh hoạt phải nhường cho nữ nhân chủ động; lên xuống qua lại, bốn phía xoay tròn đều do hạ bàn nữ hoạch định. Nam nhân cũng đôi khi phụ lực nhưng nếu xuân cung quá trơn hoạt thì duơng cụ dễ bị trượt ra ngoài, cho nên, tốt nhất nên để cho nữ nhân tinh tế nhận xét lúc nào nên nhích lên lúc nào nên nhích xuống, lúc nào nên nghỉ ngơi, lúc nào nên vũ bão. Chớ nên để cho hứng tình làm chủ hoàn toàn mà tự tung tự tác làm cho con cá quẩy lội tung tăng khiến cho dương cụ bị tỗn hại.
Ta nên nhớ rằng nữ tính vốn thụ động và đa số phép giao hợp đều để nữ nhân nằm dưới mà tiếp thụ; nên khi ở thế này người nữ có nhiều phát kiến xoay xở, nhiều lúc tựa như nhu nhược, êm ái; nhiều lúc áp dụng áp lực nặng nề khiến cho nam nhân hưởng được hưởng nhiều cảm khoái khác nhau bằng những cường độ kích khích khác nhau.
8. THẾ CÁ: Cá tiếp vẩy
Thế này, - Huyền nữ nói - Người nam cũng phải nằm ngửa duỗi thẳng hai chân để cho người nữ quay đầu về phía mình, dang chân cưỡi lên. Người nữ lựa chiều hạ bộ mông mình xuống từ từ, cho hai cánh của xuân cung mở ra đón dương cụ. Nên nhớ là phải từ từ và đừng vội vã cho vào sâu ngay. Hãy làm như cách đứa trẻ ngậm đầu vú mẹ. Người nam cũng chớ hấp mà hẩy vào ngay. Người nữ cứ thong thả mà hoạt động, tuỳ thời tuỳ lúc, tuỳ hứng. Khi nam nhân thấy nữ nhân đạt được cao trào thì hãy rút còi thu binh để cho thu đuợc phần dưỡng sinh, tiêu bệnh.
GHI CHÚ:
1. Trong thế này, nữ nhân vốn nhu hòa, thụ động trao việc thi hành tính giao, nay đuợc nắm phần chủ động nên rất cao hứng, tuy nhiên thiên tính nữ vẫn nhuần nhã từ tốn. Còn nam nhân, được lợi thế chờ đợi, ngắm nhìn nữ nhân hoạt động, hai tay cứ việc thưởng thức sờ soạn toàn bộ sau, bộ trước của nữ nhân. Nữ nhân đuợc nam nhân xoa nắn mông đùi nhũ hoa như thế càng lúc càng cảm thấy phấn chấn rào rạt, quên cả thiên tính ôn nhu, cũng học tập làm anh hùng dũng mãnh, thật chẳng khác gì hổ mọc thêm cánh, cá được tiếp vây.
Đó là ý nghĩa đặt tên cho phép này.
2. Đôi nhũ hoa rất có quan hệ đến tính giao. Đại phàm nhũ hoa bị chạm thì cảm giác cũng lan tơí tận hạ bộ. Mà nam nhân nào trông thấy bộ nhũ hoa cũng muốn đưa tay xoa nắn, thế nà̀y khác với thế thỏ liếm lông chỉ ở chỗ ấy. Trong thế Thỏ thì người nữ đưa mông lại phía nam còn như trong thế Cá thì người nữ quay mặt để nhìn mặt người nam để lộ hai nhũ hoa, dù to, dù nhỏ, cũng muốn cho người nam xoa nắn. Càng được xoa nắn bao nhiêu, xuân cung càng tràn ứa. Cả hai điều được đi đến chỗ no đủ, thoả mãn tình ý.
9. THẾ HẠC: Hạc gác cổ
Huyền Nữ tiếp tục giảng đến phép cuối cùng là thế "Hạc Gác Cổ". Người nam ngồi theo kiểu quỳ chân xuống, hơi dạng hai đầu gối ra để đỡ bộ mông nữ nhân ngồi lên. Người nữ cũng dạng hai đùi và hai tay quàng quanh cổ người đàn ông đồng thời để xuân cung hạ thấp xuống cho dương cụ chà xát âm hạch trước khi cho dương cụ được phép vào khám hiểm trong tuyệt cùng sâu thẳm của xuân tình.
Nữ nhân, trong thế này, cảm thấy khoái lạc, lúc âm thuỷ nhỏ giọt là lúc sướng khoái lên đến cao độ. Lúc ấy biết kềm chế đình chỉ để tránh xuất tinh thì vạn bệnh thất thương đều trị tuyệt, con người ta sống thêm tuổi thọ, khang trang mạnh mẽ.
GHI CHÚ:
1. Huyền nữ lại nói thêm đến các phép ngoại như "Tam Thập Pháp" của Động Huyền Tử hoặc "Song Tu Pháp" của Đạt Ma xưa đã từng truyền cho Thuận Trị Hoàng Đế. Những phép này cũng do chín thế của Tố Nữ Kinh mà biến đổi. Tố Nữ Kinh mục đích viết ra để cho người muốn tập dưỡng sinh biết đường mà cầu học không ép xác mà được hưởng khoái cảm thiên nhiên dành sẵn cho thân thể. Dưỡng sinh là cầu khang kiện và trường thọ, lại cũng cho hòa hợp tâm thần, nữ cũng như nam biết được điều khoái cảm. Vì thế trong sách này không chỉ bảo các tập thế dùng cho trường hợp hai nam một nữ hoặc ngược lại.
2. Lại nói danh xưng của các thế, thì trong Tố nữ kinh cùng Song Tu Pháp cũng từa tựa như nhau, cũng thế Long, thế Hổ, thế Ngư, thế Phụng.v.v... Riêng trong Song Tu Pháp không cầu sự hoà hợp và khoái cảm của nữ nhân chỉ cầu mục đích của nam nhân nên chú trọng thời khắc của "vị khác đến thăm xuân cung" nhiều hơn. Song Tu Pháp ghi rằng:
Thế Rồng thì 8 lần cạn 5 lần sâu
Thế Hổ thì 5 lần cạn 3 lần sâu
Thế Vượn thì 9 lần cạn 6 lần sâu
Thế Ve sầu thì 10 lần cạn 4 lần sâu
Thế Phượng thì 6 lần cạn 2 lần sâu
Thế Thỏ thì 4 lần cạn 1 lần sâu
Thế Hạc thì 10 lần cạn 7 lần sâu
Còn thế Rùa và thế Cá không thấy ghi. (Trong Tố Nữ Kinh có nói đến thế Rồng người Nam thì phải theo tỉ lệ 8 lần cạn 2 lần sâu).
Các biến thế Hạc gác cổ
BA MƯƠI VỊ THẾ GIAO HỢP
(Theo đạo gia Động Huyền Tử tiên sinh)
Chương này là chương luận lý về vị thế tính giao do ông Động Huyền Tử tiên sinh là người theo trường phái Đạo Gia, tên thật là Trương Đĩnh.
Ba mươi vị thế là những vị thế rất cơ bản trong sinh hoạt phòng trung, so với cửu pháp đã nói ở các chương trên là hơi lhác đôi chút nhưng đại để thì giống nhau. Chỉ khác mục đích Cửu Pháp có mục đích dưỡng sinh, Tam Thập Pháp (ba mươi thế vị) trái lại lấy sự khoái cảm làm cơ bản.
Động Huyền Tử tiên sinh nói:
"Giao tiếp đích tư thế, đại ước bất xuất tam thập chủng, kỳ trung hữu tiền hậu khuất trập, thượng hạ, phủ ngưỡng, đẳng đẳng.... tuy nhiên đại thể tương đồng, khước dã kỷ cương la nhất thiết phương pháp, tơ hào một hữu di lậu đích."
Nghĩa là: "Tư thế giao tình không ngoài ba chục kiểu, trong đó co, thẳng, nằm trên, nằm dưới, đằng trước, đằng sau, đại đồng nhưng tiểu dị. Đem ba mươi kiểu này làm cơ bản thì bao gồm các kiểu khác, không còn kiểu nào khác hơn".
1. Tự trù mâu
Quấn quít, nam nữ quyện lấy nhau.
2. Thân khiển quyển
Nam, nữ thân mật nắm tay nhau vuốt ve.
3. Bạo tự ngư
Khi người nữ hứng tình, âm hộ cương lên, cứng gồ giống như cá cong mình nhảy vượt lên trên không trung.
4. Kỳ lân giác
Như trên, nghĩa là âm hộ nữ nhân cương cứng, cong mu lên như hình sừng con kỳ lân.
Bốn trạng thái trên là bốn hình thức sửa soạn trước cuộc giao tình không ai mà không có. Các hình thức sau đây mới là vị thế giao hợp.
5. Toản mặc cẩm
Nữ nhân nằm ngữa, hai tay choàng qua cổ nam nhân, kẹp hai chân lên lưng nam nhân. Cả tứ chi kéo nam nhân về phía mình. Trong khi đó nam nhân ôm choàng lấy cổ nữ nhân, thân mình choàng xuống giữa hai đùi nàng. Hai cơ quan sinh dục đối mặt. Đâm vào nhau.
6. Long uyển chuyển
Nữ nhân nằm ngữa, co hai đùi, giơ thẳng lên về phía trước. Nam nhân qùy ở giữa đùi nữ nhân. Hai tay nắm phía sau của hai đầu gối đẩy về phiá trước. Có thể đẩy tới khi đùi nữ nhân đụng được nhũ hoa, ở vị trí này âm hộ trình bày tư thế sẵn sàng nghinh đón dương vật.
7. Ngư tỉ mục
Hai phái nam nữ nằm ngang. Nữ nhân gác một chân lên mình nam nhân. Miệng và miệng kề nhau. Nút lưỡi. Nam nhân khi hứng tình đưa một tay kéo đùi nữ nhân giơ hơi cao lên trong khi đó hai chân mình vẫn thẳng hàng. Dương vật đâm xuyên vào.
8. Yến đồng tâm
Nữ nhân nằm ngữa, lưng sát giường, hai chân hơi dạng ra và đưa lên trên không. Nam nhân nằm úp lên trên bụng nữ nhân hai tay choàng qua sau cổ người bạn mình. Nữ nhân cũng vậy ôm lưng nam nhân, kéo mạnh về lòng mình. Dương cụ càng đâm vào càng sâu càng tốt.
9. Phỉ thuý giao
Nữ nhân nằm ngữa, lưng sát giường, hai chân hơi dạng ra và đưa lên trên không. Hai đùi cong lại. Nam nhân ngồi phía dưới, hai đùi dang ra kềm hai đùi của nữ nhân. Hai tay ôm chặt eo ếch của bạn. Cử chỉ này vừa tạo vị thế tiện lợi cho dương cụ đâm thẳng vào thâm cung vừa kích thích vùng âm hạch của nữ nhân để gợi hứng tình.
10. Uyên ương hợp
Nữ nhân nằm nghiêng. Nam nhân nam phía sau, hai đùi ở giữa hai đùi nữ. Đâm từ phía sau tới chêng chếch.
11. Không phiên diệp
Nam nhân nằm ngữa, banh hai chân ra. Nữ nhân ngồi lên mình nam chổ hậu bộ, mặt đối mặt, hai tay đè đầu gối mình để giữ thăng bằng. Ngồi lên cọc.
12. Bối phi cưu
Nam nhân nằm ngữa, banh hai chân ra. Nữ nhân ngồi lên vị thế như trên nhưng đưa lưng về phía mặt của nam nhân (ngược lại vị thế trên), đầu hơi cúi xuống như nhìn âm hộ mình, để âm hộ căng ra hơn.
13. Án cái công
Nữ nhân nằm ngữa hai chân giơ lên không và sát vào nhau, duỗi song song. Nam nhân ngồi hay đứng ở phía dưới hậu thân của nữ, hai tay ôm eo nam. Đâm thẳng vào.
14. Lâm đàn trúc
Nam nữ đứng thẳng ôm nhau như hai cây tre trong một bụi tre. Miệng hôn lên miệng, phía dưới dương cụ đâm thẳng vào âm hộ.
15. Loan song vũ
Hoặc nam nằm sấp, hoặc nữ nằm úp lên nam, vị thế là hai bên chồng lên nhau và đối mặt. Hai cơ quan đối diện nghinh tiếp nhau.
16. Phượng tương xu
Nếu nữ nhân có thân thể to lớn mà giao hợp với nam nhân mảnh dẻ thì dùng thế nam nhân nằm trên. Vị thế và hình dạng này giống như phượng hoàng ôm con vào lòng cho con bú.
17. Hải âu Dực
Như đàn chim xòe cách, nam nhân đứng dưới giường nắm hai chân nữ nhân đang nằm trên giường mà banh ra. Đâm vào.
18. Dã mã đề
Như chân con ngựa hoang, hai chân của nữ nhân gác lên hai vai nam nhân, một chân được chính tay nàng kéo co lên để tạo thế chênh chếch của âm hộ.
19. hoàng ngạc túc
Nữ nhân nằm ngửa. Nam nhân quỳ ở chỗ hạ thể của nữ nhân, một tay đở một đùi của nữ nhân lên cao, một tay câu cổ nàng. Càng đẩy càng kéo để trình ra âm hộ. Đâm thẳng vào.
20. Mã dao đề
Nữ nhân nằm ngửa, một chân gác lên vai của nam nhân, một chân được chính tay nàng kéo co lên để tạo thế chênh chéch của âm hộ.
21. Bạch hổ thắng
Nữ nhân nằm ngữa, hai chân dang thẳng ra. Nam nhân quỳ ở chỗ hậu thể nữ nhân, giữa hai chân nữ. Hai tay câu cổ nữ nhân. Đâm thẳng vào.
22. Huyền đàn bộ
Nữ nhân nằm úp mặt xuống giường, dang hai đùi ra, nam nhân quỳ ở sau mông, đầu gối khoảng giữa hai đùi nữ nhân, hai tay câu cổ bạn từ sau lưng đâm thẳng dương vật vào, đâm chênh chếch.
23. Sơn dương đối thụ
Nam nhân ngồi bằng đầu ngón chân và đầu gối (quỳ). Nữ nhân ngồi như nam nhân nhưng xoay lưng hướng về phía nam nhân, đầu hơi cúi xuống ngó âm hộ. Nam nhân đâm chếch lên trên. Hai tay ôm eo ếch của bạn, lắc qua lại, động tác nhanh lên khi cảm hứng tăng.
24. Côn kê lâm trường
Nam nhân ngồi ở cạnh giường. Một thiếu nữ ngồi lên đùi mình, một nữ nhân khác sờ nắn khắp châu thân nam nhân.
25. Đơn huyệt phụng du
Nữ nhân nằm ngữa, hai tay kéo hai chân mình về phía trước. Nam nhân quỳ phía hậu thể của bạn ngã chân về phía trước, hai tay chống xuống giường ngăn chặn sức nặng của mình đè xuống nữ nhân. Đâm chếch về phía trước.
26. Huyền minh bằng chứ
Nữ nhân nằm ngữa, hai đùi gác lên vai nam nhân. Nam nhân hai tay ôm eo ếch nữ nhân đâm vào.
27. Ngâm viên bảo thụ
Nam nhân ngồi hai đùi dang thẳng ra như mở một góc. Nữ nhân ngồi lên đùi nam nhân ngược lại, mặt giáp mặt, cơ quan nghinh đón. Hai đặng tay này ôm lưng kia.
28. Miêu thử đồng huyệt
Nam nhân nằm ngữa, dạng chân ra, nữ nhân nằm úp lên trên. Đâm thẳng lên. Sau đó thay đổi tư thế, nam nhân nằm sấp lên trên mình nữ nhân, từ sau lưng tấn công tới.
29. Tam xuân lư
Nữ khum khum lưng đứng dưới đất, hai tay chống lên giường, nam nhân đứng phía sau hai tay ôm eo ếch nữ nhân, từ sau lưng thúc tới.
30. Tam thu cẩu
Nữ nhân nằm khum khum hai tay chống xuống giường, nam nhân chồm lên mình nữ nhân, đầu gần sát vai nữ, dùng tay lấy dương cụ đâm từ sau tới.GHI CHÚ:
1. Cuộc sống bận rộn kinh tế, đời sống bon chen chật vật, vợ chồng đã hiểu nhau nhiều thì cuộc giao hợp mất đi nhiều tính hiếu kỳ và hứng thú. Nếu thương yêu nhau mà giao hợp thì giao hợp cho có, theo bản năng, thì chỉ là theo lẽ "hứng thì làm", phát tiết dục tình chứ không hưởng thụ những khoái cảm.
2. Bởi vậy nam nhân phải chủ động trong việc thay đổi tư thế giao hợp. Hai đàng phối hợp với nhau để hưởng hứng thú cuộc tình tránh sự nhàm chán của việc xả xú báp, chơi cho có gọi là, trả bài trả nợ.
3. Thay đổi tư thế giao hợp, theo quan niệm giáo dục sinh lý mới là điều rất tốt ích lợi về cả hai mặt tâm lý và sinh lý. hai bên nam nữ đều cảm thấy cuộc tình như mới mẻ, không nhàn chán. Nhàm chán là con đường đổ vỡ hạnh phúc gia đình chớ không phải chỉ mất hứng trong cuộc giao hợp mà thôi.
CÁC PHƯƠNG THỨC YÊU NHAU
CHO KHOẺ MẠNH CƯỜNG TRÁNG
Các phương thức yêu nhau để chữa trị cho nhau khỏi tổn thương, bệnh hoạn.
Ngoài chín phép hay tư thế đã được lược trình ở trên còn tám phép làm cho thân thể thêm cường tráng, bách bệnh tiêu trừ gọi là "Bát Ích" - tám điều lợi ích - lại có bảy phép gọi là "Thất Tổn" - bảy thứ suy kém - để chỉ bảo cho nam nữ cách chữa trị căn bệnh làm suy mòn thân lực. Tất cả những phép trên đều căm cứ vào mục đích làm cho âm dương điều hòa, dụng kỹ thuật tính giao mà làm cho nam nữ được thú sướng kiên cố mà trị bệnh và cầu mạnh khỏe sống lâu.
Căn cứ vào Đông Y, phân thành nội ngoại thì bên trong con người ta có ngũ tạng và đó là gốc rễ để cho ngoại hình (dáng dấp bên ngoài) của ta phát triển. Cả hai nội ngoại bổ cứu, điều hòa thì thân thể ta sẽ được cường tráng, vô bệnh, sống lâu.
Trong sách "Hoành Đế Nội Kinh Tố Vấn" có nói rằng:
"Tâm khỏe thì máu đỏ tươi nhuận, Phổi khỏe thì da mở, lông trơn, Gan khỏe thì gân mạnh, móng chân cứng rắn; Tỳ khỏe thì thịt dai, môi đỏ, Thận khỏe thì xương thẳng chắc, tóc râu rậm mướt".
Bát Ích Pháp chính là để giúp cho Tâm, Phế, Can, Tỳ, Thận bổ khỏe ngõ hầu con người ta được vui hưởng cái sức mạnh, sự bền bỉ sáng suốt mà ngũ tạng đã là nguyên động lực. Tư thế nam nữ áp dụng trong Bát Ích Pháp này cũng là do "Chín Thế" đã trình bày ở trên mà biến hóa ra và có nhiều phụ thế nằm nghiêng hơn là ở các "thế mẹ" nguyên thủy. Người nữ trong "Bát Ích Pháp" thường phải co đầu gối, dạng đùi ra lưng phải dẻo để xoay chuyển hợp tác vận động. làm cho đung thì lợi ích vô kể, có thể nói rằng kéo dài được thời thanh xuân và tới già vẫn thiếu tráng.
1. BÁT ÍCH
1.1 Cố tinh (Bền bỉ tinh khí)
Người nữ nằm nghiêng, xoạc hai đùi, đùi trên cong cong lại vào thân mình. Nam nhân cũng nằm nghiêng, đối mặt với bạn tình. Dương cụ ấn sâu vào mật cung, rút ra ấn vào 18 lần liên tiếp. Hết số đó thì ngưng, dưỡng thần.
Mỗi ngày "luyện tập" hai lần như vậy. Tập như vậytrong 15 ngày thì nam nhân dịch đầy đủ; nữ nhân trừ được bệnh nguyệt qúy tháng tháng xuất ra nhiều hơn bình thường.
1.2 An Khí (Luyện khí khỏi vọng động, thần thái nhẹ nhàng)
Người nữ nằm ngữa, đầu gối trên một chiếc ghế cao, hai chân dang thẳng, dạng đùi, nam nhân quỳ xuống giữa hai đùi người nữ, phủ lên người nữ và cho dương cụ xâm nhập vào xuân cung, rút ra cho vào 27 lần. đúng số này thì rút lui (để trách xuất tinh). Được như thế tâm thần sẽ được an tĩnh, phong thái sãng khoái, thơ thới, không biết âu lo, bồn chồn. Nữ nhân cũng được lợi, khỏi chứng lãnh âm, một bệnh diệt trừ khoái cảm giao hợp mà nhiều nữ nhân mắt phải.
Pháp này phải áp dụng ngày 3 lượt; liên tục trong hai chục ngày, sẽ thấy kiến hiệu.
1.3 Lợi Tạng (Bổ ích cho ngũ tạng)
Người nữ nằm nghiêng hai đùi co lên, để lộ toàn bộ phía mông. Người nam nằm nghiêng phía sau đưa dương cụ vào mật cung, ra vào 36 lượt. Rồi thêm quân (thế này ta quen gọi là nằm theo lối úp thìa). Mỗi ngày thực hành 4 lần. 20 ngày sẽ thấy kiến hiệu: trai thì tâm bình, khí hòa, nữ thì tuyệt chứng lãnh cảm (lợi ích cũng như phép 2).
1.4 Cường Cốt (Mạnh xương, gân)
Người nữ nằm nghiêng. Đùi bên trái co lên bụng. Chân phải duỗi thẳng. Người trai nằm lên trên, hạ bụng đè lên mông người nữ đưa dương cụ vào mật cung, ra vào 15 lần rồi rút lui luôn.
Mỗi ngày thực thi 5 lượt như thế, trong mười lăm ngày, nam nữ sẽ thấy gân xương khoan khoái, thân thể nhẹ nhàng. Người nữ bị chứng bế kinh (nguyệt bảo chậm hoạt không ra được) cũng khỏi.
1.5 Điều Mạch (Thống huyết)
Người nữ nằm nghiêng về bên phải, co chân phải lên vàduỗi thẳng chân trái. Người nam nằm phục lên trên ôm lấy người nữ và liệu chiều cho dương cụ thâm nhập vào mật cung, ra vào 54 lần. Mỗi ngày 6 lượt trong 24 ngày. Được vậy tâm mạch sẽ đều đặn, khí huyết lưu thông;người nữ thì khỏi chứng bị đau âm đạo, đau dạ con.
Phép thứ năm này cùng với phép thứ tư giống nhau, chỉ khác ở thế nằm người nữ nghiêng về trái hay nghiêng về phải mà thôi.
1.6 Súc Huyết (Nuôi máu)
Người nam nằm ngửa trong tư thế đón chờ (hoặc bị động). Người nữ qùy trên người nam, hai đùi dang ra hai phía háng nam nhân và ngồi xuống để dương cụ tự do thâm nhập vào mật cung. Nữ nhân nhấp xuống, nhổm lên cho dương cụ vào ra 63 lần rồi đình chỉ hẳn. Mỗi ngày thục hành liên tục trong mười ngày.
Phép này làm cho người nam khí lực tráng kiện, người nữ điều hòa nguyệt quý.
1.7 Ích Dịch (Bổ ích các hạch nhờn, tinh khí nam, nữ)
Trong các phép này người nữ úp sấp, hạ thể đè lên một chiếc gối để bộ mông được nâng cao. Khẽ hé đùi. Người nam chống tay, qùy gối nằm trên người nữ và cho dương cụ hoạt động vào ra mật cung 72 lần rồi tu quân. Mỗi ngày tập dượt 8 lượt trong vòng 10 ngày liên tiếp. Trong Tố Nữ Kinh nguyên bản không nói rõ phép này tập dượt mỗi ngày mấy lượt, song xét ra phép thứ sáu phải thi hành mỗi ngày bảy lượt và sau phép thứ 7 này, tức là phép thứ 8, nam nữ phải tập luyện tới chín lần mỗi ngày, thì ta đoán được phép thứ 7 này đòi hỏi tám lần một ngày.
Nam, nữ theo đúng phép này sẽ được cường lực, thận bộ kiên cố (bổ thận).
1.8 Đạo Thể (Thông sạch thân thể)
Theo phép này người nữ nằm ngửa, hai chân quặp về phía sau, uốn cong người lên. Người nam chống tay nằm phủ lên người nữ, đựa dương cụ vào xuân cung, ra vào 81 lần rồi rút lui.
Mỗi ngày thao diễn như vậy 9 lượt liên tục trong chín ngày. Theo phép này người nữ trị đuợc bệnh xuân cung có mùi hôi hám.
Theo phép này người nữ phải quặp chân ra sau để uốn cong hạ thể, lại bị động chịu trận cho người nam luyện tập nếu không cảm thấy khoái lạc thì tất nhiên thấy đau đùi mỏi vế vô cùng. Nhưng theo Tố Nữ Kinh, nếu không theo đúng phương pháp mà thực hành thì không thể nào trị được mùi ác xú cả trong bộ phận của nữ nhân cả.
GHI CHÚ:
1. Trong Phương Đông Học từ xưa ai cũng biết rằng: nội tráng tất ngoại cường (Bên trong - ý chỉ các tạng phủ - mà được khỏe mạnh, thì bên ngoài sẽ kiên cố. Cho nên có rất nhiều môn tu học cốt làm sao cho thân thể kiên khang hầu tiến đến chổ bất tử. Các phái võ Thiếu Lâm, Võ Đang. v.v... ra đời cũng vì mục đích ấy. Trong các tư thế thượng thừa được chấp nhận có môn Bát Đoạn Cẩm tức là một môn nội công của Thiếu Lâm phái. Học môn này tức là thực thi những tư thế mà giữa nguyên phần hạ thể và hai tay mà làm các động tác mà thôi.
2. Nhưng trong "Bát Ích" lại có những tư thế hoàn toàn trái nghịch, các động tác do phần hạ thể chủ động, mà mục đích cũng là làm cho thân, tâm được khoan khoái, cường kiên, không khác gì mục đích của các môn phái y học hoặc võ học khác. Hơn thế vì nghĩ rằng đa số bệnh tật cũng là do tiên thiên -khi mới sanh ra con người đã yếu kém - hai là tại bẩm sinh đã được trời cho mạnh khỏe sonh không biết giữ gìn đã để cho phong sương liễm thể hay đã vung vít quá độ mà đâm ra tật kia, chứng nọ. Cho nên Tố Nữ Kinh chín thế và phép Bát Ích muốn lợi dụng những sự ham muốn của người đời, khiến cho ai cũng không phải "khổ công" mới thành mà trái lại có thể vừa hành lạc vừa thâu lượm được kết quả tốt.
3. Cửu thế và Bát Ích mang đến cho mọi người nguồn sinh lực, sự hòa hợp hạnh phúc, sự ước muốn diên niên trường thọ. Còn việc sửa đổi tình trạng yếu kém, chuyên về điều trị sức khỏe và các chứng bệnh thì lại có bảy phép khác gọi là "thất tổn" (như vậy, tổng cộng là: 9+8+7 =24 tư thế). Sau đây là những tư thế trong thất tổn.
2. THẤT TỔN
2.1 Tuyệt Khí
Tuyệt khí là chứng bệnh thiếu khí, mồ hôi nhiều, tim nóng, mắt hoa, nguyên nhân do những sự miễn cưỡng (cố gắng nhiều lần) giao hợp mà sinh ra.
Y học Trung Hoa lấy khí làm quan trọng nhất nên khí chỉ thiếu một chút làm sự sống của con gnười đã bị đe dọa rồi, đừng đến là đi đến chỗ tuyệt nữa.
Để chữa trị chứng bệnh này, người nữ phải nằm ngữa để người nam nâng hai đùi lên và cho vào dương cụ. Thế này tương tự như thế vượn leo song có điều khác là người nữ phải chủ động, người nam đừng nhúc nhích để dương cụ nằm yên trong xuân cung. Người nữ chỉ việc chuyển động tuỳ ý thích đến khi thấy xuân thuỷ rạt rào thì thôi, chớ để người nam ra theo. Mỗi ngày hãy giúp đỡ nam nhân như thế chín lượt, liên tục trong mười ngày, tất chứng tuyệt khí sẽ hết.
2.2 Dật Tinh
Dật tinh tức là sự ham muốn quá độ, âm dương không thuận, không mãn ý hoặc là phòng sự lúc cơm no rượu say nên khí loạn, tổn phế tạng, gây nên sự nóng giận bất thường. Chứng này phải trị ngay không thể kiên trì (chểnh mảng để lâu) được vì khí ngày càng vọng động càng thiêu đốt, làm mắt hoa bụng trướng, hen xuyển v. v... Để lâu sẽ đi đến chổ bất lực.
Hãy để nữ nhân nằm ngửa hai chân cong vòng (như ngồi sắp bàn tròn) quặp lấy người nam. người nam ngồi xuống đưa dương cụ vào xuân cung, nhưng chớ đưa toàn bộ vào, đưa độ hai phần ba thôi (một tấc rưỡi). Nữ nhân sẽ ngúng nguẩy, lắc xoay, sàn bộ mông. Người nam giữ y thế của mình, chớ động cựa. Chừng nào ngươì nữ thấy xuân thuỷ tràn đầy thì đình chỉ không sàn nữa, tránh đừng để cho người nam xuất tinh ra theo.
Mỗi ngày hành sự chín lần liền trong mười ngày, chứng Dật tinh sẽ trị khỏi. Trong phép này, phải để cho người nam nhàn dật, bớt dụng sức. Lại phải biết ý nam nhân chớ để nam nhân thỏa mãn mà bị "tảo tiết" (ra sớm).
2.3 Đoạt Mạch
Mạch bị đoạt nghĩa là toàn thể tinh mạch ở trong trạng thái lộn xộn, không còn chạy theo đúng phương vị của chúng nữa. Kết qủa của chứng này trong thuật phòng the là dương cụ quá cường dật khiến cho có trường hợp bán đồ mà đã xuất hay tệ hại hơn, khóc ngoài biên ải. Bệnh lâu thành bất lực. và tinh khí khô kiệt. Nếu cứ cưỡng mà tiếp tục hành sự thì Tỳ tạng thương tổn, sự tiêu hóa không còn bình thường được nữa.
Để chữa trị chứng này, nữ nhân dùng vị thế nằm ngửa, hai đùi cặp vào hai bên hông của nam nhân. Nam nhân dùng hai tay đỡ sức nặng của thân mình bằng cách chống xuống giường, thân mình chồm lên phía trên của nàng. dương cụ từ trên đâm xuống. Chỉ có nàng là chủ động xoay trở trong tư thế này, sàng xẩy, đong đưa, tuyệt nhiên chàng không chủ động. Đến khi nàng tình xuân mãn ý thì dừng lại ngay và bắt chàng rút ra ngay. Tuy không đến tuyệt đỉnh Vu Sơn nhưng chàng sẽ trị được căn bệnh của mình. Mỗi ngày thực tập chín lần, trong mười ngày thì căm bệnh tự nhiên sẽ khỏi.
2.4 Khí Tiết
Khí tiết vì nguyên nhân ham hành lạc trong lúc mệt mỏi, ví dụ vừa làm công việc nặng nhọc xong chưa kịp nghỉ ngơi lấy lại sức đã vội vã nhập phòng, nên chi tinh thần bị bì quyện (u mê không linh hoạt), mồ hôi ra như tắm, bụng càng đầy như bị báng (cổ trướng).
Để chữa trị chứng này, người nam nằm ngửa, xuôi tay chân cho thư thái để nữ nhân quay đầu về phía nam nhân, quỳ xuống, hai đùi áp sát sườn nam nhân rồi từ hạ mông xuống mở cửa mật cung đón dương cụ vào. Chớ cho sâu hẳn, giữ lại nữa chừng rồi lúc lắc. Khi người nữ cảm thấy xuân thủy rạt rào thì phải thôi ngúng nguẩy và tạm rút lui. Làm như vậy trong mười ngày, mỗi ngày chín lần. bệnh khí tuyết sẽ khỏi.
Thế này tương tự như thế thỏ liếm lông nhưng khác một điều là người nam phải giữ thế yên vị, người nữ phải nhổm mông không được đè sát. Vì thế này nhấp nhổm nên người Trung Hoa gọi thế này là "cúi đầu hái củ ấu" (Đảo thái liên hoa - quay đầu lại hái sen).
2.5 Cơ quan hay là Quyết thương
Quyết thương hay còn gọi là nghịch khí thuộc chứng bệng về nội tạng. Bị huyết thương thì đại tiểu tiện khó khăn, da thịt tiêu hao, gan, thận suy kém có thể đi đến chổ dương suy, âm suy (liệt dương, liệt âm), nặng có thể không còn đứng ngồi được. Muốn chữa bệnh này, nam nhân phải nằm thẳng, tay chân duổi dài thoải mái. Người nữ quay lưng lại ngồi xuống cưỡi lên hai vế người nam. Chống tay rồi từ từ hạ bộ mông xuống cho dương cụ lọt vào xuân cung. Mông lưng uốn éo tuỳ nghi đến khi tràn trề xuân thuỷ thì ngừng. chớ để người nam vận động và ra theo. Mỗi ngày chín lần liên tiếp trong mười ngày thì bệnh tật khỏi.
1. Điều nên nhớ là phép thất tổn đều có mục đích là đem sự giao hợp chuyển thành phương pháp chữa bệnh -nhưng bệnh luôn luôn có liên quan đến tính giao hợp vì tham lam qúa độ hay vì nghịch lý -cho nên người nam phải chịu thua thiệt là không bao giờ được phép hưởng khoái lạc đến mãn túc, và người nữ cũng phải biết tự mình rào rạt xuân tình đến cao độ mà vẫn giữ cho nam nhân trách khỏi sự xuất tinh. Được như vậy thì hai bênh tinh dịch sung mãn, khí huyết lưu thông trường nhuận, sự hô hấp dễ dàng, bệnh tật khỏi lại thêm cường tráng thân tâm.
2. Tố Nữ Kinh còn ghi rằng các thể vị chữa bệnh nêu trên cần thực thi với nữ nhân trẻ trung xuân tình dào dạt, càng xinh đẹp càng hay. Trong khi chữa bệnh mỗi lần hành sự thì thay nữ nhân khác. Xét cho cùng điều này ngày nay không ai làm được mà Tố Nữ Kinh ghi ra là để cho người có phương tiện không cảm thấy nhàm chán mà thôi. Không thể thay bạn tình mỗi lần thì ta thay cái tâm lý nhàm chán của mình rằng đây là phương thế chữa bệnh không khó khăn mà lại thêm khoái cảm, mặt dù có trường hợp khoái cảm chỉ mới nữa chừng.
2.6 Bách Bế
Tố̉n thất thứ sáu gọi là Bách Bế tức là các đường kinh mạch trong con người bị nghẽn tắc không lưu thông bình thường được nữa. Nguyên nhân là do hứng tình qúa độ, giao hợp không hạn chế số lần. Ở nam có triệu chứng tinh khí khô cạn. Khi giao hợp dù muốn xuất tinh cũng không được. Cổ họng khô rát, tiểu tiện không thông, đau buốt;người yếu, thường cảm thấy choáng váng.
Thể vị giao hợp để trị khỏi bệnh này như sau:
- Nam nhân nằm ngữa thoải mái.
- Nữ nhân nằm sắp bên trái, hai tay chống xuống giường để nâng đỡ thân mình. Â m hộ giữ dương vật và chuyển động không ngừng (sàn qua sàn lại). Nam nhân giữ nguyên tắc không xuất tinh.
Theo phương pháp này mỗi ngày thi hành bảy lần, trong vòng mười ngày thì các chứng bệnh trên sẽ bị triệt tiêu.
2.7 Huyết Khuyết
Tổn thứ bảy gọi là Huyết Khuyết nghĩa là cạn máu, thiếu máu.Nguyên nhân vì làm việc quá độ hay là quá mệnh mỏi (đi bộ) khi mồ hôi xuất ra quá nhiều mà lại giao hợp ngay.giao hợp xong tình ý chưa thỏa mãn lại tiếp tục trèo lên lần nữa...Tinh khí tiêu hao nên nội tạng yếu.Bệnh chứng là tinh khí rỉ ra không ngừng (di tinh) làm cho máu huyết trong người ra cạn, da dẻ có màu tái xám, mét chì, lổ đái đau đớn, nước tiểu màu đỏ như có lẫn máu.
Thể vị giao hợp để trị bệnh này như sau:
- Nữ nhân nằm ngữa, đít kê trên cái ghế để nâng âm hộ lên cao, hai đùi dang rộng, đưa háng ra rõ ràng.
- Nam nhân qùy ở giữa hai đùi nữ nhân, đâm dương vật vào, nữ nhân chuyển động hậu thân liên tục nhưng khi đã thỏa mãn thì ngừng lại tức thì (để trách kích thích thêm làm cho nam nhân xuất tinh).
- Nam nhân vẫn theo nguyên tắc không xuất tinh. Thi hành mỗi ngày chín lần, trong vòng mười ngày sẽ trị được các chứng bệnh trên.
GHI CHÚ:
1. Ta thấy rõ ràng tổn thứ tư, tổn thứ năm, tổn thứ sáu đều là những điều làm hại cơ thể do sự giao hợp quá độ và không tiết chế sự xuất tinh mà gây ra. Trị các tổn thất này đều cần là các thể vị giao hợp cũa nữ nhân ở trên tạo thoải mái cho nam nhân, không cần phí nhiều sức lực. Chỉ có tổn thứ bảy là cần vị trí của nam nhân ở trên mà thôi.
2. Tất cả các thể vị để trừ bảy tổn là để cho nữ nhân nắm vai trò chủ động, chủ động việc tạo khoái lạc và chủ động không để nam nhân xuất tinh. Các vị trí này thay đổi khác nhau là để thay đổi vị thế kích thích kéo dài thời gian giao hợp....
3. Y học Trung Quốc cho rằng con mắt và lá gan là hai cơ quan cảm ứng đối với nhau, liên hệ nhau mật thiết, cho nên thường thường bệnh gan thì mắt hoa choáng váng.
4. Người Trung Hoa cho rằng mắt là cửa sổ (song bộ) của nội tạng, phản ánh tình trạng của các cơ quan.Mắt cũng là cửa sổ của tính ái, trạng thái tình dục. Điều xác định này rất phù hợp với y giới cận đại.
5. Người Trung Hoa cho rằng tròng đen của mắt mà thật đen là biểu hiện của sự buông thả của nhiệt tình. Cặp mắt mà tròng đen có viền ánh lên màu anh hoa (đen pha nâu) thì biếu lộ tính khí vượng thịnh, dồi dào, nội tạng mạnh mẽ, kiện khang, không bị tổn hại, sinh hoạt tình dục rất bình thường.
6. Nếu tròng trắng mắt có màu anh hoa thì đó là biểu hiện của nhiệt tình sung mãng, mạch máu vận hành điều hòa, sức khỏe tốt. Đối với loại nữ nhân này âm hộ luôn luôn có ôn độ thích hợp (âm ấm), luôn luô n sẵn sàng cho cuộc mây mưa vì sự ham muốn về tính dục rất mạnh mẽ.
7. Nữ nhân mà mắt nháy mãi không thôi tức là biểu thị tính dục bị nguy kịch không còn thích thú nữa. Mắt gan liên quan nhau nên gan bị bệnh thì tâm bất an, mắt nháy chớp.
8. Muốn cho đời sống tình dục mạnh phải để cho nội tạng mạnh mẽ, cường tráng, không bị bệnh.Chương này đưa ra nguyên tắc "nghiêng trút mà không đổ"(dốc nhi bất tiết), nam nhân phải giữ đó làm mối chánh.Nguyên tắc này lại dưa trên thể vị chủ động của nữ nhân lúc giao hợp, không phải là thể vị để làm tăng khoái cảm giao hợp mà là để chữa các bệnh trạng sanh ra do giao hợp quá nhiều.
9. Ngoài cách giao hợp các thuốc bổ cũng rất cần thiết.Nếu tinh thần bị giảm yếu thì phải thường dùng bồ câu để cho tinh khí trở lại mạnh mẽ.Đời đường Võ Tắt Thiên đã bảy mươi tuổi mà tinh lực vẫn còn mạnh vì bà ngâm rượu bồ câu gọi là "Võ Hậu Tửu" loại rươụ này trong sách "Võ hậu ngoại truyện" có nhắc tới.
"Rượu Võ Hậu" gồm nguyên liệu đã được bào chế như sau:
- Rượu trắng dùng để đốt nóng một con chim bồ câu sau khi đã bỏ lông, chặt bỏ đầu và vứt bỏ tất cả bộ đồ lòng.
- 50 grm Hà Thủ Ô.
- 10 grm lộc nhung (gạc nai nón)
- 100 grm nhân sâm triều tiên.
Tất cả bỏ vào một cái tô, đổ thêm rượu trắng vào. Đốt lửa ở dưới tô nấu trong vòng năm mươi phút. Xong để nguội. Đem phơi nắng vài ba giờ để lấy hơi sương và không khí. Đoạn cho thêm rượu vào và nấu lần nữa trong khoảng ba mươi phút, lại để nguội và đem phơi nắng một lần nữa. Lần này khoảng hai mươi phút thôi. tất cả được đem ngâm vô rượu, thêm một chút mật ong. Niêm phong thật kín để trong chỗ mát (lấy hơi ấm).Ba tháng sau rượu đã có hiệu lực, dùng đưọc. mỗi ngày uống một ly nhỏ thì chẳng những vấn đề sinh lý mạnh mẽ mà các chứng bệnh do sinh lý quá độ cũng không thể phát sinh. Rượu Võ Hậu có tác dụng thức dùng đúng thời tiết theo phương pháp luyện cho thân thể khang kiện của tiên gia: mùa xuân thì dùng ý dĩ nhân, mùa hạ thì dùng đậu xanh, mùa thu thì ăn hạt sen, mùa đông thì ăn đậu phụng. Mỗi thứ ăn ba tháng trong năm.
10. Gần đây, ý dĩ nhân được dùng để phòng ngừa ung thư như trong y học mới.Ý dĩ nhân còn là thứ dược liệu dùng để bổ gan, lợi tiểu, giúp cho bao tử tiêu hóa mạnh mẽ.Ý dĩ nhân còn có công dụng ở các bệnh khác. Chẳng hạn bệnh mồ hôi chân, bệnh đường tiểu, bệnh bạch đản.Dối với các bệnh này bào chế như sau:
- Ý Dĩ Nhân một lượng
- 4 grm cam thảo
- đổ vô hai chén nước, nấu trong nữa giờ còn lại nữa chén.
Buổi sáng trước khi ăn sáng nữa giờ uống một lần. Dùng xác thuốc còn lại cho thêm nước vào nấu lại để uống nước nhì nữa giờ trước khi đi ngủ (ngày uống hai lần)
11. Ngày xưa người ta hay dùng hồ đào vì hồ đào là loại rất bổ cho việc tính giao. Hồ đào còn có tính chất làm cho ngủ ngon(trị bệnh mất ngủ) và chữa được vài trường hợp suy yếu thần kinh.
Ông Thái Nhất Phan nói rằng muốn cho dương vật cường tráng thì ăn hồ đào cả vỏ. Lần đầu ăn một trái, cách năm ngày tăng thêm một trái nữ a, cứ như vậy cho tới khi ăn mỗi ngày hai mươi trái thì mỗi ngày thì hiệu qủa trông thấy: thằng nhỏ cứng, nóng lúc nào cũng sẵn sàng lâm trận.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip