TRÍ TUỆ TUYỆT ĐỐI – TRÍ TUỆ BA LA MẬT
TRÍ TUỆ = TUỆ GIÁC
1. TUỆ GIÁC PHẢI LÀ SỰ KẾT HỢP CHẶT CHẼ GIỮA VĂN – TƯ – TU:
1- VĂN TUỆ: những thông tin đúng đắn cho sự tu luyện chứng đắc, cho sự thực tập có phẩm chất => tức là có sự chuyển hóa và nó đưa tới tuệ giác.
- Văn tuệ không nhất thiết là toàn bộ kinh điển.
Vì chúng ta biết rằng thời Đức Phật chưa có ghi chép kinh điển và phải mất rất nhiều trăm năm sau mới có kinh điển. Và kinh điển được truyền qua nhiều thế hệ qua nhiều quốc độ, qua nhiều sự biên tập. Vì vậy cho nên có những kinh điển chánh thống và kinh điển không chánh thống.
+ Làm sao chúng ta biết được kinh điển nào chánh thống và kinh điển nào không chánh thống? Mình chỉ nên y cứ liễu nghĩa kinh và không y cứ bất liễu nghĩa kinh. Làm sao chúng ta biết được kinh nào Liễu nghĩa? Cho nên chúng ta chỉ biết tin theo lời của 1 người Thầy nào đó thôi hoặc là mình nổ lực từ bản thân mình ra để nghiên cứu kinh điển.
+ Nếu chúng ta chỉ nghiên cứu Kinh điển ở Hán tạng thôi thì chúng ta sẽ bị giới hạn tầm nhìn ở Hán Tạng. Mình phải có khả năng nghiên cứu tiếng Bali, Tiếng Phạn, Tiếng Anh, tiếng Pháp,... để so sánh. Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Mình không thể tin hết trên tất cả Kinh điển. Vì đó là cách diễn dịch của người sau này, cách trình vày của người sau này, kể cả việc kết tập kinh điển đó là ý của vị kết tập Kinh điển đó, chứ chưa hẳn là đúng ý với Đức Phật. Cho nên chúng ta chỉ biết phải đợi đến chúng ta bước qua giai đoạn TƯ TUỆ bỏ ra rất nhiều thời gian để nghiền ngẫm, tiêu hóa tất cả những gì mình đã tiếp thu được. Ấy vậy mà còn chưa chắc, chưa chính xác nữa mà phải tới giai đoạn TU TUỆ khi mình bắt đầu hạ thủ công phu tu luyện thật sự. Mà mình phải tu trên những gì tiếp thu, chứ không phải tiếp thu 1 đường mà tu 1 pháp môn khác. VD mình tiếp thu bát nhã thì phải tu bát nhã, tiếp thu Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo thì phải tu trên đó,...thì mình mới hiểu được nó. Và càng tu thì càng hiểu ra và mình mới biết rằng những gì ghi trên Kinh điển nó rất là hạn chế, ngôn ngữ rất là giới hạn thậm chí là bất lực trong việc diễn đạt những ý nghĩa sâu sắc. Cho nên chúng ta không thể tin hết vào kinh điển là vậy.
@ Kinh Điển chúng ta có từ đâu?
- Một là đọc kinh điển, nhưng kinh điển thì cả 3 tàng kinh các, ta tha hồ mà đọc nhưng chúng ta đọc được bao nhiêu quyển => cho nên không thể nào đọc hết tam tạng kinh điển được. Dù chúng ta có một trí nhớ siêu phàm có thể đọc hết kinh điển nhưng điều đó chưa nói lên được gì cả, cái đó chỉ là chất chứa văn tuệ thôi. Mà bây giờ chỉ cần bộ nhớ máy tính là có thể chứa hết, trên mạng có rất nhiều,... cho nên chúng ta không cần nhồi nhét văn tuệ vào đầu. Vì chúng ta đã xác định rằng kinh điển còn chưa chắc chắn nữa mà cần phải có thời gian sàn lọc lại.
- Chúng ta có thể tiếp thu văn tuệ từ những vị Thầy đương đại trong các trường Phật học hay các buổi thuyết giảng mà chúng ta còn phải xem lại cái nhìn của các Vị Thầy ấy là như thế nào, Mấy vị này lấy hiểu biết này từ đâu, từ nghiên cứu quyển sách hay kinh điển hay học từ Trường Phật học hay học từ Thầy nào? Những vị đó có tu chứng không, có những phẩm chất lớn trong sự tu tập chuyển hóa không thì mình mới hy vọng tin được phần nào.
- Vì khi chúng ta đưa 1 thông tin vào trong đầu mình, nó có thể rất là tốt rất bổ dưỡng nhưng nó cũng có thể rất là nguy hiểm. Một thông tin sai dẫn đến những tư tưởng sai, quan niệm sai, hiểu sai hành trì sai không có kết quả đã đành mà còn phản tác dụng đưa đến những rũi ro nguy hiểm trong sự tu luyện.
=> Vì vậy cho nên VĂN TUỆ rất là quan trọng, những thông tin đưa vào đầu mình, đưa vào nhận thức của mình phải được sàn lọc rất là kỷ. Chúng ta chỉ nên tin vào những vị thầy nào mình hết sức kính trọng phẩm những phẩm chất tu tập của họ, bởi cái tuệ giác của họ mà mình thấy, mình tiếp xúc có thể tin tưởng được chứ đừng quá tin trên văn bản kinh điển hay sách vở.
@ Cho nên chỉ VĂN TUỆ là chúng ta đã thấy khó khăn rồi, vì những gì mình biết được nó chưa làm nên TUỆ. Cho nên những gì mình tiếp thu VĂN TUỆ từ kinh điển hay từ các vị thầy thì chúng ta cũng nghi ngờ là có chắc hay không, mình phải đặt câu hỏi, không nên phủ nhận cũng không nên tin liền mà phải tiếp tục tìm hiểu, phân tích mổ sẻ, tư duy.
@ Chúng ta học VĂN TUỆ thì phải phục vụ cho TUỆ còn trái lại là không nên tiếp thu, không nên quan tâm nhiều. Không phải đọc nhiều sách, nghiên cứu nhiều kinh điển càng nhiều càng tốt đâu. Có khi chúng ta có rất nhiều hiểu biết về Phật học nhưng có khi nó lại không liên quan gì đến nổi khổ niềm đau của mình hay mục đích đạt được tuệ giác lớn hay sự nghiệp trí tuệ cả.
@ Cho nên chúng ta phải xét lại những gì mình tiếp thu nó đủ nhiều chưa, có cần sàn lọc bớt, chắt lọc những tin hoa và đào sâu vào nó. Cho nên chúng ta chỉ cần học những bộ kinh nào căn bản nhất, mình chỉ nên học những phần cốt lõi của kinh điển thôi mà không cần học hết. Vì chúng ta chỉ cần 1 vài chiếc chìa khóa là mình có thể mở hết tất cả mọi cánh cửa. Chỉ cần nắm vững những giáo lý cơ bản cho tới những giáo lý sâu sắc mà chỉ cần nắm phần cốt lõi thì sau đó mình sẽ tự nghiên cứu được.
2- TƯ TUỆ:
ð Là Tư duy về Pháp hành, tư duy về cách để ứng dụng, về cách để thực hành và hiểu rõ các ý chỉ kinh điển.
Chúng ta phải đặt câu hỏi Làm sao để mà ứng dụng, làm sao để thực hành được giáo Pháp VD như Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, Tứ như ý túc, Bát nhã,... Mình cần rất nhiều thời gian để suy gẫm về vấn đề này.
Có thể lúc chúng ta tiếp thu mình hiểu khác nhưng qua giai đoạn buông bỏ hết kinh điển qua 1 bên không tiếp thu nữa, không đọc sách của ai nữa, ... mà dành thời gian tìm Phật ở bên trong. Cho nên đi tìm người thầy ở bên trong trước để mình soi rọi lại tất cả những gì mình hiểu biết được.
3- TU TUỆ: Tức là quá trình chuyên sâu
ð Cả 3 qúa trình VĂN, TƯ, TU có thể diễn ra cùng 1 lúc được nhưng thường không có chất lượng bằng tách ra từng giai đoạn. Điều đó cũng không có nghĩa là tách hẳn riêng biệt. Tất cả những thông tin đầu vào, tất cả những gì chúng ta suy tầm được dù chưa đưa ra được kết quả, chưa đưa đến sự giác ngộ nhưng nó vẫn hoạt động âm thầm dưới bề mặt của ý thức. Và tất cả những gì ta tiếp thu được, suy tư nó có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đời sống, tới cách nhìn nhận vấn đề của chúng ta, cách xử lý vấn đề của chúng ta mỗi ngày.
ð Cho nên việc tiếp thu kinh điển, được tiếp thu những pháp hành đúng đắn nó rất là lợi ích
2. TUỆ GIÁC PHẢI ĐẾN TỪ CHÁNH NIỆM VÀ TRỰC GIÁC
1- CHÁNH NIỆM:
Trong nhà thiền có một giáo lý, một phần thực tập cực kỳ quan trong đó là
"NHẬN DIỆN ĐƠN THUẦN"
ð NHÌN NHƯ CHÍNH ĐỐI TƯỢNG ĐANG LÀ
Thường chúng ta mắc phải Vọng tưởng hay Tri giác sai lầm, vì khi chúng ta nhìn vào 1 ai đó thường nhìn theo cái cách mình nghĩ mà chưa thật sự nhìn đúng bản chất thật sự về người đó, hoặc đúng 1 phần rất là nhỏ, hoặc là hoàn toàn sai.
Điều đó cho thấy rằng khi chúng ta nhìn vào 1 đối tượng bị chi phối bởi hoạt động của năm uẩn.
- Nếu THỌ ổn thì nhìn thấy khác, nếu THỌ bất ổn, VD khi bị KHỔ THỌ khống chế, đang khó chịu thì nhìn thấy khác. Còn đang LẠC THỌ thì nhìn thấy khác.
- Đến TƯỞNG cũng vậy, nếu mình đang bị cái TƯỞNG sai nó chi phối như những quan kiến, những thành kiến, những định kiến, Người đó đã từng làm sai với mình 1 lần rồi, người đó đã từng làm tổn thương mình rồi thì cái nhìn của mình về người đó không còn đúng nữa, cái nhìn bị vết thương chi phối.
- HÀNH UẨN: Khi nhìn thì trong mình có TÂM THAM, có TÂM SÂN, có buồn, vui, yêu ghét, có tất cả những tâm hành vận hành,...
- Đến THỨC: là những nhận thức đã được cài đặt 1 cách rất sai lệch, mặc định từ trước đến giờ cho nên ta nhìn vào đối tượng là 1 ai đó là sai.
ð Cho nên khi TU THIỀN chúng ta bắt đầu đặt cái NIỆM lên cái nhìn của mình. Mình bắt đầu học cách quan sát cái gì đang diễn ra. Trong khi chúng ta quan sát thì 5 uẩn vẫn đang tiếp tục hoạt động, vẫn bị THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC đang chi phối, kể cả SẮC cũng đang chi phối. VD thân thể ta đang bệnh, đang bất ổn, trong người không khỏe thì khi nhìn vào đối tượng cũng thấy khác.
ð Vì chúng ta có khả năng là quan sát chính sự quan sát của chúng ta. Cho nên chúng ta nhìn vào cái TÂM mình đang còn rất lăn săn, cái tâm còn bất ổn, cái tâm còn phiền não, cái tâm còn thành kiến, định kiến thì nó qua cái lớp quan sát của chính sự quan sát thì nó lọc lại => thấy mình đang nhìn lên đối tượng với cái tâm đầy sợ hải, với cái tâm đầy vướn mắc tình cảm thì bắt đầu CHÁNH NIỆM sẽ lọc lại.
ð Quan sát của chính sự quan sát thì mới gọi là CHÁNH NIỆM.
ð Trong CHÁNH NIỆM thì không thành kiến, định kiến.
- Thành kiến: là cái mình đã trãi nghiệm qua rồi, có thể cho ta 1 kinh nghiệm rất tuyệt vời, rất là ưa thích hoặc hoàn cảnh, đối tượng đó cho mình 1 trãi nghiệm rất là tệ và mình mặc định luôn là hoàn cảnh đó xấu hoặc đối tượng đó tệ hại như vậy.
- Định kiến: là quan điểm của người khác để lại và mình sử dụng. Có thể quan kiến, định kiến từ nhiều đời, từ ông bà tổ tiên từ nhiều thế hệ truyền xuống và mình không xét lại mà mình lấy sử dụng luôn.
ð 5 chất liệu chính của CHÁNH NIỆM:
+ Không thành kiến, định kiến;
+ Không đàn ép, ép uổn;
+ Không có dán nhãn hiệu;
+ Không bỏ thêm thái độ vào;
+ Không có sự đồng nhất.
ð Khi mình quan sát lên 1 đối tượng kèm theo 5 yếu tố cơ bản của CHÁNH NIỆM thì NIỆM sẽ biến thành CHÁNH NIỆM.
ð Nhờ ánh sáng CHÁNH NIỆM mà tất cả những cái chúng ta đã biết sẳn về đối tượng sẽ bị rơi rụng; và lúc bấy giờ đối tượng hiện ra như thế nào thì chúng ta sẽ nhìn thấy đối tượng như thế ấy. Mà nó không còn tùy thuộc vào chúng ta nữa, chúng ta tiếp xúc đúng ngay sự thật đối tượng đang hiện ra => Được gọi là nhận diện đơn thuần.
ð NHÌN NHƯ CHÍNH NÓ ĐANG LÀ
ð Vì chúng ta thường nhìn đối tương như mình đang là, mình như thế nào thì nhìn đối tượng như thế ấy.
ð Câu hỏi đặt ra là " Khi mình nhìn mọi thứ như mình đang là" thì sao? Đang có vấn đề thì sao? Thì khi Thiền Vipasana sẽ cho phép luôn, mình cứ nhìn như mình đang là; Nhưng mình hãy quan sát chính cái vấn đề của mình, chính cái vẫn đục trong lòng của mình thì tự động nước đục sẽ biến thành nước trong. Từ Niệm sẽ tự động biến thành Chánh Niệm. Từ Nhận diện chưa đơn thuần từ từ sẽ trở thành Nhận diện Đơn thuần. Nếu mình cứ tiếp tục quan sát cái nhìn của mình.
ð Từ cái nhận diện đơn thuần nó sẽ biến thành TRỰC GIÁC.
2- TRỰC GIÁC:
VD như buổi sáng thức dậy nhìn 1 giọt sương trên chiếc lá bổng nhìn thấy các pháp ở trong đó, khi mình ăn bổng dưng mình nhận ra mình không chỉ là thân mạng này mà các Pháp ngoài kia đều là thân mạng của mình tự dưng mình trỗi lên lòng biết ơn vô hạn đối với các pháp đang không ngừng tương tác nuôi dưỡng mình. Khi mình nhìn thấy 1vị sư thì mình ý thức đây là 1 vị Phật tương lai,...
ð Tất cả những cái thấy đó chính là kết quả của TUỆ. Mà nó đến 1 cách rất thình lình nhưng nó không phải ngẫu nhiên mà nó đến, mà nó phải qua quá trình của VĂN, TƯ, TU => một ngày nó sẽ đưa ra cái thấy, mà cái thấy này đặc biệt là không có bóng dáng của kiến thức tích lũy và kinh nghiệm tích lũy.
ð Nhưng cũng không hoàn toàn đúng, vẫn có liên quan nhưnng nó phải qua quá trình tiêu hóa, nếu nó còn là chất liệu thô chỉ là những kiến thức mà mình chẳng hiểu gì nó, chưa bao giờ suy tầm về nó, chưa bao giờ trãi nghiệm về nó thì không thành TUỆ GIÁC được. Nó phải qua quá trình chuyển hóa tất cả những kiến thức đó. Và đó cũng là một phần ứng dụng trong đời sống và một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy.
- Trực giác là cái thấy bất ngờ về một sự kiện gì đó xảy ra mà nó đang gần với TUỆ GIÁC. Là tiền đề của Tuệ Giác.
- Tự nhiên trong người mình có cái thấy bất ngờ mà khi đối chiếu với so sánh với văn tuệ, với kinh nghiệm của Phật của Tổ y chang, phải đồng màu đồng chất chứ khác màu khác chất là không được, là có vấn đề cần phải xem lại.
- TUỆ GIÁC là không thể tạo ra bằng cách cố tạo ra bằng nhiều cách như ngồi thiền hàng giờ,...mà Tuệ giác đến những lúc mình thông thả nhất, bình an nhất, nhẹ nhàng nhất, không mong cầu, không tìm kiếm. Nhưng mình vẫn đang trên PHÁP HÀNH phát triển Chánh Niệm.
- TUỆ GIÁC là một phần hoa trái của Chánh Niệm, cho nên phải có Chánh Niệm đang vận hành và Chánh Niệm phải ở mức độ đặc biệt nữa gọi là ĐÀ CHÁNH NIỆM.
- ĐÀ CHÁNH NIỆM: tức là mình thực tập Chánh Niệm làm sao mà nó trở thành thuần thục đến mức mà mình không cố gắng lắm nhưng mình vẫn cứ Chánh Niệm, nó trở thành hơi thở tự nhiên, trở thành một đời sống tự nhiên (giống như đời sống tự nhiện của chúng ta là Thất Niệm vậy) => Bây giờ đời sống tự nhiên của chúng ta trở thành Chánh Niệm ở mọi lúc mọi nơi (mà không phải chỉ ở trong 1, 2, 3, 4, 5 giờ ngồi thiền) mà phải là bất cứ lúc nào, ở đâu, làm gì thì mình cũng đều có Chánh Niệm.
- Khi đã đạt được đến Đà Chánh Niệm thì mới trông mong có được TRỰC GIÁC, có Trực Giác rồi thì mới trông mong có Tuệ Giác.
- Trực giác là cái thấy nhất thời không có duy trì liên tục còn Tuệ Giác là vĩnh viễn, sống trong cái Tuệ Giác đó vĩnh viễn.
ð Khi Trực giác bước ra là trong đó không có suy nghĩ, không lý luận, không có phân tích. Trực giác Là cái thấy mới hoàn toàn mà chưa nghe ai nói trong văn tự. Cái thấy từ nơi chính mình nhưng cũng phải có từ kinh nghiệm, từ kiến thức đã được sàn lọc tiêu hóa không còn ở dạng thô nữa.
ð Tại thời điểm của Trực Giác sinh khởi tuy rằng không có sự tham dự trực diện, biểu hiện rõ rệt của kiến thức của kinh nghiệm nhưng nó ngấm ngầm ở bên trong, chứ không thể nào không có nó được. Cho nên chúng ta vẫn phải học vẫn phải tư duy.
3. TUỆ GIÁC PHẢI ĐẾN TỪ TÂM QUÂN BÌNH, BUÔNG XẢ VÀ SÁNG SUỐT:
ð TÂM BÌNH THƯỜNG: là tâm mình không thấy có cao với thấp, có sạch với dơ, có trên với dưới, có trong với ngoài, có đến có đi,... Đây là những cặp đương đãi, nếu mà mình nằm một trong những phạm trù này thì tâm mình không có bình thường.
ð BÌNH THƯỜNG = BÌNH ĐẲNG: Thấy các Pháp bình đẳng. Người nào mà nhìn thấy được cái thấy này thì mới thấy được cốt lõi của Đạo.
ð Trước khi có TUỆ GIÁC thì tâm mình phải quân bình trước.
1- QUÂN BÌNH: cũng chưa bình thường lắm nhưng ít nhất không có yếu tố hoặc có rất ít của Tham với Sân. Cũng được gọi là Tâm đang khá yên ổn = bình an = không có Tham, Sân chi phối.
ð Trước khi có TUỆ GIÁ thì chúng ta phải rất là ổn, người sắp có tuệ giác hoặc đang trên con đường có tuệ giác tuyệt đối là họ đã có những tuệ giác nhỏ nhỏ rồi, họ có những cái thấy sâu sắc đó là họ dễ chấp nhận mọi thứ diễn ra, ít chống đối hay loại trừ và họ cũng ít có phân biệt những cặp phạm trù cao/thấp, sạch/dơ, trên/dưới, trong/ngoài,... Không mắc kẹt vào việc phải tôn vinh tôi, phải ngồi trên, hay bị hạ thấp, hay tôi không nên ngồi dưới...
ð Một người đang sống trong chất liệu của Tuệ Giác tâm họ lúc nào cũng quân bình. Người luôn giữ sức khỏe ổn định và tin thần ổn định, có thể họ sử dụng trên ý chí họ rán cố gắng để được như vậy nhưng cũng có thế đến từ sự tự nhiên của sự tu luyện. Từ có được phong độ ổn định họ đạt được tâm quân bình, lúc nào cũng điều điều, vững chảy, bình an, không có sóng gió, không có trào lộng, không có lên xuống thất thường.
2- Có nền tảng của TÂM BUÔNG XẢ:
ð BUÔNG XẢ: là Không nắm bắt (= buông ra, Không chụp bắt); Không dính mắc (không vướn kẹt); Không chấp thủ (không bảo thủ, cố chấp).
ð Cái tâm lúc nào cũng thư giản, thoải mái, không phải là phải như thế này mới được, phải như thế kia mới được. Không muốn rượt đuổi để điều khiển đối tượng, hoàn cảnh xảy ra đúng với ý của mình; Chấp nhận hết mọi thứ đang diễn ra.
3- TÂM PHẢI SÁNG SUỐT:
TUỆ GIÁC là một cái gì đó của mặt trời, của sự sáng suốt vĩ đại, tỏa sáng vĩ đại.
ð Chúng ta phải thường trực sống trong vùng ánh sáng nhìn là thấy. Đặc biệt là mình phải thấy PHIỀN NÃO đang giật dây và thấy các PHÁP bên ngoài là vô thường để không dính mắc, không nắm bắt. Thấy các Pháp đến rồi đi, mình vẫn điềm nhiên ngồi đó quan sát.
ð TÂM SÁNG SUỐT: phải biết là cái này có giật dây của phiền não hay không, là nhìn thấy tâm mình có bình an hay không bình an. Tại sao bình an, bình an đến từ bên trong hay đến từ bên ngoài? Cái Phiền não này từ đâu mà ra, từ sự tự ái, từ sự chấp thủ, từ sự tổn thương tâm lý phải không? => Phải thấy hết.
è Trước khi có TUỆ GIÁC toàn vẹn để đi đến TUỆ GIÁC BA LA MẬT thì chúng ta phải thường trực sống trong ít nhất 3 chất liệu QUÂN BÌNH, BUÔNG XẢ và SÁNG SUỐT.
ð TUỆ GIÁC chỉ có thể đến trong lúc chúng ta thư giản nhất, buông xả nhất, quân bình nhất, sáng suốt nhất.
ð TUỆ GIÁC tìm là không thấy, không tìm thì mới gặp. (Mà nếu không tìm cũng không Tu nữa thì cũng se không gặp; Không Tìm mà cũng không có Chánh Niệm, cũng không có Đà Chánh Niệm thì cũng không gặp luôn).
4. TUỆ GIÁC PHẢI LÀ CÁI THẤY VÔ NGÃ:
TUỆ GIÁC của NGÃ hay là TUỆ GIÁC của VÔ NGÃ?
- "Chúng ta đang không tu một mình mà chúng ta đang tu cùng với đất trời, tu cùng với vạn pháp".
- Nếu không có sự vận hành thuận lợi của vạn Pháp, vạn Duyên thì mình làm sao tu được. Nếu mình không gặp được Người Thầy lớn, Người Thầy vĩ đại có nhiều phẩm chất thì ai chỉ mình con đường trong một đống kinh điển mênh mông vô cùng như vậy. Nếu mình không gặp được những kinh bản đúng đắn, những chánh kiến thì ai soi đường chỉ lối cho mình. Nếu chúng ta không có những thứ giản dị hằng ngày mà mình tiếp túc và không ngừng nuôi dưỡng mình như là Không khí, Nước, thực phẩm, Ánh nắng mặt trời, Không có tu viện, không có Thầy tổ, không có ông bà cha mẹ, tổ tiên thì ai Giác Ngộ. Không có cái gì tách ra khỏi các thứ đó mà có thể tồn tại được. Cho nên trước khi mình Giác Ngộ thì mình vốn là một hợp thể vô ngã rồi.
- Ta vốn là một hợp thể vô ngã (có điều chúng ta không thấy, chúng ta không tin, chưa thật sự thấy hoặc chỉ thấy chút chút).
- Nếu mình tin rằng mình chứng đắc trên một cái NGÃ => là sai, đây không phải là Giáo lý chánh thống của Đạo Phật. Mà phải là một hợp thể VÔ NGÃ đang chứng đắc. Do là một hợp thể Vô Ngã chứng đắc nên không có gì để tự hào và kiêu ngạo hay thấy mình hơn người khác.
ð Trong Kinh Tứ Thập Nhị chương có câu:
- Tu -> Vô Tu -> Tu – Tu nhưng thấy mình không có Tu -> thì mới gọi Tu
- Hành -> Vô Hành -> Hành – Hành nhưng thấy mình không có Hành -> Hành
- Chứng -> Vô Chứng -> Chứng – Chứng nhưng thấy không có Chứng -> Chứng.
ð Mình đang là một hợp thể Vô Ngã vì mình không nhận ra cho nên mình tin mình có Ngã. Nhưng trong sự thật mình là hợp thể Vô Ngã cho nên tất cả những gì liên quan đến cái hợp thể này, những sản phẩm tạo ra, những kết quả thành tựu đều là Vô Ngã.
ð Vì nó VÔ NGÃ nên nó VÔ THƯỜNG. VÔ THƯỜNG óVÔ NGÃ
ð Cho nên mình hiểu Khi mình đạt cái gì của mình thì nó mới thỏa mãn, mới đã. Nhưng Đức Phật lại nói "Không", "Khi mình đạt được cái không phải là của mình thì nó mới đã hơn, mới tuyệt vời hơn, mới tự do hơn, mới rộng lớn hơn".
ð Khi một cái Ngã đang vận hành thì mình chấp nhận là CÒN NGÃ (mặc dù bản chất là Vô Ngã), mình đang tin và đang sông với cái NGÃ. Nhưng cộng với Chánh Niệm (một sự quan sát thuần khiết) thì sẽ có hy vọng đi về Vô Ngã.
ð NGÃ + CHÁNH NIỆM => VÔ NGÃ
ð Mà muốn Chánh niệm quan sát được cái NGÃ thì chỉ có quan sát TÂM. Cho nên chúng ta cần phải học rất sâu, rất giỏi về QUÁN TÂM trong mọi lúc mọi nơi thì chúng ta mới ra được cái VÔ NGÃ.
ð Còn nếu chúng ta tu mà chỉ xây dựng Định hay những cái gì không có liên quan tới tâm, không có thấy được sự bám víu, sự sinh khởi, cái sự chống đối, sự loại trừ nói chung tất cả những phiền não từ căn bản cho đến sâu sắc thì mình sẽ vô tình xây dựng 1 cái Ngã dù mình đang rất là chuyên Tu. Dù tu rất quyết liệt nhưng vẫn xây dựng 1 cái Ngã. Mà còn Ngã là còn đau khổ.
5. TUỆ GIÁC PHẢI LÀ CÁI THẤY VỀ BẢN THỂ:
Chúng ta có 2 thế giới gọi là: Thế giới của hiện tượng (Tích môn) và Thế giới của Bản Thể (Bản môn).
- VD như chiếc lá bồ đề: Chiếc lá là hiện tượng, trên mặt hiện tượng thì ta thấy chiếc lá bồ đề rất dễ phân biệt với chiếc lá khác cũng giống như người này có dáng dấp khác với người kia, có giọng nói, tính cách để khi tiếp xúc mình biết người này không phải người kia => Cái này gọi là Hiện Tượng.
- Trên mặt hiện tượng thì chiếc lá bồ đề nó sẽ khác với chiếc lá cao, chiếc lá khế, chiếc lá thông,... => hiện tượng thì có sự khác biệt.
1- Trên Thế giới Hiện tượng thì có sự khác biệt và mắt chúng ta thấy như vậy=> Thế giới hiện tượng được gọi là SẮC. SẮC là thế giới của hiện tượng là những gì chúng ta có thể nhìn thấy được, tiếp xúc được.
- Nhưng rõ ràng vì chúng ta là kẻ phàm phu, chúng ta là 1 chúng sanh bình thường, chúng ta còn rất phiền não nên cái thấy của chúng ta còn rất giới hạn. Những gì chúng ta nhìn thấy nó không hẳn là như vậy. Nói như các nhà khoa học là "Đó là Cái chúng ta đang nhìn nó chỉ hiện lên đúng với cái trình độ chúng ta đang có". Có khi trình độ chúng ta thay đổi lên xuống thất thường chứ không giữ mãi 1 trình độ đó.
"Thanh thủy bản vô ưu - Nhân phong tằng diện
Thanh sơn giai bất lão - Vị tuyết bạch đầu".
ð "Bản chất mặt hồ vốn không có buồn rầu nó không có nhăn nhó, không có lau xao, vì bản chất mặt hồ vốn là tĩnh lặng, nhưng khi mình đi ngang qua thấy mặt hồ lau xao, nhăn nhó là do gió mà làm cho mặt hồ nhăn, gió tác động".
- Một cái tác động nào đó từ bên ngoài hoặc do phiền não từ bên trong làm cho 1 người nhìn có vẻ buồn bả, nhăn nhó => thì ta nói người này khó chịu quá, người này sân si => mình mặc định người này là như vậy=>là sai, cái nhìn nhận sai lầm.
- Vì bản chất con người là trong trẻo, là bình an là dễ thương nhưng vì phiền não khống chế, bị tác động ngoại cảnh nên trên mặt hiện tượng hiện ra 1 con người không dễ thương, 1 con người phiền não. Nếu mình nhìn vào người này mà mình có phản ứng nghĩa là mình đang tin người này thật là như vậy => Mình mắc kẹt vào thế giới của hiện tượng. Mình nhìn vào một người nào đó thì mình phải thấy được bản chất của họ không phải như vậy.
" Không có con người sai lầm mà chỉ có Hành động sai lầm"
- Hành động là 1 phần của con người và hành động này là vô thường nó sinh rồi nó sẽ diệt, mà bản chất con người là 1 cái gì đó rất rộng lớn chứ không phải chỉ là một hành động đó. Cho nên chúng ta kết luận 1 ai đó là kẻ xấu là chúng ta đang kết luận trên thế giới của hiện tượng.
- Nếu một người phạm tội thì phải cho cải tà quy chánh, và cái phạm tội này chỉ xảy ra trên 1 tâm thức sai lầm nhất thời thôi, 1 cơn cảm xúc không thể kiềm chế thì nó là thế giới của hiện tượng, mà nếu mình chỉ sống trong thế giới hiện tượng thì mình không phải là học trò của Đức Phật.
- Mình phải sống với thế giới của bản chất, của bản thể và phải tập đánh thức những người xung quanh cùng sống trong thế giới của bản thể.
ð " Ngọn núi xanh vốn nó không có già nhưng vì tuyết phủ mùa đông cho nên nhìn từ xa ta tưởng đó là ngọn núi tuyến, ngọn núi trắng, ngọn núi già, chứ khi nắng về, mùa xuân đến thì tuyết sẽ tan ngọn núi sẽ xanh trở lại, cái xanh nó còn ở bên trong, sự thuần khiết, sự dễ thương còn ở bên trong còn cái không dễ thương, cái khó chịu chỉ là hiện tượng ở bên ngoài".
ð Đây là VD cho thấy rõ rằng "Chúng ta đang bị mắc kẹt rất sâu nặng trong thế giới của Hiện tượng". Trong khi đó chúng ta đang sống trong 1 thế giới khác và nó không ngừng chi phối ảnh hưởng đến chúng ta đó là thế giới của BẢN THỂ.
2- Thế Giới Bản thể:
Trở về với ví dụ chiếc lá: Chiếc lá là 1 hiện tượng, Nhưng hợp thể để làm nên chiếc lá đó là Không phải lá như Mặt trời, Gió, Không Khí, Nước, Mây, Khoán chất, côn trùng,...( gọi là Phi lá) => Đây gọi là Bản thể của Chiếc lá.
" Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc" -> Ngũ uẩn giai không.
" KHÔNG": ở đây là bản chất trống rổng vì nó là một hợp thể không có 1 cái ngã riêng biệt. Trong Bản thể thì không có Ngã.
" Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC"
Khi chúng ta tu nếu chỉ nhớ "Sắc tức thị không" nên chúng ta mới đi tìm KHÔNG, chúng ta đi tìm thế giới của Hiện tượng, của bản môn. Vậy chúng ta tìm ở đâu để được thấy VÔ NGÃ? => Chúng ta tìm ngay ở cái NGÃ.
Muốn tìm KHÔNG thì phải tìm ngay ở SẮC => chúng ta phải đem cái NGÃ ra tu, không sợ không chối bỏ, còn NGÃ thì cứ tin là còn NGÃ nhưng đưa ánh sáng CHÁNH NIỆM vào, đưa sự tỉnh giác vào thì bắt đầu lọc lại từ NGÃ sẽ đi về VÔ NGÃ.
Cho nên chúng ta Tu thì phải "Tùng tướng nhập Tánh": không bao giờ mình đi tìm TÁNH được cả, không bao giờ mình có thể chạm được cái vô ngã liền từ bây giờ được. mà mình phải đi từ TƯỚNG, xuyên qua TƯỚNG, không kẹt vào Tướng thì mới tìm ra TÁNH được.
Lấy Chánh Niệm để xuyên qua NGÃ mới đi ra được cái VÔ NGÃ; soi rọi sự vận hành của NGÃ, của Tâm Tham, của Tâm Sân, của Tâm Si liên tục thì NGÃ sẽ biến thành VÔ NGÃ. TƯỚNG sẽ trở về TÁNH.
6. TUỆ GIÁC PHẢI SÔNG HÀNH VỚI TỪ BI:
Nếu TUỆ GIÁC đứng ra riêng 1 bên, tách ra khỏi Từ Bi thì chúng ta phải xét lại rất nhiều TUỆ GIÁC này?
ð TUỆ GIÁC là: một cái thấy về bản chất chân thật của chính mình và của vạn pháp => là VÔ NGÃ.
Ta thấy như vậy, hành xử như vậy, sống như vậy thì mới gọi là thực chứng; nếu mà thấy như vậy mà sống khác, hành xử khác thì đó chỉ là cái thấy xẹt ngang qua.
ð Trong cái thấy VÔ NGÃ thì ta thấy các Pháp tùng duyên sinh, tùng duyên diệt => các pháp phải có sự kết nối, sự gắn kết, sự tương tác, sự hỗ trợ, sự nuôi dưỡng qua lại với nhau. Không có 1 Pháp nào đứng riêng mà có thể tồn tại được.
ð Từ đó mới đưa tới cái thấy là: " Không có một pháp nào tồn tại riêng biệt".
ð Theo đó đối tượng này luôn tác động qua lại với đối tượng kia và xảy ra với vạn vật, vạn sự, vạn Pháp.
ð Do sự tương tác, nương tựa qua lại đó cho nên chúng ta biết được nhờ vạn vật, vạn sự nên chúng ta mới sinh khởi và tồn tại => chúng ta sẽ sinh ra lòng biết ơn; sẽ nâng đỡ, sẽ sẻ chia, sẽ hy sinh và sẽ yêu thương không điều điện.
ð TỪ BI: là một tình thương lớn, thương mà không có điều kiện, như thế nào cũng thương.
ð TƯƠNG TỨC: Vạn vật = Vạn sự = Tất cả các đối tương, mà không còn tách biệt nữa.
ð Trong TUỆ GIÁC: Vạn vật, vạn sự không còn tách rời nhau nữa.
- Nếu chúng ta phân biệt đối tượng này với đối tượng kia: Đó là thế giới của hiện tượng.
- Còn đối tượng này = chính là đối tượng kia.
ð Thấy được BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ: là thấy tất cả các Pháp đều bình đẳng như nhau, tất cả chúng ta đều chung 1 dòng sinh mệnh.
ð TỪ BI sẽ đạt đến đỉnh cao là khi vạn sự, vạn vật nuôi dưỡng qua lại lẫn nhau=> cũng giống như nuôi dưỡng chính mình, không có gì là phân vân hay đặt điều kiện cả.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip