ứng dụng thực tiễn
1. Khái niệm “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”.
a. “Cái riêng”.
Cái riêng là phạm trù triết học, dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định (Trang 228 Sđd).
Ví dụ:
- Cái bàn học, cái bàn ăn, cái bàn làm việc
- Ngôi nhà ở, ngôi nhà để học (giảng đường), ngôi nhà để vui chơi (câu lạc bộ).
- Cây cam, cây quýt, cây bưởi, cây hồng.
- Người Việt Nam, người Pháp, người Châu Phi
- Ngành khai thác thủy sản, ngành nuôi trồng thủy sản, ngành cơ khí tàu thuyền và các ngành khác ở trong trường.
Mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi ngành nghề trên được gọi là một cái riêng.
b. “Cái chung”.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. (Trang 228 sđd)
Ví dụ: Những ví dụ nêu ở mục a. đều là những sự vật hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày mà chúng ta thường gặp là những cái riêng lẻ (là cái riêng) nhưng chúng lại có những mặt giống nhau.
+ Những cái bàn, cái nhà được làm bằng những vật liệu giống nhau: gỗ, đinh, gạch, ngói, xi măng…
+ Các loại cây: có mặt chung là cây ăn quả, là thực vật, là quang hợp ánh sáng mặt trời tạo chất diệp lục.
+ Các ngành tuy khác nhau nhưng có điểm chung đối tượng tác động vào là thủy sản, phát triển nền kinh tế thủy sản, nền kinh tế biển.
+ Con người là cái riêng: Châu Á, Châu Âu, Châu Phi hay màu da khác nhau nhưng đều có cái chung: biết lao động có mục đích, có trí tuệ, biết sáng tạo.
c. Cái đơn nhất.
Cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”.
“cái đơn nhất” là phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
Ví dụ:
- Thủ đô Hà Nội: là một “cái riêng” ngoài những đặc điểm giống các thành phố khác ở Việt Nam còn có những nét riêng mà các thành phố khác ở Việt Nam không có: có phố cổ, có Hồ Gươm, có nhiều di tích, có những nét văn hóa truyền thống chỉ có Hà Nội mới có.
- Giai cấp vô sản Việt Nam là một “cái riêng” ngoài những điểm giống như giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển, còn có những nét riêng: nó ra đời cùng với sự khai thác thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp, không gắn liền với nền đại công nghiệp cơ khí, xuất thân từ giai cấp nông dân… chỉ có giai cấp Việt Nam mới có.
- Sinh viên Đại học Thủy sản là một “cái riêng”, ngoài những điểm giống với sinh viên ở các trường khác, nó còn có cái đặc thù chỉ ở sinh viên đại học Thủy sản mới có mà thôi đó là những ngành truyền thống.
- Các ngành ở trong trường là “cái riêng”, cũng phân tích như trên.
. Quan hệ biện chứng giữa “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”.
a. Các trường phái triết học trước Mác về mối quan hệ giữa “cái riêng” và “cái chung”.
- Phái duy thực: Cho rằng “cái riêng” chỉ tồn tại tạm thời thông qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có “cái chung” mới tồn tại vĩnh viễn thật sự đối lập đối với ý thức của con người.
+ “Cái chung” không phụ thuộc vào “cái riêng” sinh ra cái riêng.
+ Đại diện: Platon
+ Ví dụ: Bên cạnh cái cây riêng lẻ có ý niệm cái cây nói chung tồn tại mãi mãi, còn cái cây riêng lẻ có ra đời tồn tại tạm thời rồi mất đị.
Bên cạnh sinh viên riêng lẻ vào trường nhập học tạm thời ở trong trường 4,5 năm rồi ra trường, sinh viên khác lại vào và ra như vậy. Còn có khái niệm sinh viên nói chung tồn tại mãi mãi gắn với trường.
Như vậy có nghĩa là “cái riêng” do “cái chung” sinh ra.
- Phái duy danh cho rằng:
+ Chỉ có “cái riêng” mới tồn tại thực sự, còn cái chung là những tên gọi trống rỗng, do tư tưởng con người bịa ra, không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm.
Ví dụ:
+ Khái niệm con người
+ Đấu tranh giai cấp
+ Cách mạng xã hội, vật chất, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm
+ Khái niệm sinh viên nói chung
=> Không có ý nghĩa gì trong cuộc sống.
Đại biểu:
Quan điểm của chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh đều sai lầm, họ tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung hoặc ngược lại.
b. Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Cho rằng cái riêng, cái chung, cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau được thể hiện:
- Thứ nhất: “cái chung” chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu thị sự tồn tại của mình (Không có cái chung thuần túy, tồn tại độc lập bên cạnh cái riêng).
Ví dụ:
+ Không có một cái cây nói chung nào tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể; những cây trên đều có những đặc tính chung, có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng hóa, dị hóa để duy trì sự sống.
+ Không có một khái niệm chung “động vật có xương sống” nào tồn tại bên cạnh những con “chim”, “con cá”, “con rắn”, “con bò” cụ thể; những loại con này đều có đặc điểm chung: có bộ xương vững chắc, vận động, có quá trình đồng hóa, dị hóa để duy trì sự sống.
+ Không có một khái niệm “sinh viên Đại học Thủy sản” nào lại không gắn liền với một ngành truyền thống nhất định (trừ một số chuyên môn có tính chất đa ngành).
- Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung (không có cái riêng tuyệt đối).
Ví dụ:
+ 1 động vật nào đó là một cái riêng, nó chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung đó là quy luật đồng hóa và dị hóa.
+ Một con người là một cái riêng (không thể tồn tại độc lập được mà phải gắn liền với thế giới tự nhiên (vật chất hữu cơ) và xã hội loài người (quan hệ với mọi người).
+ Một nền kinh tế của một quốc gia nào đó không thể tồn tại một cách độc lập mà phải gắn liền với quy luật chung (quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất), quy luật cung cầu, quy luật giá trị… )
+ Sinh viên trường Đại học Thủy sản là cái riêng nó chỉ tồn tại gắn liền với cái chung: là một khoa chuyên ngành truyền thống, gắn liền với quy trình đào tạo, đào thải, quy trình rèn luyện phẩm chất và gắn liền với nội quy nhà trường.
- Thứ ba: Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
+ Cái riêng là cái toàn bộ phong phú hơn cái chung vì: ngoài đặc điểm giống với nhiều cái khác, cái riêng còn có cái đơn nhất, cái đặc thù chỉ nó mới có.
Ví dụ:
Giai cấp công nhân Việt Nam là “cái riêng” bên cạnh cái chung với giai cấp công nhân ở các nước trên thế giới bị bóc lột của giai cấp tư sản, giai cấp không có tư liệu sản xuất… lao động gắn liền với máy móc và có tính chất xã hội… Giai cấp công nhân Việt Nam còn có những những đặc điểm riêng: xuất thân từ giai cấp nông dân, ra đời gắn liền với việc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cho nên gần gũi với giai cấp nông dân, bị chủ nghĩa đế quốc thống trị. Những đặc điểm đó khác với giai cấp công nhân các nước tư bản chủ nghĩa.
- Cái chung sâu sắc hơn cái riêng là cái bộ phận: vì cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng.
+ Cái chung chỉ phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
+ Do cái chung gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại phát triển của cái riêng.
Ví dụ: đồng hóa dị hóa là cái chung nằm trong tất cả ở thế giới sinh vật: nó mang tính chất bản chất tất nhiên của cái riêng, một sinh vật là cái riêng nó còn tính đặc thù, đơn nhất của nó nữa.
- Thứ tư: cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật vì:
+ Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu nó ở dạng đơn nhất và hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái phổ biến.
+ Cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới dần trở thành cái đơn nhất (trang 231 giáo trình sđd)
+ Quá trình chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ, còn chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất thì ngược lại biểu hiện cái cũ lỗi thời bị phủ định.
Ví dụ:
- Sự thay đổi một đặc tính nào đó của sinh vật xuất hiện ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới cho nên đặc tính nó được bảo tồn ở nhiều cá thể và nhiều thế hệ.
- Một sáng kiến của một anh hùng lúc đầu là cái đơn nhất được nhiều người học tập trở thành cái phổ biến.
- Khoán sản phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một vài tỉnh sau trở thành cái phổ biến.
- Vận động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo thực hiện ở một số ngành kinh tế - sau trở thành chung.
3. Ý nghĩa và phương pháp luận.
- Chúng ta chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý niệm chủ quan của con người, bên ngoài cái riêng.
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất, chi phối mọi cái riêng. Thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phân biệt, phát hiện cái chung vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng.
- Chúng ta phải nắm cho được các nguyên lý chung và những quy luật tức là chúng ta phải có trình độ lý luận. Khi đó hành động của chúng ta không mù quáng và có mục đích sẽ có hiệu quả hơn.
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, như là một bộ ohận của cái riêng -> Kết luận rút ra bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp cụ thể cũng cần được cá biệt hóa (chống bệnh giáo điều, dập khuôn). Tuyệt đối hóa cái riêng sẽ rơi vào bệnh cục bộ địa phương.
- Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta là trí tuệ toàn Đảng, toàn dân, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, phản ánh xã hội nước ta một cách sâu sắc; định hướng nền kinh tế nhiều thành phần với các biện pháp cụ thể: kinh tế, hành chính, giáo dục.
Ví dụ:
- Muốn nhận thức được một quy luật phát triển nào đó của nền sản xuất của một nước nào đó phải nghiên cứu phân tích so sánh quá tình sản xuất thực tế ở một giai đoạn khác nhau, ở những khu vực khác nhau mới tìm ra được mối liên hệ chung.
- Xem xét một phong trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh thần thi đua đó ở từng tổ, từng người sau đó liên hệ lại với nhau.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip