Quyển 1 chương 1: Tứ thập tứ trủng (44 ngôi mộ)
Thế giới mênh mông không có chuyện kỳ lạ gì là không có, trước đây tôi thường nghe người ta nói như thế, nhưng bao giờ cũng vậy, khi sự việc ly kỳ xảy ra với bản thân, tôi lại bắt đầu nghi ngờ tính chân thực của câu nói đó.
Sau khi nghe xong câu chuyện của "ông nội", tôi thần người hồi lâu mới bừng tỉnh, cảm giác như thể đã trải qua một đời người. Sở dĩ tôi thêm dấu ngoặc kép bên ngoài hai chữ ông nội là vì ông không phải là ông nội ruột của tôi. Chỉ là cha tôi do một số nguyên nhân đã đổi sang họ của ông, ngay cả cái tên Phan Mộc Dương của tôi cũng là do ông đặt cho. Trong ấn tượng của tôi ông nội luôn là người thần bí, bất kể mùa đông hay mùa hè ông cũng đều chỉ mặc một chiếc áo bông màu đen rách rưới lòi cả bông bên trong ra, tóc tai bù xù, ánh mắt xa xăm, nét vui vẻ dường như không thuộc về gương mặt ấy. Ông sống trong một gian nhà cỏ sâu tít trong làng, cách những nhà khác vài trăm mét. Vườn nhà ông không rộng lắm, nhưng có nuôi mấy con gà trống.
Người làng rất ít khi qua lại với ông nội tôi nhưng mọi người đều vô cùng kính trọng ông. Nguyên nhân chủ yếu là vì ông có biệt tài xem âm trạch. Ông có rất nhiều quy củ, nếu không phải là kẻ có duyên thì dù trả nhiều tiền đến mấy cũng không lay động nổi ông.
Hồi nhỏ ở quê, tôi từng sống với ông nội một thời gian, nhưng tôi thực sự không muốn nhớ lại đoạn ký ức đó. Về sau, tôi đi học bên ngoài rồi không có tin tưc gì của ông nữa, có lẽ bởi vì ông không phải là ông ruột của tôi, sau khi ông nội ruột tôi qua đời tôi có cảm giác ở quê không còn người thân nào nữa, nên cũng không còn quan tâm đến quê nhà. Mãi đến mùa thu năm 2008, đúng vào lúc khủng hoảng tài chính xảy ra, tôi không may bị mất việc. Tôi đang trốn trong nhà, gửi đơn xin việc khắp nơi mà không có kết quả thì bố tôi đột nhiên gọi điện tới. Qua điện thoại bố tôi bất ngờ nhắc đến ông nội, bây giờ tôi mới nhớ tới người ông này. Bố nói với tôi:"ông bị ung thư phổi, lúc phát hiện ra thì đã là giai đoạn cuối rồi, bệnh viện gửi thông báo bệnh tình nguy cấp, nếu tôi không quá bận thì mấy hôm nữa cùng bố trở về thăm ông nội. Về chuyện hồi nhỏ ông nội luôn cảm thấy áy náy với tôi". Nói xong bố tôi cúp máy. Đặt điện thoại xuống tôi nhìn chiếc đồng hồ bên tay trái nơi cổ tay vẫn còn hai vết sẹo nhỏ rõ mồn một.
Dẫu sao người cũng già rồi, tôi nghĩ cũng nên quay về thăm ông một chuyến. Nghĩ tới đây tôi gọi lại cho bố, nói lúc nào bố về quê thì tiện thể qua đón tôi. Ba ngày sau bố lái xe đến đón tôi. Hai bố con cũng hơn nửa năm nay không gặp nhau, quãng thời gian nửa năm đã khiến người cha hơn 50 tuổi của tôi trông già hẳn đi. Kỳ thực không phải tôi không muốn về nhà thăm họ, chỉ là vì vết thương trên cổ tay tôi. Do mấy hôm trước trời đổ mưa một trận, nên sau khi ra khỏi đường cao tốc chiếc xe cứ chòng chành trên con đường núi lầy lội, cả tôi lẫn bố đều trầm mặc không nói gì. Có lẽ vì bầu không khí quá ngột ngạt, bố tôi mới ngập ngừng lên tiếng: " Mộc Dương, con... gần đây vẫn khỏe chứ?". Đương nhiên tôi hiểu được ngụ ý của bố, ông nói khỏe chứ là vết thương trên cổ tay tôi. Tôi miễn cưỡng nở một nụ cười đáp: "Khỏe nhiều rồi ạ, đã mấy tháng nay không thấy đau nữa".
Kế đó bầu không khí trong xe lại rơi vào im lặng, một lúc sau bố đưa cho tôi một điếu thuốc, rồi tự ông cũng châm một điếu, rít mạnh một hơi cho xe chạy chậm lại:" Trong lòng con có phải vẫn trách ông không?" Lời bố nói làm tôi run rẩy, có lẽ hận một người sâu sắc nhất chính là hoàn toàn quên mất người ấy. Tôi không nói gì, rít một hơi thuốc sau đó ngoảnh đầu nhìn ra phía ngoài xe, bên ngoài là một dãy núi cao trải dài.
"Thực ra ông ấy luôn nghĩ cách để bù đắp". Bố tôi điềm đạm nói.
Tôi không tỏ thái độ gì, "khịt" một tiếng trong mũi, sau đó tiếp tục nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, nước mắt tôi đã trào ra khóe mắt.
"Bố, về ông ấy bố biết được chừng nào?" Tôi đột nhiên hỏi, bố tôi khẽ run lên. Thực ra tôi biết bố tôi, thậm chí cả ông nội ruột của tôi cũng biết rất ít về ông ấy. Không ai biết ông đến từ đâu, nghe người ta nói ông đến vào mùa thu một năm nọ, chỉ mặc một chiếc áo bông màu đen đó, trên người không có của cải nào khác ngoài một chiếc hộp nhỏ màu đen to bằng bàn tay, đeo ở thắ lưng. Ông đến làng tôi và ở lại từ đó.
"Mộc Dương... thực ra có rất nhiều chuyện con không biết!" Bố tôi thở dài nói, "Nếu bố nói với con những lời này, con sẽ cảm thấy giống như chuyện cổ tích, nhưng đó chính là sự thật đấy".
" Khục khục" tôi cười khỉnh, tôi không tin trên thế giới này có chuyện gì khiến tôi cảm thấy giống như chuyện cổ tích.
"Sở dĩ ông ấy ở lại làng, không phải ông ấy không có nhà để về, mà là người trong làng không để ông ấy đi" Bố tôi cắn môi nói. Câu nói này của bố đúng là ngoài dự liệu của tôi, vốn dĩ tôi vẫn luôn cho rằng ông ấy mặt dày không chịu rời đi chứ chẳng bao giờ ngờ sự thực là như vậy.
"Nhưng mà...nhưng tại sao chứ?" Tôi nghi hoặc nhìn bố, bố tôi dừng xe lại, sau đó ra hiệu cho tôi ra khỏi xe. Lúc này đã vào cuối thu, trời lại vừa mới mưa nên bên ngoài hơi lành lạnh. Bố tôi dựa vào cửa xe ném cho tôi một điếu thuốc, tự mình cũng thong thả châm một điếu rồi đưa tay chỉ vào ngọn núi trước mặt: " Mộc Dương, con thấy ngọn núi kia không?" Tôi nhìn bố với ánh mắt khó hiểu, sau đó ngước nhìn theo hướng ngón tay ông chỉ, chỉ thấy một ngọn núi cao cằn cỗi, ở lưng chừng núi chi chít bia mộ trắng nằm lẩn khuất giữa những đám cỏ dại.
"Có thấy những phần mộ trên núi đó không?" Bố tôi tiếp tục nói.
"Vâng.." tôi gật đầu.
"Ở đó có tổng cộng có 277 ngôi mộ, 277 người này đều chết trong một tháng". Bố tôi lại rít một hơi thuốc,"Chết vì thi biến!"
"thi biến?" Tôi kinh hãi lặp lại, trố mắt nhìn bố không thể tin nổi, thầm nghĩ trên thế giới này có chuyện thi biến thật sao?
"Con thấy khó tin lắm phải không?" Bố tôi điềm đạm nói, tôi vội gật đầu đợi bố kể tiếp. Một hồi lâu bố tôi mới chậm rãi lên tiếng, suốt nửa tiếng sau đó tôi nghe mà chỉ biết trợn mắt há miệng, cơ hồ không dám tin đây là những lời thốt ra từ miệng bố mình. Bởi vì bố tôi là người không bao giờ nói dối, vì vậy tôi buộc lòng phải tin những lời đó. Nhưng chuyện này lại quá đỗi lạ lùng.
Chuyện xảy ra vào cuối thời Dân quốc, để bổ sung binh lực cho quân đội, các lộ quân phiệt lớn nhỏ đều khi khắp nơi bắt trai tráng, tất nhiên quê nhà Bắc Mông của tôi cũng không ngoại lệ. Đám quân phiệt này chẳng những bắt trai tráng, còn muốn vơ vét cướp bóc một phen. Nếu trên mặt đất không có, các vị lão gia quân phiệt còn đào mồ quật mả người ta lên. Tất nhiên, bọn họ tuyệt đối không dùng các thủ pháp ôn tồn như đám trộm mộ chuyên nghiệp, mặc kệ đó là mộ huyệt kiên cố vững chãi chừng nào, chỉ cần mấy cân thuốc nổ là có thể khoét được cái hố lớn. Bắc Mông vốn là một ngôi làng nghèo xác xơ ở trên núi, nhưng trong làng laij có khu mộ điạ rất lớn, người làng gọi là khu "Tứ thập tứ trủng" (44 ngôi mộ).
Quân phiệt bắt trai tráng xong liền nhắm vào khu mộ trên núi, kể ra thì khu mộ địa này cũng có thể coi là đất báu phong thủy, ba mặt được núi bao bọc, môt mặt hướng về phía có nước. Chẳng những vậy, trong khu mộ còn có rất nhiều thuỳ liễu sum sê tươi tốt. Không biết những cây liễu đó thuộc giống gì, dù giữa mùa hè nóng bức trong rừng liễu cũng hiếm khi thấy côn trùng. Người trong làng mỗi khi đi qua khu mộ ấy đều cảm thấy từng đợt khí lạnh từ bên trong ùa ra.
Vì lẽ đó dân làng tôn kính khu mộ này như thần linh, trừ tiết Thanh Minh, Đông chí ra tuyệt đối không dám đặt nửa bước chân vào bên trong. Tay quân phiệt nghe nói khu mộ này dẫu vào mùa hè cũng không có côn trùng thì càng thêm tò mò, thầm nghĩ bên dưới mộ địa ắt hẳn phải giấu báu vật, bảo bối thần kỳ gì đây. Vậy là, hắn ta dẫn theo hơn một trăm người phong tỏa khu mộ lại, chia thành từng nhóm bắt đầu khai quật. Mộ huyệt ở làng này không có nhiều các cơ quan đường ngầm và tầng tầng lớp lớp cạm bẫy chống trộm như mộ của các nhà quyền quý, chẳng qua chỉ là một nấm đất bên trên đựt thêm mấy tảng đá, sơ sài đến mức cả bia mộ cũng miễn luôn, có mộ còn không cả có đá đè lên. Đào những mộ huyệt kiểu này thạm chí còn chẳng cần đến thuốc nổ.
Đám quân sĩ làm việc cật lực, tốc độ cũng rất nhanh, chỉ mất có một ngày từ sáng sớm đến chập tối, bốn mươi ba ngôi mộ đã bị quật ra. Nhưng điều khiến chúng kinh ngạc là bốn mươi ba ngôi mộ đó lại trống không, đừng nói là bảo bố quý hiếm, ngay cả mấy mảnh xương cốt mục nát cũng chẳng thấy đâu. Điều này càng khiến tay quân phiệt tò mò về khu mộ địa, rốt cuộc là ai đã đào nhiều mộ trống đến như thế ở chốn khỉ ho cò gáy này? Những mộ trống ấy đều là mộ giả hẳn là để che giấu ngôi mộ thật sự rồi. Vả lại, khu mộ địa này được gọi là tứ thập tứ trủng, giờ mới đào được bốn mươi ba ngôi mộ, vậy mộ cuối cùng rốt cuộc nằm ở đâu? Đầu lĩnh quân phiệt một mặt dặn dò quân sĩ đào bới trong rừng liễu, nôn nóng muốn tìm thấy ngôi mộ cuối cùng. Mặt khác, hắn ta gọi những người già trong làng Bắc Mông đến tra hỏi xem ngôi mộ cuối cùng nằm đâu. Nhưng nơi này mặc dù gọi là Tứ thập tứ trủng, song cũng chỉ do từ đời tổ tiên đã gọi như vậy chẳng có ai từng kiểm tra xem rốt cuộc là có bao nhiêu ngôi mộ. Ai dám nói đám quân phiệt đều chỉ là hạng giá áo túi cơm, bất tài vô dụng? tay quân phiệt này thực sự cũng có chút thủ đoạn, hắn ta đột nhiên phát hiện không chỉ riêng khu mộ địa này quái dị lạ thường, mà cả những cây liễu trong khu mộ cũng được trồng một cách rất kỳ dị. Thoạt nhìn qua chúng mọc lộn xộn không theo quy củ nào, nhưng tính kỹ lại thì thấy khoảng cách gữa hai cây cạnh nhau về đại thể là tương đồng. Toàn bộ các cây đều cách nhau năm bước chân, và tất cả các ngôi mộ giả đều vừa khéo nằm giữa hai thân cây. Hắn đảo mắt một vòng nhìn quanh, ánh mắt đột nhiên dừng lại ở một khoảng đất trống gần đó. Chỉ riêng khoảng đất trống giữa hai cây đó là không có mộ giả, có điều, mặt đất đã bị đám binh lính đào mấy cái hố sau nửa mét. tay quân phiệt nhìn ngó một hồi, kiền hạ lệnh cho mấy tên lính đi tới tiếp tục đào sâu xuống nữa.
Lúc bắt đầu đào bới thì trời đã chập tối, tay quân phiệt ra lệnh đốt lửa nấu cơm luôn tại khu mộ, còn bản thân hắn thì cứ ngồi chồm hỗm bên cạnh hố sâu quan sát tình hình bên trong. Lại nói mấy tên lính đào bới hơn một giờ cái hố đã được mở rộng ra hai mét, sâu hơn một mét, cuốc chim trên tay đột nhiên phát ra một tiếng "kịch" trầm đục, tựa như chạm phải vật cứng gì đó. Lưỡi cuốc làm bằng gang bị gãy làm đôi. Tay quân phiệt mừng rỡ, nhảy phắt xuống dưới hố cầm một cây đuốc soi xem rốt cuộc là gì, chẳng ngờ vừa xem, hắn không khỏi giật mình kinh hãi. Trước mắt hắn là rãnh sau do lưỡi cuốc để lại, nửa mảnh cuốc cắm bên trong, để lộ ra chỗ vỡ màu trắng. Hắn sai người rút ra, ai ngờ nửa mảnh cuốc bằng gang lại không hề nhúc nhích, cứ như là được gắn chặt vào trong cái rãnh. Bên dưới rốt cục là thứ gì vậy? Không ngờ lại có sức mạnh như thế. Hắn ta càng thêm tò mò, lập tức sai thêm mấy người nữa nạy nửa mảnh cuốc kia ra. Sau khi xem xét kỹ càng, đầu nhọn của nửa lưỡi cuốc vừa rút ra chỉ dính ít đất bùn khô màu đỏ, hoàn toàn không hề có dấu vết của kim loại bị cọ xát màu trắng như trong dự đoán. Bên trong rốt cuộc là thứ gì? Nghĩ tới đay hắn liền sai người lấy thuốc nổ, mặc xác bên dưới là cái gì, kể cả có là bê tông cốt thép hẳn cũng không chịu được uy lực của thuốc nổ. Thuốc nổ được nhét vào bên trong, sau khi châm lửa cả đám người chạy ra xa ẩn nấp. Một tiếng nổ lớn vang lên, bên trong hố sâu cuộn lên một đám bụi cát màu đỏ. Tay quân phiệt tấp tểnh chạy tới chỗ cái hố, nhưng khi đến miệng hố, nét mặt đang hí hửng của hắn thoắt cái đã trở thành kinh ngạc tột độ.
Dẫu thế nào tay quân phiệt cũng bao giờ nghĩ rằng cảnh trước mắt có thể xảy ra. Bụi cát màu đỏ tan đi, tầng đất đỏ bên dưới hố sâu không ngờ chỉ bị nổ ra một cái hốc nhỏ cỡ ằng cái xô xách nước. " Con bà nó, đất này cũng cứng thật đấy". Tay quân phiệt hằn học nói,"Cho nổ tiếp". Nghe dứt lời, mấy gã công binh liền nhảy xuống hố, chỉ một lúc sau lại có tiếng nổ vang lên, lần này âm thanh còn lớn hơn lần trước nhiều lần, chắc hẳn là đã tăng thêm lượng thuốc nổ. Lại một đợt bụi cát đỏ bay mù mịt, tay quân phiệt chạy tới miệng hố sâu xem xét lần nữa, cái hốc lúc này đã bị nổ toác ra to như miệng cái ang, hắn ta ngồi xổm xuống rìa hố, cẩm một mảnh đất màu đỏ vừa bị bắn ra đưa lại gần cây đuốc quan sát cẩn thận, cũng không nhận ra có gì đặc biệt, chỉ là không hiểu tại sao lại cứng rắn như vậy, gang thép cũng bị nó làm cho gãy lìa?
"Nổ thêm lần nữa" tay quân phiệt ném cục đất sang bên cạnh, châm ngòi nổ, ánh mắt nhìn chằm chằm vào hố sâu cách xa năm mươi mét phía trước. Sau một tiếng nổ lớn hắn ta bỗng cảm thấy mặt đất dưới chân mình thình lình rung chấn liên tục. Hắn biết chắc chắn đã nổ ra lỗ hổng, liền ba chân bốn cẳng chạy tới. Quả nhiên bên dưới hố xuất hiện một cái hang sâu hun hút, gió lạnh âm u từ trong cửa hang thổi ra thốc vào mặt. Tay quân phiệt mừng rỡ lập tức sai người cầm đuốc đến, rút súng lục ra gọi hai dân làng Bắc Mông ép bọn họ đi vào trong huyệt động trước.
Sau khi họ đi vào, hắn đãn theo hai tên lính cầm đuốc cùng tiến vào theo. Mộ huyệt này không lớn lắm, diện tích chỉ khoảng 30 mét vuông, bên trong rất sạch sẽ, không có dấu vết từng bị trộm mộ, nhưng lại cũng không có bảo bối trân quý gì cả. Sâu tít bên trong cùng huyệt mộ có một cỗ quách màu đỏ. Cỗ quách này lưng hướng bắc, mặt hướng nam, to gấp đôi quan quách thường thấy, mặt ngoài trét đất sét đỏ bọc kín một lớp dày, bên ngoài lớp đất đỏ ấy là mấy tấm lưới được kết từ những sợi dây thừng màu đỏ đã phai màu.
"Tư... Tư lệnh..." Một tên lính đi phía sau run rẩy nói, "Cái quan tài này chúng ta không thể đụng vào đâu!" "Hả?" Tên quân phiệt đang ngẩn người ra nhìn, quay lại nhíu chặt mày hỏi:"Mày nhìn ra manh mối gì rồi à?". "Tư lệnh, ngài nhìn những sợi thừng đỏ bên ngoài xem, hình như là được đặc chế để ngăn ngừa thi thể xảy ra thi biến thoát khỏi quan tài đấy". Tên lính nuốt nước bọt, nét mặt đầy kinh hoảng. "HaHa, lão tử sợ trời sợ đất chứ đếch sợ cương thi hay cái gì cả!" Nói xong hắn rút súng ra "pằng pằng" hai phát bắn chuẩn xác vào sợi dây thừng, sợi dây lập tức đứt lìa ra.
"Gọi thêm mấy thằng nữa vào đây, ta cũng muốn xem bên trong rốt cuộc là có quái vật gì, con bà nó chứ!" Dứt lời, hắn xoay người đi ra ngoài, vì không phát hiện được thứ gì đáng tiền trong đó, nên hắn muốn mở quan tài ra để nuốt cho trôi cái cục tức này. Mộ huyệt không lớn, nhiều người quá cũng khó xoay xở. Tay quân phiệt bèn sai người dùng thuốc nổ mở rộng miệng hang thêm một chút, sau đó khiêng cỗ quách kia ra. Bận rộn suốt cả đêm, đến khi trời sáng, mười mấy tên lính rốt cuộc cũng khiêng được cỗ quách cổ quái ra bên ngoài. Tay quân phiệt lại ra lệnh cạo hết lớp đất sét đỏ rắn bao bọc bên ngoài, kế đó, một cỗ quan tài màu đỏ rốt cuộc cũng xuất hiện trước mặt tất cả mọi người.
Tuy không biết niên đại cụ thể của cỗ quách này, nhưng điều khiến người ta kinh ngạc nhất là lớp sơn đỏ bên ngoài áo quan không ngờ lại được bảo tồn cực kỳ hoàn hảo, một sắc đỏ kỳ dị bóng bẩy chảy trên bề mặt quan tài khiến người ta không khỏi thấp thỏm bất an. Tay quân phiệt cười gằn mấy tiếng, sau đó sai người mở nắp quan tài ra. Bọn lính đều âm thầm kinh sợ, vì vậy không tên nào dám dùng sức, hồi lâu vẫn chưa mở được. Thấy vậy tay quân phiệt nổi trận lôi đình, mấy tên lính bấy giờ mới dốc hết sức, chỉ thoáng chốc đã bậy được nắp quan. Sau khi chuyển cái nắp dày bên trên, trong nháy mắt một mùi hương lạ từ trong tỏa ra. Tay quân phiệt vội vàng chạy lại gần phía cỗ quan tài quái dị, đột nhiên hắn dừng phắt lại cách đó chừng hơn một mét, đôi chân như bị người ta đổ chì vào, không nhúc nhích được nữa, mắt hắn nhìn chằm chằm vào mép quan tài. Bên mép quan tài không ngờ là có một bàn tay gác lên. Nhìn từ xa, đó chắc chắn là bàn tay phụ nữ, nhỏ nhắn mà trắng muốt. Nhưng đây chính là điều khiến hắn kinh sợ, dẫu sao cũng là một cái xác, tuy không rõ niên đại cụ thể nhưng tính sơ ra ít nhất cũng đã trăm năm rồi, vậy mà xác lại không hề bị rữa nát. Hắn vô thức đặt tay lên khẩu súng lục đeo ở thắt lưng, nuốt nước bọt, ngừng lại giây lát rồi ngoảnh lại ra hiệu cho một tên lính lại xem rõ ràng. Nhưng trước sự việc quái dị như vậy, ai nấy đều mềm nhũn hai chân ra. Tên lính ấy nhanh trí liền ra phía sau lôi một người làng tới, gí súng vào đầu anh ta:"Mày.." sau đó chỉ vào cỗ quan tài đã mở ở phía trước rồi nói tiếp:"Đi xem có gì!" Người làng tuy cũng sợ nhưng vì bị ép buộc đành phải chầm chậm nhích về phía quan tài đang mở toang, rồi đứng lặng người nhìn cái xác bên trong mà chẳng nói câu nào.
"Bên trong có cái gì?" tay quân phiệt sốt ruột hỏi.
"Bẩm lão tổng, một cái xác nữ" người làng chỉ vào quan tài nói.
Tay quân phiệt nhấc chân đi tới trước cỗ quan tài, không khỏi mừng rỡ ra mặt. Bên trong cỗ quan tài màu đỏ khổng lồ ấy có một cô gái đang nằm, cô ta mặc đồ trắng, trên người quấn mấy vòng dây đỏ mỏng, tóc dài xõa ngang vai, hai mắt khép hờ. Nhưng quái dị nhất là hai cánh tay cô gái này lại vươn lên trên, tựa hồ trước khi chết từng giãy giụa rất nhiều. Bàn tay vừa rơi xuống lúc nãy gác trên mép quan tài chính là tay trái của cô ta. Hắn đi hai vòng xung quanh quan tài nhìn một lượt cái xác xem bên trên người cô gái có bảo vật gì khiến thi thể trải qua trăm năm vẫn không phân hủy. Nhưng tìm kiếm hồi lâu hắn phát hiện trên người cô gái này thậm chí còn chả có nổi lấy một chiếc nhẫn. hắn bèn sai người khiêng cái xác ra khỏi quan tài, đặt trên chiếu cỏ đã trải sẵn bên cạnh, sau đó nhảy vào trong quan tài, muốn xem xét bên trong liệu có cơ quan hay hốc ngầm gì, hoặc cất giấu vật thần bí gì hay không. Nhưng tìm mãi cũng không thu được gì. Hắn nổi cáu, liền lột sạch quần áo trên người của xác nữ ra. Lột hết quần áo ra cũng không tìm được thứ gì đáng tiền, thấy trời đã tối, hắn liền sai người bỏ cái xác lõa thể ở đó, bắt đầu nhóm lửa nấu cơm, chuẩn bị ngày hôm sau dẫn đội ngũ rời khỏi làng.
Bấy giờ tuy đã vào thu, nhưng cây cối trên núi vẫn ẩm ướt dị thường, lúc này tay quân phiệt chợt nhớ ra những quan quách rỗng vứt gần đó tuy không đáng tiền nhưng có thể chẻ làm củi đốt. bốn mươi bốn cỗ quách nhanh chóng cháy rụi trong đống lửa hừng hực. Lúc ăn cơm tay quân phiệt càng nghĩ càng tức. Hắn đột nhiên nghĩ ra một phương pháp để phát tiết nỗi bực tức trong lòng đó là phân thây. Cái xác chết tiệt ấy đã khiến bọn hắn tốn bao nhiêu công sức, ở lại đây hơn hai ngày trời, nghĩ thế hắn liền sai người khiên cái xác ra, không làm thì thôi đã làm thì làm đến cùng, dứt khoát xẻ ra làm tám mảnh. Mấy tên lính nhận lệnh bèn chạy ra chỗ để xác. Bọn chúng đóng trại cách chỗ để xác cũng không xa lắm, nhưng 15 phút trôi qua mà chưa thấy ai quay lại làm hắn đợi đến phát bực. Hắn đứng phắt dậy nói:" Mấy thằng chúng mày đi với tao, bà nó chứ, mấy thằng ranh khiêng cái xác cũng lâu như vậy."
Nghe lệnh mấy tên lính bên cạnh đứng cả dậy, nhưng hắn vừa nhấc chân lên đột nhiên nghe thấy tiếng kêu kinh hãi từ chỗ đặt cái xác vang tới. Hắn lập tức rút súng ra. Tiếng kêu nháy mắt đã biến mất trong núi sâu, mấy tên lính ngơ ngác nhìn nhau không tên nào không lộ vẻ kinh hãi. Lúc này lại có thêm nhiều binh lính chạy ra khỏi doanh trại.
"Âm thanh vừa từ đâu vang tới thế?"
"Con bà nó, có phải gặp ma rồi không?"
"Cái chỗ quái quỷ này không khéo lại có thứ ma quỷ gì đó ấy chứ!"
Đám binh sĩ tụ tập lại một chỗ mồm năm miệng mười bàn tán, còn tay quân phiệt thì nhíu mày, chậm rãi cất khẩu súng vào trong bao. Đúng lúc này, từ phía đặt cái xác lại vẳng tới tiếng súng nổ "păng pằng pằng", âm thanh không ngừng vang vộng giữa các khe núi. Tiếng trò chuyện huyên náo lập tức im bặt, tất cả mọi người đều kinh hoảng nhìn về hướng đó. Tay quân phiệt lại rút súng ra, cao giọng gọi: "Tập hợp, tất cả tập hợp con mẹ nó ra đây cho tao!".
Mệnh lệnh vừa phát ra, đám lính lập tức tập kết lại, cùng lúc đó lại có mấy tiếng súng nữa vang lên. Hắn nghĩ nhất định có chuyện xảy ra rồi. Đoàn quân đã tập hợp đầy đủ, thủ lĩnh dẫn đầu tất cả binh sĩ đều đạn dược sẵn sàng, chuẩn bị chiến đấu bất kỳ lúc nào. Bọn chúng vừa ra khỏi khu đất đóng quân thì phát hiện ra một cái bóng xiêu vẹo đang chạy về phía mình, ánh trăng lấp lóa che nửa khuôn mặt người kia, nhưng nhìn quần áo trên người thì không khó nhận ra đó là một trong những binh lính vừa chạy đi vác cái xác. Tên lính vác súng sau lưng, chắc đã bị thương nặng, lê từng bước về phía đoàn quân. Tay quân phiệt tăng tốc chạy tới trước mặt tên lính kia, tên lính liền ngã gục vào hắn.
"Sao vậy? Mấy thằng đi cùng với mày đâu?" Hắn vội vàng hỏi.
"Chết... đều chết cả rồi!" tên lính thoi thóp trả lời.
"Sao lại chết?" hắn gầm lên.
"Khỉ...khỉ..." tên lính mơ hồ trả lời nhưng hắn đã nghe rõ nhưng trong đầu lại không hiểu gì cả. Bắc Mông ở phương bắc, đừng nói là khỉ mà cả cọng lông khỉ cũng bói không ra, nhưng tại sao tên lính này lại nói ra câu như thế?
"Mẹ mày nói cái gì thế? Khỉ hả?" Hắn ra sức lay tên lính nhưng tên lính đã hôn mê bất tỉnh từ lúc nào. Thấy vậy hắn hét lên với đội phía sau: " Khiêng nó đi, nhất định phải cứu sống bằng được cho tao!" Nói xong hắn cầm súngdẫn đội chạy về phía 44 ngôi mộ. Từ xa đã ngửi thấy mùi máu tươi tanh tưởi xộc vào mũi. Lòng hắn nặng nề hẳn, bàn tay cầm súng rịn mồ hôi.Nhưng hắn vẫn dẫn theo thuộc hạ liều đi vào khu mộ. Đưa mắt nhìn xung quanh quan sát một lượt, thấy có mấy cái xác nằm ngổn ngang cái gần cái xa, còn cái xác nữ lõa thể trên chiếu cỏ giờ đã không rõ tăm tích. Mấy tên lúc nãy đều đã chết cả rồi sao? Tình cảnh này khiến tất cả mọi người đều nín thở. Cả đội ngũ hơn hai trăm người không ngờ lại im phăng phắc. Đúng lúc này tay quân phiệt đột nhiên nghe thấy âm thanh "răng rắc, răng rắc" liền đưa mắt về phía tiếng động phát ra. Cách chỗ hắn chừng bốn năm chục mét dường như có người đang ngồi chồm hỗm, dưới ánh trăng, hắn nhìn rõ người kia xoay lưng về phía mình, trên người khoác một tấm áo da màu đen, đầu kẻ đó đang chồi lên thụt xuống như là đang làm gì đó. Kẻ này là ai? Chắc chắn không phải một tên lính may mắn sống sót rồi, vậy thì có thể là ai? Tay quân phiệt thầm đoán, đúng lúc này viên phó quan bên cạnh hắn đột nhiên cao giọng quát: " Người phía trước xoay lại đây bằng không ta sẽ nổ súng!" Lời nói vừa dứt liền nghe thấy đội ngũ phía sau phát ra tiếng mở chốt lên đạn, người phía trước hẳn là bị âm thanh này làm cho sững sờ, động tác liền dừng lại nhưng không hề quay đầu lại.
"Mẹ mày, có nghe thấy không hả? Còn không quay lại thì ông mày bắn đấy!" Nói xong, viên phó quan giơ súng lục lên ngắm bắn. Đúng lúc này, tay quân phiệt cảm thấy chân mình đột nhiên bị thứ gì đó túm chặt, hắn run bắn người, vội vàng cúi xuống nhìn không ngờ lại là một tên lính mình sai đi lúc nãy. Tên này chỉ hôn mê chứ chưa bất tỉnh. "Chạy, chạy!" Tên lính dốc hết chút hơi sức cuối cùng nhưng âm thanh phát ra lại khó nghe hiểu.
"Cái gì?" hắn lớn giọng quát.
"Chạy..." tên lính đứt hơi hét lên, lần này thì tất cả mọi người đều nghe rất rõ ràng, chỉ có điều tiếng hét vừa dứt thì đã nghe thấy phía sau đội ngũ vang lên tiếng kêu thảm thiết. hắn xoay người lại thì phát hiện phía sau đã trở nên hỗn loạn.
"Xảy ra chuyện gì vậy?" tay quân phiệt hét lớn, vừa dứt lời đằng sau chợt vang lên tiếng súng, hắn ta cuống lên và chạy lại vừa chạy vừa quát: "Không được loạn, tất cả không được náo loạn!". Hắn hy vọng đám lính có thể bình tĩnh trở lại, song đám lính đang kinh sợ nào có thể nghĩ được gì nhiều giữ mạng lúc này mới là quan trọng nhất. Khi hắn chạy xuống cuối đội ngũ, cả đám đã loạn đến mức chẳng còn quy củ gì nữa. Có mười mấy người nằm tho thóp trên đất, quần áo trên người bị cào rách toạc nhưng không thể nhận ra là do vật gì gây ra. Đúng lúc này một bóng đen thình lình lướt qua trước mắt, cái bóng ấy tựa như đứa trẻ mới lớn, thân hình rất giống một con khỉ trưởng thành, phi thân từ trên cây liễu cạnh đó xuống nhanh như cắt lao thẳng vào tấn công tên lính đang hoảng hốt tháo chạy. Tên lính lập tức ngã xuống lăn lộn trên đất, một lúc sau thân thể bắt đầu co giật dữ dội, quằn quại một lúc rồi không nhúc nhích gì nữa.
Hắn mải nhìn đến ngơ ngẩn, không chú ý đến bản thân mình cũng đang trong vòng nguy hiểm, chợt nghe bên tai vang lên tiếng gió vù vù, bấy giờ hắn mới sực tỉnh có điều nhận ra thì đã quá muộn, bóng đen kia đã đến gần hắn. Dục vọng cầu sinh của con người luôn có thể tạo ra kỳ tích, hắn xoay người nhanh như chớp nhắm bắn vào con khỉ phía sau lưng, "con khỉ" phản ứng cực nhanh, thân hình hơi lắc một cái đã tránh được viên đạn, tuy nhiên nó cũng không đánh trúng được tay quân phiệt. Hắn thấy tình hình không ổn vội co giò tháo chạy, trà trộn vào trong đám lính. Đội quân hoảng loạn bị "con khỉ" chia cắt thành mấy tốp. Hắn dẫn theo được tầm 50 tên lính, chạy được vài dặm thì mệt đến nỗi thở không ra hơi, toàn thân đẫm mồ hôi. Sau khi xác định con khỉ không đuổi theo nữa hắn mới ra lệnh cho toán lính nghỉ ngơi tại chỗ. Kể ra cũng khéo, hôm ấy trời lại giáng một trận sương mù lớn, sương mù dày đến nỗi khiến người ta không nhìn rõ ai với ai trong bán kính 5 mét. Đoàn người nghỉ ngơi được một lúc, song cũng lạc trong khu núi sâu ở Bắc Mông, nếu theo đường cũ vòng trở lại thì sợ chạm mặt "con khỉ" kia, vì vậy bọn chúng đành phải phân mấy người gác đêm, những người còn lại tiếp tục nghỉ ngơi tại chỗ. Tay quân phiệt đang ngủ say giấì đột nhiên nghe thấy có tiếng súng nổ, hắn giật nảy mình nhổm dậy. Khi đó mới phát giác mọi người cũng đã bị tiếng súng đánh thức. Tiếng súng từ phía trước truyền lại càng lúc càng gần. Chẳng lẽ người phe mình bị "con khỉ" tập kích? Nghĩ tới đây hắn dẫn số người ít ỏi còn lại đi cứu viện, nhưng vì sương mù dày đặc không nhìn rõ đường đi, đi chừng hơn 5 phút đột nhiên trong màn sương vọt ra mấy cái bóng đen, kế đó là tiếng kêu thảm thiết vang lên. Nhất định là bọn khỉ rồi, nghĩ tới đây hắn ra lệnh cho binh lính nổ súng kháng cự, sau một loạt tiếng súng hỗn loạn, bóng đen trước mắt cuối cùng cũng biến mất.
Một lúc sau trời bắt đầu hửng sang, bọn hắn nghĩ lũ khỉ kia cũng đã về ổ, bèn quay lại theo đường cũ chuẩn bị về trại đóng quân. Chẳng ngờ đi được chừng 50 bước thì phát hiện ra trước mặt có một đống xác người, toàn bộ đều là lính của mình. Thêm một điều nữa khiến hắn khó hiểu đó là toàn bộ binh lính ấy đều trúng đạn mà chết. Hắn không khỏi lạnh cả sống lưng, chả nhẽ những bóng đen đêm qua hắn nhìn thấy lại chính là binh lính của mình? Hắn sai người kiểm tra toàn bộ xác chết, tất cả đều mất mạng dưới họng súng của quân mình, tổng cộng có 76 người. Tay quân phiệt nôn nóng trở về doanh trại, nhưng lúc đi qua khu Tứ thập tứ trủng lại phát hiện ra mấy tên lính chết đêm qua đã biến thành đống xương trắng, thịt và nội tạng đã biến mất. Hắn cũng không dừng lại, khi trở về doanh trại thì thấy có toán binh lính đã về trước. Hắn tìm quân y để hỏi về thương tích của tên lính bị thương đêm qua, quân y nói hắn vẫn sốt cao cho đến bây giờ, lúc tỉnh lúc mê, vết thương thì bắt đầu rữa nát, thuốc kháng sinh chống viêm đều hoàn toàn không có tác dụng. Nghe quân y nói xong hắn không nói không rằng mà chạy thẳng đến lều bệnh của tên lính kia. Tên lính đang nằm trên giường nói mớ:" Tha cho tôi đi, tha cho tôi đi mà, không liên quan đến tôi." Hắn liền tát một phát vào mặt tên lính, tên này hoảng hốt tỉnh dậy, nhìn thấy thủ lĩnh của mình mặt khẽ giật giật mấy cái, sau đó nước mắt trào ra: "Tư lệnh, họ chết thảm lắm!"
"Tối qua bọn mày gặp phải chuyện gì?" Hắn ấn cánh tay thuộc hạ xuống và hỏi:"Còn nữa, lũ "khỉ" kia ở chỗ quái nào chui ra vậy?"
"Tôi cũng không biết, chúng tôi theo lệnh ngài đi vác cái xác nữ về, nhưng khi đến nơi thì phát hiện cái xác đã biến mất từ lúc nào, đang định quay lại thì trong mộ huyệt nhảy ra một con quái vật trông như khỉ, tốc độ cực nhanh, chúng tôi chưa kịp phản ứng thì đã có hai người ngã xuống. Tôi thấy tình hình không ổn liền xoay người chạy, nhưng cái thứ quái quỷ đó vẫn briết không thôi". Nói tới đây, tên lính nuốt nước bọt rồi tiếp tục: " Những người cùng đi hết người này đến người khác ngã xuống, đúng lúc thứ đó bổ tới tôi liền xoay người nổ súng. Dường như nó rất sợ tiếng súng nên thoắt cái đã biến mất. Tôi không dám chần chừ, tiếp tục chạy về phía trước, đột nhiên thứ đó xồ ra trước mặt, tôi chưa kịp phản ứng thì bị nó cắn một phát vào vai trái. Tôi rút dao vung loạn lênmới dọa được nó bỏ đi, sau đó tôi gặp lại mọi người".
"Thì ra là thế!" Tay quân phiệt trầm ngâm nói. Ngày hôm ấy hắn dẫn quân rời khỏi Bắc Mông, nhưng một tuần sau khi bọn hắn rời đi, Bắc Mông liền xảy ra thảm án, cáu đến đêm khuya là lũ quái vật giống khỉ lại xuất hiện trong nhà người dân mà không ai hay biết và giết hết người trong nhà. Chỉ trong một tháng ngắn ngủi, đã có hơn hai trăm người chết, rất nhiều người đang chuẩn bị rời khỏi Bắc Mông trước khi đến lượt mình bị mất mạng.
Đúng lúc ấy "ông nội " tôi xuất hiện, ông tên Phan Tuấn. Lúc ông đến Bắc Mông, trời đang mùa thu, ông khoác trên người một chiếc áo bông màu đen. Sauk hi hỏi thăm biết được chuyện xảy ra trong làng, ông nói thứ quái vật giống khỉ ấy gọi là "Bì hầu". Chúng vốn sống ở trong núi sâu, chuyên ăn thịt thối. Nhưng vì chiến loạn kéo dài nhiều năm, người chết vô số, nhiều thi thể chưa kịp chôn cất đã thối rữa nên rất dễ thu hút bọn bì hầu này đến.
Nhưng điều làm ông thấy kỳ lạ là mặc dù bộ dạng hung tàn, nhưng bì hầu rất hiếm khi chủ động tấn công con người, trừ phi... ông không nói nốt những lời phía sau mà trực tiếp đến thẳng khu Tứ thập tứ trủng. Khi nhìn thấy cây cối ở xung quanh gương mặt ông bỗng trở nên mừng rỡ: "Thì ra là thế!".
Sau đó ông nói với trưởng làng, ở khu mộ địa này có bốn mươi ba ngôi mộ giả, chỉ là để che giấu ngôi mộ thứ bốn mươi bốn. Trong ngôi mộ ấy chắc chắn là có một cái xác nữ, thân mặc đồ trắng, quanh người quấn dây đỏ vả lại còn không bị mục rữa. Trưởng làng nghe thế liền vui mừng, ông tôi chưa từng đến đây vậy mà lại nói rõ được chi tiết như thế, nhất định là biết được nguyên cớ bên trong. Ông tôi nói cái xác đó là vật chẳng lành, sở dĩ trải qua bao năm tháng mà không mục rữa chẳng phải nhờ có kỳ trân dị bảo gì mà bởi trong xác ấy có một con sâu. Con sâu này ký sinh trên thi thể nên mới có hiện tượng kỳ dị như thế. Loại sâu này là thiên địch của bì hầu, mỗi lần gặp phải thi thể như thế lũ bì hầu sẽ phát điên, nên mới chủ động tấn công con người. Giờ lũ bì hầu cứ ở lại quanh làng không rời đi là do cái xác đó vẫn đang được giấu trong làng.
Trưởng làng hết sức kinh hãi, chưa bao giờ nghe qua trên đời lại có chuyện ly kỳ đến vậy, thì ra nguyên nhân hiện tượng thi biến chỉ là một con sâu nhỏ. Mặc dù không hiểu huyền cơ bên trong song trưởng làng vẫn hỏi ông tôi cách để tìm ra cái xác kia. Ông tôi thở dài nói: " Tôi đã tìm nó rất nhiều năm rồi, tôi có cách nhưng tất cả mọi người cần phải nghe theo lệnh của tôi". Vậy là tối hôm đó, tất cả phụ nữ trong làng đều bị ông tôi tập hợp lại trong từ đường, đàn ông cầm đuốc canh giữ bên ngoài, bất luận xảy ra chuyện gì cũng không được tùy tiện xông vào. Cửa từ đường mở rộng, mỗi người phụ nữ đều cầm một nén hương không được rời tay. Sau khi chuẩn bị mọi thứ xong xuôi, ông tôi bèn nấp trên mái hiên từ đường. Tối hôm đó rất yên ả, mãi đến sau nửa đêm đột nhiên ông tôi nhảy từ trên xà nhà xuống, hướng ra phía ngoài hét lên: "Đóng cửa!". Những người đàn ông đã chuẩn bị sẵn sang bên ngoài lập tức đóng cửa từ đường lại, sau đó ông tôi bảo tất cả phụ nữ đứng thành một hang, khi ấy bà nội ruột của tôi sắp sinh, ông đếm từ trái sang phải, cả làng vốn có 45 phụ nữ, nhưng giờ lại có thêm một người. Ông tôi đi tới bên cạnh một cô gái trong số họ cười nói: " Cô bước ra đi!". Cô gái này mặt mày thanh tú, vận đồ trắng toát, cười khẩy với ông tôi, không nói gì, ông đột nhiên rút ra một thanh đoản kiếm nhưng cô gái ấy cũng phản ứng rất nhanh, lập tức lùi lại mấy bước tránh được.
Ông tôi liên tục áp sát người con gái đó, cô ta dường như muốn tóm lấy một người làm lá chắn, nhưng mỗi lần gặp phải que hương trên tay những người khác là lại rụt tay về. Đúng lúc này, bà nội tôi đột nhiên lâm bồn, cơn đau kịch liệt khiến que hương trên tay bà rơi xuống đất. Cô gái kia nhanh tay nhanh mắt lập tức bổ về phía bà. Nói thì chậm, lúc đó sự việc diễn ra quá nhanh, tuy rằng đoản kiếm trong tay ông tôi cực nhanh nhưng rốt cuộc vẫn chậm hơn một bước. Trong khoảnh khắc cô gái kia ôm chặt lấy bà nội, đoản kiếm của ông cũng đâm vào cơ thể cô ta. Chớp mắt làn da cô ta trở nên nhăn nheo, mái tóc cũng bạc trắng như tuyết.
"Chậc, vẫn bị chậm một bước!" Ông tôi thở dài. Sau đấy ông tôi nói với trưởng làng con sâu ấy đã chui vào cơ thể bà nội rồi, loài sâu này gặp máu nóng sẽ lập tức chìm vào giấc ngủ, cho tới khi người đó qua đời nó mới tỉnh lại, vì vậy lũ bì hầu không ngửi thấy mùi con sâu nên sẽ không đến phá làng nữa. Có điều con sâu có thể theo đứa bé truyền đến đời sau, vì vậy mỗi đứa trẻ sau khi sinh cần phải kiểm tra, để xem con sâu này rốt cuộc ở trong cơ thể của ai. Trưởng làng lo lắng con sâu ấy lại làm loạn nữa nên liền giữ ông tôi ở lại.
Nghe bố kể xong, tôi dường như cũng hiểu được một chút.
"Đi thôi, sắp về đến quê rồi". Nói xong, bố tôi vứt đầu mẩu thuốc đi, mở cửa xe. Chỗ này cách quê tôi chỉ mười mấy cây số nhưng đường núi gập ghềnh khó đi, xe cứ xóc nẩy không ngừng.
Thực tế Bắc Mông không hề hẻo lánh, nhưng bao lâu nay vẫn rất nghèo đói, mới năm 2004, một đám người từ nơi khác đến mang theo rất nhiều trang thiết bị, bọn họ phát hiện dưới long đất Bắc Mông có một lượng khoáng sản lớn, vậy là cư dân quanh vùng tựa như đột nhiên hứng được tiền trên trời rơi xuống. Tiếp đó là các loại máy móc cỡ lớn tiến vào, từng mỏ khai khoáng lớn nhỏ xuất hiện ở đây như nấm mọc sau mưa. Ngôi làng vùng núi xưa này vốn thanh bình yên tĩnh nay bỗng nhiên trở nên huyên náo ồn ào. Công nhân mặc đồ bảo hộ đủ màu đi trên những con đường quê nhỏ bé. Chiếc xe nhanh chóng đi vào Bắc Mông, nhưng tôi kinh hoàng nhận ra những ngôi nhà trong ký ức giờ đây đã biến thành đống đổ nát hoang tàn, mấy cái máy xúc vẫn đang tiếp cục công việc phá dỡ mấy căn nhà gần đó.
"Bố, thế này là thế nào?" Tôi chỉ phía trước hỏi. "À, sang năm có lẽ Bắc Mông sẽ không còn tòn tại nữa rồi". Bố tôi thở dài một tiếng, sau đó nhấn chân ga, "Nơi này đang giải tỏa, Bắc Mông sắp bị xóa sổ".
Câu nói của bố làm lòng tôi chợt gợi lên một cảm giác buồn man mác. Bắc Mông, có lẽ đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy nơi này rồi. Căn nhà của ông tôi nằm sâu tít ở cuối làng, cái sân không rộng, những khối đá thấp lè tè trộn với đất bùn làm thành một bức tường bao thấp quây quanh, gần cổng có một cái giếng, miệng giếng có khí lạnh bốc lên, hồi nhỏ mỗi khi đi tới cạnh cái giếng này tôi luôn cảm thấy bất an.
Bố dừng xe ngoài cổng, bước xuống khẽ đẩy cánh cổng gỗ liền nghe thấy tiếng gà kêu. Cánh cổng mở ra, đúng lúc này có một ông già cũng đang mở cửa đi ra, đó chính là ông nội tôi, ông già thần bí đó. Ông khoác trên mình một cái áo bông màu đen, miệng ngậm tẩu thuốc.
"Về rồi đấy à?" Ông vừa nói vừa đi về phía hai bố con, có điều ông rõ ràng đã già thêm, bước chân loạng choạng, gương mặt lộ ra nụ cười mà trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy. Ông dẫn hai bố con chúng tôi vào nhà, căn nhà rất đơn sơ chỉ có một cái kháng (một loại giường bằng đất), mấy cái tủ màu đỏ không biết làm bằng thứ gỗ gì, một bộ bàn ghế cũ rich, ngoài ra không còn vật gì khác. Ngồi trên giường đất ông rót cho hai bố con tôi hai chén trà, mùi hương trà thoang thoảng dễ chịu phả vào trong mũi. Ông ngồi đối diện với chúng tôi nói qua dăm ba câu chuyện rồi bảo bố tôi: "Anh ra ngoài loanh quanh một chút đi, tôi có chuyện cần nói riêng với Mộc Dương". Bố tôi gật đầu, đưa mắt nhìn tôi sau đó đẩy cửa đi ra ngoài.
Ông tôi ho khẽ vài tiếng rồi rủ rỉ nói: " Mộc Dương, những gì ta nói với cháu hôm nay cháu nhất định phải nhớ kỹ". Tôi nghe mập mờ nhưng vẫn khẽ gật đầu. "Cháu đã bao giờ nghe nói đến 'khu trùng sư' (thuật sư điều khiển côn trùng) chưa?" Ông hỏi tôi. Tôi vội lắc đầu, khu trùng sư? Tôi có nghe đến thầy phong thủy, thầy tướng số, nhưng khu trùng sư này rốt cuộc là cái gì chứ?
"Cháu trai, thực ra côn trùng trong thiên hạ này tuy có hàng trăm nghìn loại khác nhau, nhưng tất cả đều không nằm ngoài ngũ hành, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ". Ông tôi nói bằng giọng thản nhiên, "các loài côn trùng mà người bình thường chúng ta thấy đa phần thuộc hệ Mộc, và những thứ côn trùng này không gây tổn hại đến con người cho lắm, nhưng bốn hệ kia thì khác".
"Dạ?" trước đây tôi chưa bao giờ nghe đến kiểu phân loại côn trùng ly kỳ như vậy, kể cả bây giờ nếu nghe lại vẫn cảm thấy mới mẻ như ban đầu.
"Cháu hiểu à?" ông tôi mừng rỡ hỏi.
"Hình như... nhưng vẫn không hiểu cho lắm!" tôi do dự đáp.
"Ha Ha!" Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông cười lớn như vậy, sau đó ông đứng dậy đi tới cái tủ gỗ gần đó, cẩn thận mở cửa tủ. Trong nháy mắt một mùi hương thơm ngát từ bên trong tỏa ra. Mùi hương ấy rất quái dị nhưng quả thật rất thơm. Thoáng sau đó, mấy con gà trống bên ngoài bắt đầu chộn rộn hết cả lên. Ông tôi lục lọi trong tủ hồi lâu liền lấy ra một cái hộp gỗ nhỏ, nguyên một màu đen tuyền liền thành một khối, nhìn trơn bóng nhẵn nhụi. Mùi hương kia chính là từ đó tỏa ra. Ông đặt cái hộp trước mặt tôi rồi nói: " Mộc Dương, con trùng ở trong này thuộc hệ Thổ".
Tôi lại càng tò mò, con trùng thuộc hệ Thổ rốt cuộc trông như thế nào?
"Con trùng trong này biết độn thổ, rất khó bắt được nó trong lòng đất, nhưng vì Ngũ hành tương sinh tương khắc, nó sợ nhất là mộc, nên nếu bỏ vào cái hộp gỗ này thì nó không thể thoát được. Nào, cháu mở ra xem đi". Ông tôi đẩy nhẹ cái hộp gỗ tới trước mặt tôi. Tôi thoáng do dự, nuốt nước bọt rồi nhẹ nhàng mở hộp ra. Có một quả trứng ngũ sắc to như trứng chim cút ở trong hộp, nhưng lạ một điều là mùi hương cổ quái lúc nãy đã nhạt đi rất nhiều.
"Thứ trùng này gặp gỗ liền co rút lại hình thành một lớp vỏ dày bên ngoài, nhưg hễ gặp đất lớp vỏ sẽ tan biến trong thời gian rất ngắn, sau đó nó biến thành một con sâu". Ông vừa nói vừa khom người nhón một ít đất dưới sàn lên cẩn thận bỏ vào hộp. Tôi tròn mắt nhìn chằm chằm vào con sâu bên trong, chỉ chốc lát liền phát hiện nó rung lên nhè nhẹ. Mới đầu tôi còn tưởng là mình bị ảo giác, không lâu sau, con sâu càng lúc càng rung mạnh hơn qua vài phút thì nghe một tiếng "rắc" nhẹ, lớp vỏ cứng trên mình nó tách ra. Thật không thể tưởng tượng nổi, một cái đầu màu hồng phấn từ bên trong chui ra nhưng không có mắt, nó nhanh chóng ăn sạch chỗ vỏ còn lại, trở nên béo múp trắng mịn như con nhộng tằm.
"Đây chính là..." tôi kinh ngạc kêu lên.
"Đúng" nói xong ông tôi ấn lên con sâu, sau đó đổ đất trong hộp đi, chỉ thấy thân thể con sâu như bị kích thích liền nhanh chóng co rút, thoắt cái lớp da bên ngoài lại biến thành một lớp vỏ cứng.
"Thần kỳ quá, tại sao trước đây cháu chưa từng nghe tới chuyện như thế này nhỉ?" Tôi trố mắt ra nhìn ông hỏi. Ông thở dài nói: " Hôm nay ông gọi cháu đến là muốn kể cho cháu nghe một số chuyện về ông và những con trùng này".
"Về ông?" Tôi ngạc nhiên thốt lên.
"Ừ, những ký ức ấy đã phủ bụi mấy chục năm, ông nghĩ nếu còn không nói ra thì e là không còn thời gian nữa". Giọng ông đượm vẻ thê lương.
"Tất cả chuyện này nên bắt đầu từ người tử tù ông gặp vào mùa hạ năm đó". Ông tôi thở dài một tiếng, sau đó châm một điều thuốc.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip