TRUYEN NGAN DOAT GIAI(P2)-LENGHIABK05
Út Huệ là người được cha Bình tin cẩn, chị như người “vú em” của công ty, đã ngót 40 tuổi mà vẫn còn là con gái. Chị không đẹp, tính tình lại cù mỉ cù mì như hạt thóc, củ khoai nhưng có sức lan tỏa đến kỳ lạ, Bình bỗng tìm thấy ở nơi chị tấm lòng bao dung, đức hy sinh tận tụy, thiên chức của người làm mẹ, làm vợ mà anh khao khát, kiếm tìm bấy lâu. Như “buồn ngủ lại gặp chiếu manh”, rồi những buổi trưa sau đó, anh ít về nhà, nơi đây có cơm ngon, canh ngọt, áo quần được giặt ủi tinh tươm. Bình thích nhất cách giặt áo sơ mi, cứ nước cuối là bao giờ chị cũng vò bằng xà bông thơm, bởi vậy mỗi khi mặc áo, thắt ca-vat, là anh cảm nhận được mùi hương da thịt của Út Huệ…
Chuyện đến tai Á hậu, máu gái đẻ lồng lên, nàng định cho đứa to gan dám cướp chồng mình một trận tơi tả. Nhưng mẹ nàng ngăn lại: “không lẽ cỡ mày lại đi đánh ghen với nhà chị đầu bếp sao?”. Đang đêm, nàng gào thét trong điện thoại bằng đủ lời lẽ thô tục, như thể hắt thau nước bẩn vào mặt chồng…
Sáng sớm hôm sau, Bình lệnh cho Tuấn đem ngay một sam-so-nai đầy tiền, cùng cuốn sổ đỏ ngôi nhà mặt phố theo đúng yêu cầu của vợ. Tuấn chưa kịp đặt cặp tiền xuống bàn, thì Á hậu từ phòng trong bước ra, mắt ráo hoảnh, chẳng nói nửa lời, cô giằng thốc lấy cặp tiền rồi ôm con tức tốc về thẳng nhà ngoại. Từ hôm ấy, mặt Tuấn cứ nặng như chì, miệng thì lẩm bẩm: “Vợ đẹp như tiên thì không thích, lại đi mê loại gái đang ế xưng ế xỉa, thật vô lý hết chỗ nói”.
*
Thời gian sau đó, mọi việc dường như đã lắng xuống. Nhân dịp về Hà Nội dự hội nghị “Doanh nhân tiêu biểu toàn quốc”, giám đốc Bình gặp lại ông Vua địa ốc Sài Gòn Trịnh Long, là bạn học cùng Trường Kinh doanh Ha-vớt với anh hơn hai năm ở Mỹ. Long hồ hởi kể với Bình về khám phá mới trong chuyến đi khảo sát thị trường tỉnh Hải Nam. Được đến huyện Văn Xương, tận mắt thấy những cây đa kỳ lạ, mà dưới gốc cổ thụ có hàng trăm con gà mái tơ đang mải mê tranh nhau ăn những quả rụng chín nẫu. Gà Văn Xương có dáng rất ngộ nghĩnh, ngực nở, mông bạnh gọi là gà “tam đoản” vì nó có 3 cái “ngắn”: cổ ngắn, cánh ngắn và chân ngắn. Chúng nghiện ăn quả đa, ăn no rồi thì chạy nhảy, bới đất cho chóng đói để ăn tiếp, chúng ăn suốt ngày, vì vậy thịt chắc và thơm ngon nổi tiếng Đông Nam Á. Thêm nữa, Văn Xương còn là quê hương của ba chị em Tống Khánh Linh – đại mỹ nhân Trung Quốc càng làm cho miền đất trù phú này thêm danh tiếng.
Ngay chiều hôm ấy, họ rủ nhau đi thưởng thức món cơm Gà Văn Xương mới khai trương ở Hà Nội. Nhìn mâm cơm sắp cho ba người ăn đã thấy vô cùng hấp dẫn: Chiếc đĩa sứ Giang Tây trắng tinh, hình bầu dục bày nguyên một con gà hấp cốt dừa, chặt miếng bằng dao phay theo lối “trảm kê”, được trang trí thêm mấy miếng dưa leo xếp rẻ quạt, ớt lồng đèn nguyên quả và lá ngò gai thái chỉ bày khéo léo, trông thật bắt mắt, kế bên là một âu canh gà cách thủy với nấm bào ngư, nấm đông cô và cà rốt cắt khẩu, nước canh thanh ngọt, tỏa hương thơm phức. Nổi bật giữa mâm là bát nước chấm màu nâu sẫm, được chế biến từ dầu hào, tỏi, gừng, xì dầu làm dậy lên vị ngọt và thơm độc đáo. Liễn cơm bốc khói, nóng rốp, hạt gạo ngậm màu vàng nhạt, được nấu từ nước luộc gà nên tơi, mềm… Tuấn sướng rên, không thể kìm lòng được phải thốt lên: “món Gà Văn Xương này, có mà ăn cả đời cũng không chán!”. Và từ hôm ấy, thầy trò Bình ngày nào cũng “diễn” đều hai bữa cơm gà đặc sản này.
Kết thúc hội nghị, giám đốc Bình vội về để kịp giải quyết lô hàng đi Châu Âu. Anh bảo Tuấn xuống ghế sau, ấy là thói quen muốn tự mình lái xe mỗi khi anh phấn khích trong lòng. Bình cài chéo dây an toàn trước ngực rồi nổ máy. Chiếc Mercedes-Benz từ từ rời khỏi Trung tâm Hội nghị, nhập vào dòng người đông như mắc cửi, xuôi ngược trong chiều Thu Hà Nộị.
Từ ngày phục vụ sếp, Tuấn chưa một lần dám ngồi vào chiếc ghế sang trọng dành riêng cho chủ, nhưng hôm nay được sếp cho phá lệ, thì trong lòng cậu hả hê vô cùng. Tuấn chưa kịp hưởng cái cảm giác mê li ấy thì xe bỗng dừng lại, đường phố đã sáng ánh đèn. Tấm biển hiệu “Cơm gà Văn Xương” như ập vào mắt, cậu hốt hoảng kêu lên: “Ô! sao lại dừng xe ở đây hả sếp?”. Bình tắt máy, không quay lại để dấu nụ cười suýt bật ra, rồi thản nhiên bảo: “Vào ăn thêm bữa gà Văn Xương nữa kẻo về Thái lại thèm”. Chưa nghe hết câu, Tuấn quặn người như “đỉa phải vôi”, mếu máo nói: “Gớm, ba ngày liền tù tì ăn món Gà Văn Xương mà sếp vẫn chưa thấy chán sao? Còn em thì đã ngán đến tận mang tai rồi. Bây giờ có là gà văn da, văn thịt gì thì cũng chịu, để bụng về dọc đường ăn cơm bụi cho nó lành sếp ạ!”
Giám đốc Bình ngước mắt nhìn tấm biển Gà Văn Xương như để chào tạm biệt, rồi giao lại chìa khóa xe cho Tuấn. Anh thả lưng vào ghế đệm êm ru, thoải mái như nằm trên sô-pha trong phòng khách. Bình thong thả đưa ngón tay lên tháo nhẹ “củ ấu” ca-vạt khỏi cổ sơ-mi, rồi thủng thẳng nói với Tuấn: “Mấy ngày nay, nếu tính kỹ chú mày mới ăn có dăm bữa Gà Văn Xương mà đã ngán đến tận mang tai? Còn anh đây, đã xơi món Á hậu ròng rã ba năm trời, thử hỏi còn ngán đến tận đẩu đâu nữa hả giời?”. Tuấn ngớ ra, bỗng vỡ òa câu nói đắng chằng của sếp, cậu vỗ tay đánh rụp vào vô-lăng, rồi phá lên cười mà không hiểu là mình vui hay buồn.
Màn đêm buông xuống, chiếc xe Mercedes-Benz sang trọng màu nòng súng như một cái công-ten-nơ bằng kim loại quý, đóng gói tâm tư của hai người đàn ông đem trả về nơi mà ở đó Á hậu và cơm Gà từng là khát khao đầy vơi thời trai trẻ của họ. Khối sắt vô hồn ấy cứ loang loáng lao qua cây cầu thế kỷ, rồi khuất dần về hướng thành phố miền trung du./.
Phố Cũ Hà Nội – tháng 4/2011
Đàn ông đi chợ
(Truyện ngắn)
Năm 40 tuổi, đàn ông vẫn chưa chịu lấy vợ cho mẹ vừa lòng. Mẹ sốt ruột lắm, giục suốt mà đàn ông mãi dửng dưng, chẳng chịu dẫn ai về nhà ra mắt mẹ một lần. Đàn ông làm kiến trúc sư, vẽ đẹp, đàn hay, bạn bè không ai tin đến tuổi này lại chẳng có người nâng khăn sửa túi. Đàn ông kiếm tiền rất giỏi, tậu được một căn hộ ở cao ốc gần 30 tầng. Dân kiến trúc nên đàn ông tự tay thiết kế nội thất, ai đến cũng phải xuýt xoa: nhà đẹp quá ông bạn ơi! Nhưng ngó khung cảnh vắng lặng buồn bã, lại thêm một câu: thôi nhanh nhanh lấy vợ đi ông tướng… Lấy vợ! Đi đâu, gặp ai đàn ông cũng đều nghe mỗi hai từ ấy. “Giờ sự nghiệp, tài chánh của chú tốt như thế, còn chờ gì nữa hả?” Chị của đàn ông khuyên. Đàn ông hờ hững, ngậm điếu thuốc lá, hít một hơi, lim dim. Thỉnh thoảng cuối tuần đàn ông lại ghé nhà bà chị chơi, ngồi luyên thuyên với ông anh rể. Ông anh rể dáng bệ vệ, giọng sang sảng động viên: “Có vợ sướng như tiên ấy chú ạ. Thấy tôi không, cơm ăn, áo mặc có phải lo lắng cái chi đâu…” Vừa nói vừa vỗ vai đàn ông bôm bốp, lại hơi liếc liếc bà chị. Bà chị đang dở tay làm bếp, nghe chồng khen khéo tủm tỉm cười. Đàn ông lái sang chuyện khác: chứng khoán dạo này chán quá anh nhỉ… Ăn bữa cơm trưa với nhà chị xong, đàn ông xin phép. Ông anh cố giữ: “Ở lại chơi với các cháu, tối về ai nấu cơm cho mà ăn?” Ông anh bà chị có cả nếp cả tẻ. Con gái lớn vừa tốt nghiệp đại học, anh chị tính cho đi tu nghiệp nước ngoài luôn, tiếng anh cứ gọi là vanh vách. Thằng con trai năm nay vào lớp 10, trường chuyên hẳn hoi. Hai đứa bám cậu lắm. Cô cháu gái còn gợi ý: “Bạn cháu nhiều đứa xinh lắm, cậu thích không cháu giới thiệu cho!” Nếu cô cháu gái nói câu này cách đây mười năm trước, nghe còn chấp nhận được. Đàn ông ngượng: “Về chẳng biết cậu gọi bằng em hay bằng cháu đây…” “Em hay cháu gì mà chẳng được. Chồng già vợ trẻ là tiên trên đời mà…” Kèm theo là một trận cười sang sảng của ông anh rể. Chẳng biết ông anh chỉ giỡn hay có pha chút mỉa mai mà trên đường về đàn ông cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Ừ thì đúng rồi, tối về ai nấu cơm cho đàn ông ăn đây. Vốn dĩ từ lâu, đàn ông đã chấp nhận những bữa ăn qua loa chiếu lệ. Khi hàng xóm đang quây quần bên mâm cơm đầm ấm của gia đình, có tiếng cười khanh khách của trẻ nhỏ, tiếng nhỏ to tâm sự giữa vợ và chồng, đàn ông ngồi trên ghế sa-lông, mắt đăm đăm lên màn hình ti vi. Xem ti vi mà tưởng như đang phóng tầm mắt chu du vô định vào một khoảng bao la nào đó. Lâu lâu lại khẽ nhấm nháp ổ bánh mì kẹp thịt nguội ngắt. Đàn ông rất ít khi mở đèn vào buổi tối. Trong nhà, chỉ ngập mỗi ánh sáng mập mờ loạng choạng của ti vi. Khói thuốc tràn khắp phòng khách. Đàn ông nghiện thuốc lá nặng. Thông thường, phụ nữ ghét mùi khói thuốc. Chính cô người yêu đàn ông quen ngày còn là sinh viên đã ra tối hậu thư: “Một là thuốc lá, hai là em. Anh chọn đi!” Nàng cứ nghĩ đàn ông sẽ chọn nàng. Vậy mà không, đàn ông quyết giữ thuốc lá ở lại. Có tiếng chuông điện thoại. À, bạn chí cốt. “Làm vài chén chứ mày, quán cũ nhé.” Đàn ông chơi thân với Tấn chừng cũng đã hơn hai chục năm. Dễ gì có được một tình bạn bền lâu như thế. Nhất là, khi đã bận đường vợ con, bạn bè cũng dễ chểnh mảng nhau đi. Vậy mà không, cuối tuần anh em vẫn nhậu nhẹt, cà phê cà pháo đều đặn. “Mày là sướng nhất rồi, như tao đây, tự dưng đeo cái cùm vào người, có khổ không cơ chứ!” Tấn cũng muộn đường vợ con y như đàn ông. Hình như tận xa xưa hai thằng đã có lời thề không bao giờ lấy vợ, có lẽ vì trông thấy nhiều người mất tự do quá, mình cần phải làm “cách mạng”. Ấy thế mà đến năm ba mươi lăm tuổi, đột nhiên Tấn “phản bội”, quay ngoắt đi lấy vợ, bỏ đàn ông chơi vơi lại một mình. “Tao thì cũng muốn đi đến cùng lắm đấy, thế nhưng mà vì hoàn cảnh…” Tấn gãi đầu gãi tai, làm bộ làm tịch, rồi phá lên cười hềnh hệch. Nói là nói thế, chứ từ ngày rước vợ về, Tấn như khác hẳn. Quần áo, đầu tóc gọn gàng tươm tất, chẳng còn nhận ra thằng Tấn luộm thuộm của ngày xưa nữa. “Trăm phần trăm đi. Mà này, chú mày cũng kiên trì thật đấy…” Lấy vợ đi! Chưa dứt câu đàn ông đã nói thay. Hai thằng lại phá lên cười. Đàn ông nhớ hồi vợ Tấn mới sinh. Trong điện thoại giọng nó lạc đi, đầy sự xúc động: “Con trai. Con trai. Con trai mày ơi! Trời ơi con trai!” Có thể tưởng tượng ra nó đang nhảy cẫng lên vì sung sướng. Đàn ông nhận được tin tức tốc đến thăm vợ con nó ngay. Đang đi đàn ông sực nhớ ra, đâu thể nào tay không được. Thế là gửi xe, vào siêu thị. Vào tới nơi trông y như một mê cung với đủ loại hàng hóa xếp nhau trên kệ tầng tầng lớp lớp. Khổ, công việc mua sắm vốn là của phụ nữ. Đàn ông ngơ ngơ ngác ngác, chẳng biết nên mua gì, mua gì thì tốt cho cả mẹ và con nhỉ? Lục tung đầu óc một hồi, mới nhớ hồi bà chị sinh, đàn ông phải chở mẹ đi mua sữa, rồi ít trái cây cho chị bồi bổ. Phải rồi, sữa bột cho bà mẹ. Lại đi khắp các dãy hàng, vẫn chẳng tìm được quầy sữa ở đâu. Cái siêu thị này rộng quá, gì cũng bán, đi đến là mỏi nhừ chân. Chả hiểu sao mấy bà phụ nữ có thể bỏ cả ngày trời vào trong này được nhỉ. Mò mẫm mãi cuối cùng đành phải hỏi cô nhân viên đang đứng phụ trách quầy gần đó. Cô bé xinh xắn, chỉ dẫn tận tình, đàn ông ấp a ấp úng lọng cọng cảm ơn. Cầm hộp sữa ra khỏi siêu thị, đàn ông tạt qua chợ mua trái cây. Chợ thì chẳng được mát mẻ như siêu thị. Đủ mùi thịt, tôm, cá, mắm, trái cây trộn lẫn nhau bên cạnh những đống rác chất lên bề bộn, nhớp nháp. Ngày nào mẹ và chị đàn ông vẫn đi, chẳng bao giờ biết chán, hay thật! Đàn ông chạy xe từ đầu chợ đến cuối chợ, quay xe lại từ cuối chợ đi đến đầu chợ, luống cuống đến là tội nghiệp. Mua trái cây nhưng là mua trái cây gì, mua một thứ hay mua tất tần tật mỗi thứ một ít. Một hồi lâu, đành bấm máy a lô cho bà chị: “Chị ơi đi thăm vợ thằng bạn mới đẻ thì cần mua trái cây gì?” Tấn biết chuyện lăn đùng ra mà ôm bụng cười. Đàn ông đỏ hết cả mặt, sau về chị hỏi mới ớ ra mình lại còn bị mua đắt nữa. Có mấy quả cam quả táo mà hết gần cả trăm nghìn. Khổ, lơ nga lơ ngơ, đàn ông đi chợ thì biết mặc cả là thế nào đâu. Đấy là tình hình của năm năm về trước. Đàn ông bây giờ có không muốn vẫn phải đi chợ như thường. Không thể ngày nào cũng ăn bên ngoài, rồi mãi mì gói, bánh mì kẹp thịt được. Lần đầu tiên bắc nồi lên bếp, tưởng ngon ăn, đàn ông cứ để lửa đấy đi tắm cho mát. Đang tắm dở chừng thì nghe mùi khét nồng nặc bốc lên, mới tá hỏa tam tinh vội vội vàng vàng chạy ù ra ngoài. Kết cục vẫn là mì gói “chữa cháy”. Rút kinh nghiệm về sau đàn ông chỉ dám nấu những món cực kỳ đơn giản, chẳng mơ mộng đòi làm “Yan Can Cook” nữa. Chị biết đàn ông vốn sẵn vụng về, thương lắm, lâu lại qua nấu cho một bữa tươm tất. “Chị đã bảo chú lấy vợ đi mà cứ gàn. Mẹ trông mãi. Phải để mẹ thấy cháu chứ…” Đàn ông hễ cứ nghe nhắc đến là mau đánh trống lảng: chứng khoán lên xuống thất thường thế nào ấy chị…. Chị thở dài ngao ngán: chẳng vợ con thì cũng kiếm một cô bồ mà đỡ đần cho mình, nhà rộng thênh thang thế này. Cũng có mấy lần hiếm hoi đàn ông miễn cưỡng nghe lời chị đi “xem mặt”. Đều là bạn bè, em, cháu… của chị cả. Chị phải dụ mãi: xinh lắm, đẹp người đẹp nết, không nhanh người ta đi lấy chồng thì phí! Đàn ông đang bị stress vì công việc, thôi thì đi một lần đã mất gì, gọi là giải trí cho đầu óc thư giãn. Nhưng đến lúc ngồi đối diện “người đẹp” rồi, đàn ông đổ mồ hôi hột, tim đập, chân run, mặt đỏ au, nói mãi chả nên lời. Bà chị ở nhà chờ tin vui, nào ngờ ông em về lắc đầu: “Chẳng được gì cả chị ơi!” Càng thêm tuổi tiêu chuẩn của đàn ông mỗi lúc một nâng dần lên. Đẹp là đương nhiên rồi này. Nhưng đẹp phải đi đôi với sự thông minh, duyên dáng. Nói chuyện mà nhạt như nước ốc thì còn thú vị nỗi gì. Rồi thì phải đảm đang này, nấu ăn ngon, việc nội trợ trong nhà không bao giờ phải đến lượt đàn ông làm… Bà chị chịu thua với ông em: “Lạy chú, chú già đến nơi rồi đấy.” Đàn ông môi phì phèo điếu thuốc. Nhận được cuộc điện thoại bất ngờ hẹn gặp của người xưa, đàn ông hơi bàng hoàng. Bao nhiêu năm không gặp nhau rồi. Mọi ngày ăn mặc tuềnh toàng, hôm nay ráng chải chuốt một chút. Đàn ông nhớ những ngày còn bên nhau, nàng ngồi sau xe đạp cho đàn ông đèo đi chơi, cứ như là thơ là phim vậy. Giờ ra đường thấy mấy em xinh như mộng ngồi sau SH, Dylan, đàn ông phì cười. Ít ra đàn ông còn phúc hơn các thằng chở mấy em ấy. Nàng vẫn đẹp, nhưng theo một kiểu khác. Nàng vừa cùng chồng về nước, thăm lại quê hương sau mười mấy năm bên xứ người. Anh chồng mắt xanh, mũi lõ, bập bẹ được vài câu tiếng Việt vợ dạy cho, lịch sự bắt tay đàn ông. “Em nghe bảo anh vẫn chưa vợ con gì, còn nhớ em hay sao?” Đàn ông ngượng chín mặt: à, thì cũng có nhớ, mà kiếm mãi chẳng tìm được ai phù hợp… Chẳng biết anh chồng nàng nghe có hiểu gì không mà cũng cười cười, gật gật hóng chuyện. Đàn ông thấy không thoải mái, ngồi một lúc cáo bận đi về. Mấy hôm sau nàng hẹn đàn ông đi uống cà-phê, chỉ có hai người. Đàn ông ngậm điếu thuốc lá, mắt phiêu du ra ngoài cửa sổ. “Anh vẫn không bỏ được thuốc lá à? Buồn cười thật anh ạ, chồng em cũng nghiện thuốc lá nặng, có khi còn hơn cả anh nữa. Đúng là, ghét của nào trời cho của ấy…” Ghét của nào trời cho của ấy…. Đàn ông gắng kìm tiếng thở dài rất khẽ. Đàn ông ghét đi chợ, ghét nấu ăn, ghét phải ngồi xem ti vi một mình trong đêm. Vậy mà vẫn phải làm tất cả. Làm một mình. Hôm sau, đàn ông hẹn nàng và chồng qua nhà ăn bữa cơm, cho gọi là biết nhà. Thế là phải đi chợ, mua gì đó đơn giản… * * * Đàn ông đi chợ, một mình như mọi khi. Chợm nghĩ, giá mà ở nhà giờ này có một người đàn bà ngồi chờ cơm. ./. 1 CUỘC ĐUA Thấy tôi tái xanh tái xám, mồ hôi mồ kê bước vào nằm chuồi ra giường, con Thuý ngừng đọc báo : - Mất dạy hả ? - Ừ. Thằng quỷ bảo hôm nay em trúng gió, cô cạo gió giùm em. Rồi hắn cởi áo... Tao dằn lòng lắm mới không cho nó cái tát. Đạp xe đi về gần 15 cây số tốn hao bao ca lo mà chẳng được gì. Chỗ gặp học trò trời sợ. Chỗ thì phụ huynh cứ giả vờ quên ngày trả tiền, chỉ tặng đồ quá đát... - Có cái này dành cho mi đây ! Coi gặm được không ? - Con Thuý chìa tờ báo. Tôi dán mắt vào chỗ hắn chỉ : “Cần một giúp việc nữ dưới 25, lí lịch rõ ràng, ngoại hình khá, dễ mến, trình độ phổ thông trung học, có khả năng chăm sóc người bệnh nằm một chỗ. 50.000đ/2 giờ. Thử việc 3 buổi...”. - Dạy kèm không ra gì, tiếp thị bia không xong thì giúp việc nhà thời công nghiệp vậy. Tính ra tháng bằng 4 chỗ dạy kèm ! ăn học thoải mái. - Tiền nào mệt nấy ! - Đồng tiền lương thiện bao giờ cũng nhọc nhằn. Lấy xe máy tao đi ! - Đi giờ ? - Chụp giật liền. Lương cao khối đứa nhào vô. - Con Thuý giục. - Giúp việc nhà mà làm như tranh suất học bổng đi nước ngoài ! Lại còn ngoại hình khá ! Tôi càu nhàu nhưng vẫn nghe lời con Thuý, đứng dậy. Hắn đáng nể. Tiếp thị bia để ăn học mà tâm hồn, thể xác 2 năm rồi còn nguyên xi. Hắn tránh né những thói sàm sỡ bằng thứ dịu dàng bọc thép, còn tôi mới làm chưa được một tuần đã tung chưởng bốp vào má một sếp tuồn tay vào váy và lập tức bị nghỉ việc. Tôi thay cái quần jeans cũ rồi nhìn mình trong gương. Đứa con gái trong đó nhìn lại tôi. Tóc ngang vai, không trang điểm, không “dễ mến”. Gai nhọn trong ánh nhìn. Môi khép hờ như nụ hồng nhưng mở ra có thể là 2 lưỡi dao bén. Tôi nhớ những từ người ta quẳng vào mình : Con mọi cứng đầu. Thứ không mẹ không cha. Nghèo mà chảnh !.. Tôi đến địa chỉ trong báo. Đúng là giàu. Biệt thự mặt tiền. Xe hơi phủ vải ở ga-ra. Béc-giê xổ một tràng tiếng cẩu. Một người đàn bà khoảng dưới 40 nhìn tôi qua cửa sắt. Tôi chìa tờ báo có mẩu tìm người. Bà ta gật đầu rồi mở cửa. Cuộc phỏng vấn tiến hành chớp nhoáng : - Hãy giới thiệu ngắn gọn về mình. - Tên Phượng, 21 tuổi, sinh viên. Nghe đến đó, bà ta chìa tay. Tôi hiểu ý rút ví lấy thẻ sinh viên. Bà ta nhìn ảnh rồi nhìn tôi săm soi từ đầu đến chân. - Cô biết đùa, hát karaoke, nói chuyện phiếm giải buồn không ? - Biết. - Kiên nhẫn chịu khó không ? - Tôi dễ thương tổn nhưng lì lợm, không dễ đầu hàng. - Mấy người trước dội ra đều bảo họ thừa dịu dàng kiên nhẫn. Tôi thấy cô thẳng thắn, cứng cáp. Nếu cô trụ được, cô có thể được 2 triệu 1 tháng để ăn học. Còn không, 200.000đ cho 3 buổi rồi đi. Mai cô bắt đầu. Từ 3 đến 5 giờ chiều. Để lại địa chỉ, thẻ sinh viên hoặc chứng minh thư. - Công việc cụ thể của tôi là gì ? - Trò chuyện, chịu đựng người bệnh, giảm áp lực buồn chán vì nằm một chỗ. Trên đường về, con Hai Triệu tung tăng chạy trước ngoắc ngoắc tôi. Vì nó, tôi sẵn sàng gồng mình chịu đựng 2 giờ cho 22 giờ còn lại, cho cuộc đời tôi tự chọn và đi bằng đôi chân mình. Đêm ấy con Hai Triệu và một người không hình dáng chập chờn quấy nhiễu giấc ngủ tôi. Nam hay nữ, già hay trẻ, người hay quỷ ? Buổi đầu... Bà quản gia dẫn tôi đến phòng bệnh nhân. Bà thì thào : “Cậu chủ ngủ. Ngồi đợi”. Phòng rộng, thoáng nhưng bề bộn đồ đạc. Trên giường cũng bề bộn một hình hài. Tóc nhuộm hai màu chọi nhau. Chăn mỏng đắp hờ ngang bụng. Hai tay giăng ngang như bị đóng đinh. Lũ gối lớn nhỏ vây quanh cả chục cái. Tôi ngạc nhiên nhìn gương mặt trẻ măng đang ngủ mà mày nhíu lại như vật lộn với nan giải. - Khi cậu chủ dậy, cô giới thiệu cô là người thứ mười ba. Bà ta đi ra. Tôi cúi nhặt mấy tờ báo trên nền bỗng bị một cái gối ném trúng. Ngẩng lên, tôi chạm phải đôi mắt đầy hận thù trên gương mặt khoảng chừng đôi mươi. - Mày là con đĩ nào ? Tôi đã hình dung nhiều tình huống nhưng vẫn không phải tình huống này. Máu dồn lên mặt nhưng con Hai Triệu vuốt giận tôi. - Người thứ mười ba. - Tôi đáp. - Đứng dậy ! ánh mắt thằng nhãi lướt trên tôi rồi cắm vào đôi chân lành lặn của tôi với vẻ ganh tị : - Mày có cặp giò mặc váy chắc đẹp. Tao... - Hắn bỏ dở câu nói rồi ném vào chân tôi cái gối. Tôi đón lấy. Cái nữa... Cái nữa... Tôi cáu : - Tôi sẽ quẳng lại nếu cậu tiếp tục. Gối cứ tỉnh bơ nhắm tôi bay tới. Tôi gạt phăng con Hai Triệu qua bên, chụp lấy ném trở lại vào mặt thằng chủ. Thấy tôi ném hăng quá, thằng nhãi nhà giàu ngạc nhiên : - Không sợ mất việc hả ? - Mày tưởng có tiền rồi làm cha thiên hạ chắc ? - Tôi chống nạnh trừng mắt. Thằng nhãi trố mắt nhìn tôi, rồi bật cười : - Trông mày cũng hay hay. Đỡ buồn ! - Nó chống tay ngồi dậy nhưng không được. - Giỏi ném nữa đi ! - Đỡ tao ngồi dậy ! Tao thuê mày để làm việc đó. - Nhưng nếu tao không cần làm thuê nữa thì mày gọi đứa thứ mười bốn tới mà đỡ ! Tao đi đây ! - Tôi quay lưng. - Này... ! - Thằng chủ gọi giật. Tôi dừng. Đời tôi, tôi chưa đầu hàng cái gì trong vòng 15 phút. - Tôi cần tiền. Cậu cần người giúp đỡ. Có tôn trọng nhau thì hợp tác. Không thì thôi. Không có màn sỉ nhục. - Tôi đứng ở cửa ra điều kiện. - Tên gì ? - Phượng. - Sinh viên hả ? - ừ. - Lại đây đỡ tao ! Tôi đến gần... Con Hai Triệu động viên : “Hắn không đứng dậy được. Đừng sợ !”. - Bế tao ra xe lăn ! - Thằng chủ chỉ tay về phía cửa sổ. Tôi định lật mền nhưng hắn thì thào : “Để thế !”. Tôi luồn tay qua cổ hắn và cảm nhận cái mềm mỏng rủ xuống ở tay kia. Hắn quàng tay qua tôi, mắt lấp lánh ánh tinh quái. Tôi đe : - Chớ dại ! Nếu không sẽ bị quẳng ngay xuống đất. Thằng nhóc lè lưỡi nép vào tôi. Lần đầu tiên tôi chạm vào một người đàn ông, dù hắn ta dường như chỉ còn một nửa ! Buổi thứ hai... Vừa dựng xe đạp tôi đã nghe tiếng gào, tiếng khóc, tiếng chửi rủa sa sả. Một quý bà sực nức son phấn và nước hoa từ phòng cậu chủ đi ra, vừa đi vừa lau nước mắt. Thấy tôi, bà dừng lại : - Nghe nói cô đã qua buổi đầu tiên êm thấm với nó. Nếu cô làm dịu những cơn khủng hoảng thần kinh của con tôi, cô sẽ được trả gấp đôi. - Tôi có thể biết nguyên nhân và tình trạng của cậu ấy được không ? - Đua xe. Bạn gái chết, còn nó phải cắt cụt đôi chân vì xe tải nghiến nát. Đã 2 tháng nay tôi sống trong địa ngục, sợ những cơn cuồng nộ của nó đến không dám ở nhà... Tôi vào phòng, đến bên hình hài tàn phế đang nằm thở dốc và khóc. - Thứ mười ba đến rồi. - Tôi báo. - Trả chân cho tao ! - Gã gào lên. - Tôi không lấy chân của cậu. Có chân không đi, trời lấy lại. Gã há miệng như nghẹt thở rồi cầm “con dế” bên gối định ném tôi. Nghĩ sao, gã lại vứt nó qua cửa sổ. - Ông không còn chân, gọi thằng nào cũng không đến ! - Đúng là ném tiền qua cửa sổ ! - 7 triệu đấy, nhưng tiền để làm gì ? - Gã tì tay xuống gối lấy gì đó ném vào tôi. Gã luôn ném để khẳng định mình còn đôi tay quyền lực. Tôi nhặt lên, ngỡ ngàng nhìn tờ trăm đô xếp thành hình con hạc giấy. Cảm nhận được sức nặng của con hạc trong tay nhưng tôi vẫn ném trả. Gã lại ném qua... Cả bầy hạc giấy dưới chân tôi... - Nằm một chỗ, bà già vẫn phát lương. Còn mua sẵn chiếc xe hơi an ủi. Nhưng giờ tôi chỉ muốn chết. Hãy chỉ cho tôi cách chết ít đau đớn nhất. Tôi sẽ trả công cho cô. Tôi nhặt hết 5 con hạc giấy đặt xuống gối gã. - Cho đấy ! - Tôi làm công nhận lương, không nhận tiền cho không. - Nghèo mà chảnh nhỉ ! - Gã ngạc nhiên. - Hôm nay có mấy kiểu chết trên báo, cậu chọn kiểu nào ? Nhảy từ cà phê 33 tầng vào sinh nhật thứ 21. Hỗn chiến tại quán bia, bị đâm. Một nữ sinh 17 tuổi dắt xe đạp băng qua đường sắt bị tàu đụng. Một thanh niên đi xe máy sụp ổ gà bị xe rác cán chết. - Toàn ghê rợn ! - Gã nhăn mặt. - Làm gì có cái chết dịu dàng ! Để tới cái chết phải băng qua đau đớn. Và bỗng nhiên hình ảnh mẹ tôi nằm chết trên mặt đường hiện ra trong vũng nắng. - Cô sao thế ? Tôi lau vội giọt nước mắt ứa ra, lắc đầu... - Cậu chọn cái chết thì cũng chẳng cần người giúp việc nữa ! Tôi về đây. Mất thì giờ ! - Đừng để tôi một mình. - Gã kéo tay tôi - ở thêm với tôi, tôi trả cô một con hạc. Đây là tiền công chứ không phải tiền cho không. - Được. Dại gì không lấy. Giờ cậu muốn tôi làm gì ? - Cô sẽ làm gì nếu mai cô chết ? - Gã hỏi lại. - Tôi sẽ đấu tranh đến cùng để mai tôi vẫn sống. Một ngày là một cuộc chiến. - Giá nghèo như cô, tôi sẽ không bất hạnh thế này. Không có xe để đua, không có tiền để đốt đời mình... - Tại cậu chưa nếm mùi nghèo khổ đó thôi ! Tàn bạo, khốc liệt lắm, cuốn trôi bao ước mơ, đè bẹp bao số phận. Nhưng khi thừa mứa quá, nỗi đau trong tim còn dữ dội hơn cả cái đói. Một nhà văn đã nói thế. - Cô nói đúng. Tôi thừa tiền mà đầy trống vắng. Nhà tôi ai cũng sống giả dối, mọi thứ dùng tiền mua. Mà này, cô e bằng tuổi tôi sao “già” thế ? - Một chiếc xe chở ba người đã cướp mất tuổi thơ của tôi khi tôi lên 6, bởi vậy tôi ghét những đứa giết người rồi bị người giết như cậu... Tôi văng khỏi chiếc xe đạp khóc ré lên còn mẹ tôi nằm trên đường trưa im lặng... Tôi không có cha. Người đàn ông nào đó đã bỏ mẹ tôi khi tôi tượng hình. Ông cậu đem tôi về, lấy hết tiền người ta bồi thường, cho đi học một nửa buổi còn nửa buổi sai vặt, bưng bê trong quán cà phê của họ... 14 tuổi, tôi bị bà mợ ép bán trinh cho một doanh nhân. Tôi cầm chai rượu quật vào ông ta... - Rồi sao ? - Ông ta bưng đầu chạy. Còn tôi từ đó không nhà, lang thang vất vưởng rồi nương thân trong một mái ấm toàn những đứa trẻ không có tuổi thơ như mình. Tôi tự kiếm sống bằng mọi cách, giương vuốt bảo vệ mình và cố đổi thay số phận. - Đời cô buồn nhỉ ! - Bởi vậy mỗi ngày của tôi là một cuộc chiến, chiến đấu để tồn tại, để biến đời buồn thành vui... Buổi thứ ba... Ngày thứ ba gã không la hét cũng không ném thứ gì. Gã nói chuyện, cùng tôi thi hát karaoke. Bà quản gia dường như không tin tiếng hát vọng ra từ phòng gã, sững sờ đứng chôn chân ở cửa. Gã thắng tôi dễ dàng. - Tôi thích sự thách thức. Chính vì vậy mà tôi lao vào cuộc đua. - Gã thở dài. - Giờ cậu dám đua nữa không ? - Đua với ai khi thế này... ? - Với tôi. Chúng ta đua ngoi lên dưới ánh mặt trời. Thời hạn 5 năm. Gã không trả lời tôi, tư lự. Khi tôi bế gã từ xe lăn trở lại giường, gã nhìn vào mắt tôi : - Cô có đôi mắt rất đẹp. Thăm thẳm nỗi buồn nhưng ánh nhìn quyết liệt. Đôi mắt ấy... - “Khóc người một con”... (Bùi Giáng) - Tôi nhìn gã đáp. Tôi qua trót lọt 3 buổi thử việc nhưng không “có duyên” với con Hai Triệu. Ngày hôm sau, một người đến tận chỗ tôi trọ gửi tiền công 3 buổi và một gói quà. Mở ra tôi thấy một bầy hạc châu đầu vào một đoá hồng. Đoá hồng là một cái thư, còn bầy hạc mười con xếp bằng tiền đôla thật. Tôi và con Thuý đọc : “Cô không cần đến buổi thứ tư. Tôi vốn là một đứa sáng dạ, chỉ cần ba buổi là ngộ... Tôi nhận lời “đua” với cô, đua ngoi lên dưới ánh mặt trời để “còn hai con mắt khóc người một con”. Mười con hạc giấy này tôi tặng cô. Nó chỉ bằng chai rượu tôi uống trong những đêm đốt đời mình. Trước khi bay, người ta cũng cần đôi cánh. Đừng chảnh, hãy nhận nó vì tấm lòng thành của tôi. Hẹn gặp lại cuối đường đua”. - Thằng này chưa phải là đồ bỏ. Hoặc điên, hoặc rất lãng mạn. - Con Thuý bảo. - Không ai là đồ bỏ cả. Đi mua máy tính với tao. Tao khởi đầu cuộc đua đây ! Mau lên ! - Tôi giục con Thuý. BẠN KHÁCH NVTPHCM- Tôi nhận được cú điện thoại của Kim làm ở Công ty du lịch: - Mày còn nhớ thằng Khền không? - Khền nào? - Thằng Khách Khền ấy! Im lặng. Bạn tôi giải thích: - Thằng Khền người Tàu, bạn thân của mày ngày bé ấy, nhớ ra chưa? Rồi nó gặng tiếp như rặn ra từng câu: “Nhớ ra chưa?” Những thước phim ký ức vùn vụt tua lại - Nhớ ra rồi. Tôi reo lên. Thằng Khền mắt sâu, gầy nhẳng định dạy tôi cái món võ Tàu nhưng tôi không thiết. Mừng quá, tôi dồn lại nó: - Hiện giờ nó đang ở đâu? Sao mày biết nó? Nó cười kèng kẹc trong điện thoại: - Từ từ, được rồi, từ từ… Tôi ghét cái kiểu làm việc câu giờ của mấy tay làm việc công. - Hiện giờ đang ở Hà Nội. Nó đi du lịch, cho cả vợ con sang. Khền xin bỏ tour để về chơi với mày. Rồi Kim lề thề dặn dò: “Về nguyên tắc, chúng tao không cho nó đi tự do nhưng nó là bạn thân của mày nên tao đứng ra bảo lãnh. Có điều mày phải giữ gìn nó cho tao, nó mà xảy ra chuyện gì là tao bị công ty nó giết! Nghe chưa?” Tôi mừng không tả được. Nếu tả thì tôi tả thế này: “Vừa trông thấy bạn, mừng quá bọt mép xùi ra, ngất luôn”. Thú thực, nó là đứa bạn thân nhất của tôi thời thơ ấu. Lớn lên thì đã xa nhau. Tôi nhớ nó suốt một thời gian dài rồi thời gian cũng cuốn trôi theo cùng nỗi nhớ, nhưng tình bạn của chúng tôi thì vẫn còn khắc đậm trong tâm trí. Giờ nhắc đến nó tôi như phát cuồng. Tai tôi vẫn đang nghe thằng bạn ở công ty du lịch lải nhải trong điện thoại: “Thằng này mà là dân thường thì tao mặc kệ con mẹ nó, nhưng xem chừng nó cũng không phải là loại tầm thường. Lúc kiểm tra hộ chiếu, nhìn người nó là tao nhận ra ngay. Mày xem trí nhớ của tao có tuyệt vời không? Thay đổi bao năm mà tao vẫn nhận ra nét cũ của nó. Thằng Khền hỏi thăm mày, tao nói cho nó biết. Nghe xong nó bảo: “Không nên bỏ lỡ cơ hội” thế là nó liền thay đổi lịch trình. Tao ôkê liền. Thằng này ở Trung Quốc có mấy cái nhà máy, tao liền nghĩ ngay đến mày. Một công đôi việc, sau này có làm ăn được với nó thì đừng có quên tao đấy nhé”. Đúng là thời buổi tiền đè chết tình. Tôi không còn bận tâm tới thằng bạn ở công ty du lịch ấy nữa. Mọi ý nghĩ bây giờ dồn cho thằng Khền. Tôi gọi điện ngay báo tin cho vợ. Vợ tôi hỏi: “Khền nào? Có nghe anh nhắc đến bao giờ đâu?” Tôi giải thích vắn tắt rồi dặn: “ Em chuẩn bị phòng cho anh thật chu đáo vào đấy”. “Được rồi, anh yên tâm đi”. Vợ tôi biết phải làm gì, phản xạ kinh doanh mà, cứ “hiếu” trước cái đã. *** Đứng trước mặt tôi là một người đàn ông to béo, húi đầu cua, mắt híp, da săn, bụng phưỡn. Anh con trai thật không chê vào đâu được, cứ như chép từ ông bố sang vậy. Ngược lại với hai người đàn ông, người phụ nữ trông mảnh mai, mắt một mí nhưng to, đen, đẹp và dễ ưa. Nó thay đổi nhiều quá khiến tôi đứng ngây ra, còn nó thì nhận ra tôi ngay: - Khương à? Rồi ôm chặt lấy tôi, mặt thì ngoảnh ra giới thiệu với vợ con. Tôi nghe nó phát âm lắm “phờ” lắm nhưng tiếng Việt nó còn nhớ và rất sõi. Người vợ trẻ nở nụ cười thân thiện. Vợ tôi tíu tít sai người nhà xách hành lý từ taxi rồi đưa vợ con thằng Khền vào nhà trong khi chúng tôi vẫn còn đứng ngoài đường quấn lấy nhau. Hai bà vợ nhìn thấy thế cũng vui lây. Tôi có một trang trại chuyên trồng cây lấy dầu. ở giữa đồng bằng mà có mấy trăm hec ta cây cối mát rười rượi. Thằng Khền ngắm nghía, vui lắm. Nó khen: “Việt Nam chúng mày mở cửa sau mà tiến nhanh quá”. Nhìn khu biệt thự tôi ở, nó nhận xét: “Nếu kiến trúc theo kiểu Trung Hoa thôn thì đẹp”. Tôi bảo: “Tao chỉ quan tâm tới cái tao thích”. Tôi dẫn nó đi thăm khu vườn cây quanh nhà, vừa đi vừa thi nhau kể về mình. Mấy chục năm trời tưởng chừng không bao giờ gặp lại, thế mà bỗng nhiên cứ như trong mơ vậy. Thằng Khền ngày nhỏ mắt sâu, người toàn thấy xương là xương mặc dù thuốc Bắc nhà nó thiếu gì. Nhìn nó múa võ Tàu xàng xê nhào lộn trông cứ như một con bọ gậy. Bọn trẻ con trong làng tôi thích lắm, buổi tối thường đi tắt cánh đồng sang nhà nó xin học võ. Đứa nào học phải cống cho nó mười cái kẹo vừng một bài. Thấy tôi cứ đứng nhìn, nó bảo: “Mày học tao không lấy kẹo”. Tôi bảo: “Tao học, mày phải chi kẹo cho tao”. Tức quá nó lao vào đánh, tay múa tít như chong chóng. Tôi chạy, nó đuổi. Bất ngờ tôi quay lại, dạng chân thấp xuống nhằm đúng mặt thụi cho một phát. Tôi chỉ nghe thấy đánh “choét” một tiếng, thằng Khền ngật đầu ra đằng sau ngã ngồi xuống sân. Máu chảy ra trông hệt như con đỉa bám vào mũi chổng mông vào mồm. Lúc hai đứa cởi truồng nhảy xuống giếng làng tắm trộm, nó bảo: “Mày có nghề mà giấu”. Tôi trả lời: “Tao đâu có biết gì”. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, cứ xoắn lấy nhau như bện thừng. Bây giờ nó to béo thế tôi không thể nhận ra nổi. Ngay lúc ấy vợ nó đi ra, nó bá lấy vai âu yếm lắm. Rồi dứ dứ như khoe ngầm với tôi. Tôi ái ngại nhìn cái bụng của nó, đối với người phụ nữ kia mà chơi cái trò bập bênh thì chán chết! Ngày thứ hai vợ tôi đưa hai mẹ con thằng Khền đi lễ chùa. Tôi lái xe chở nó đi khắp nơi trong vùng, thăm lại tất cả những nơi chúng tôi đã đến, đã chơi, đã nghịch với nhau. Tôi chạy chầm chậm dọc theo con sông Nhuệ. Ngày xưa nó thường chở tôi bằng xe đạp ra bờ sông lấy hạt thầu dầu chơi. Đến cầu Nhật Tựu nó chỉ xuống dưới: “Việt Nam cũng như Trung Quốc phát triển công nghiệp làm cho sông ngòi thối rinh cả lên”. Tôi nói chuyện: “Ngày xưa người Pháp đào con sông này trong vòng mười ba năm”. Thằng Khền bảo: “Người Trung Quốc chúng tao chỉ đào trong mười ba ngày. Chỉ cần mỗi người bê một hòn đất là xong”, “Chuyện, nước chúng mày đông dân. Mỗi công đào đắp ăn một ngày hết một cân gạo. Gần một tỷ rưỡi công dân, ăn một bữa là vét sạch gạo trên hành tinh”. Buổi chiều ngồi ăn cơm dưới tán cây trẩu. Gió từ ngàn cây lách phách, nắng vàng trải ngập con đường phân khu. Xanh xanh, xa xa là làng tôi. Chỗ tôi đang ở trước đây là dãy phố có những gia đình người Khách xen kẽ với những hộ tiểu thương. Gọi là phố chứ thực ra chỉ có hơn chục hộ dân sống bám mặt đường làm dịch vụ sửa chữa bơm vá xe đạp, bán nước mắm, xì dầu hay dấm Hà Nội… Cách đây chục năm nhà nước mở rộng con đường đi sang Hoà Bình và dãy phố kia phải dời đi chỗ khác. Năm 1979, nhà thằng Khền cùng những hộ Hoa kiều trước khi về nước đã bán hết tài sản cho các nhà hàng xóm. Giờ đây cái phố Khách chỉ còn trong ký ức. Con đường trải nhựa một bên là biển lúa vàng đang kỳ vào mẩy. Bên này xanh bạt ngàn cây bạc hà là trang trại của tôi. Thằng Khền cứ đăm đắm tìm nhìn dấu vết cũ. Gia đình nó cũng như những gia đình người Tàu sang Việt Nam sinh sống không bao giờ họ sống ở nông thôn mặc dù họ có là nông dân đi nữa. Có thể họ sợ bị cô lập trong cái lối sống dòng tộc ở nông thôn. Cũng có khi trong tư duy kinh tế của họ, vì sự phồn thị mà họ luôn chọn những trung tâm hành chính, hoặc chí ít cũng là những nơi thuận tiện giao thông. Nghề thì dứt khoát chỉ chọn một nghề thương mại. Ngay tại khu phố thằng Khền ở mặc dù chỉ khoảng dăm bảy hộ họ cũng làm cho khu phố tưng bừng hẳn lên trong các kỳ lễ hội. Nhà Khách Khền thì buôn thuốc Bắc, Khách Ký buôn hàng mã, Khách Hỷ chuyên xe hương nén và bán hương vòng…Tuy doanh số không đáng kể so với thành phố, thị xã nhưng đám rễ của cái cây thương mại bám chặt vào mấy làng quê đã hút lấy những đồng tiền ít ỏi của những người nông dân quanh vùng. “Sống được và dư dật”. Thằng Khền bảo thế. Những người nông dân khốn khổ có thể nhịn ăn, nhịn mặc nhưng không bao giờ bỏ hương khói ông bà và còn hào phóng biếu xén rất nhiều tiền vàng trong các kỳ lễ tết. Từ tiền giả biến thành tiền thật. Mỗi nông dân vắt một giọt mồ hôi cũng đủ chảy đầy nồi buôn bán. Nhà thằng Khền chọn nghề buôn thuốc Bắc. Có lần tôi nghe nó tiết lộ: “pa” tao tính một quả táo tàu lãi bằng một chục hộp hương vòng nhà Ký, một quả đỗ trọng ăn đứt trăm đinh tiền vàng nhà Hỷ…Dân càng nghèo càng lắm bệnh tật. Bệnh viện thì tận dưới tỉnh mới có, vả lại “nước xa không cứu được lửa gần” nên mỗi thang thuốc tính đắt lên vài đồng cũng chả ai dám kêu. Có một năm nước lên to lắm, đê chỗ nào cũng vỡ. Nước từ sông Châu Giang đổ xuống, nước từ sông Nhuệ đổ vào. Mấy trăm hec ta lúa của hợp tác xã ngập bủm bùm bum. Ban chủ nhiệm tháo khoán cho xã viên. Mẹ thằng Khền cũng đi mò lúa. Hoá ra mẹ nó cũng họ hàng nhà ông Thần Nông, thế mà cứ giấu! Người giỏi nhất làng tôi lặn xuống cắt được hai thuyền thúng thì mẹ nó đã cắt được ba thuyền. Tháng tám năm ấy nước ngập trắng cả vùng, mẹ nó đứng trên bờ ném viên gạch vỡ, nhìn tăm cá nổi lên liền lao xuống. Một lúc ngoi lên tay cầm con cá chép giẫy đành đạch bỏ vào giỏ. Bọn trẻ chúng tôi đứng trên bờ reo hò, còn người lớn cứ trố mắt ra mà nhìn. Mẹ nó giải thích với mấy người ấy: “Ngộ là con gái ông rái cá ở sông Trường Giang. Ngộ mà lặn đúng nửa ngày cần lên mới lên”. Thấy thằng Khền cứ thần thừ cả người tôi biết nó đang nhớ kỷ niệm xưa. Một lúc sau nó bảo: “Ngày ấy tao muốn ở lại Việt Nam nhưng người lớn không cho”. Buổi tối nó theo tôi ra khu chế biến. Từ xa ngửi thấy mùi bạc hà, nó bảo: “Người bị trúng phong cứ ra đây mà ngồi một lúc sẽ khỏi”. Mọi người vẫn ngồi ngoài vườn chơi đợi chúng tôi về. Vợ tôi và vợ thằng Khền không biết tiếng của nhau nên toàn ra hiệu. Rất may hai mẹ con nó cứ ngồi “xủng xoẻng” với nhau, đỡ buồn. Vợ tôi pha nước chanh quả mang ra, vợ nó xua tay rồi lấy nước hoa quả ép đóng hộp để uống. Trước khi đi ngủ thằng Khền hỏi tôi sản lượng tinh dầu mỗi năm và chất lượng tinh dầu thô ra sao. Tôi trả lời: “Một trăm phần trăm từ thiên nhiên”. Ngày thứ ba. Buổi sáng thằng Khền dậy rất sớm múa bài Tuý luý quyền mà ngày trước tôi gọi là quyền “cho chó ăn chè”. Múa xong nó đứng ngắm những luống bạc hà. Lúc ngồi ăn sáng nó hỏi tôi hiện xuất dầu cho ai? Có muốn có nhà máy chưng cất tinh dầu tinh chế không? Sau này có sản phẩm nó sẽ giới thiệu với các nhà bán lẻ Trung Quốc. Tôi trả lời : “Có. Tao muốn xây dựng một nhà máy cỡ nhỏ”. “Nhỏ cũng phải mở rộng vùng nguyên liệu, phải lấy hết mấy trăm hec ta lúa phía bên kia mới đủ cho nhà máy nó ăn” - Không được. Phải mở rộng về phía những vùng không quy hoạch đất nông nghiệp. Nó chê: “Chúng mày toàn những thằng làm ăn cò con”. Rồi nó nói câu “Phi thương tắc giàu”. Tôi bảo lại nó: “Phi nông tắc ổn”. Thằng Khền vỗ vai: “Tao với mày coi nhau như tình thân. Mấy chục năm gặp lại, mày vẫn là thằng bạn chân thành và thật thà nhất. Không uổng công tao về Việt Nam lần này. Tôi hỏi thăm song thân. Nó bảo: “Chết sạch rồi”. “ Cho tao chia buồn với mày”. “Hết trẻ thì già. Hết già thì chết. Mày học hành nhiều khách sáo bỏ cụ”. “Không phải khách sáo mà là văn hoá”. Nói xong rồi tôi lại ngại vì thằng Khền mới học hết lớp 7, tôi học lên cấp ba rồi học tiếp lên đại học. Nghe ngày xưa “pa” nó bảo: “Đầu tư cho một nhân lực, chỉ lớp 7 là đủ”. Công bằng mà nói thằng Khền học cũng không đến nỗi nào. Khi ấy hai xã mới có một trường cấp hai. Ngày cấp một chúng tôi đã chơi với nhau, lên đến cấp hai mới được học cùng nhau. Nó học cũng được mà nghịch cũng được. Có lần tiết học văn năm lớp 6, cô giáo thì lùn, bảng đen thì cao khiến cô cứ phải nghến lên để hở một khoảng bụng. Thằng Khền lấy dây nịt cắt từ săm xe đạp, lấy hai ngón tay làm chạc súng bắn một phát. Cô giáo vừa đau vừa ngượng chín cả mặt. Sau vụ ấy thằng Khền bị đình chỉ học, phải nhờ bố tôi khi ấy làm phó chủ nhiệm hợp tác xin hộ. - Tao về Trung Quốc từng ấy năm mà vẫn nhớ Việt Nam, nhớ mày lắm! Nhờ có chính sách mở cửa nên chúng mình mới được gặp nhau thế này. Tôi cũng thấy thế. Nó bỏ cả đi du lịch tìm về thăm tôi, đủ biết tình cảm của nó dành cho tôi thế nào. Tôi biết đời cũng lắm loại bạn và đủ các thứ tình cảm nhưng chỉ có tình bạn thuở ấu thơ là còn lung linh và trong sáng mãi. Ngày học cấp một tôi rất mê đọc truyện nhưng không có truyện, còn thằng Khền có truyện nhưng không thích đọc. Chỉ có “pa” nó là chăm chỉ đọc sách. Từ một nông dân ban đầu học mót được vài bài thuốc bệnh vặt sau cũng trở thành một thầy lang nổi tiếng cả vùng. Nghe nói danh y Tuệ Tĩnh thế kỷ thứ 15 bị bán cống sang Trung Quốc, ông viết rất nhiều sách Nam Y thần dược và “pa” thằng Khền rất chăm nghiên cứu, còn biết kết hợp các vị để cho ra một số bài thuốc rất hay. Tôi biết các toa mà “pa” nó kê có tới 3/4 là thuốc Nam. Biết tôi mê Tam Quốc thằng Khền thuê tôi cứ nghiền cho nó một thuyền thuốc nó cho mượn một tập mà đọc. Lúc học lên cấp 2 sau vụ bố tôi xin miễn kỷ luật cho thằng Khền, tôi được “pa” nó đối đãi như khách. Tôi ngồi ghế trong nhà đọc Hồng lâu mộng trong khi thằng Khền phải nghiền thuốc ngoài hè. Thằng Kim làm ở Công ty du lịch gọi điện về cho tôi xem hai đứa đã ký kết được “phi vụ” nào chưa? Tôi trả lời: “Chưa. Thằng Khền cũng là một đứa trọng tình”. “Lạ. Tao thấy nó trọng tiền thì đúng hơn”. “Mày thì lúc nào cũng dòm vào túi của người khác”. “Để rồi xem”. Ngày thứ tư. Chúng tôi về thăm lại ngôi trường làng. Lúc đi ngang qua nhà ông Khang, thằng Khền bảo tôi dừng xe lại, hỏi: “ Ông Khang còn sống hay chết?”. “Còn”. Nó bảo: “Nếu sống thì già khú ra rồi còn gì”. Tôi thật bái phục trí nhớ của nó. Đã bao năm nay dung mạo nhà quê thay đổi cũng nhiều thế mà nó vẫn nhớ. Nó chỉ cái vườn vải thiều nhà ông Khang: “Còn nhớ cái ao trước nằm ở đây không?”. “Nhớ”. Đó là năm chúng tôi mới vào cấp 2. Ông Khang làm tài chính ở huyện, bắt được mấy trăm đồng cân sâm buôn lậu, mẹ nó khóc lóc xin xỏ mãi không được. Một buổi đi học về nó hỏi tôi “Mày ghét ai nhất?”. “Ghét nhất con Thuý Khang”. Thuý là con gái nhà ông Khang, làm lớp trưởng lớp tôi. Tôi ghét nó vì nó là con cán bộ, lúc nào cũng tỏ ra gương mẫu còn bọn tôi thì đứa nào cũng thích nghịch ngợm. Tôi hỏi lại nó: “Mày ghét ai nhất”. Nó nói ngay: “Tao ghét nhất phòng thuế”. Rồi nó rủ: “Có thích cho bố con nhà lão Khang một bài học không?”. Tôi lúc ấy cũng tỏ ra thích thú vì lại sắp được tham gia một trò nghịch ngợm mới. Tôi hỏi: “Cho bố con ông ấy bài học gì?”. “Tối sẽ biết”. Tối. Hai đứa bò qua bờ rào nhà hàng xóm lần đến ao nhà ông Khang. Cái ao này ông Khang thả ba tầng cá sắp đến ngày thu hoạch. Bò đến vườn chanh quanh bờ ao thì tiếng chó cắn rộ lên. Vợ ông Khang cầm cây đèn dầu thò đầu ra ngoài cửa hỏi “Ai đấy?” rồi lại khép vội cửa vào. Thấy con chó xồm cứ xồng xộc chạy ra, tôi sợ quá! Thằng Khền vỗ vào mông tôi, nói nhỏ: “Chó dữ không sợ, chỉ sợ người dữ”. Rồi thò tay vào túi lấy cái bả chó thuốc Bắc ném về phía con chó, nó liền ngoạm lấy mang đi. Một lúc im ắng không thấy động tĩnh gì. Thằng Khền ghé sát vào mặt tôi, cười: “Đúng là ngu như chó!”. Tôi nằm canh gác cho nó bò ra khoảng trống nhìn thấy nó ném xuống bốn góc và chính giữa ao mấy cục gì như cục gạch rồi quay lại bảo tôi: “Biến”. Sáng hôm sau cả làng kháo nhau nhà ông Khang ăn ở thế nào bị người ta thả đất đèn chết sạch ao cá. Hôm ấy đi học tôi không dám nhìn cái Thuý. Thằng Khền hỏi: “Ông Khang giờ sống thế nào?”. “Ông ấy về hưu lâu rồi, sống hiền lành lắm”. “Nhưng nghề của ông ấy không hiền tý nào. Ngày ấy tao cứ mong cho ông ấy cũng nổi như cá”. “Mày ác bỏ mẹ, tao mà biết trước thì không đời nào đi với mày”. “Ngày ấy tao cứ sợ mày khai ra thì tao chết”. “Biết thế ngày trước tao khai ra, khốn nỗi tao cũng sợ bị chết lây”. “Biết thế thì chẳng bao giờ có lịch sử cả”. Chiều mát chúng tôi ngồi câu cá vừa nói chuyện. Thằng Khền thích ăn chân gà nướng. Tôi bảo nó ở đây không có chân gà bán sẵn. Nó bảo: “Mày không biết ăn chân gà” Rồi bảo tôi đi mua cho mấy con gà trống nuôi công nghiệp. Vợ tôi mua năm con mang về. Thằng Khền đem rửa sạch chân bằng cồn rồi trói, buộc cánh treo lên. Nó bê chiếc bếp than hoa lại gần rồi thả cho con gà nhảy trên than hồng. Con gà bị nóng ra sức giẫy giụa. Càng giẫy máu càng dồn xuống chân khiến nó phù nề và to ra trông thấy. Con gà cứ co chặt hai chân vào bụng. Thằng Khền lấy cái kẹp kéo từng chân con gà ra, chờ đến lúc vỏ ngoài cháy xém nó mới dùng móng tay bóc bỏ lớp vỏ ngoài của da chân. Tôi nhìn thấy hai chân con gà đỏ máu và sưng đẫn lên. Thằng Khền lấy từ trong túi khoác ra cái chổi trông như cây cọ của hoạ sỹ, chấm gia vị rồi quét lên. Con gà lúc này mới giãy giụa thật lực, mồm kêu oang oác. Vợ tôi thấy thế bỏ vào trong nhà có gọi thế nào cũng không ra nữa. Thằng Khền tiếp tục bóp giập xương chân con gà, cắt lấy rồi quẳng mấy con gà còn sống ra ngoài. Tôi nướng thêm mấy con cá trong khi thằng Khền hoàn thiện nốt món nướng chân gà. Tôi nhìn nó ăn bỗng liên tưởng đến câu chuyện của nhà văn Trung Quốc viết về một gia đình nông dân đói quá không nỡ ăn thịt con, liền đổi cho nhà hàng xóm làm thịt. Tôi hỏi nó ngoài đời chuyện như thế có không? Nó tỉnh bơ trả lời: - Đói quá cũng có khi ăn để sống! Mà no quá cũng có thể ăn để thấy mùi vị. Tôi rùng mình hỏi tiếp: - Cái ông Dư Hoa viết trong tác phẩm “Sống” tả bệnh viện hút hết máu của thằng bé Từ Hữu Khánh để cứu sống vợ ông chủ tịch huyện. Chuyện đó thế nào?”. Thằng Khền chiêu thêm một ngụm bia, khà một cái: “Có thể ông ấy mơ giấc mơ của người Trung Quốc”. Rồi nó đột ngột cắt đứt câu chuyện, bảo: “Mai tao về”. Tôi rủ: “Chơi thêm vài hôm nữa”. “Đủ rồi. Tao còn nhiều việc phải làm. Bây giờ tao đề nghị với mày một việc”. Tôi hỏi: “Việc gì?” - Mày bán lại chỗ đất của nhà tao ở cũ. Mày lấy bao nhiêu tao trả từng ấy. Tôi giật mình. Bây giờ mới thấy thằng Kim nói đúng. Tôi trả lời dứt khoát: - Ngày trước hợp tác cấp đất cho xã viên để ở, không thể nhận đấy là đất của nhà mày được. Bây giờ tao thuê đất để trồng cây công nghiệp, tao cũng không có quyền bán. - Mày là bạn thân của tao. Việc này chỉ có mày biết, tao biết. - Càng là bạn thân càng nên giữ gìn, như thế tao với mày mới chơi bền được. Tôi nhìn thẳng vào mặt thằng bạn thấy nó tím chặt, không biết do bia hay nó giận tôi. Nó lại đột ngột hỏi: - Mày có muốn xây dựng nhà máy chế biến tinh dầu không? Tôi đáp: - Có. - Tao sẽ đầu tư cho mày. Rồi nó cười rạng rỡ. Tôi cũng thấy vui, thoát khỏi việc khó xử ban nãy. Tôi nghĩ nó đầu tư về đây, cả hai cùng phát triển. Thằng Khền nhìn tôi rồi đưa ra đề nghị: - Tao không tính lãi nhưng mày phải nhượng lại đất cho tao. - Không. Mày đừng bao giờ nói đến việc đó nữa. Nó trầm ngâm một lúc rồi nói: - Thôi được. Nhưng tao chỉ yêu cầu một việc rất nhỏ là bao bì do tao cung cấp. Nhãn hiệu phải là made in Chi na. Tôi chợt nhớ đến cái hiệu thuốc Bắc nhà Khách Khền năm xưa. Chữa bệnh bằng thuốc Nam, lại phải mang ơn thuốc Bắc. Bạn bè thì bạn bè, không để cho nó áp đặt lối chơi. Tôi đáp: - Mày muốn đầu tư để cùng hưởng lợi nhưng bao bì phải bằng gốm sứ Bát Tràng. Nhãn hiệu dứt khoát made in Viet Nam. Thằng Khền đứng phắt dậy, lãnh đạm bảo tôi: - Tao với mày không có duyên bạn bè. Rồi nó giục vợ con thu xếp hành lý đi ngay lập tức. *** Năm ngoái tôi đi dự hội chợ triển lãm hàng bách hoá tiêu dùng (Variety Merchandise Shows) tại Orlando Bang Florida. Tôi có gặp lại thằng Khền ở đó. Nó cũng đem hàng đến hội chợ. Hai đứa lạnh nhạt bắt tay nhau như hai người xa lạ. Tôi chợt nhớ đến câu nói của ông Thủ tướng Anh: “Chẳng có bạn bè vĩnh viễn, chẳng có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có quyền lợi Quốc Gia là vĩnh viễn”. Gia phả mùi rơm rạ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THU TRÂN NVTPHCM- Bà đứng tần ngần giữa nghĩa trang quê nhà mùa nước nổi, nước lấp xấp dưới chân, tiếng ếch nhái à uôm buồn da diết. Mùa này ở quê bà, gió tràn đồng se sắt, từng cơn từng cơn, lạnh đến tê người. Ngoài kia, lé đé bờ con kinh Xáng, bông điên điển rụng vàng mặt nước. Cô cháu gái nắm chặt tay bà nhắc lại: - Về thôi, nội! Trời tối rồi! Bà giật mình như sắp sửa mất một cái gì vĩnh viễn: - Ừ, để nội, chờ một chút. Con đốt dùm nội thêm nắm nhang! - Hồi nảy giờ nội đốt nhang mấy lần nhớ không? - Cứ đốt, nội đâu có lẩn, con! Lần này chắc là không nữa… Nói vậy nhưng cô cháu vẫn chiều lòng bà. Trước khi đưa bà về quê, cha cô đã dặn: “Kệ, ráng chiều bà nội, năm nay bà tám mươi tám tuổi rồi, yếu lắm, về lần này biết còn có sức để lần sau”. Nắm nhang được đốt lên, bà lại run run cầm và cắm trên ba ngôi mộ liền nhau: mộ ông năm Sọc, mộ ông sáu Ngàn, mộ dì hai Nghĩa. Mộ mẹ bà nằm xa hơn đó một chút, phải lội nước bước qua. Gió cũng hanh hao nhắc bà nhớ mộ này chỉ là ngôi mộ gió. Qua những chuyện đau buồn thật lâu bà mới trở về làng. Mọi người bảo sau khi ông năm Sọc bị Việt Minh xử tội, mẹ bà được mọi người thả ra, rồi sau đó bỏ nhà đi biệt tích. Biết sao được, bà đành làm ngôi mộ gió, mộ không có phần xác, chỉ những mong có phần hồn mẹ trở về chứng giám cho lòng đứa con khổ đau và lưu lạc. Cô cháu hỏi loanh quanh: - Nội ơi, con phải gọi ông năm Sọc là ông gì? Ông cố hay ông sơ? Bà ậm ừ như mơ: - Không là ông gì cả… - Vậy sao nội bảo ổng trong họ hàng gia tộc? - Không lẽ bỏ ổng rồi bỏ luôn ông sáu Ngàn… Làn gió lạc thổi qua làm bà rùng mình ớn lạnh sau câu nói chỉ như lấp lửng cho riêng mình. Mặc cho cô cháu đứng ngây người bảo nội thật là khó hiểu, ký ức hơn bảy mươi năm của cô thôn nữ tên Hận là bà ngày nào ào ạt tràn về… Hành lang dài, tối hun hút với những song tre hai bên ngày ấy như mãi kẽo kẹt trôi theo đời bà. Người ta gọi đấy là nỗi buồn truyền kiếp mà trong ký ức già nua, nhoè nhoẹt của bà lúc có lúc không… *** Làng quê xa mờ ngày ấy như yên tĩnh lắm với những cánh đồng cò bay thẳng cánh của nhà ông năm Sọc. Ông là chủ điền nhưng không mấy gieo tiếng oán cho lớp người bần nông trong làng; thứ nhất không hiếp con gái tân của tá điền như cha ông ông đã từng hiếp; thứ hai lúa tô đong mùa nào thu mùa đó, không cấn trừ để phết phẩy lung tung, nhưng phải đủ, không được thiếu hay thừa một hột. Bọn trẻ trong làng mê mải nhà ông với vườn trái cây trĩu quả quanh nhà. Xoài, mận, ổi treo lúc lỉu bốn mùa ngàn ngạt gió sông. Thú vị hơn với bọn chúng còn có ông sáu Ngàn tuổi đã trung niên nhưng cứ dài dại, không bao giờ chịu lớn. To con, bảnh trai, sáu Ngàn vận đồ Tây thắt cra-vát kéo mấy lon sữa bò giả làm xe chạy pin pin suốt ngày quanh chợ quê. Có lúc bọn trẻ phát hiện sáu Ngàn ngoẹo đầu ngoẹo cổ ngủ gà ngủ gật trong xó chợ. Thế là đánh thức ông ta dậy, chúng hò reo áp tải ông ta về, cả bọn được ông năm Sọc thưởng cho một rổ mận rụng tơi bời bên sông. Với các bà các chị trong làng, chuyện nhà ông chủ điền quả thật đáng tội quanh mấy cái quần xì-líp đủ màu của bà chủ phơi mút cuối vườn. Ngoại trừ sáu Ngàn được “đặc cách” cho đi lung tung, còn lại không ai được bước chân ra khỏi nhà nếu không được sự đồng ý của ông chủ. Mỗi lần bà chủ đi đâu đó về lại oằn mình với ông chủ bởi những thủ tục kỳ quái và nghiêm nhặt. Chuyện này có quỷ thần hai bên vai chứng giám, thằng Ca thọt, người ăn kẻ ở duy nhất trong nhà năm Sọc thề bán sống bán chết kể lại với người làng. Đầu tiên là bà năm phải leo lên giường nằm, tự tay ông năm cởi quần lót của bà ra kiểm tra, săm soi đến đầu đến đũa rồi cũng tự tay ông đi giặt và phơi ở hàng ranh cuối vườn. Xong ông trở vào hành sự, bà năm miễn cưởng chiều chồng, nước mắt ướt đầm áo gối trắng tinh. Trước khi bà ra khỏi nhà vì chuyện chi chi đó thì cũng chính tay ông phải mặc quần lót cho bà. Cô hai Nghĩa, cô con gái đầu có chút chữ của năm Sọc cũng phát cuồng vì cách hành xử kỳ lạ của cha. Những lời đối thoại này do chính các cô các bà trong làng nghe qua hàng ranh chứ không phải từ những điều Ca thọt kể lại: - Thưa cha, cha làm như vậy có quá đáng với má không? Một làn roi rít lên: - Đồ con bất hiếu, áo mặc sao qua khỏi đầu mà bày đặt vặn vẹo? - Chữ trinh của má còn có trăm đường để gìn giữ với cha, cha làm như vậy là sĩ nhục phụ nữ… Vút, vút, vút… Tiếng roi quất không thương tiếc… Năm Sọc gầm lên như con thú dữ bị nhốt trong chuồng: - Tao không điên, tao làm như vậy là để bảo vệ tài sản của tao, nó là mồ hôi nước mắt của ông bà tao để lại, tao không ăn bớt ăn sớt hột lúa của ai nhưng mà con nào thằng nào đó cũng đừng hòng! Mẹ con bây nói đi, đã có bao thằng lăm le ngoài hàng ranh để đấu hót với ba con ngựa cái nhà này, một hột lúa của tao cũng không được chui qua khe cửa đi đâu! Mẹ con nhà mày ra hết đây tao biểu! Qua kẽ lá của hàng ranh, các cô các bà trong làng thấy ba người đàn bà nhà năm Sọc bị bắt đứng xếp hàng không quần không áo dưới những làn roi của người cha người chồng thô bạo. Thấy bất bình và tội nghiệp cho họ nhưng các cô các bà vẫn xuýt xoa khi tan hàng, đẹp thiệt, công nhận đờn bà nhà giàu đẹp thiệt, trắng như bông bưởi từ trong tới ngoài, nõn nà như hình mẫu, nhứt là cái thân hình ngọc ngà của cô ba Én… Sáng hôm sau, hôm sau nữa thì nhà năm Sọc mở cửa làm ma, cô hai Nghĩa treo cổ chết tức tưởi. Được một thời gian thì các cô các bà trong làng cũng thấy mất hút hàng quần xì-líp đủ thứ màu của bà chủ sau hàng ranh. Thằng Ca thọt đứng chạng chân giữa chợ vừa xước mía vừa ba hoa, đi rồi, bà năm chịu không nổi, trốn mẹ nó đi rồi, để dễ bề hành sự với cô ba Én, thằng cha già đã đuổi tui ra khỏi nhà, ở đợ cho nó mười năm, không cho thêm một cắc… Bà tám Xô bán khoai lang ngồi gần đó cũng thở dài: “Mẹ cha cái thằng cha nhà giàu nứt đố đổ vách mà ăn ở vô nhân, nhớ hồi đó nó mướn ông hai Bảnh coi vườn được đâu đó cũng chục năm, đến lúc cây ra trái sum suê thì nó cũng đuổi, không cho thêm một cắc lận lưng làm vốn. Nghe đâu sau này hai Bảnh chết bất đắc kỳ tử thì nó cũng chớ hề tới nhà thắp cho cây nhang!”. Sáu Ngàn đứng lẫn trong đám đông nghe Ca thọt kể chuyện nhà mình, giữa mọi người nhí nhố nói cười chuyện tục tĩu, ông ta cũng cúi đầu cười lỏn lẻn như vô can rồi khoát tay chui ra khỏi đám đông, đoàn xe nối dài bằng mấy lon sữa bò lại sục xào chuyển động: - Tránh dzô, tránh dzô, xe tui đi Vàm Cống, Cái Tàu hạ nè, mại dzô, mại dzô! Pin pin pin… Chuyện nhà tan hoang, cô ba Én cũng muốn trốn đi theo mẹ nhưng không có cách nào, đành ở lại với gương mặt buồn như đưa ma. Ca thọt bị cho nghỉ, cô phải cáng đáng hết mọi việc trong nhà; từ thu lúa của tá điền đến cơm nước, quét tước và chăm sóc người chú ngây dại. Đến một ngày, cô thấy cha gọi người bán hết ruộng. Ông ngồi đếm đếm tỉ mẩn trước đống tiền to đùng, cô đánh bạo thưa: - Bán hết ruộng rồi lấy gì sống, cha? - Tiền này cha con mình sống tới chết cũng không hết! - Còn chú sáu Ngàn? - Ôi xời cái thằng khùng đó lớn bằng cơm đường cháo chợ, hơi đâu mà lo! - Để ruộng vẫn đỡ lo hơn cha à… Hàm năm Sọc bạnh ra: - Không hỏi lung tung nữa, tao chán lắm rồi cái miệng đen ngòm của thế gian; ghê tởm lắm rồi ánh mắt hám của của mấy thằng đàn ông khi nhìn má mày, chị mày; tao muốn thế gian này vĩnh viễn khép lại, mặt trời này tắt đi, kể từ ngày mai, không một ai ngoài hai cha con mình được bước vào ngôi nhà này, biết chưa? - Còn chú sáu Ngàn, cha? - Đời cha ăn mặn đời con khát nước, thằng khùng này có cũng như không! Cô ba Én lờ mờ nhớ má kể chuyện họ hàng nhà nội nghe như mơ hồ lắm, đến cái tên cúng cơm của ông nội, cha cũng không buồn cho má biết. Má là con tá điền, nhờ nhan sắc nên được lấy con trai chủ điền trừ nợ, biết vậy thôi, biết nhiều hơn cũng chẳng để làm gì. Một đêm mưa dầm rả rích, năm Sọc vén rèm bước vào khi cô ba Én đang nằm co ro vì lạnh trên giường. Ông ngồi xuống nắm lấy tay cô. - Có chuyện gì vậy cha? Ông luồn tay vào bầu ngực trinh nữ người con gái, ba Én hốt hoảng vùng dậy: - Không được! Không được làm vậy, cha! Bằng sức mạnh của người đàn ông tuổi bốn mươi, năm Sọc ghì cô gái xuống: - Yên nào, cha nói phải nghe, năm nay con mười sáu tuổi rồi! - Không, không được, cha con không được làm bậy. Chú sáu Ngàn ơi, cứu, cứu con! - Câm miệng lại, la lối om sòm tao giết chết, tao nuôi mày khôn lớn thì mày phải là của tao, không thằng đàn ông nào được bước qua cửa nhà này với mày đâu! Sức cùng lực kiệt, quần áo bị xé rách tả tơi, ba Én nằm lả người ra bất lực. Năm Sọc trườn dài trên người con gái, mùi trinh nữ khiến hắn ngỡ ngàng rên lên nhè nhẹ, mút chặt đầu vú ba Én hồng phơn phớt, toàn thân hắn rung lên bần bật… Bên ngoài gió vẫn rít từng cơn, nơi ổ rơm trong góc nhà, sáu Ngàn ngủ ngoan như một đứa trẻ… Bị cưỡng bức, giam cầm, phong toả… ba Én sống lặng lờ bên năm Sọc như cái bóng đổ dài xuống mặt sông buổi mặt trời sắp tắt. Ngày sáu Ngàn té sông chết đuối, ba Én càng lặng lẽ hơn với ngôi nhà từ đường ba gian suốt ngày u u nhang khói. Dù muốn hay không thì cũng có một ngày cô bé Hận chào đời. Kỳ lạ là chuyện chung chạ huyết thống giữa cha và con lại không để lại một khuyết tật nào trên người cô bé. Càng lớn Hận càng xinh đẹp như mẹ ngày xưa. Tuổi mười lăm, bị nhốt kín trong nhà nhưng qua dãy hành lang dài hun hút là những song tre kẽo kè kẽo kẹt, Hận đã nghe mình phải lòng một thầy giáo trẻ. Ông thầy tên Minh mở lớp gõ đầu trẻ bên nhà đối diện, thầy dạy dễ nghe dễ hiểu, toàn những điều hay lẽ phải. Để không lặp lại chuyện đòi hỏi nữ quyền nọ kia như cô hai Nghĩa, năm Sọc không cho Hận học hành. Nhưng nhờ thông minh, thích tìm tòi chịu khó nên cô bé cũng có được mớ chữ học lóm từ lớp học thầy Minh. Cũng qua những song tre kẽo kè kẽo kẹt của nhà năm Sọc, thầy Minh biết có một thiếu nữ mê đắm mình. Đôi mắt đen mượt mà của cô ấy, làn da trắng nõn nà của cô ấy… đã dường như làm cho thầy giảng bài hay hơn, say mê hơn. Một vài mẩu giấy đã được chuyển qua lại giữa họ mà không ai biết… Tình yêu huyền ảo như sương buổi sớm cứ vậy mà lớn lên trong lòng Hận, dù bị giam cầm nhưng cô cũng hiểu chút ít ý nghĩa cuộc đời. Bầu trời cao rộng bên ngoài với tiếng chim chiền chiện hót gọi bạn tình mỗi sáng mỗi chiều luôn là khát vọng tự do của cô. Đã mấy lần Hận và mẹ trốn đi nhân lúc năm Sọc có việc ra ngoài nhưng đều bất thành, bận nào cũng bị lão bắt lại, hai mẹ con đòn roi thâm tím. … Trời tháng bảy mưa ngâu ngày dài đêm ngắn, có một chiều hai mẹ con lui cui nấu cơm dưới bếp, năm Sọc ngồi cà kê chút rượu kế bên, nhìn vào như một gia đình đầm ấm. Mớ củi tươi nhóm bếp dày đặc khói, Hận khom người thổi mãi lửa không lên, trời lạnh mà hai má cô đỏ phừng phừng… Bỗng dưng năm Sọc e hèm đánh tiếng: - Má con Hận leo lên xà nhà kho phía sau chuồng heo lấy cho tao chút khô cá sặc nướng ăn chơi. Ba Én bỏ đi chưa đầy năm phút, năm Sọc đã giở trò đồi bại với Hận. Lão kéo cô từ phía sau vật xuống nền nhà, ghì xiết và thở hồng hộc. Hận phản ứng mạnh mẽ như con thú bị dồn vào đường cùng, xô ngã được người cha vô nhân tính, cô vùng đứng dậy chộp gói ớt bột trên kệ bếp tung cái rào. Mặc lão già đê tiện ôm mặt tru tréo, Hận ào tới, đè lão ra, sờ tìm xâu chìa khoá được lão cất như một báu vật trong thắt lưng quần. Cô phóng nhanh ra cổng như một con sóc và xoay ổ khoá… Mưa mặc mưa, Hận bước nhanh trên con đường quê lầy lội mà không biết sẽ đi đâu về đâu, nước mắt cô tuôn ấm mặt nhưng lòng cô nhẹ như chim bay, chỉ thương mẹ còn khốn khổ với lão già đến bao lâu… *** Tổng khởi nghĩa mùa thu thắng lợi, trong hàng ngũ lực lượng Việt Minh trở về làng làm chủ tình hình còn có cô Hận tuổi mười tám xinh tươi bên cạnh thầy giáo Minh xưa. Lúc này người ta không gọi thầy giáo Minh nữa mà gọi là cán bộ Minh, cán bộ Minh của phong trào Việt Minh. Về làng, bận bịu với biết bao công việc nên Hận cũng chưa đặt chân qua nhà thăm má. Đến một ngày, người ta lôi sềnh sệch lão năm Sọc ra sân đình. Lão bị trói thúc ké hai tay ra sau và bị gô chặt vào gốc cột giữa sân đình. Ngoài việc lớn là nắm giữ chính quyền; mấy ông Việt Minh còn lập lại trật tự làng xã từ những chuyện như tịch thu đất của địa chủ chia cho dân nghèo, bỏ phát canh thu tô… Và cuối cùng là trừng trị những người hủ hoá như năm Sọc với tội lấy con làm vợ. Hận đang sinh hoạt nhóm Phụ nữ cứu quốc mãi tận nơi đầu nguồn con rạch chảy qua làng, nghe báo vội hộc tốc chạy về. Cô rẽ đám đông bước vào, mọi người im thin thít, cán bộ Minh đang hỏi tội năm Sọc: - Ông có biết tội cha lấy con là tội loạn luân không? Năm Sọc ngẩng mặt lên trời ú ớ, miệng lão bị nhét một dải khăn rằn mốc thếch. Có ai đó lên tiếng: - Sao không lấy khăn ra cho ổng trả lời? Cũng ai đó trong đám đông gọi là đại diện dân làng bu quanh: - Lấy ra làm mẹ gì, chuyện lão lấy con gái, cả làng cả xã này biết, hỏi cho có vị để mà xử thôi! Hận quả quyết bước ra giữa vòng người, cô cung kính chắp tay chào khắp lượt: - Kính thưa cán bộ Minh, kính thưa bà con làng xã, tôi là con gái năm Sọc xin minh oan cho ổng một điều, má tôi, bà ba Én không phải là con đẻ của ổng mà chỉ là con vợ, con riêng của vợ ổng thôi… Đám đông ồ lên: - Vậy thì chứng cứ, chứng cứ đâu? - Tôi có thể trình điều này trong vòng hai ngày… - Nếu không tin được thì sao? - Thì tôi xin chịu tội, xin trả lại danh hiệu cán bộ Phụ nữ cứu quốc cho Việt Minh! *** Hận đưa năm Sọc về nhà, đẩy cánh cổng tre bước vào, đứng tần ngần một giây giữa sân, cô bật khóc tấm tức. Khóc chưa hẳn vì điều oan khuất mà vì nhà cô đã thay đổi quá nhiều. Thềm rêu, sân rêu, tất cả xộc lên mùi ẩm mốc khó chịu, tất cả hoang vắng đến rợn người. Vậy còn má đâu? Bỗng cô nghe tiếng cười khùng khục phía sau nhà lúa, bà ba Én mình không mảnh vải che thân đang nằm sau những song tre của căn buồng tối sáng nhạt nhoà, bên ngoài cửa buồng là một hàng mấy ống khóa to đùng. Năm Sọc nhốt phạm nhân của mình theo kiểu lấy dao mổ trâu giết gà. Ba Én ngây ngây dại dại, cười khùng khục suốt ngày, không còn biết nhận ra con. Đêm, tiếng chẫu chàng kêu chóc chóc ngoài ao khiến Hận càng thêm nẫu lòng. Cô trăn trở, không tài nào ngủ được. Hận xoè hai bàn tay trước mặt như xoè ra những mảnh đời phải chọn. Mảnh đời thoát ly đi làm cách mạng bên cạnh tình yêu đẹp và tự nguyện với thầy giáo Minh- cán bộ Minh. Mảnh đời giam mình trả nghĩa người mẹ tâm thần khốn khổ. Mảnh đời phải chịu tội với mấy ông Việt Minh vì không tìm đâu ra chứng cứ cho sự bịa đặt, rằng năm Sọc không phải là người đẻ ra ba Én. Cuối cùng vẫn không nghĩ ra được điều gì cho đến đầu đến đũa, Hận thở dài đánh sượt, nhắm nước liều, mặc cho sự đời ra sao thì ra. Cô chong đèn viết một bức thư dài cho cán bộ Minh, người thầy dạy cô học chữ trước khi là người yêu. … Anh kêu em làm cách nào để rũ sạch vết nhơ gia đình rồi mình mới lấy nhau được, bây giờ em đang bí lắm đây, làm cách nào để rũ sạch đây anh? Trước mắt là làm cách nào để người cha bất đắc dĩ của em thoát khỏi tội loạn luân? Em không có chứng cứ nào cả, cha là cha chung, ông năm Sọc là cha chung của cả em và má, biết làm sao bây giờ đây anh? Phận làm con, dù cha mình đúng sai thế nào, em cũng đâu nỡ đứng nhìn cha chịu chết, vậy là em đưa cha về nhà, tự nguyện chất thêm một gánh nặng ngàn cân lên vai. Thêm cái gánh nặng tình yêu buộc gia đình phải trong sạch của anh làm em sợ, em có thích chọn cửa làm con gái năm Sọc đâu, má em cũng có thích như vậy đâu, bà ngoại em cũng vậy, dì hai Nghĩa của em cũng vậy, có cách nào để người ta quên chuyện nhà ông năm Sọc không anh… Nước mắt rơi nhoè nhoẹt trang viết, tâm trí Hận vụt hiện về rõ mồn một cái đêm hôm ấy, đêm đẹp lạ lùng giữa vườn hoang loang loáng ánh bạc của vầng trăng. Hận nằm khoả thân trên thảm lá khô còn thơm mùi nắng ban trưa. Thân thể cô sáng bừng trong đêm, hạnh phúc đợi chờ. Thầy giáo Minh âu yếm hôn dài trên người cô, hôn hai đầu vú căng cứng đỏ dậy mùi con gái, hôn gáy tóc trắng ngần thơm thơm mùi hoa lý, hôn những kẽ ngón tay kẽ ngón chân nõn nà thiên thần như đứa trẻ… Người con gái rạo rực cuộn sóng trào, mầm sống căng lên, tất cả chực vỡ oà… Để rồi thầy giáo Minh chợt dừng lại với động tác xoa xoa làn da mượt mà trên tấm lưng trần thon thả của cô gái và thở dài nói: “Không được, em phải làm sao trở về để làm trong sạch vết nhơ của gia đình em thì mọi thứ mới có thể…”. Hận không hiểu gì cả, tim cô dường như ngừng đập, đầu cô căng ra như muốn nổ cái bùm. Tất cả những âu yếm ngọt ngào, nóng bỏng trước đó và trước đó nữa bỗng đành xa ngái… Trời phụp tối, bóng lão năm trùm lên ánh đèn hột vịt tù mù trong gian buồng ẩm thấp. Hận lau nước mắt, xẵng giọng: - Cha vào đây làm gì? Tiếng trả lời khàn khàn sực mùi rượu: - Giỏi! Sao mày biết tao không phải cha của ba Én? - Nói dóc vậy cho nên bây giờ mới khó cho tôi đây, cha nhiều tội ác quá! Năm Sọc khệnh khạng bước lại cây rơm trong góc buồng, rồi đứng áp mũi vào bện rơm hít thật sâu. Là con nhà chủ đất rặt ròng nên lão nghiện mùi rơm như nghiện thân xác đàn bà con gái. Gắn với đời lão là những cây rơm; ngoài sân, trong nhà và cả trong buồng ngủ cũng có rơm. Ngưng hít rơm, lão lầm bầm như đọc kinh rồi chuồi tay vào bụng cây rơm rút ra một quyển sổ to bằng hai bàn tay. Lão cười ha ha, đưa quyển sổ lên cao lắc lắc, những cọng rơm vàng rơi lả tả: - Làm sao khó, dễ ợt! Mày theo Việt Minh có chữ rồi phải hôn? Vậy thì đọc đi, đọc cái này đi rồi ngày mai ra giữa làng mà nói, thằng cha hai Bảnh làm vườn cho tao mới là ông ngoại của mày, còn tao, tao chỉ là cha của mày, một thằng cha hờ… Ha ha ha… Nó như cuốn gia phả của dòng họ gia đình Phạm Văn Sọc. Sổ dày, chữ viết thưa thớt, giấy mềm tơi tả, vàng vọt thời gian. Bắt đầu từ ông sơ Phạm Văn Sự với hàng trăm mẫu ruộng bạt ngàn. Sự mê gái đẹp nhưng không vợ, chuyên cưỡng bức con tá điền làm vui, ngủ với đàn bà con gái nhiều nhưng trời hại cho cây chỉ có một trái, đó là ông cố Phạm Văn Sàng. Sàng lấy vợ đàng hoàng nhưng khắt khe, ky bo. Vợ Sàng đẻ mười người con, chín cô con gái khùng cả chín, may còn người con trai Phạm Văn Sùng tỉnh trí coi sóc gia tài. Phạm Văn Sùng lấy một vợ, cưỡng bức hai gái tân là con tá điền, có tổng cộng đến tám con nhưng chết sáu, chỉ nuôi được hai là Phạm Văn Sọc và Phạm Văn Ngàn. Ngàn khùng nặng, còn Sọc thì vô sinh vì đau quai bị nhiều lần hồi nhỏ. Lúc biết nghĩ xa nghĩ gần, cần người giữ của khi mai này khuất núi, Sọc ép vợ ăn nằm với ba Thóc- người làm vườn thuê của gia đình, đẻ ra hai Nghĩa. Hai Nghĩa là con gái, vợ ba Thóc cũng đẻ toàn con gái, mà năm Sọc lại muốn có con trai nên đành phải diệt Thóc để bịt khẩu bằng một buổi nhậu rượu pha thuốc trừ sâu. Sau khi ba Thóc chết vì ngộ độc rượu, hai Bảnh xin vào thay thế. Một lần nữa, Sọc ép vợ ngủ với hai Bảnh để sinh con trai giữ của, vậy mà cô ba Én lại ra đời. Để rồi sau đó chợt tỉnh, phát ghen điên ghen khùng, Sọc đuổi việc hai Bảnh, hành hạ vợ con tới số. Còn Hận là kết quả một đêm cô ba Én trốn nhà đội mưa ra sông tự vẫn… Lão thuyền chài vớt cô lên và giữ lại cho đến sáng thì trả về cho năm Sọc… Những trang cuối của cuốn sổ nhàu nhĩ; năm Sọc viết cẩu thả, chán chường; có vẻ người viết không buồn viết nữa từ lâu lắm. Anh học trò nhà giàu, bảnh trai nhất trường làng năm xưa chỉ biết dụng chữ để viết gia phả. Còn tính toán tiền bạc, thóc lúa thì chậm như rùa. Có điều chậm mà chắc, nhìn cái kiểu kêu trời của thằng Ca thọt khi lão phát tiền đi chợ thì biết! ... Lão già ngủ ngồi, tiếng ngáy đều đều bên tai Hận, cô đánh thức lão bằng một cái lắc vai thật mạnh: - Cha, vậy má có biết hai Bảnh là cha ruột của má không? Mắt mũi nhập nhèm, lim dim, năm Sọc vẫn khề khà hơi rượu: - Làm sao nó biết được, kể cả hai Nghĩa cũng không biết ba Thóc là cha đẻ ra mình, biết để tụi nó tuồn của ra ngoài cho mấy thằng già đó à? À, cũng có thêm một người nữa biết chuyện này ngoài năm Sọc, nhưng không được phép của tao thì đố nó dám nói với ai, đó là má của con ba Én! - Còn ông hai Bảnh? - Sau đó không lâu, tao cũng cho thằng chả chết trôi rồi, ha ha ha… Chớ để chả sống chi cho rắc rối cuộc đời! - Ông ác lắm, năm Sọc! Đừng hòng lấy tay che mặt trời! Ông đưa tôi xem cuốn sổ này để làm gì? Lão già cười tuôn nước mắt nước mũi: - Để có bằng chứng cho tụi Việt Minh không trừng trị tao chứ! - Ai tin cuốn sổ ông viết nguệch ngoạc… - Còn thằng bảy Lác em hai Bảnh, nó thấy hết, biết hết, nhưng bằng lòng giả câm giả điếc để đổi lấy mười mẫu ruộng của tao, ha ha ha… Trống ngực đánh thập thình, máu nóng dồn lên mặt, Hận đưa tay sờ khẩu súng- chiến lợi phẩm cô lấy của mấy thằng quận trong ngày tổng khởi nghĩa, vật bất ly thân lúc nào cũng ấm nóng trong túi áo. Năm Sọc, tội ác mày lút đầu, tao… Nhanh và tinh như cáo, lão già đứng xổm lên rồi nhảy bổ vào người Hận. Cô gái mất thế đập mạnh đầu xuống đất bất tỉnh, khẩu súng trượt ra ngoài. Năm Sọc dùng chân đẩy súng về phía đống rơm trong góc buồng rồi lồng lên như một con thú. Lão cắn xé và làm đủ trò trên thân thể tươi nguyên của người con gái. Phía sau nhà lúa, bà ba Én vẫn cười khùng khục, khùng khục suốt đêm… Hận tỉnh lại lúc nửa đêm với thân thể loã lồ, hai vệt máu khô loang dài hai bên đùi cô như hai sợi chỉ hồng mỏng mảnh. Ngồi định thần một giây, cô hiểu ra tất cả. Lão già cũng không mảnh vải che thân, nằm cạnh đấy ngáy pho pho. Hận trườn về phía góc buồng, quơ tay tìm khẩu súng… Sau đó nhẹ nhàng bò lại chỗ năm Sọc, kê súng sát đầu lão, bóp cò… Tiếng súng hãm không đủ xé rách màn đêm để làm dậy xóm dậy làng như Hận nghĩ. Đất trời vẫn lặng thinh, trăng sao vẫn vằng vặc, cô đứng lên mặc lại quần áo, thấy bình thản lạ thường, chợt nghe trống rỗng trong lòng, mọi thứ đều vô nghĩa, kể cả lời hứa phải làm một điều gì đó để rửa sạch lý lịch cho một tình yêu. Tình yêu sáng loà lý tưởng với thầy giáo Minh của kiếp nào. Một tay cầm súng, một tay cầm quyển sổ đời của lão năm Sọc, Hận đi dài ra bến sông. Cắp quyển sổ vào nách, cô khẽ khàng mở neo một chiếc xuồng, phải đi đâu đó để sống mà không phải cố gắng một điều gì hết. Cuối cùng thì khẩu súng cũng bị cô vứt tòm xuống sông. Cuốn sổ đời của năm Sọc bị xé vụn ra, rải dài trên mặt nước… Chiếc xuồng rẽ sóng trôi đi… Ma Núi Rắn ( Giải nhì Cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 2011-13 ) TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ĐỨC LỢI NVTPHCM- Gần đây, trên Núi Rắn có một đôi rắn chúa, chẳng hiểu từ đâu bò về, cắn chết hai gã lâm tặc dám cả gan chặt trộm sưa đỏ. Mấy nhà làm nương dưới chân núi cũng bị cặp rắn chúa bò xuống, xua ra khỏi rừng. Núi Rắn trước đây quả có nhiều rắn, nhưng toàn hổ mang, trâu, chì, khoang, cạp… Con to cũng chỉ dăm cân đổ về. Các cụ già bảo, cứ 60 năm rắn lại đổi vùng một lần. Giống như cua đổi càng, sắp có điềm. Điềm đầu tiên là chuyện của bà Khoàng. Vì chồng thích ăn măng dấm nên bà này cả gan men vào bìa nương sắn cũ, dưới chân Núi Rắn tìm hóp. Thường thì người làng gặp cặp rắn chúa vào lúc nắng giữa, hoặc dứt mưa nắng mới. Hôm nay trời nặng mây, chắc rắn không rời hang. Bà Khoàng vừa mon men đến gần bụi hóp, thì một tiếng phì, nghe như lốp ô tô dính răng bừa. Ngửa cổ nhìn lên, hai con rắn to bằng cái cột nhà, đen cháy, nằm vắt từ bụi hóp này sang bụi hóp kia, đầu đong đưa như sắp bổ xuống bà. Bà Khoàng quáng quàng chạy, rồi không biết gì nữa. Tận tối, người nhà tìm đến thì thấy bà nằm ngất giữa cái nương hoang, cứt đái dầm dề. Đã cả năm bà Khoàng không ngủ. Chợp mắt là hét toáng lên, khi thì ngất, khi thì chạy loạn cẳng, rồi chui xó rúc xỉnh. Bà tự dưng sợ tối, sợ rậm và sợ một mình. Đôi rắn ấy, những người nhìn thấy đồ dễ đến non tạ một con. Cánh nhà báo tỉnh nghe hơi, kéo về Núi Rắn. Có người chụp được hai cái đuôi thò ra từ bụi rậm, có người chạy quăng mất cả máy ảnh… Nhưng, hàng loạt bài viết kinh hồn vẫn được đăng tải, làm ồn ào cả khu vực. Lâu ngày, chuyện đôi rắn chúa cũng quen tai nếu không có sự mất tích đầy bí ẩn của hai con người, nửa người thì thiếu, nửa ma thì thừa. Đôi rắn trước đây mới chỉ cắn chết người, giờ thì biết ăn thịt người rồi. Có chỗ thấy chiếc dép đầy lỗ như đóng đinh, chắc dùng để chống mồm rắn trong vô vọng. Có nơi thấy bộ quần áo vo viên, dính bết vào nhau như đống phân, chắc con rắn nuốt chửng người, tiêu hóa xong phần xương thịt, còn quần áo thì ỉa ra ngoài… *** Có rất nhiều lời đồn về hắn. Sau cuộc chiến tranh chống Tàu vài năm, hắn như rơi từ trên trời xuống Núi Rắn định cư. Dân quân xã tưởng hắn là thổ phỉ, lên phương án để đánh, nhưng khi diện kiến, người ta bỗng thất vọng về tên vay danh gián điệp này. Hắn rất giống một nạn nhân đi-ô-xin, nhưng tất cả các bộ phận đều có thừa tác dụng, chứ không thứ gì tàn phế cả. Hắn chỉ nói được duy nhất hai tiếng: Không biết! Vì thế, người ta đặt tên cho hắn là Không Biết. Chẳng ai biết Không Biết sống bằng gì. Một cái nền hang vô sản. Đến lửa còn chưa biết dùng. Có người bỏ mấy ngày đi rình, về khẳng định Không Biết ăn toàn chuột, thằn lằn, rắn, mối… sống. Không Biết là một con người, nhất định thế, cho dù hình vóc có phần sai qui chuẩn. Đầu chỉ bé như một quả cam to, toàn mắt là mắt. Tay chấm cạp quần. Chân thì ngược lại, rất dài, dài gấp ba lần lưng. Có một chuyện lạ là Không Biết biết mặc quần áo, thậm chí còn tươm tất. Áo có rách, quần có rách, nhưng những chỗ cần che đậy, tuyệt nhiên kín đáo. Có vẻ Không Biết cần sống, muốn sống hơn ai hết thì phải. Đấy mới là điều lạ. Không Biết ung dung tự tại mà sống cuộc sống tuyệt đối tự do của mình. Suy cho cùng, trên đời, ngoài cái thú sống đúng với cách mình thích thì chẳng mong mỏi gì hơn. Thế nên khao khát sống là phải. Không Biết biết, mình khi chết sẽ phải chết cô đơn, vất vưởng và hôi thối thì thà sống hoang thú như thế. Thà ăn sống ăn sít mà sống chung sống chiêng như thế. Về Không Biết chỉ vẻn vẹn thế. Năm tháng đi, người ra chứng kiến sự gần gũi của Không Biết với dân làng Ngú Háu. Nói là gần gũi cho có hậu, thực ra, chẳng ai dám đến gần, mà Không Biết cũng chẳng đến gần ai. Chính quyền thỉnh thoảng làm nhiệm vụ rà soát nhân khẩu, tìm lên quả núi cao ngất ngư và rậm ngút ngát gặp Không Biết. Chẳng biết từ bao giờ, Không Biết có hộ khẩu ở làng Ngú Háu, xã Ngú Khiêu. Có người trách chính quyền quan liêu, có người lại cho đó là hợp lẽ. Dịp bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, chính quyền cãi nhau như xé vải về trường hợp của Không Biết. Có ý kiến liệt Không Biết vào danh sách những người không đủ tư cách bỏ phiếu. Có người lại nói Không Biết hoàn toàn khỏe mạnh, hội tụ mọi điều kiện để thực thi quyền công dân. Không biết, chưa biết thì cán bộ tổ bầu cử được phân công phải hướng dẫn, giải thích. Nếu không làm thế, có mà thụt chỉ tiêu à. Từ xa xưa, cả Ngú Háu lẫn những làng lân cận, rất ít người dám lên Núi Rắn, trừ một vài tay bắt rắn chuyên nghiệp. Rắn ở Núi Rắn rất nhiều, nhưng không có con to, không có con ăn thịt người. Cắn người phải cấp cứu thì vô kể, nhưng rặt không ai tử vong vì Ngú Háu có một thầy lang chữa rắn cắn nức tiếng. Mấy tay thợ săn, không hiểu dùng cách gì, bắt hàng vạn con rắn trên Núi Rắn, bán xuống thành phố ngâm rượu, làm chả. Từ ngày Không Biết về Núi Rắn, mấy tay thợ rắn bỏ đi tìm rắn ở vùng rừng khác. Họ bảo, giờ đến con rắn bao tử cũng chẳng còn, thằng quỉ người bắt ăn sạch rồi. *** Ở cuối làng Ngú Háu có một ngôi nhà sàn nhỏ. Đúng hơn chỉ là một túp lều, một cái lán nương. Chủ lều là một phụ nữ trạc bốn mươi. Người phụ nữ có đôi mắt nâu, ướt át và gọi rủ đến nao lòng. Nói thế nhưng cả làng Ngú Háu và những làng khác, chẳng ai gặp, chẳng ai gần người ấy bao giờ. Cũng chẳng ai nghe thấy người ấy nói. Gần ba mươi năm, người ấy đã không nói. Những người mới đến hay các thế hệ sau không biết, gọi luôn là Con Câm. Con Câm lầm lũi cấy hái trên một vuông đất nhất định, rồi tự ốm, tự khỏi, tự no, tự đói. Thỉnh thoảng bỏ đi, hình như là để sắm sáp những thứ phục vụ cho cuộc sống. Trên khuôn mặt trắng hồng của Con Câm có một vết sẹo. Một vài người già biết chuyện thuật lại, hồi Con Câm 13 tuổi, một thanh niên đã phát hiện ra nó là ma cà rồng. Thế là bọn trai làng dùng ngoé nướng dụ Con Câm ra rừng đập chết. Lúc Con Câm thoi thóp, bỗng xuất hiện một tốp lính trinh sát của ta hành quân về phía biên giới Việt - Trung. Họ xin cho Con Câm được sống, và dựng cho cô gái một túp lều trong rừng. Bây giờ, dân số ngày một đông, đất không đủ, người ta kéo cư dài về phía rừng nên túp lều của Con Câm cũng chỉ còn cách làng non cây số. Vết sẹo trên mặt Con Câm là do một thanh niên dùng dao rạch, đánh dấu không cho trà trộn với con người. Đã hai mươi bảy năm, người ta quên sự có mặt của Con Câm trong cư thôn. Kể cả dịp bầu cử, tuyệt không ai nhắc tới. Họ coi như Con Câm đã chết, hoặc là chưa từng có. Một sự hắt hủi cổ quái, Con Câm mà là người khác, thà chết quách đi, dù có cô đơn, vất vưởng và thối tha! Hỏi các cụ già về bố mẹ, người thân của “con ma cà rồng” ấy, họ chỉ đến nhà già Miên, nhưng ông này lại bảo, ông ta chưa từng đẻ ra một đứa con gái nào. Cô gái ma cà rồng mặc dù đã bốn mươi, nhưng nét xuân thì vẫn lấp lánh quanh mấy nếp ưu tư lờ mờ trên trán, trên đuôi mắt. Đôi môi vẫn đỏ như gái dậy thì. Nhiều cụ già xác nhận, Con Câm từng xinh nhất vùng. Xinh như một con ma, người thường không ai lại xinh đến mụ mị hồn vía người khác như thế được. Người ta bảo, nếu không gạch mặt Con Câm thì cả cái làng này, xã này, huyện này con gái ế chồng hết. Trai trong chí ngoài, cứ bu quanh Con Câm như bầy kiến bu quanh bọng mật. Các nhà có con gái, tịnh không một tiếng chó sủa. Con Câm bị vạch mặt, làng xóm bình quân ngay. Con Câm không nói nhưng lại biết thổi kèn lá. Đêm đêm, tiếng kèn lá cất lên thê lương cả một góc rừng. Nhiều giấc ngủ chập chờn ma mị, chực mò đến đốt quách cái lán ấy đi, nhưng ra ngoài nhà lại quay vào. Da gà cứ trộn vào giác quan, rờn rợn. Từ ngày Không Biết về núi, không ai nghe thấy tiếng kèn lá của Con Câm nữa. Thường thì Con Câm lánh mắt dân làng, nên có khi mấy năm trời chẳng ai thấy. Họ chỉ biết mảnh nương nhỏ của Con Câm vẫn có một bàn tay gieo cấy, chăm chút, thu hoạch. Con Câm luôn chọn thời điểm người làng chưa đi, và đã nghỉ mới lam làm. Có khi phát dọn cả đêm trăng. *** Một tối cuối tháng đen như trong chõ. Tiếng kèn lá từ trong lều Con Câm vọng ra rứt gan rứt ruột. Quá nửa đêm, tiếng kèn như héo, như rách. Chiếc lá rụng khỏi môi chưa lâu thì có tiếng gõ cửa. Con Câm ngồi thu vào góc nhà, giương đôi mắt nhợt nhạt ra làm vũ khí. Tiếng đàn ông cất lên ngoào ngoào: “Có phải ma cà rồng không? Có phải em không?”. Xó nhà câm lặng. Giọng đàn ông bất ngờ đổi cung: “Đúng là em rồi, ma cà rồng ạ. Đằng sau vết sẹo ấy!”. Xó nhà vang lên tiếng giậm chân nhịp 5 - 4 - 3 như chó cắn hổ. Căn lều rung lên tựa có bão. Giọng đàn ông ngân ngấn trôi xuống thang sàn: “Em đuổi anh cũng đừng như thế, đau chân đấy, ma cà rồng ạ”. Trên nhà, vẫn “chó” sủa nhịp 5 - 4 - 3, sầm sập, sầm sập. Hôm sau, giọng đàn ông lại cất lên hi vọng, ngoài liếp cửa: “Ngoan ơi, đừng nói bằng chân nữa, hãy nói bằng mồm thôi…”. “Ngoan ơi, đừng sợ, người tựa vai người, ma gối tay ma…!”. Giậm chân giảm xuống một bậc, 4 - 4 - 3, như chó cắn gấu. Tiếng thì thào cứ lục tục đến, lục tục về, cả năm như thế: “Ngoan nói gì đi, đừng để xà cột nghe đến biết cả tiếng con người rồi”… Tiếng giậm chân giảm xuống nữa, vừa thưa vừa nhẹ dần dữ dội theo nhịp chó sủa hoẵng 3 - 3 - 1; rồi chó đuổi cáo: 2 - 2 - 1; và cuối cùng là chó vồ gà 1 - 1 - 1. Dù chưa mở cửa, nhưng lòng Ngoan đã tháo gióng. Cái mùi khen khét, thôi thối như mùi trứng ung; cái giọng meo méo, nhài nhại xuyên qua liếp gianh làm Ngoan bớt ngủ, bớt ăn ngày càng dày. Nhiều lúc Ngoan muốn nói, nhưng lâu quá rồi, lưỡi như dính vào răng, nhai thì dễ, mà nói không ra. Ngoan tìm đến thác Ngú Sập, hát vào nước, nói vào nước, nhưng ngay cả Ngoan cũng chẳng hiểu mình hát gì, nói gì. Tiếng con người rơi khỏi tai, chui ra khỏi lưỡi gần ba chục mùa nương rồi, gọi nó quay lại mãi mà không nổi. Đã mười mấy chuyến con trăng đến rồi đi xa tận bên kia chân trời, giọng đàn ông đến rồi về, cũng như con trăng cần mẫn, định kì và dứt khoát. Lâu rồi, người ấy không chỉ đem giọng nói nhơn nhớt đến, mà khi thì cái măng, củ mài, nắm rau sắng, ống mật ong, con chồn, con don… . Hơn năm trời, Ngoan cố nhòm vào đen thẳm, đồn đoán vì sao lại có con người muốn làm bạn với ma? Mà anh ta ở đâu? Sao lại biết tên, biết chính xác ngày Ngoan bị bọn “trai người” hành quyết? Chẳng biết nữa, thôi, kệ. Ngoan đã đón nhận tất cả quà rừng thay cho đón nhận chủ nhân của nó. Từ bao giờ, giọng đàn ông đã trở thành người thương, người nhớ. Rồi đến một hôm, sau câu hỏi “Anh đạp vách nhé?” thì cỏ cây, chim chóc đã nghe thấy tiếng Con Câm: - Chưa được đâu? - Vì sao? - Sợ! - Sợ gì? - Sợ người! - Không phải người đâu, là ma. - Ma ở mường nào? - Trên Núi Rắn. Cánh cửa bật ra, từ phía không trung ập vào một bóng người cao lớn, đầu bé như quả cam lai bưởi. Ngoan chững lại, lùi giật vào góc nhà. Không Biết đưa ra chiếc vòng bạc khảm thạch dạ quang, ánh lên xanh lét trong đêm: - Em còn nhớ cái này không? - Không, chỉ quen. - Của em mà. - Không phải. - Đúng đấy, em xem đi, cả tên em mà. - Tặng bộ đội lâu rồi. - Anh là bộ đội đây. - Không phải, bộ đội đầu to, tay dài, chân ngắn. - Anh bị thương, ruột gan (hoóc môn) thay đổi, thành thế. Anh là ma, như Ngoan. - Thật không? Thật như bộ đội về làng không? - Thật! *** Đã vài năm sau khi cặp rắn chúa về Núi Rắn, cả Không Biết và Con Câm đều mất tích một cách bí ẩn. Không dấu vết gì cho thấy, hai con người ấy còn sống. Mảnh nương nhỏ của Con Câm bỏ hoang đã năm vụ rồi. Trên Núi Rắn cũng không còn sợi khói mong manh, rời rạc và đứt bữa mỗi chiều. Không nghe tiếng chặt cây, chẻ củi, tiếng hú rợn đêm nữa. Một vài người có tư tưởng tiến bộ, chắp hai bàn tay trắng, vái trộm mấy cái vào trời xanh: “Cầu cho hai linh hồn ma quái được siêu thoát. Kiếp sau, xin chớ làm người!”. Cặp rắn chúa trên Núi Rắn đã lan danh khắp nước. Những tốp bắt rắn chuyên nghiệp lũ lượt kéo về Ngú Háu. Lâu lâu, lại có một chiếc xe sang trọng, chở những ông bụng to đến, đấu giá mua đôi rắn lên tới 200 triệu. Nhóm thần rắn Hươi “cỏi ngú” nhận cái hợp đồng ấy đầu tiên. Hươi “cỏi ngú” vốn là dân Ngú Háu, từ ngày Núi Rắn hết rắn, hắn dạt sang khu Đông Bắc kiếm ăn. Nghe tiếng mồi là tức tốc quay về với hi vọng thông lâm thạo thổ, sớm có thành quả. Nhóm Hươi “cỏi ngú” chụm đầu tính toán, 200 triệu ấy, với nguồn rắn ngày nay, phải bằng năm năm chui rúc. Các tốp khác nghe ngóng sự chết chóc vọng xuống từ Núi Rắn rồi quyết định nhường chỗ cho thần rắn Hươi “cỏi ngú”… chết tiên phong. Thần rắn Hươi “cỏi ngú” cùng hai học trò chuẩn bị rất kĩ. Ống thuốc giấu - một loại dây rừng bí truyền, được giã nát, chế thêm vài loại nước cốt khác, thành thứ thuốc khiến rắn sợ cứng cả hàm, không há ra để cắn được nữa - dao đi rừng, bật lửa, dây chão, tăng bạt, thực phẩm… Nhóm Hươi “cỏi ngú” lên núi được chừng 5 tiếng, người ta thấy hai tên đàn em thần rắn hồng hộc chạy về, nói hắt ra: “Thầy Hươi bị nuốt rồi… mồm nó (con rắn chúa) to như cái cửa nhà… Thầy ơi… từ nay bọn em lấy đâu ra gỏi rắn mà ăn nữa… hả thầy…”. Dân quân xã Ngú Khiêu súng ống đai đạn lên Núi Rắn tìm xác thần rắn Hươi “cỏi ngú”. Đến đầu rừng, người ta thấy một thi thể nát nhừ, vỡ, rách, tím mọng. Hai gã học trò cũng chỉ nhận ra thầy qua quần áo. Cái ống thuốc vỡ tan, nước thuốc, nước dãi rắn nhớp nháp đầy người thần rắn: “May mà có ống thuốc gia truyền, không thì nó ăn gỏi thầy”. Một tên run cầm cập nói, rồi cả hai bỏ lại nấm mồ chưa phai hơi đất và cái hợp đồng béo bở, ra đi biệt dạng. Vị đại gia đứng đầu câu lạc bộ 100.000 tỉ là người vào Núi Rắn cuối cùng, và cũng cắm lại lâu nhất. Vị này treo đôi rắn chúa 500 triệu cho ai bắt sống, 200 triệu bắn, bẫy hoặc đập chết. Có hàng chục tốp bắt rắn chuyên nghiệp đổ về, có cả tốp Đại Sát ở rừng U Minh ra với hi vọng diện kiến, may mắn hơn là tóm cổ được đôi rắn gây tiếng vang khắp nước này. Kể cả thế, hàng chục tốp, có khi bỏ cuộc ngay lần đầu nghe tin xấu, có khi tháo chạy thục mạng, người bị thương do tự va đập vào cây, vào đá; kẻ bỏ mạng với một câu chuyện hiện trường và tình trạng tử thi tương tự như thần rắn Hươi. Đại Sát là toán cuối cùng muốn thử sức với “thần sát” Núi Rắn. Toán này mang theo máy phát điện; máy phát sóng siêu âm để giả giọng rắn; máy phóng tia tử ngoại, nhẹ thì thôi miên nặng thì tiêu diệt; súng bắn đạn điện và gậy kẹp điện chuyên dụng… . Cuối cùng, kết cục chẳng hơn gì các tốp trước. Năm thành viên toán ấy đạp lên nhau mà chạy. Ỉa đái cả ra quần. Có kẻ bỗng điên dở, dại dở. Một tên tỉnh táo thuật lại, khi toán Đại Sát lên đến cửa rừng, toán trưởng Hùng “hổ chúa”, làm lễ một cặp gà trống sống, rượu, thịt lợn sấn, và hoa quả. Hương cháy đẹp lắm, toán trưởng ngửa cổ lên trời khấn những điều quen thuộc rồi quay lại bảo đàn em: “Không lí gì thất bại!”. Toán Đại Sát phấn khởi leo lên núi, đến lưng chừng, nơi có vũng nước Nồi Luộc (Mỏ Tổm) thì bất ngờ nhìn thấy hai thân cây đi động. Mới đầu, ai cũng tưởng do leo núi nên hoa mắt. Nhưng chưa kịp định hình, hai thân cây to cỡ thùng phuy tiến ào ào tới. Trong tư thế dựng đứng, cao trên chục mét, chỉ có đuôi là chấm đất. Hai thân rắn lớn vừa chặn mũi toán Đại Sát, vừa rít gió ầm ầm như bão táp. Chẳng ai bảo ai, vứt tất lại, rồi mạnh chân bằng nào, chạy, nhẩy, lộn, lăn xuống núi bằng nấy. Vị đại gia nghe xong, mặt buồn như gà trống độc thân. Ông ta không bỏ đi, mà cứ ra vào cái trại dã chiến, bên cạnh là chiếc “bóng ma đen” hiệu Rolls Royce Phantom, trên nóc gắn cả chảo truyền hình ĐTH, chảo tiếp sóng di động vệ tinh, Tivi 3G… . Ban ngày, ông ta lân la vào các nhà nghe ngóng chuyện về đôi rắn, ban đêm, nằm xem ti vi và nắm bắt công việc tập đoàn Toàn Cầu qua sóng vệ tinh; chỉ đạo bằng điện thoại di động giữa vùng đèn dầu, mái lá. Mấy ngày sau, có người nghe lỏm được chuyện vị đại gia nói với tay tùy tùng: - Đôi rắn này không thể chinh phục. - Vì sao? - Nhờ câu chuyện cuối cùng của toán Đại Sát. Rắn chúa cũng dựng người, nhưng chỉ một phần ba cơ thể. - Thế thì đôi rắn ấy, cùng lắm cũng chỉ cao 3 - 4 mét? - Đúng thế. Chỉ có một giả thiết. - Không có thật? - Có thật. - Vậy là con gì? - Là tinh rắn. Hàng vạn con rắn trên Núi Rắn bị giết chết đã hợp hồn, rồi kết tinh lại thành một đôi Xà Tinh, có thật, nhưng không thể bắt, giết. Nó vẫn ăn thịt người và súc vật, nhưng là ăn phần hồn. - Vậy, những vật chứng như trong cứt nó có quần áo, giày dép, ví tiền…? - Thế mới cần nghe ngóng thật kĩ, có thể phải trực tiếp diện kiến. - Giống như con Xà Tinh to như cái thuyền, dài như cái cầu mà thiên hạ đồn ở làng Lệ Mật, nó ẩn dưới sông Hồng, đêm đêm mò vào làng bắt súc vật, thậm chí cả người? - Không phải đồn, mà có thật. Chính tổ ta là thần rắn Lệ Mật, nên ta biết chuyện đó có thật. Ai cũng nhìn thấy, nhưng không chứng minh được. Người và súc vật vẫn mất tích. Chà! Ước gì có ai lí giải được chuyện thần bí này. Hai ngày sau người ta thấy vị đại gia một mình lên Núi Rắn. Một ngày. Hai ngày. Ba ngày. Đến ngày thứ tư, ông ta quay về trong sự an lòng của tên tùy tùng. Sau chuyến đi ấy, ông ta chuyển sang mua thứ khác, vẫn giá bằng đấy, nhưng dứt khoát là bắt sống chứ không được giết chết. Chuyện này có vẻ dễ làm, không nguy hại gì đến tính mạng. Cả làng Ngú Háu theo đuổi hợp đồng. Chỉ có điều, sợ không còn nữa mà bắt. *** Vị đại gia dạy cho những toán săn thú mới một câu chú tổ truyền tránh đụng đầu Xà Tinh. Thần tình thật. Từ đó, người ta làm lễ rồi lên Núi Rắn mà không hề thấy bóng dáng đôi rắn chúa đâu nữa. Câu thần chú cấm kị động vào loài rắn, và phải lễ no cho Xà Tinh đã. Vậy là người ta bình yên chui rúc trên Núi Rắn như đi lại trong nhà. Hàng trăm người lùng sục khắp hang cùng khe hẻm của Núi Rắn mà không thấy tăm hơi con mồi 500 triệu đâu. Một tuần. Mười ngày. Nửa tháng. Bóng thần tài của họ vẫn không để lại một dấu vết. Tay tùy tùng thắc mắc: - Hay là rắn khổng lồ thật? - Là Xà Tinh thôi. - Vậy thì đôi nửa ma nửa người ấy đâu? - Chắc chúng lẻn sang một vùng khác, nhưng không xa. Cứ cho mở rộng phạm vi tìm kiếm. - Em hỏi thật sếp, sếp mua đôi ngợm ấy về làm gì? - Sinh vật cảnh. - Chúng là người cơ mà, bề ngoài ấy, mà chăn người thì bất hợp pháp. - Yên tâm đi, ta đã lách luật xong rồi. - Nghĩa là…? - Thiết kế một khu “chuồng” mang tầm vóc “điểm du lịch” với đầy đủ bài trí siêu vật cảnh theo khuôn mẫu, không gian của con người, rồi tạo điều kiện đế vương cho chúng ở, sinh sôi, trên danh nghĩa… công nhân. - Bái phục sếp! Em đã chứng kiến nhiều tài ba của sếp, nhưng lần này mới dám khen vượt đèn đỏ. Sếp quả là thần nhân chứ không phải thuần nhân. Lúc ấy, bạn bè thượng giới tham quan dinh thự, sẽ phải ngả mũ trước phong cách đại đẳng - thú chơi… ma - một kỉ lục guiness(!) - Ha ha ha… *** Hai đứa trẻ sinh đôi, một trai một gái, độ 4 tuổi, nô nhau thoăn thoắt trên đỉnh đá. Thỉnh thoảng, chúng đu lên cành những cây dâu da, cây thanh mai, hái quả ăn ngau ngáu như loài linh trưởng thực thụ. Mẹ chúng - người đàn bà có vết sẹo dài trên má trái, nhìn theo cười mãn nguyện: - Đúng là lũ quỉ con. Người đàn ông có thân hình bon sai cũng cười. - Thì chúng vốn là ma mà. Dưới chân Núi Rắn, tiếng cười của vị đại gia - chủ nhiệm câu lạc bộ 100.000 tỉ - còn to và dõng dạc hơn: - Ha ha ha… Ha ha ha! Ngay chái ngôi nhà lợp bằng lá chuối, đôi rắn hổ mang chúa, mỗi con dài chừng 7 mét, nặng trên 2 chục kí, nằm quấn vào nhau hiền từ. Thỉnh thoảng, chúng ngớn bụng lên, nghiêng tai xuống gon lá rụng được vun đắp một cách tự nhiên, nhưng rất cẩn thận và khéo léo, ngay dưới bụng, nghe những âm thanh siêu vi vọng ra. Những đứa con của chúng đang cựa quậy. Tiếng cựa quậy tuy nhỏ, nhưng mang đủ năng lượng để cấu thành bão tố. Tiếng cựa quậy cũng hồ hởi, hồn nhiên như những đứa trẻ con, ung dung chờ ngày nhìn thấy thứ ánh sáng đầu tiên, mơn man, dịu dàng và thanh bình trên Núi Rắn. Hàng xóm ( Giải ba Cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 2011-13) TRUYỆN NGẮN CỦA CHU THÙY ANH NVTPHCM- Hàng xóm này cụ thể là hàng xóm ở đối diện. Tầng có tất cả chín nhà, quây xung quanh cái cầu thang máy. Thực ra thì không có nhà nào thực là đối diện nhà nào cả, nhưng nhìn chênh chếch vẫn có thể thấy được cửa nhà nhau. Nhà này, là hàng xóm nhìn chênh chếch có thể thấy được cửa nhà ông. Cũng tức là, nhà ông, nhìn chênh chếch thấy được cửa nhà ấy. Thường thì các nhà cửa đóng then cài cẩn mật. Không hẳn vì sợ trộm cắp, trộm làm sao đi qua được phòng bảo vệ ở tầng một, ấn thang máy qua mười ba tầng lên đến tận đây, rồi làm sao phá được khóa cửa sắt để vào nhà, thật cũng lắm gian nan. Nhưng là thói quen thế, nhà nào cũng khóa cả cửa sắt bên ngoài và cửa gỗ bên trong. Giữa cửa sắt và cửa gỗ có năm mươi phân cách biệt, không hiểu người ta thiết kế như thế để làm gì, năm mươi phân thì để vừa được gì và ai cần để cái gì giữa cửa sắt và cửa gỗ. Thực ra chẳng có nhà nào để gì cả, trừ nhà hàng xóm ấy. Mỗi lần ông nhìn chênh chếch sang, đều thấy mấy đôi dép xếp thẳng hàng. Bốn đôi người lớn và hai đôi trẻ con vào ngày nghỉ. Hai đôi người lớn vào giờ hành chính ngày trong tuần. Lại đủ bốn đôi người lớn và hai đôi trẻ con sau sáu giờ chiều từ thứ hai đến thứ sáu. Chỉ có nhà ấy là xếp dép vào khoảng năm mươi phân giữa hai lớp cửa. Có khi là dép, có khi là giày. Nhìn cỡ thì biết có một bé trai và một bé gái, đâu đó tầm mươi mười ba tuổi. Nhưng ông cũng chỉ biết đến thế. Ông sống ở đây một năm trời rồi mà chưa nhìn thấy nhà hàng xóm ấy bao giờ. Những hàng xóm khác có thi thoảng gặp, cười cười “bác ạ” rồi ai khép cửa nhà nấy. Riêng nhà có sáu đôi dép thì chưa bao giờ thấy mở cửa, chỉ có những đôi dép lần lượt đảo chỗ cho nhau Thực ra ông chẳng cố tình nhìn vào nhà ấy làm gì. Mỗi người đã có cửa của mình, ai bước vào cửa nấy. Chẳng qua chỉ một lần vô tình lúc mở cửa, hôm ấy chắc giở giời, người ngợm thế nào cứ uể oải, làm gì cũng chậm chạp hơn, ông bỗng thấy đôi dép xỏ ngón màu hồng có nơ be bé, ở bên kia cửa sắt nhà chênh chếch đối diện. Giống như là đương lướt mắt qua cả vệt hành lang, cái nhìn bỗng mắc lại ở chỗ nơ hồng ấy. Đôi dép xinh xinh chắc của bé gái độ tám, mười tuổi. Chắc bằng tuổi cháu ông. Cháu tuần về chơi với ông một lần. Tuần nào bố mẹ nó bận thì có thể may mắn hơn, cháu sẽ được gửi qua đêm với ông; hoặc, có thể ít may mắn hơn, vì bận mà chẳng buồn đưa cháu về nữa. Nhưng đúng lịch thì một tuần sẽ có một lần hai ông cháu gặp nhau. Bố mẹ nó về đây ăn uống thăm hỏi một ngày, rồi sáu ngày tiếp theo ông lại tự ăn uống thăm hỏi một mình, chờ đến chủ nhật. Cái gì là quen rồi thì cũng thấy bình thường thôi. Hằng ngày ông dậy vào giờ của ông, ăn uống kiểu của ông. Cách một ngày có một người đến dọn dẹp, chuẩn bị đồ ăn cho ông. Ông vẫn còn khỏe, vẫn tự cho mọi thứ vào lò vi sóng, hoặc bắc bếp làm nóng được. Ông có hội cờ tướng của ông, có hội tập thể dục hàng sáng và hàng chiều của ông. Nói thực lòng là thi thoảng cũng mong ngóng chủ nhật lắm. Nhưng để sống cho qua được sáu ngày để đến chủ nhật tiếp theo cũng không phải là khó khăn, vì ông đã quen rồi. Hơn nữa người già ở thế này cũng tiện, mọi thứ trên một mặt bằng, không lên xuống cầu thang, đỡ lo ngã. Ông cũng được sinh hoạt cái kiểu của ông. Chỉ có hôm ấy, chắc vì giời đổi tiết, thành ra mắt ông mắc lại ở cái nơ hồng be bé ấy. Ông nhìn đôi dép một hồi lâu, nhìn sáu đôi dép một hồi lâu, rồi từ tốn khép cửa, khóa lại cẩn thận trước khi bước vào thang máy. Ông xuống nhà đi dạo ba vòng hít thật đầy khí trời buổi tối, mát lành dễ chịu. Thế mà đêm ấy vẫn trằn trọc mãi không sao ngủ được. Từ hôm ấy ông bỗng chú ý đến nhà hàng xóm có sáu đôi dép hơn. Ông từng chờ rất nhiều lần xem hàng xóm của mình là ai. ở chung cư này đa phần là các gia đình trẻ, có vài nhà như ông, sống một mình. Rất hiếm những gia đình nhiều thế hệ. Nên cái cửa ấy càng làm ông tò mò hơn. Thế nhưng hình như hàng xóm cứ chờ ông bận bịu đâu đó không ngó ra cửa được thì mới đi ra đi vào. Bẵng đi một cái, ông lại thấy dép xếp lại rồi, lần nào ông cũng tiếc rẻ vì những việc linh tinh mà không gặp hàng xóm của mình được. Ông có cả một ngày để làm những việc linh tinh, thế mà thế nào lại toàn làm lỡ dịp gặp hàng xóm, lại là hàng xóm đặc biệt, kể cũng thấy tiếc. Cho đến một ngày, khi ông đã thôi ý định ngồi ngóng ra cửa chỉ để chờ gặp hàng xóm, thì bỗng dưng lại gặp bà. Bà bé nhỏ, chắc quãng tuổi ông, hoặc nhiều ít hơn đôi chút. Ông gặp bà trong thang máy, lên cùng một tầng. Đôi mắt bà đỏ hoe, đầu mũi cũng đỏ. Bà im lặng không nhìn ai, chờ mọi người ra hết rồi mới bước ra khỏi thang, đi về cửa căn hộ ấy. Bà bước vào nhà, bên cạnh một đôi dép đàn ông đã xếp sẵn ở cửa, giờ xếp thêm đôi dép phụ nữ. Ông cứ đứng nhìn từ cửa nhà mình, vì bất ngờ quá. Ông đã chờ đợi bao nhiêu lần để gặp được hàng xóm của mình, đã mường tượng ra cảnh cả gia đình họ ríu rít dắt nhau vào thang máy thế nào. Đâu ngờ một ngày gặp được hàng xóm, lại là một người đàn bà bé nhỏ vừa rấm rứt khóc xong. Vì ông có cả một ngày để làm những gì mình muốn, có đến sáu ngày như thế trong tuần, nên ông không thể thôi suy nghĩ về chuyện làm thế nào gặp lại hàng xóm của mình. Vào cái tuổi ấy mà khóc hẳn phải vì lý do gì ghê gớm lắm. Dỗi chồng dỗi con hay là bị ngược đãi. Ngoài cửa trông vào tưởng là êm ấm thế, bên ngoài nghe ngóng cũng chẳng thấy cãi cọ bao giờ. Nào có ai ngờ. Ông không biết có nên báo tổ dân phố không. Thực ra ở chung cư thì tổ trưởng tổ dân phố cũng chỉ để một năm đi dạo vài vòng quanh các nhà. Hơn nữa ông chưa biết cụ thể việc gì diễn ra, bỗng dưng đi báo cũng buồn cười. Chẳng nhẽ bảo trong thang máy tôi gặp bà ấy sống ở số nhà ấy mắt đỏ hoe như thế ấy, bác tổ trưởng đi kiểm tra tình hình gia đình văn hóa giúp tôi? Mà thực ra từ khi về sống ở đây đến giờ ông đã bao giờ gặp tổ trưởng tổ dân phố đâu. Lần nào có ai ấn chuông ông cũng coi như không có người ở nhà, không mở. Các loại hóa đơn nhờ trả hết ở phòng quản trị tầng một. Không ai bước chân vào nhà ông được. Ông không muốn ai nhìn thấy một tủ giày chỉ có vài đôi, cùng một cỡ, của ông. Thế nhưng ông muốn sang ấn chuông nhà hàng xóm ghê gớm. Sự tò mò về sáu đôi dép lớn một, thì tò mò về đôi mắt ướt nhẹp đỏ hoe của bà hàng xóm phải lớn gấp mười. Ông cứ nghĩ mãi, ở cái tuổi này còn gì có thể làm cho người ta khóc? Trừ sự tủi thân. Hoặc mất mát. Nhưng sau hôm ấy sáu đôi dép vẫn xếp ngay ngắn vào đúng khoảng thời gian như mọi khi. Không có gì xáo trộn. Nhìn từ ngoài cửa, nghe từ hành lang, thì căn hộ ấy vẫn sống cùng một nhịp cứ như bà lão chưa bao giờ khóc cả. *** Đến một ngày, nghĩ mãi vẫn chẳng có cớ gì, nhưng ông vẫn sang ấn chuông nhà hàng xóm. Là cứ ấn thế chứ không mong có ai mở cửa cho mình, mà có mở ông cũng chẳng biết phải nói câu gì. Thế mà rồi cửa lại mở. Bà lão he hé cửa chào ông. Ông, bất ngờ quá, không biết nói gì, tự dưng lại xin bà một phích nước. Phiền bác quá, ấm đun nước nhà tôi bỗng dưng lại hỏng, các cháu thì đi làm hết rồi, thèm ấm trà mà không pha được... Thế mà bà lão mở hẳn cửa ra. Mời ông vào. Ông được mời trà ngay ở căn hộ bên ấy, không cần xin phích nước về nhà mình nữa. Căn hộ này áng chừng cũng rộng như căn hộ của ông, cũng ngần ấy cánh cửa khép. Nhà có trẻ con mà gọn gàng ngăn nắp. Trên bàn để mấy khung ảnh, có một cái ảnh bà lão với con chó con, chụp chừng đã lâu lắm rồi; còn lại là rất nhiều ảnh chó, hình như cùng một con, qua những năm tháng khác nhau. Bên bậu cửa sổ có mấy cây hoa lốm đốm những chấm xanh lơ. Bà mời ông dùng trà, hỏi han những câu rất cơ bản như khi người ta đi hết một hàng cau, qua cái cổng duối, bước vào sân là có thể hỏi nhau. Bà hỏi ra bác cũng ở đây, bác ở đây lâu chưa, các cháu công tác thế nào... Câu chuyện bắt đầu như thế. Mắt bà hôm nay không đỏ. Thế nên ông không biết phải bắt đầu cái phần chính yếu của sự tò mò như thế nào. Uống hết cả ấm trà (thực ra lâu lắm rồi ông không uống, thế này khéo đủ để mất ngủ nguyên một tuần), câu chuyện vẫn do ông kể. Rằng tôi sống bên nhà ấy số ấy, các cháu công tác ổn, các cháu có một cháu gái rồi, à mà cháu gái tôi chắc bằng cháu gái bà, tự dưng ông buột miệng thế. Xong im lặng. Nào ông đã gặp cháu gái bà bao giờ. Bà cũng im. Lặng. Ông không biết nói sao đành thú thật mình đã nhìn rất lâu, rất nhiều lần vào sáu đôi dép, trong đó có một đôi xỏ ngón nơ hồng, mà ông đồ rằng chắc của cháu gái bà. Bà vẫn không nói gì. Ông thấy cứ lặng như thế này, ở tầng mười bốn thậm chí không có cả muỗi bay để nghe tiếng vo ve, thật là nghẹt thở quá. Rốt cục ông đứng dậy, nói cố một câu trước khi về: Thực ra tôi ở đây có một mình thôi. Các cháu cuối tuần mới về ... Bà một lúc mới cất lời, chẳng ngước lên nhìn ông: Thực ra tôi cũng ở đây có một mình thôi. Tôi thậm chí chẳng có các cháu để cuối tuần về. Sáu đôi dép tôi tự mua tự xếp đấy. Để tự thấy rằng mình ấm áp. Ông đứng lên rồi lại ngồi xuống. Nhìn bà. Kinh ngạc. Bà dừng một hồi rồi tiếp: Trước đây tôi còn có con chó, sống cùng tôi từ mười bốn năm nay, từ trước cả khi chuyển về đây ở. Về đây biết là người ta cấm nuôi động vật, nhưng tôi vẫn nuôi giấu. Tôi nuôi nó từ thuở lọt lòng, nó coi tôi như mẹ, tôi coi nó như con, không có nó tôi chẳng có ai. Nhưng đến nó cũng ra đi rồi. Tôi đành đem chôn. Có mỗi tôi khóc cho nó. Tôi cũng chỉ có mỗi nó để khóc mà thôi.. . Bà nói một hơi dài mắt từ từ ậng nước. Ông chuyển từ kinh ngạc sang bối rối. Ông đã sang ấn chuông vì muốn nhìn sâu hơn một chút vào cửa căn hộ này. Trước cửa có xếp sáu đôi dép, bốn đôi người lớn và hai đôi trẻ con. Ông xoay xoay cốc trà đã cạn, không biết làm gì với bà lão mắt đã lại đỏ hoe, vết đỏ lan ra đến tận đầu mũi. Xoay cốc đủ hai mươi chín vòng thì ông nói, rồi dứt khoát đứng lên đi về trước khi vệt đỏ ấy lan sang cả mắt rồi tràn xuống đầu mũi ông mất. Xin phép bác, chủ nhật cho ông cháu tôi sang đây xin phích nước nóng. HỒNG TRẦN Quân trưởng vào nhà!” “Cậu đợi tôi!” Nói thế thôi, người ta cũng biết thế nào là đợi. Lúc đầu còn đợi thật, về sau có đợi không cũng không cần thiết nữa. Đến khi có việc, tự khắc về đón. Lại những việc phải làm. Nàng uyển chuyển như con bướm nhỏ lượn từ chỗ này sang chỗ kia. Làm đủ các việc đã sắp đặt. Lần lượt, không được thay đổi thứ tự các việc, đúng như ngày đầu đã qui định. Chồng bảo có mỗi một người duy nhất nghe theo sự sắp đặt của mình. ở doanh trại không có ngày nào là không có thay đổi. Về nhà nàng có nhiệm vụ cho chồng cảm giác có thứ tự. Bắt đầu là việc cởi tất cho chồng. Không thể đi tất ở một nơi mát mẻ và dễ chịu như ở đây. Biệt thự này được tạo ra để đem đến sự dễ chịu. Chồng muốn gan bàn chân mình được cọ xát với nền đá mát lạnh để nhiệt của thân chảy hết xuống đó mà lấy lại sự nhẹ nhàng. Sau là bưng ra một cốc trà nóng. Thứ trà do Đội trưởng đem về. ở đâu mang về không rõ. Đựng trong một chiếc hộp gỗ. Lúc nào hết lại có chiếc hộp khác. Hộp mới giống hệt hộp cũ, trà cũng vậy. Vợ chẳng ngửi thấy mùi gì, nếm cũng không thấy vị gì. Chỉ có một màu xanh như cỏ úa - là màu của sự nhắc nhở không được tàn phai. Sau nữa là cùng nhau đi tắm. Dù nàng rất sạch sẽ. Trong bầu không khí quá sạch sẽ này thì sao lại bẩn được. Tắm không phải để tắm, cốt để xoa xoa gan bàn chân, bàn tay cho chồng. Mỗi khi đầu ngón tay chỏ của vợ chạm vào gan bàn chân, chồng lại rùng mình rất nhẹ. Chân giật giật lên. Rồi cũng thả nhẹ ra cho vợ xoa tiếp. Cái kiểu mơn chớn này chính nàng cũng muốn. Tâm điểm của chân nó kích động đến tất thảy các giác quan. Nét mặt chồng giãn dần ra, tan biến đi sự mệt nhọc. Gương mặt thanh tú đã có phần đẫy ra càng làm cho các cơ mặt căng lên, rồi giãn ra. Để người nhìn vào đủ nhận thấy khi nào cần phải dừng tay. Đôi mắt nhắm nhè nhẹ. Đủ để không nhìn nàng đang xoa xoa. Nàng cũng không nhìn vào bàn chân mà nhìn vào khuôn mặt ấy. Nó cho biết mức độ nặng nhẹ của từng cái miết tay. Lần nào chồng cũng được thỏa mãn. Thế rồi ngồi im. Mỗi người tựa vào một bên của bồn tắm. Ngồi như vậy chừng dăm mười phút. Vợ đứng dậy lấy chiếc khăn quấn vào người cho thấm nước. Bỏ ra. Lấy khăn khác quấn lên cho chồng. Thấm hết nước. Lại bỏ ra. Chồng bế vợ vào giường. Chồng ngủ thanh thản. Ngủ đúng đến giờ thì dậy. Vợ mặc quân phục cho. Chỉnh tề. Ra cửa, Đội trưởng đã đợi sẵn. Lên xe đi làm hoặc đi đâu vợ cũng không nên biết. ở lại với căn nhà. Tôi không buồn, không vui. Hờ hững như chưa thấy gì, làm gì. Tôi chưa từng hỏi đang ở đâu? Chồng là ai? Làm gì? Rất nhiều câu nữa mà người khác sẽ hỏi. Tôi đã không cần quan tâm đến cái gì hoặc không cái gì quan tâm đến tôi. Câu đầu tiên hỏi chồng là ở đây có tốt không? - Rất yên bình! - Thế có nghĩa là tốt. Vậy thì tôi còn quan tâm làm gì nữa. Chồng không muốn nói gì. Vì một lẽ ở chỗ khác nói nhiều rồi. ở đây, bất kỳ điều gì cũng không ảnh hưởng đến tôi. Tất cả chỉ bằng cái miệng bát khi tôi nhìn lên trời. Giống cái lỗ khoét trộm trên bức tường đất dày nửa thước nhà tôi khi xưa. Nó được giấu sau tấm vải lanh đen, không ai biết. Lúc mỏi tay tước lanh tôi ghé mắt vào đó, nhìn lên trời. Trên cao ấy vẫn vậy thôi. Trời trắng, xanh, đôi khi đen. Không sao. Một điều cố định sắp đến. Cuộc đời như thế này quả thật là yên tĩnh. Bến đỗ đời tôi có thể là đây. Tôi không thể biết rằng, đời tôi chưa bao giờ ra khỏi bàn tay của người chồng đầu tiên rất đỗi tôn thờ. Hôm nay Đội trưởng đưa đến một người lạ mặt. Suốt sáu năm tôi sống trong một ngôi nhà hoàn chỉnh. Nghĩ rằng hoàn chỉnh như cuộc đời bây giờ của tôi. Vậy mà một điều nhỏ đã không hoàn toàn như tôi nghĩ. Trận mưa đá đêm qua đã làm vỡ một mảnh kính nhỏ. Tôi không biết nó vỡ chỗ nào. Chỉ có Đội trưởng và người thợ thay kính biết. Việc đó diễn ra trên gác hai. Tôi không lên đó bao giờ. Họ làm việc xong thì xuống và ra cửa, đi về. Tôi biết rằng mình phải ở trong buồng. Để người kia hiểu nhà này là của một mình Đội trưởng thôi. Nhưng cái miếng kính vỡ được gỡ ra lại vọt khỏi tay người thợ, lao thẳng xuống cửa buồng tôi. Cửa kính vỡ tan. Anh ta cuống cuồng chạy xuống. Tôi sợ rúm. Nép chặt vào tường. Song người thợ ấy lại chui qua chỗ cửa vỡ mà vào trong để mở cửa buồng rồi đo kích thước cửa để cắt kính thay thế. Giây phút ấy, cuộc đời tôi lại về đúng bàn tay ngày nào. Tôi nhìn người thợ kính. Anh ta nhìn tôi. Bốn mắt như đã rơi xuống rồi mà thân hình vẫn không nhúc nhích. “May à!?” Chỉ mỗi hai từ thôi mà khuôn mặt ấy biến đổi nhiều quá. Tôi thấy cái nét mày thanh tú và mãn nguyện khi lần đầu nhìn thấy tôi ngồi ở mép giường trong buồng nhà chàng. Thấy luôn cả nét mặt sợ hãi khi tiếng hét của bố chồng vang chói tai.. “Tôi là Ngọc Mai” – Tôi tĩnh trí ngay và biết phải nói gì. Đúng lúc ấy Đội trưởng chạy xuống đến nơi. Thất thanh gọi: “Ngọc Mai! Ngọc Mai!” “Đấy! Tôi là Ngọc Mai” “Nói gì thế?” - Đội trưởng ngạc nhiên. “Không có gì” – Tôi nói gọn. Người thợ kính vẫn thần ra nguyên vị trí cũ. Đội trưởng lại hỏi: “Em bình yên chứ?” “Vâng” - Tôi nói nhẹ như đang nằm trên giường. Cũng không nghĩ mình lại nhẹ nhàng được như vậy. Đội trưởng và người thợ kính dọn dẹp sạch sẽ chỗ kính vỡ rồi đi ra. Bảo một lúc sẽ quay lại lắp cánh cửa buồng tôi. Đúng là sau đó có quay lại thật. Cánh cửa mở ra và người đi vào. Chỉ có thợ kính thôi. Lặng lẽ lắp, vừa lắp vừa quan sát tôi. Hờ hững là thái độ tôi xác định để đối lại. Tôi hỏi: “Sao Đội trưởng không quay lại?” “Anh ấy đón Quân trưởng rồi. Tối sẽ về.” “Sao anh vào được nhà?” “Anh ấy mở cửa cho tôi. Làm xong May sẽ đóng cửa”. “Tôi là Ngọc Mai”. “Là ai cũng không sao. Vẫn là May của tôi là được” “Anh xong rồi thì về đi thôi!” “Tôi khát nước, xin một cốc nhé!” Đấy, vẫn dịu nhẹ như vậy. ánh nhìn kia lại ấm áp lắm. Nó bao bọc lấy thân hình tôi, nâng thân nhiệt tôi cao dần. Có lẽ mục đích cuối cùng vẫn là khơi lại tâm lý phục tùng đã có từ những ngày xa xưa. Lời mẹ dặn con gái lại lượn một vòng trên đầu tôi. Là phận đàn bà chỉ có phục tùng thôi. Cha thì chỉ một câu: “Đàn bà nhiều chuyện”. Thế có nghĩa là không được có bất cứ chuyện gì xảy ra với đàn bà. Tính cha vẫn vậy, nói ít và chỉ ra những lệnh ngắn gọn. Người mà tôi đã cắn môi phục tùng những ngày còn tôn kính đang ở đây. Tôi cũng đứng dậy và vâng lời rất ngoan ngoãn, bưng đến một cốc nước. Chàng uống hết, lại bảo tự tay phải rót cho tôi một cốc. Bấy lâu không được yêu chiều tôi rồi. Tôi hỏi thầm: “Sao không thay đổi nhỉ? Sao không khác đi tí nào? Cứ ân cần, chăm chút khi chỉ có hai người?”. Bây giờ tôi muốn phát điên lên với thái độ ấy. Ngày xưa tôi nghẹn ngào trân trọng cái cách cư xử này. Cốc nước đã kề bên miệng rồi, tôi muốn nói điều gì đó, song lại nghĩ có lẽ cần uống xong cốc nước thì mới nói được. ánh mắt biết ơn lại được sửa soạn đưa ra, để rồi nước trôi vào ruột rất nhanh chóng. “Lại đây ngồi đi. Ngồi cạnh tôi một chút thôi.” Cái ghế bành to quá. Chàng ngồi lọt thỏm ở giữa. Đưa tay ra mời gọi nhẹ như con mèo. Đôi chân đã rủn ra, tôi thấy cần phải ngồi. Bước chân đến ghế. Rồi cả người tôi đổ lên chàng một cách thụ động đáng ngạc nhiên. Tôi cũng thấy chân tay chàng rũn ra cả rồi. Chàng lại cố sức vén cho tôi ngồi thật gọn ghẽ trong lòng - chính như cái đêm tân hôn được gần chàng. Thế là tôi trôi tuột về những ngày nửa hạnh phúc, nửa đớn đau. II Sau một đêm đẹp đẽ nhất trong mười sáu năm sống trên cõi đời, tôi tỉnh dậy, nhẹ như chiếc lông đang nằm trên giường. Ngày hôm nay trở đi tôi sẽ vén tóc cao, cuốn tròn trong vành khăn. Hôm qua thôi, tôi còn cặp tóc rủ xuống lưng. Thế là đã khác nhiều rồi đấy. Mẹ dặn rất kỹ rồi. Tôi không được tự tiện về nhà. Bởi đã là người nhà họ Ly rồi. Mẹ bảo phải sống như bà sống ở nhà họ Sùng đây. Đừng làm hòn đá kê chân cột nhà người ta. Mặt trời đã không còn chênh chếch nữa. Chồng tôi he hé mắt, rồi nhận ra điều đó. Chàng ra khỏi giường như một con sóc. Phi qua tôi như gió. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao. Mắt tôi giương lên. Miệng tròn ra một cách lạ thường. Chàng cũng ngạc nhiên về khuôn mặt tôi lắm. “Dậy nhanh! Đi chào bố mẹ!” Đây là câu đầu tiên trong đời chàng nói với tôi. Không giống những gì đã tưởng tượng và khác hẳn thái độ tối qua. Khuôn mặt thanh thản ban nãy giờ thành thảng thốt quá đỗi. Ngay lập tức tôi đã hiểu ra. Chắc bố mẹ chồng đã đợi chúng tôi từ tờ mờ sáng. Đợi một lời chào và chén rượu của con dâu. Đâu chỉ có thế, bề trên nhà chồng chắc cũng ngồi chật cả gian khách mà chờ đợi rồi. Tôi cũng bật khỏi giường nhanh chóng đáng ngờ. Chắc chắn là nhanh nhất trong tất cả các việc tôi đã từng làm. Nhưng khốn khổ thay! Tôi còn phải mặc váy áo, cuốn xà cạp, đi giày vấn tóc, cuốn khăn. Chồng đã xong từ lúc nào và đi lên nhà chính. Chắc phải đến cả năm dài sau đó tôi mới xong trang phục. Điều lo lắng tiếp theo là tôi không hề biết phải đi đến nhà chính bằng lối nào. Vậy thì làm sao có thể đến đó thật nhanh đây. Vẫn phải đi chứ. Cửa mở và bước ra sân. May sao đã có một cô bé. Về sau tôi biết đó là em họ của chồng – chắc cũng đứng đợi từ tờ mờ sáng. Câu nói thoát ra từ đôi môi đỏ thắm và non nớt kia thật trong, nhưng sắc lạnh quá. “Chị theo tôi!” Tôi không nói gì được với em lúc này. Đầu cúi xuống đủ cho đôi mắt nhìn bàn chân thôi. Qua rất nhiều lối đi nho nhỏ, lối có lát đá, lối rải lá và lối còn có cỏ mọc nữa, rồi cũng đến gian chính. Lúc này tôi tự hỏi, sao đường dài thế, làm bẩn hết cả xà cạp mới rồi. Sau này mới biết đây là con đường nhanh nhất để đến gian chính chào hỏi bề trên. Về sau tôi cũng thấy cảm ơn em họ lắm vì đã giúp tôi đi một cách nhanh nhất. Nhưng cũng không thể tránh được những mũi tên mắt khi chúng tôi vừa đến cửa. Những ánh mắt nhọn, nhỏ như mũi kim xuyên từ đầu tới chân. Cả gan bàn chân cũng không tránh được. Dù rất hổ thẹn vì sự muộn màng của mình, nhưng tôi hy vọng chồng sẽ giúp rút hết các mũi tên ra và chàng đã nói luôn: “Đấy, bây giờ mới đến!” Tôi không thể biết sao chàng lại nói vậy. Một mũi tên nữa cắm thêm vào tôi. Cũng không biết còn chỗ nào trên thân thể này cho cắm nữa không. Ông trưởng họ - chắc là vậy, bởi chỉ một mình ông nói, mà sau này tôi biết cũng đúng là vậy. Ông nói đúng một câu: “Cả họ này đã biết cô đẹp đến thế nào!” Tôi không biết nội tình của câu nói này ra sao. Bởi sau câu nói ấy thì chồng tôi lại tuôn ra tràng giang đại hải những lời thuật không thể ngờ được. “Con đã tỉnh rồi. Từ sớm kia. Cô ta lại bảo còn sớm lắm, ngủ thêm chút nữa. Rồi cô ta đòi hỏi thêm một lần nữa. Thế rồi con lại ngủ thiếp đi nên mới đến muộn chứ...”. Chao ôi! Chuyện lại thành ra thế đấy! Sao mà hay, dù rằng tôi không thể nghĩ sẽ được chồng bênh vực thì cũng không đến nỗi thế này chứ. Không khí ngột ngạt lắm rồi, chàng lại càng làm cho đặc quánh thêm. Tôi bước đi mời rượu mà phải chen chân với không khí. Đáng lẽ buổi sáng hôm nay thật vui vẻ. Đôi vợ chồng mới cưới mời rượu từng người bề trên, tặng quà và nhận lại những món quà đẹp đẽ cùng với lời chúc phúc. Rồi lại ăn uống, nói cười mừng nhà có con dâu mới. Tôi không thể bận tâm thêm về chuyện gì diễn ra trong ngày nữa. Cô em họ lại dẫn tôi về phòng. Bỏ mặc chị dâu mà đi về phía khách khứa, họ mạc đang ăn uống, rượu thuốc. Một mình tôi trong căn phòng ngập tràn hạnh phúc đêm qua. Sự ân ái và lạnh nhạt, nồng ấm với băng giá xâm lấn tâm trí và toả ra bao bọc cả căn phòng. Về sau, qua rất nhiều, rất nhiều việc khác nữa, tôi hiểu được chồng mình là người thế nào. Thái độ hai mặt ấy làm tôi ngột ngạt, thở không được xa nữa. Tôi ngày càng xa cách nhà chồng. Ban ngày tôi không được sống. Chỉ ban đêm mới là cuộc sống. Thân thể và tâm hồn tôi được nuôi dưỡng bởi những điều đẹp đẽ bên chồng. Những ân cần của chồng làm nở từng tế bào tôi. “Này, cứ ngồi trên giường nhé. Nước đem đến bây giờ đây.” Sau câu nói này thì chậu nước ấm đã đặt dưới chân rồi. Chàng nhấc từng chân tôi vào. Nước ấm và mùi hương liệu ngấm vào gan bàn chân, chạy khắp người đủ để gương mặt tôi hồng tươi như hoa đào ngày gió lạnh. Vốn dĩ chậu nước này người nhà chuẩn bị cho chàng ngâm chân. Người giúp chàng làm việc này là tôi. Một ngày rong ruổi khắp các nẻo đường sẽ được gột rửa trong tay tôi. Nếu không ai vào thì chiếc chậu ấy nằm dưới chân tôi. Bất chợt có người gõ cửa thì nó lại ở dưới chân chàng. Bắt đầu những động tác mềm mại từ gan bàn chân, lan dần, lan dần hết bàn chân, từng đầu ngón chân rồi lên bắp chân và tất cả thân thể tôi được chàng xoa bóp và thổi vào sức sống mãnh liệt. Vừa dịu nhẹ, chàng vừa động viên tôi cố gắng sống tốt. Những công việc nặng nhọc quá mà tôi phải làm thì chàng thương lắm. Tôi không cảm thấy nặng, bởi ở nhà tôi vẫn làm. Chỉ có điều ở đây mỗi việc đều phải làm nhiều hơn. Củi lấy nhiều hơn. Nước địu nhiều hơn. Cỏ cắt nhiều hơn. Cám nấu rất nhiều. Mèn mén đồ suốt ngày. Ngô xay rào rào đến nửa đêm. Vì nhà họ Ly này nhiều người, nhiều ngựa và lợn lắm. Con dâu không làm thì ai làm chứ? Tất cả mọi việc không làm tôi buồn. Chỉ có một việc làm tôi thất vọng. ấy là thời gian dài cả năm rồi mà không thổi cho cái bụng tôi phồng lên. Dù rằng tôi vẫn mặt hoa da phấn và oái ăm thay ngày càng đẹp. Nhưng đẹp mà làm gì cơ chứ. Sự tự hào về sắc đẹp của tôi đã mất từ sáng hôm mời rượu bề trên nhà chồng rồi. Tôi cứ thầm ước đổi cái đẹp này lấy cái bụng to. Thế rồi cũng được đổi, không phải bằng cái bụng mà bằng cái khác và tôi cũng không phải làm hòn đá kê chân cột nhà họ Ly nữa. Một sớm mai, mắt còn chưa thấy ánh sáng lọt qua đầu hồi thì chồng đã thì thầm vào tai: “Hôm nay mặc đẹp đi chơi với tôi nhé!” Lần đầu tiên từ khi lấy chồng tôi được đi chơi. Tất nhiên phải ăn mặc đẹp rồi. Trong lòng muốn hỏi đi chơi ở đâu? Có lễ hội gì? Nhưng lại không dám hỏi, với lại được ra khỏi cái nhà này, dù chỉ một ngày thôi cũng đủ để tôi vui lắm rồi, không còn bận tâm về điều gì nữa. Chồng cũng đã ăn mặc rất đẹp và đi gọi người chuẩn bị xe. Vừa khi quay lại thì tôi cũng tươm tất. Chàng ngẩn người ra, ngạc nhiên về vẻ đẹp kiều diễm và có phần lả lướt của tôi. Hình như mắt tôi lúng liếng lắm thì phải. Chàng nắm tay kéo tôi vào lòng. Tay vẫn trong tay, chàng dắt nhẹ tôi ra ngoài. Rất ngạc nhiên rằng hôm nay lại dám nắm tay tôi ra trước mặt mọi người, mà hình như ai cũng biết. Bố chồng, mẹ chồng, tất cả các anh chị em ai nấy đứng ở cửa phòng nhìn. Niềm vui sướng và kiêu hãnh lấn át sự hoài nghi về điều lạ lùng nên tôi không còn biết gì nữa. Cái nhìn của mọi người thế nào về sau cố tưởng tượng lại tôi cũng không thể hình dung được. Ra khỏi bờ rào đá nhà chồng, bắt gặp ngay con chim chích bông nhảy nhót vui tươi trên cành đào mảnh mai. Trái tim tôi đang như chú chim ấy, con đường dài hun hút trước mặt như cành đào nhỏ nhắn vậy. Nó đã bất ngờ gãy một cách nhẹ nhàng mà tôi không hay biết. Chúng tôi đi, niềm hân hoan choán ngợp. Những câu nói ngọt ngào, ân cần của chồng làm cho tôi đi biết bao nhiêu đường núi cũng không nhớ nữa. Sau này dù có muốn quay về cũng không biết phải đi thế nào về đúng cái cổng đầy uy lực nhà chồng. Mãi rồi cũng đến một khu nhà. Rộng lắm, cao nữa và bằng phẳng hơn rất nhiều so với vùng tôi từng ở. Sự nhộn nhịp của những người lạ làm tôi ngợp mắt. Không biết bao nhiêu rượu trôi vào bụng. Vẫn nghĩ rằng hôm nay làm đẹp mặt chồng nên uống rượu là sự thường tình. Rượu đã ở với tôi mỗi mùa đông giá lạnh thì có gì là sợ. Vậy mà tôi cũng say. Chồng đưa tôi đến một căn phòng khác. Giường, chăn đẹp đẽ. Tôi hỏi chưa về sao. Chồng ân cần bế tôi lên giường. Âu yếm vào tai: “Tan hội rồi. Nhưng đường xa, tối nay nghỉ lại nhà Trưởng khu, mai mới về”. Chồng cũng say lắm, nhưng vẫn nồng nàn. Lần đầu tiên xa nhà chồng, trong một căn phòng đẹp và chỉ có hai người. Tôi ngỡ có một đêm tân hôn thứ hai đang diễn ra. Bao hiêu nồng nàn trải khắp người tôi, dẫn dụ vào giấc ngủ sâu hơn trời đêm tịch mịch. Giấc đã đẫy rồi. Tôi mở mắt rất tỉnh táo. Không biết là ngày hay đêm, bởi không hề thấy có kẽ hở nào có thể nhìn ra ngoài. Căn phòng lờ mờ ánh sáng. Chồng không nằm cạnh tôi nữa, chắc đã đi việc của mình từ sớm, như bao hôm nào vẫn vậy. Song tôi chợt nhớ ra đây không phải nhà chồng. Một cô gái bước vào. Tôi đồ rằng đó là em họ và chuẩn bị để nghe giọng nói trong trẻo mà sắc lạnh. Cô mặc bộ quần áo mỏng tanh, bó sát người. Tiếng cất lên mượt và êm. “Chị dậy rồi, đi tắm đi”. “Cô là ai? Chồng tôi đâu? Tôi hỏi mà hình như không mong có câu trả lời. Bởi đã phần nào hiểu được mình đang bị bỏ rơi. Quả đúng như vậy, tôi chỉ nhận được một nửa đáp án: “Tôi là Ngọc Liên. Chuyện khác tôi không biết, chỉ biết giúp đỡ chị từ ngày hôm nay. Chị vào tắm nhé, sẽ thoải mái ngay thôi mà.” Giọng nói êm và mượt ấy, mà cũng như ra lệnh. Tôi đã nghe theo một cách ngoan ngoãn. Không còn cách nào khác. Với lại tôi cũng muốn ra khỏi căn phòng này xem đang ở đâu và chuyện gì xảy ra. Ngọc Liên hướng dẫn tôi tắm. Cách tắm lạ nhất từ trước tới giờ. Tất cả trong một căn phong nhỏ mà sạch sẽ, mọi thứ đều trắng tinh và thơm hương hoa, nhưng không phải là hoa. Bảo tôi đi tắm nhưng Ngọc Liên giúp tôi tắm. Cái cảm giác mình đang được người khác rửa cho sạch sẽ quấn lấy óc tôi. Cô cởi váy áo tôi và cởi quần áo mình, điềm nhiên như rửa máng ngựa. Đây là lần đầu tiên tôi ở trần trước mặt người khác, ngoài chồng. Tôi ngượng và xấu hổ mặc dù cô ấy cũng là đàn bà, nhưng mặt tôi và cả chân tay nữa đã đỏ dừ. Không thể tưởng tượng được là tôi lại có thể ở trần và đứng yên cho người khác động vào mình một cách kỳ lạ đến vậy. Chúng tôi ra khỏi phòng tắm. Ngọc Liên mặc cho tôi một bộ quần áo gần giống cô. Rồi chải tóc và trang điểm cho khuôn mặt tôi diễm lệ đến tuyệt vời. Chưa bao giờ tôi thấy mình được đẹp như lúc này. Tay tôi được dắt đến trước mặt một người đàn ông, Ngọc Liên nói: “Thưa Trưởng khu! Chị ấy đến rồi.” “Được! Cô có thể lui!” Một mình tôi ở lại. Cũng không biết nên sợ hay nên mừng, vì người này sẽ cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi không dám hỏi gì, yên lặng chờ câu trả lời mà không cần hỏi. “Vợ ta đẹp quá!” “Vợ?” “à, tức là nương tử ấy mà. Giờ là thời đại mới rồi, gọi là vợ cho văn minh”. “Chồng tôi đâu?” “Hà... hà... hắn đã về đến Huổi Pa rồi cũng nên. Nàng ở lại với ta”. “Tại sao?” “Hắn đã đổi nàng lấy chức Bang tá rồi. Ngu lắm. Thời đại mới rồi, bang tá không còn biết làm gì nữa. Hắn vẫn đổi vợ để lấy cái chức dở hơi đó. Hay lắm! Mở đầu thiên niên kỷ mới ta đã được một món hời. Chức tước mới, vợ mới và rồi sẽ còn nhiều điều mới nữa. Đời ta thế mà hay...” Còn những gì gì nữa, tôi không biết. Đối với tôi lúc này chuyện gì xảy ra nữa cũng thế thôi. Cuộc đời tôi đổi thay xong rồi. Từ giờ trở đi sẽ sống cuộc sống khác. Tốt hơn hay xấu hơn cũng không quan trọng. Mà vốn dĩ cũng chưa có gì là quan trọng vì tôi chưa từng được quyết định điều gì trong đời. Ngọc Liên đến. Nói rất nhẹ: “Chị Ngọc Mai, theo tôi nào!” Tôi vẫn đứng im. Người đàn ông nói lớn: “Cô là Ngọc Mai đấy! Đi đi!” Ngọc Liên kéo tay tôi. Từ đó tất cả những gì tôi biết, làm và phải làm đều do cô dạy. Tôi nghe tất cả mà không nhớ tất cả. Ngọc Liên là một cô gái đẹp. Nhưng khen đẹp để làm gì, chính cái đẹp đã bắt cô phải sống cuộc sống trần gian có một này. Chưa đầy tuần sau, Ngọc Liên bảo tôi phải tự sống một mình một phòng được rồi. Từ nay không còn gì để học nữa. Tôi đã đến lúc phải đem lại lợi nhuận cho Trưởng khu. Người đầu tiên tôi phục vụ là giám đốc một hãng buôn. Chồng Trưởng khu đưa tôi đến một bữa tiệc lớn. Bao nhiêu lộng lẫy, sang trọng rồi cũng bị vùi lấp sau câu tặng ngọt ngào của chồng: “Thưa giám đốc! Vợ tôi rất lấy làm vinh hạnh được phục vụ ngài”. Quả đúng như vậy, vinh hạnh thay, ngay sau đó tôi trở thành vợ giám đốc. Trước mặt quan khách hàng đầu trong thành phố vợ giám đốc ra mắt và cũng ngay sau đó đã lui về “nhà của chúng ta”. Thêm một lần nữa tôi ở trần trước người đàn ông xa lạ. Cảm giác đê tiện dâng đầy căn phòng. Tôi bị tống xuống tận đáy địa ngục khi phải chơi trò mây gió với một người đàn ông. Khi người ta nằm bất động tôi mới dám mở mắt. Nát tan không khí bao bọc tôi rồi. Tàn nhẫn hơn cả mọi điều trên đời cộng lại. Vậy mà tôi cũng trải qua rồi. Bên tai còn vang tiếng ngáy đầy dục vọng. Thi thoảng tôi có gặp Ngọc Liên. Lần nào cô ấy cũng nói tôi tiến bộ nhanh quá, cả khu biệt thự này ai cũng phát ghen lên. Tối nào Ngọc Liên cũng đi khách nhưng không được tiếp những người sang trọng như tôi và cũng không mang về những món lợi lớn cho Trưởng khu. Trong khi rất nhiều chồng khác đang được phục vụ, tôi lại được chuyển sang tay một người nữa để hoàn thành trách nhiệm của một người vợ với Trưởng khu bằng một sự đánh đổi cho thời đại mới. Tôi tiếp Quân trưởng đúng một lần. Cuộc rượt đuổi cả đêm hôm ấy đưa tôi đến tận cùng của đớn đau xác thịt. Quân trưởng bảo chỉ một lần thôi, để ông thử sức mình với nhan sắc bướm ong. Khi là người của ông rồi tôi phải phục vụ nhẹ nhàng, êm ái để làm tan cái buổi đầu quyết liệt này. Vẫn sau đêm phục tùng, như mọi lần, Trưởng khu đến đón tôi về. Nhưng hôm nay, khi cửa mở, đầu Trưởng khu bị dí một họng súng. Quân của Quân trưởng đứng chĩa một hàng súng phía sau Trưởng khu. Ngoài sân binh lính chạy rầm rập. Súng bắn, mìn nổ ầm ầm trong thành phố. Trưởng khu mặt trắng như bột gạo. Quân trưởng ra lệnh sắc lạnh và gọn ghẽ. “Thời của mày đã hết. Mày có hai lựa chọn. Thứ nhất, cả mày và cô vợ mày cùng về thiên giới. Thứ hai mày vào nhà lao, vợ mày sẽ là vợ tao. Thế nào?” Trưởng khu tất nhiên chọn cách thứ hai không cần phải nghĩ. Sau đó tôi thuộc về Quân trưởng. Cuộc đời tôi thay đổi cùng với sự luân chuyển của thời cuộc. Tôi được đưa về ngôi biệt thự, không biết xa hay gần thành phố. Với tôi cũng không có gì là to tát. Vốn dĩ tôi đã không nghĩ nhiều về bất kỳ sự đổi thay nào. Tôi chưa từng được quyết định điều gì thì thay đổi hay không thay đổi cũng không có gì khác biệt. III Cho đến hôm nay, mưa đá làm vỡ kính và vỡ tan cuộc đời tôi lần cuối cùng. Nằm trong lòng người chồng đầu tiên. Người ta đã nhắm mắt từ lâu rồi mà tôi vẫn bị giữ chặt trong vòng tay này. Sau bao nhiêu đổi thay, tôi vẫn trong vòng tay ban đầu. Tôi cũng đang nhắm mắt. Thấy mình lại về nơi đầu tiên, bắt đầu của sự phục tùng... Tôi là đàn bà - nhiều chuyện tức là không được có chuyện. Trong đám tang của mình ( Giải Khuyến khích Cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 2011-2013) (Tặng N.B.P) TRUYỆN NGẮN CỦA UÔNG TRIỀU NVTPHCM- Hắn hơi cúi thấp đầu, khuôn mặt có vẻ đau khổ, nhưng không hẳn là thế. Nếu nhìn kĩ, hắn đang cười một cách thầm kín, một khoảng môi mở rất hẹp. Hắn có niềm vui khi đến đây, nhất định rồi. Hôm nay hắn có lẽ là một trong những người hạnh phúc nhất, trông bước chân hơi rối thì biết. Bước lên bậc thềm không dứt khoát, một sự sung sướng âm thầm. Hắn không vấp vào bậc thềm đâu, dù có sung sướng thế nào vẫn không để lộ cảm xúc, hắn che giấu cảm xúc rất giỏi. Nhưng dù thế nào, ở vị trí này mình vẫn phát hiện hắn là một trong những người vui mừng nhất. Hắn là người thứ nhất, tạm gọi hắn là Phó. Thiếu phụ mặc một bộ váy trùm quá gối màu đen, vừa đủ độ đứng đắn. Một cái mũ đen che mặt viền đăng ten, cũng màu đen để phù hợp với màu váy. Môi hơi nhếch một chút nhưng đôi mắt tư lự. Không biết thiếu phụ vui hay buồn trong hoàn cảnh này. Những cuộc ân ái đã qua, nhưng biết đâu nàng sẽ tìm được cuộc vui hơn. Cái vẻ dìu dịu vừa phải không dự đoán được điều gì, nàng hơi ngước mắt lên, đủ rồi. Vẫn là đôi mắt ấy, không biết nàng đang nghĩ gì. Mình không bao giờ đoán chính xác được suy nghĩ của nàng, cho dù đã nằm bên nàng hàng giờ, đã yêu nàng không biết mệt mỏi, yêu đến kiệt sức thì thôi nhưng một khuôn mặt lành lạnh hợp thời trang thì không thể gọi tên được. Nàng là người thứ hai cần chú ý, gọi nàng là Bồ. Uy nghi, lịch sự. Không ngờ người ấy lại xuất hiện ở đây. Gã ngồi ở mâm trên. Căm giận ghê gớm, đã bao nhiêu lần xảy ra những cuộc tranh luận nảy lửa, chỉ thiếu chút nữa mình và gã nhảy bổ vào đánh nhau như những kẻ võ biền. Gã có quyền của gã, gã có uy của gã, gã có sức mạnh nhất định không thể coi thường. Cũng có lần mình suýt chết dưới tay gã, một người không hề tầm thường. Mà tầm thường sao được, những người như gã không thể tầm thường, suy nghĩ này không chính xác. Đôi mắt gã không buồn tư lự như Bồ, cũng không cười thầm như Phó, không có gì để giấu cả, gã bình thản cũng như lúc nổi xung khi tranh luận, gã ngạo nghễ trông xuống, tương xứng với vị trí của gã. Không nghĩ gã sẽ đến sớm, thế mà gã lại là người thứ ba. Gã là Sếp. Vợ có vẻ buồn thảm hơn cả, nhưng chưa chắc đã phải vậy. Có lẽ Vợ cũng che giấu một điều gì đó, ai biết được. Thông thường những lúc thế này chỉ nhìn qua bề ngoài mà đánh giá thôi, những khăn, mũ, áo và vẻ mặt không tài nào đoán trúng được, nhưng đoán mà làm gì, Vợ thân thiết với mình nhất, che giấu làm gì. Đã từng quát mắng Vợ bao nhiêu lần, Vợ không phản ứng là mấy, đó có phải sự nhẫn nhịn hay hi sinh. Đôi khi cũng đặt dấu hỏi nghi ngờ nhưng không để ý tìm hiểu cho kĩ. Thôi kệ, dù gì Vợ cũng luôn ở bên mình, không biết cũng không vội, mà Vợ có thể đi xa đâu được. Đã bao lần vuốt mái tóc dài của Vợ, hôn lên má và bầu ngực trắng ngần, chưa bao giờ nghĩ Vợ sẽ rời xa, không nghĩ sẽ có người làm thay điều đó. Mà hình như Vợ quay sang nói chuyện với Sếp, để kệ họ tự nhiên, chú ý gì chuyện ấy. Mình thấy hơi ong ong, mắt hoa lên những vệt vàng xanh đỏ như người chóng mặt… Phó đang đi lại trong phòng, hắn lúc nào cũng có sự bình thản dù rằng mình đã quát mắng gay gắt vào buổi trước. Phòng hắn khép hờ nên bộ dạng của hắn, điềm nhiên, nghiêm túc. Bàn làm việc của hắn có vẻ ngăn nắp, khoa học hơn mình. Hắn là dân khoa học chính cống và dù có ghen tị, mình ít khi hạ cố sang phòng hắn. Cái mặt thông minh của hắn hấp dẫn phụ nữ, nhiều chị em đang nuôi ý đồ với hắn. Đàn bà không bao giờ biết điều, mình căm ghét điều này, nhưng hắn đẹp trai và lạnh. Tại sao đàn bà lại thường hay thích kiểu người đó, đám nhân viên có vẻ cũng như sợ hắn hơn. Phải tìm ra lỗi của hắn, chờ xem… Bồ thì ngược lại, mỗi khi ôm vào lòng, nàng chẳng tỏ ra có một tí trí tuệ nào hết, nàng chỉ làm đàn bà và làm tình cho giỏi thôi. Nàng ném sạch những thứ mĩ miều khoác trên người và có vẻ nàng cũng chẳng quan tâm lắm. Mình quan tâm, nàng rên rỉ sung sướng như một con mèo đang được vuốt ve. Mình cũng từng ngạc nhiên, làm sao nàng lại có những cử chỉ, hành động như thế. Nàng thông minh, lạnh lùng nhưng lúc ấy trông nàng thật ngu ngốc và khổ sở nếu như mình không làm cho nàng phát cuồng lên. Trước khi gặp nàng, mình nghĩ đàn bà thông minh thì làm tình tệ lắm… Với Sếp thì chẳng phải giấu làm gì, không hợp Sếp. Gã đã chỉ vào mặt mình rồi, nhiều lần, bây giờ nghĩ vẫn còn giận. Anh thì biết gì, anh chỉ nói những lời chống đối và phản bác thôi, nhiệm vụ của anh là nghe và thi hành. Sếp nói với mình trong các cuộc tranh luận. Ai mà chịu đựng được những điều ấy, cũng từng tỏ ra nhường nhịn, nhưng Sếp càng lấn tới. Mình “pháo” lại thế này. Anh tưởng khi nào anh cũng đúng à, đó là ý kiến cá nhân thôi, anh không nhớ vụ lùm xùm trước đây, vợ anh đã đến cơ quan làm ầm lên…Thôi ngay, không được đưa vấn đề nhân thân vào trong công việc, bệnh hoạn này từ đâu ra? Sếp gầm lên. Nhưng nhắc lại càng thêm buồn, vì nhân thân bao giờ cũng ảnh hưởng công việc, đó là quan điểm của Vợ. Vợ đi làm về, bao giờ cũng thế, nàng toát ra một vẻ thương khó. ít khi Vợ làm cho mình bực dù đôi khi nàng cũng tỏ ra cứng đầu. Vợ có phải là người tốt không, tất nhiên rồi, mình không nghi ngờ phẩm hạnh của nàng nhưng người ta từng nói rằng người càng ít tỏ ra bị nghi ngờ thì chính là người đáng nghi ngờ nhất, nếu chiếu theo quan điểm này thì chắc cũng có những điều phải bận tâm. Nhưng nếu nghi ngờ thì nhẫn tâm quá, mình chưa tìm ra nhược điểm của Vợ, nhưng càng không có nhược điểm, càng đáng nghi ngờ, không nghi ngờ gì thì vô lí quá. Nghe thấy câu chuyện của họ, đầu óc cứ váng vất… Sếp: Dạo này vẫn đều đều thế chứ? Vợ: Vâng, vẫn thế, thông tin anh nắm được mà. Sếp: Thì chẳng nhẽ không hỏi gì trong tình huống này. Vợ: Em thấy mệt mỏi, nhiều việc phải lo quá. Sếp: Sẽ qua đi thôi, nhanh thôi mà. Vợ: Em hơi sốt suột. Sếp: Anh cũng thấy thế, thời gian lâu quá… Vợ: Anh đứng xa ra một chút… Sếp đi ngang qua Vợ, chuyện vô thưởng vô phạt chẳng có gì bí hiểm. Chắc không ai nghĩ rằng mình sẽ nghe thấy, nhưng mình lại nghe được. Khả năng đó đến từ đâu, từ hôm qua chăng. Chưa kiểm chứng nhưng ngạc nhiên là chẳng thấy bất ngờ gì hết, nghe được những điều họ nói, tất nhiên họ chẳng nói thầm, nhưng giữa một khối tạp âm thế này, lọc được những lời ấy cũng thấy lạ. Hơi buồn, phảng phất nghi ngờ, những khối xanh vàng đỏ đen đang bay lượn vòng tròn… ở phía bên kia, Phó cũng đang với chuyện với Bồ. Bồ nâng vành mũ lên một chút, ở tầm này Bồ trông thật nhục cảm, chính vì vậy mà bao nhiêu sức lực và không ít tiền bạc mình đã dành cho Bồ. Nàng xứng đáng nhận điều đó, một người đàn bà như thế, ai mà chẳng muốn cho đi ít nhiều những điều mình đang có. Phó: Em thấy thế nào? Bồ: Hơi hụt hẫng một chút, có gì đó bâng khuâng. Phó: Bâng khuâng? Bồ: Anh đừng nhẫn tâm thế, không bâng khuâng sao được. Phó: Trang phục của em rất hợp. Bồ: Không phải khi nào cũng có cơ hội dùng đâu, bộ này còn mới quá. Một năm chỉ dùng được vài lần. Phó: Thôi chú ý vào đi, có người để ý đấy. Bồ: Có ai đâu, họa chăng chỉ có… Nhắm mắt lại, cảm giác không được dễ chịu lắm nhưng như thế tai thính nhạy hơn và đôi mắt tinh anh lạ thường. Những vầng đỏ xanh, vàng chen lấn tiếp tục quay tròn, lặn vào trong khối màu hỗn độn ấy bao nhiêu những mảnh vỡ rời rạc… Vợ ở nhà, hình như đang hát một bài hát quen thuộc, môi mấp máy theo nhạc. Hẳn phải rất vui Vợ mới có điệu bộ như thế. Đúng giờ, ngoan ngoãn và chỉn chu như một con mèo được huấn luyện cẩn thận. Nói thế thì hơi quá với nàng, nhưng bằng ấy điệu bộ, thật đơn điệu sau nhiều năm, tìm từ nào cũng chẳng thích hợp. Không có gì khác biệt, món ngon ăn mãi cũng chán. Khi nàng hát chính là vẻ bất thường, chưa bao giờ có mặt mình Vợ lại có những hành động ấy, chỉ khi không có mình nàng mới thế, nhưng nhìn vào đôi mắt thì không thể giận thêm điều gì. Nàng sẽ ôm mình và dịu dàng những câu hỏi quen thuộc, những vuốt ve tình tứ máy móc và lập trình. Mình không thể làm chuyện ấy thường xuyên vì không đủ sức và thấy có lỗi khi không biết nàng vui vì chuyện gì. Những vết son hồng, nàng thích son hồng, điều ấy ít ra cũng gây được thiện cảm với người trước mặt. Vợ giỏi đứng trước công chúng. Người lạ chẳng mấy khi biết nàng là thế nào, nàng có khiếu “diễn” bẩm sinh. Thôi, ai cũng phải có một nhược điểm nào đấy chứ, không nên hẹp hòi quá… Có tiếng quát nhau to, hóa ra là Phó. Phó đang to tiếng với một nhân viên, ừ đấy chẳng chính là lỗi của hắn sao. Làm sao hắn lúc nào cũng tỏ ra điềm tĩnh và che giấu hết mọi cảm xúc được, hắn đang tức giận, nước bọt đã có thể bắn tới mình. Hắn sẽ không hoàn toàn nhũn nhặn và bình tĩnh được, một người có vị thế, cũng có thể coi đấy là khuyết điểm. Trong cuộc họp cơ quan đã có những góp ý thế này. Đối với nhân viên cấp dưới không phải lúc nào chúng ta cũng quát nạt, dù rằng nhiệm vụ của họ là nghe và thi hành (mình đã nhiễm lời của Sếp), như thế có cảm giác như không tôn trọng đồng nghiệp và ai cũng biết rằng chúng ta đứng ở đâu, chẳng qua là nhiệm vụ thôi. Ai mà chẳng từ những người bình thường đi lên và biết đâu một trong số chúng ta lại sẽ trở về vị trí ấy. Nghe những lời ấy tất nhiên có kẻ phải tái mặt nhưng người ấy, Phó, chỉ tái trong một nửa giây thôi, chịu đựng như hắn không tầm thường. Đôi mắt hắn nhìn xuống một giây và ngẩng lên, chẳng có chuyện gì cả, sống là phải thế, đôi mắt hắn bảo vậy. Hắn luôn thông minh hơn mình, kể cả trong lúc hắn phải chịu đựng, hừm. Bồ tự trút bỏ quần áo, đáng nhẽ mình phải làm giúp nàng điều ấy nhưng không, Bồ hiện đại và chủ động. Trí thông minh của nàng dường như mất hết khi nàng đến với đàn ông, hay với riêng mình. Hình ảnh bên ngoài sang trọng, nền nã. Những người như thế, đố ai dám bảo là không đứng đắn, mà đứng đắn còn vậy thì người khác thế nào. Mình đã từng phàn nàn (hay trách móc) nhưng nàng bảo. Anh vất cái bộ mặt đạo đức ấy đi, những lúc thế này còn ra vẻ đạo đức, chán lắm. Nghe những lời ấy thì phát bực nhưng ngay tức khắc nàng lại cuồng si và lăn lộn khiến cho mình quên ngay. Mình không tài nào kiểm soát được nàng, đàn bà luôn có những thế mạnh của họ, nàng thuộc loại này. Sếp ngồi trước mặt, đúng ra phải đảo lại, mình ngồi trước mặt vì Sếp gọi mình vào. Hàng lông mày rậm nhếch lên một chút, sắp sửa có một cơn bão tố đây nhưng không phải lần nào dự đoán cũng đúng. Hơi khác một chút. Anh uống nước đi, trà ngon đấy. Một câu nói cần cảnh giác vì đó không phải thói quen của Sếp. Tôi đang có nhiều việc phải làm, mong anh nói rõ luôn…Không phải khi nào cũng cần nóng nảy như vậy, tôi biết có những lúc hơi to tiếng, nhưng vì công việc thôi, anh đừng để bụng, ta cứ làm một ấm trà ngon đã. Trà ngon, đúng vậy, có chui vào thòng lọng thì cứ uống một ấm trà đã, vị chát hương đậm, thật dễ chịu. Việc là thế này, đơn giản thôi, tôi nói ngay đây, khi có phiếu tín nhiệm gửi xuống, mong anh ủng hộ, việc này có liên quan tới đôi bên, từ giờ chúng ta nên hợp tác tốt… à, cũng có lúc Sếp phải hạ mình, không phải khi nào cũng “bề trên” được. Nếu chiều nay anh không bận, mời anh đi “vui vẻ” một chuyến, có những thứ rất lạ mà không phải khi nào mình cũng biết được, anh ạ. Và mình đã đi cùng gã. Bầu không khí đậm đặc nhưng có vẻ rõ ràng hơn, có không khí hơn, mùi đặc sệt làm cho mình ong ong như cà phê uống đặc. Đám đông nhộn nhạo nhỏ to, đang tuần hoàn theo một định hướng nào đấy. Để ý qua loa, nhiều người mình chẳng nhớ hết mặt hoặc chẳng muốn nhớ, những lời họ nói với nhau. Sếp: Đêm qua em ngủ được không? Vợ: Anh lạ nhỉ, ngủ sao được những lúc thế này, đầu óc, tay chân rã rời. Sếp: Một chuyến đi xa coi như là bù đắp hao mòn. Vợ: Phải qua đoạn này đã, vội gì, từ giờ có khối thời gian. Sếp: Em có nhìn thấy nhiều người quen không? Vợ : Một số đã đến, cũng để xem họ phản ứng thế nào. Sếp: Cứ y như thế, đừng thay đổi gì cả, đừng nghĩ ngợi, cứ thế mà theo công việc. Tiếng rì rầm và có những tiếng không phải tiếng rì rầm, gọi sao cũng được, thông thường mình sẽ chẳng để ý và nghe thấy đâu. Một khối âm thanh hỗn độn, bao giờ cũng thế hay chỉ những dịp đặc biệt mới xuất hiện. Sếp và Vợ đứng một khoảng cách không xa lắm, cả những người khác nữa, dường như vẫn trong một trật tự có thể kiểm soát được. Bồ và Phó ở một vị trí xa hơn nhưng trang phục, bộ dạng khó lẫn đi được, không mất công để dõi tìm. Âm thanh thế này chỉ nghe một lần, vướng vít để qua một bên, mình chỉ hướng tới những chỗ cần thiết. Một vài chỗ ồn ào thái quá, số khác im lặng đáng ngờ và đám còn lại thì khó phân biệt ồn ào hay im lặng. Dù sao mình vẫn chú ý đến Bồ và Phó. Bồ: Ngẫu nhiên nhỉ, mình gần như là đến cùng nhau. Phó: Anh dự đoán rồi, cũng có giờ phút này thôi. Bồ: Anh hồi hộp không? Phó: Hồi hộp gì? Bồ: Tối nay ấy. Phó: Vội gì, công việc xong đã. Bồ: Em thấy hơi sợ. Phó: Ôi dào, thì cũng thế thôi, nếu không thì gọi điện cho anh… Một khoảng gần như tĩnh lặng tuyệt đối bên tai giữa những làm ràm, càm cỡ. Không thấy hết khuôn mặt mọi người, người nọ lẫn vào người kia, váy đen đi cùng váy sọc, sơ mi đi với áo phông, quần bò đi với quần thô, complê và không cavát, nhiều râu đi với ít râu, trang điểm hoặc không trang điểm, già nua hoặc trẻ trung, xe máy, xe hơi… Một khối đó hơi đùn đẩy trong trật tự, chắc ai cũng có tâm trạng riêng, đọc làm sao hết, chỉ có người thân may ra biết được, mà người thân chắc gì đã đoán được. Ai biết họ vui hay buồn, có thể họ chẳng vui hay buồn, cũng chẳng nghĩ ngợi gì cả, một việc thông thường, trách nhiệm hay nghĩa vụ nào đấy mà có khi cũng chẳng phải thế, nhìn thôi, xem thế nào. Nhìn vào mặt người thì nghĩ thế nhưng còn phấn son, râu ria, quần áo, mũ tóc che đi, có bóc trần được tất cả thứ ấy đâu mà thấy. Mà bóc trần cũng chưa chắc đã biết được, đã bao lần làm chuyện ấy với Bồ thấy vẫn thế, chỉ có khoái cảm chứ hòng suy nghĩ gì, mà ai lại điên suy nghĩ vào những lúc ấy. Thế thì chịu, một khoảng mờ mờ, dâng dâng trước mắt, rồi sẽ nhẹ bẫng trong veo mà tiến, như những đám mây, mà thành phố đâu nhìn thấy mây, chỉ cắm mặt, cắm cổ xuống đất đi cho nhanh, khỏi vấp, đi đâu ra khỏi những đám mây ấy, giờ mới thấy giãy đành đạch cũng chỉ quanh quẩn dưới những mây đen, mây trắng thôi. Mình thấy một đám mây tuôn như khói… Phó nhẫn nhịn như vậy. Hắn làm sao học được đức tính đó, mình gay gắt, hù dọa mà khuôn mặt hắn vẫn trơ ra. Chẳng bực tức hay phản ứng thái quá, làm gì được. Mình hiểu, hắn buộc phải thế, còn cách nào hơn. Nếu không, mình cũng tống hắn ra khỏi chỗ hoặc hắn cũng chẳng yên thân được, thấy hơi tội lỗi, một cái gì đó hơi quá đáng nhưng ở vị trí mình ai cũng làm thế thôi. Hắn thông minh và sáng, nhưng hắn phải nghe mình, mọi người dường như yêu hắn hơn, cả đàn bà nữa. Đàn bà. Chính Bồ cũng nhớn nhác khi lần đầu gặp hắn, đàn bà thông minh cũng chẳng ích gì. Một khuôn mặt đẹp thì che được cả, hắn có ngấm ngầm chống đối, mình biết sao được, nếu mình là hắn thì sẽ sao nhỉ, u hu… Bực mình, chẳng mấy khi lại có chuyện đó. Hay Vợ đã biết được chuyện gì. Làm sao mà biết được, kín như bưng, không nhắn tin, không dấu vết, chỉ Bồ và mình biết. Hay bằng linh cảm đàn bà, cũng có thể, nhưng phải có bằng chứng chứ. Những lời sẽ không dễ vào tai chút nào. Vợ ngồi trước mặt, ngấn nước, thư từ ném ra sàn, khung ảnh treo trên tường hạ xuống. Hay ho gì mà âu yếm, giả dối! Hay ho gì mà quà cáp, che giấu! Đạo mạo làm gì, chỉ che mắt thánh thôi! Ai mà chả biết chuyện đấy, chỉ có tôi là người cuối cùng thôi. Ngu dại, đần độn. Còn lời nào để nói nữa? Tôi muốn chết, tôi muốn xa lánh các người. Nôn ọe. Nôn ọe, ọe...Đau, buồn. Không ngờ lại ra thế, đàn ông ai chẳng thế, tưởng chỉ cho vui thôi, ngờ đâu kết cục thế này, dăm phút hối hận ít ỏi, nhưng mà đau thật, có khi tan nát mất… Sếp bình thản. Chuyện tôi nói với anh khi trước ấy, phiếu tín nhiệm ấy. Anh hợp tác, ta lại làm ấm trà ngon. Những lời ấy, Sếp bớt trịch thượng nhưng không giấu giếm hết được. Nghe lời và tuân thủ, dần dần cũng quen thôi, mình đã học vài điều từ Phó, đối đầu ích gì. Cũng phải thích nghi, phải sống cắm đầu, cắm cổ. Vị trí của anh sẽ không thay đổi, yên tâm. Anh cứ yên vị chỗ đó. Sếp vuốt tay trên mặt bàn, nhẫn vàng lấp lánh, trần nhà không có một tí mạng nhện nào nhưng vang và rỗng. So với mình, phòng của Sếp luộm thuộm hơn, có thể do chỉ số IQ? So với Phó, mình càng luộm thuộm. Đối chiếu ba người sẽ có một dạng bất phương trình kiểu này: IQ của Phó > IQ mình > IQ của Sếp. Nhưng so sánh làm gì, áp dụng ở đâu. Đường đi ngược, thôi thích nghi đi. Chậc. Một người nữa phải băn khoăn: Bồ, Bồ có đúng là thông minh, làm tình giỏi? Những thứ mà phụ nữ hằng khao khát, mình coi là như thế, sở hữu như vậy còn băn khoăn gì nữa, nhưng băn khoăn vì tính hợp pháp của sự sở hữu ấy. Bồ không nói ra, Bồ không đòi hỏi, mỗi khi xuất hiện Bồ chỉ thể hiện một trong hai “phẩm chất” ấy. Như vậy là rất giữ mình hay “tùy nghi đối tượng”, mình nắm bao nhiêu phần trăm “cổ phần” tài sản, là giá trị “thực” hay “ảo”. Khi làm tình thì nàng ngu ngốc quá, tính tiền thì nàng quá thông minh. Phân thân. Thôi mình cứ bằng lòng với mình đi, ai may được sở hữu phần nào đấy, than vãn làm gì. Hình như ánh mắt của nàng, đâu đây. Bồ lại dướn cái viền mũ đen lên một chút để nói chuyện, một chốc nữa sẽ phải hỗn loạn, ầm ĩ lên trong một hỗn loạn có trật tự theo kịch bản. Ai cũng phải làm thật khéo. Bồ: Em thấy ngột ngạt quá, không thể chịu đựng được lâu hơn nữa. Phó: Thôi cố đi, sắp đến lúc quan trọng rồi, nếu không có vẻ tệ bạc quá. Bồ: Em không quan tâm đâu, đằng nào cũng tệ rồi, nhưng mà thôi, cũng chẳng xấu đi được. Phó: Vụ này có công của em đó. Bồ: Không ác đến thế, em cũng không ngờ… Phó: Ai mà ngờ được, anh thì gặp may. Nếu không biết đợi đến bao giờ. Bồ: Anh giỏi nhẫn nhịn lắm cơ mà. Phó: ừ, nhưng cũng đến độ thôi, thêm chút nữa chắc anh không chịu nổi. Bồ: Đưa tay cho em, không phải giấy đâu… Phó: Em liều quá, ai lại lúc này… Sặc sụa, có người ho lên. Không gian hẹp lại, ai xa ai gần, vòng trong vòng ngoài đều thấy rõ hết, đôi mắt xa lại gần hoặc lâu lắm rồi không gặp. Không trách móc, nếu mình thế, cũng thế thôi, ai cũng có tâm trạng và nỗi khổ chứ, kệ đi. Thứ không khí ai chẳng trải qua, ngột ngạt. Đằng kia Sếp vẫn nhỏ to. Sếp: Thực ra cũng hơi tiếc, cảm giác không rõ ràng. Vợ: Là thế nào? Sếp: Anh đã định được khuôn khổ, theo hướng của anh. Vợ: Ai? Sếp: Còn ai nữa! Vợ: Anh định thế nào? Sếp: Không thể tính ngay được nhưng mọi người sẽ có lợi. Em cũng thế. Vợ: Lợi thế nào? Sếp: Mỗi người sẽ tiến thêm được một bước theo tuần tự tăng dần. Vợ: Còn gì nữa? Sếp: … Mình không nghe rõ câu này. Một thứ sền sệt bao bọc như trong vỏ trứng gà, bức bách quá, cần thoát ra khỏi cái vỏ trứng này, những âm thanh lâm râm, châm vào trần nhà, bò qua quàng trên mặt đất như những con rắn nhỏ, những vòng màu lam đang lan tỏa, muốn hắt xì hơi mà không được, tiếng động sẽ làm mọi người giật mình. Vương vấn chi nữa, trách móc thêm vô ích, đã lọt vào vòng xoáy thì cứ thế cuốn đi. Sắp đến giờ rồi, nhìn thấy và nghe thấy vừa đủ, phút vướng víu thêm mệt mỏi. Mọi người đã chờ đợi phút giây này, vô ý hoặc cố tình. Thanh thản không trút thêm ái ố, hoan lạc, bạc bẽo. Đúng giờ. - Đóng nắp ván thiên, hạ di ảnh xuống! Nghi lễ chuẩn bị khởi tiến. - Tiếng chủ xướng vang lên Phó, bồ, sếp và vợ bỗng dưng xếp thành một hàng không theo trật tự quy định. Trong đám tang của mình. Người chợ Kệ ( Giải khuyến khích Cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 2011-2013) TRUYỆN NGẮN CỦA DƯƠNG ĐỨC KHÁNH NVTPHCM- Cho đến thời buổi này cái chợ làng Thanh vẫn đông một khúm lèo tèo dưới tán cây sen cổ thụ vào buổi chiều xế. Vẫn làng tàng, xập xệ như cái tên gọi xưa nay: Chợ Kệ!. Cái tên chẳng ăn nhập gì đến tên làng, tên đất nhưng nó gắn liền với bản chất xuề xòa, nhân hậu của những lớp người quê bao đời nghèo khó. Người làng kể, thuở trước ven sông Bồ cứ hai ba làng mới có được cái chợ. Chợ làng Thanh đông đúc cũng nhờ người làng dưới làng trên. Một hôm có người đàn bà làng Hạ mang thai sắp đến ngày sinh nở, đang giữa buổi chợ chiều sắp tan bỗng đau trở dạ. Vật vã, rên la đến ngất lịm! Cả chợ xúm lại. Là đàn bà với nhau, cũng từng qua lần đi biển mồ côi nên ai cũng cảm thấy quặn lòng. Thế là mỗi người một tay, kẻ giúp chăn người giúp chiếu. Cuộc vượt cạnnơi góc lều quán chợ cũng mẹ tròn con vuông! Chuyện phúc đức là vậy nhưng về sau có người ác mồm ác miệng rằng: Đàn bà làng khác đến đẻ rơi đẻ rớt giữa chợ làng mình là điềm xui, điềm gở! Có ngày cũng “chợ tàn làng mạt!”…Mụ Thợ Rèn – người ra tay bà đỡ bất đắc dĩ hôm ấy thì ngoe nguẩy xua tay: “Ôi dào! Ông trời có mắt, mình cứ ăn ở cho phải, ai nói chi mặc kệ! Cứ “kệ” là qua hết!”. Rứa là chợ Kệ có tên từ đó. Chẳng biết ông trời có bao giờ trông thấu, nhưng lòng dạ Mụ Thợ Rèn và những câu chuyện quanh cái sự “kệ” của mụ thì mấy đời người làng cũng còn nhắc. Cái lò rèn – cơ nghiệp một đời của vợ chồng mụ là mái tranh cũ kỹ, xiêu vẹo trên mỏm đất đầu bến chợ. Ông Thợ Rèn người gầy gò, chậm chạp, nhưng bù lại, mụ to cao, chắc nịch, lanh lợi khó ai bì. Mụ ngồi trên sạp tre cao nghệu, lừng lững như một nữ tướng, hai cánh tay phì phụt hai ống bễ đen sì như hai nòng đại bác trong Thành Nội. Mỗi bận sắt chín đỏ, ông gắp ra đặt lên đe là mụ nhảy xuống, thủ búa tạ. Nghề cả đời quen rồi. Cứ nhìn mụ vã mồ hôi hì huỵch giáng một loạt mấy chục búa rúng rính mặt đất, đàn ông sức vóc cũng phải ngao ngán! Người giỏi giang thường nặng tật. Mụ có máu mê coi đua ghe – là một cây cổ vũ hăng nhất làng. Cứ hễ đến dịp làng mở hội đua ghe là có phải rèn gươm cho vua thì mụ cũng dẹp, cũng kệ! Và bất kể gần xa, làng nào tổ chức đua, có ghe làng Thanh tham dự là có mặt mụ. Mụ thức nửa đêm, nấu cả mủng xôi bưng theo. Tới nơi mụ phân phát cho những tay đua người làng người một vắt to tướng trước giờ vào cuộc. Mụ đứng trên bờ, mỗi bận ghe làng lướt ngang là mụ lao xuống nước, cầm nón vừa tát vừa “Dô khoan la hè! Dô khoan la hè!”. Bận nọ ở bến Lở làng Hạ Lang, mụ say sưa hô tát, khum lên khum xuống một hồi, cái quần lĩnh lưng vận sũng nước, tuột luốt! Mụ mặc kệ!. Nước sông Bồ thì trong leo lẽo. Đàn ông trên bờ vừa la vừa cười hô hố! Mụ cứ tát, cứ hô cho tới khi ghe làng qua khỏi, mụ quăng theo luôn cái nón móp méo tơi tả rồi mới thủng thẳn, kéo quần lên!... Lần ấy ghe làng về “nhứt phá”, giựt luôn giải “tam liên thắng, cờ trống tưng bừng mặt sông! Mụ vừa đi vừa chạy trên bờ, tay vung lên trời: “Nhờ tau đó! Nhờ tau đó!” Có lẽ thường “mặc kệ cái sự đời” như thế nên mụ mới đặt cho người con trai duy nhất tên là Tùy. Người làng gọi là Tùy “say”. Người chú thấp đậm, tính khí cũng “tào lao xịt bộp” giống mụ mười mươi, chỉ khác là sau này chú không theo được nghề thợ rèn. Hồi ấy làng nước bom đạn triền miên, trai tráng phải chui nhủi trốn tránh nạn quân dịch. Một lần bị bọn cảnh sát bao vây, bí quá, chú nhảy thỏm vô ngồi trong lu dú chuối. Biết bọn chuyên ăn bẩn, tay chú kẹp sẵn tờ bạc một trăm giơ lên. Một thằng giở lu liền chụp ngay tờ bạc rồi giả bộ chửi đổng, kéo cả bọn lùng sục nơi khác. Lần đó chú thoát. Nhưng cũng không ít lần chú bị bọn chúng rượt đuổi, chạy trối chết! Về sau sẵn mấy sào ruộng ông bà để lại, chú dựng lều đêm ngủ luôn ngoài đồng. Rứa mà được lắm việc. Ban đêm giữa đồng có thể nhìn hút tầm mắt tận chận chân núi, đêm nào trực thăng cũng thả pháo sáng quanh các căn cứ Mỹ. Chú thức cả đêm, ngồi đoán tọa độ những chiếc dù rơi. Mờ sáng chú cắt đường đồng, và dường như mười chiếc dù rơi xuống đồng làng là vào tay chú hết bảy!. Nhà chú mền mùng các thứ toàn bằng vải dù. Thằng cu Rớt con chú cũng mặc tà lỏn bằng vải dù, thấy cả chùm “ớt cà” lồ lộ. Chú còn mấy cái để dành lúc xóm giềng có đám tiệc, chú cho mượn che rạp. Hôm đạp lúa xong, chú đem cái dù mới tinh bung ra đậy luôn đụn rơm mới xây. Ui chao, nó vừa vành vạnh, có sẵn cả cái lỗ tròn trên chóp vừa tròng vào đỉnh trụ, cứ y như là nước Mỹ sản xuất chỉ cho chú đậy đụn rơm không bằng!. Hàng xóm nhìn qua kêu: “Chà, Tùy chơi sang như Mỹ hè!. Chú đứng phủi phủi tay, giọng tưng tửng: “Chiều qua, tui mới “đánh” một cú tê-lê-phôn khẩn cấp cho tụi Mỹ: A lô, trời sắp mưa dầm rồi, gởi cho tau thêm cái nữa đậy đụn rơm chơi! Rứa là sáng ni tui ra đầu cồn…nhận hàng! Hề hề...” Mấy bữa trời lụt, dân chợ ít ai sẵn xuồng ghe, phải lội nước lở cả chân. Còn chú thì ung dung ngồi gọn lỏn trong chiếc “ca-nô” bằng cái vỏ xốp đựng quả đạn quả bom gì đó của Mỹ, có mũi có lái đàng hoàng. Tay chú sai sải cây dầm đôi bơi ra gếch lên nền miếu góc chợ ngồi rung đùi uống rượu tỉnh khô!...Bác Đới thợ hàng mã ngồi trong nhà ới ra: “ Bộ mới “đánh dây thép” nữa hả Tùy!” – “Ơ… cái ni là hắn “gởi trực tiếp”. Chiều qua tui đang đứng giữa đồng…một thằng L 19 bay ngang, tui chỉ tay xuống ra dấu: Lụt! lụt! Rứa là hắn bay vòng lại, thả xuống! Hề…” Cái nền miếu cạnh cây sen góc chợ là chỗ tụ tập chơi đùa của lũ con nít. Chú thường ra đó ngồi uống rượu, chú nói: “Ngồi đây, cảnh sát có ụp tới cũng nhiều đường mà chạy!”. Nói vậy chớ tới lúc ngà ngà, chú hát hò một hồi, gió sông thổi lên hiu hiu là chú lăn ra ngủ khò. Trời có sập chú cũng kệ!...Ruộng mấy sào, cày bừa xong là giao sấp cho vợ con, say sưa nhưng cũng chẳng phiền hà chi ai. Cứ mỗi chuyến đò là có mấy o bán rượu làng Phước Yên, Hương Cần gánh ngang qua. Mối quen cả. Mấy o cứ việc đong đầy bi-đông thoải mái cho chú, rồi tới mùa, chú đong lúa đong nếp lại cho mấy o nấu rượu. Rứa là huề! Ở làng thời đó người rượu chè say sưa như chú cũng hiếm. Đàn ông trai tráng lớp thoát ly theo Giải phóng, còn lại cũng bị bắt quân dịch cả. Mấy lão nông thì chiều về thường ghé quán mụ Gái, móc đồng bạc kẽm, đứng tợp vài ly là vác cày vác cuốc về nhà, chẳng ai uống kiểu “đong lúa” như chú. Đến chiều nọ, chú đang ngồi khề khà vừa nhìn bọn trẻ chơi túm rễ sen đánh đu, bỗng từ đàng xa lù lù…một thằng Mỹ, tay cầm chai rượu bước chệnh bước choạng, miệng như đang hát nghêu ngao. Lúc đầu tưởng tụi lính, chú tính nhớm cẳng chạy. Nhưng bọn trẻ thì biết rõ, đó là thằng Mỹ “say” trong cái tốp lính Mỹ “chạy làng”!... Đêm căn cứ Ti-bon trên núi Mệ bị pháo quân giải phóng tấn công, cả trái núi đỏ lựng như hòn than khổng lồ...Mờ sáng, cái thứ bay dạt về đồng làng không phải là những chiếc dù mà là…một tốp lính Mỹ te tua xơ mướp bị đẩy xuống từ một chiếc trực thăng! Chúng la ó hoảng loạn, xí lô xí la như bồ chao bể tổ một hồi rồi thất thểu kéo nhau vô náu trong nhà thờ hoang. Chiều nào bọn trẻ ra cồn thả diều cũng gặp những cái đầu vàng cháy gục xuống rũ rượi, mũ sắt úp xuống cỏ, ngồi ôm súng ngóng phía góc trời. Lúc sau chiếc trực thăng liệng tới, thả xuống mấy thùng vuông. Cả tốp xúm lại, lao nhao quanh một thằng cầm một xấp dày những bức thư…Những bàn tay to bè run run từng tấm ảnh áp vào ngực, rồi hôn lấy hôn để, mắt mũi giàn giụa…Có thằng đang đọc thư bỗng bật lên quay quắt như điên dại…Những chai rượu được bật nắp, tu ừng ực…Rồi từng loạt đạn điên loạn bắn xối xả lên trời lẫn tiếng gào thét. Từng gương mặt đỏ ngầu vằn lên giận dữ như đang nguyền rủa một ai đó… Bọn trẻ quen mặt thằng Mỹ “say” bởi mỗi lần từ ngoài cồn kéo về, hắn thường lếch thếch sau chót, chẳng hàng ngũ chi cả. Mặt mũi lơ lơ láo láo như thằng hề. Cái mũ có hình con ó trắng hắn đội quay ngược đằng sau…Mấy bữa nay hắn thường lang thang dọc đường làng, nghêu ngao những bài hát tiếng Việt như con nít nói ngọng. Bọn trẻ cứ chạy theo cười rần rần! Hôm đi ngang vạt mía hắn bẻ một cây rồi cầm cả cây mía dài ngoằng, cạp ngang ngấu nghiến khiến bọn trẻ cười nôn ruột!... Lúc hắn khệnh khạng tiến lại gần, bọn trẻ cười rộ lên. Chú Tùy cũng đang hứng, giơ giơ cái bi-đông vẫy vẫy. Rứa là hai ông thần men hút lại! Bi- đông và chai cụng nhau cái cốp! Chú Tùy vỗ vỗ ra dấu mời hắn ngồi xuống nền miếu. -“Hê lô!...du…tên chi? Chú Tùy hỏi, pha tiếng Mỹ học lóm rồi chỉ vào mấy chữ trên túi áo hắn. -Tô ny Phớt sờ! Hắn nói. -À, rứa là tên Phớt!...Phớt là « phớt tỉnh ăng lê »...Mình tên là Tùy – Tùy chợ Kệ! Ô kê!...Uống!...Qua-Việt-Nam- bao-lâu-rồi? Hắn gật gật rồi đưa hai ngón tay : « Hai...nam ! » Chú vỗ đùi cái bốp: «Ha ! Rứa là nói tiếng Việt được ! Ô kê !... Mình là... chống quân dịch – không thèm đi lính !...Đánh thuê – chết uổng mạng ! Hiểu chưa ? Ở đây-uống-rượu-hát hò chơi !...Chờ hòa bình...Về nước-với-vợ-con ! Hiểu chưa !...Uống ! Khà...Ngon không ? Ngon hơn Uyt-ky không ? -Ô kê ! Num bờ oan ! Tuyet! Tuyet!... Rượu ngấm. Chú bắt đầu hát, rồi hò…Hắn ngồi nghểnh cổ nhìn rồi gục gặc hát theo. Bọn trẻ cứ lăn ra mà cười. Đến lúc hắn đứng dậy loạng choạng bước đi, không biết đứa nào đã bày đầu ra bài hát, cả bầy chạy theo vỗ tay hát ghẹo: “Hành quân xa không có tiền mua phở/ Trở lui về mà xin vợ vài trăm!...”Vậy mà cách có mấy buổi chiều hắn đã thuộc, giọng hắn ò ò theo bước đi khật khưởng: “Hanh quan xa khong co chien mo phọ…” Và cứ chiều nào chú Tùy gặp thằng Phớt là bọn trẻ cứ như được xem một chương trình ca kịch hò vè tạp lục khỏi mua vé. Mỗi đứa bẻ một nhánh lá sen lót đất, ngồi bệt khoanh tay ngóng cổ chuẩn bị những trận cười nghiêng ngữa. Một lần, rượu sắp cạn thì dáng một o gánh rượu vừa lên đò. Thường thì o ghé, nhưng nay thấy chú đang nghí ngố với thằng Mỹ, o hoảng hồn sụp nón le te cố chạy cho khỏi…Vạt áo lụa tím bay bay trông càng duyên dáng… “O ơi!...O Hường!”...Chú kêu giật mấy tiếng o mới khựng lại. Mặt o tái méc, rồi đỏ bừng!...Ngập ngừng một hồi o mới đặt gánh xuống cách một khoảng xa. Bọn trẻ phải xách bi-đông lại. Tay o run lập cập, rượu đổ cả ra đất! Xong o vội vã quẳng gánh chạy. Cặp mắt xanh lè của thằng Phớt cứ nhìn theo ngây dại…Chú nói: “Đó là o – bán – rượu!”…Rồi giọng chú ngâm vè: “Còn trời còn nước còn non/ Còn o bán rượu/ ta còn say sưa…ta còn say sưa!…Hắn gật gù vẻ đắc y rồi bẹ theo: “ Cọn tròi/ cọn nuoc/ cọn non…Hô hô! Num bờ oan! Tuyet!...Cọn o ba ruou…! Dứt vè tời hò. Chú gõ lóc cóc nhịp chày điệu hò giã gạo: “Hò hô hố hô…Đáo tới nơi đây…” Lúc cao hứng giọng chú càng thanh, càng vang… Phía gốc sen đầu dưới, mấy mụ gánh khoai sắn, trầu chè đã lác đác họp chợ chiều. nghe giọng chú hò ai cũng ngong ngóng… Điệu hò thức dậy trong các mụ một thời trẻ trung xa xưa. Thời làng nước còn yên bình…Những đêm trăng thanh thậm thịch tiếng chày…Gạo trắng mấy cối rồi nhưng tiếng chày tưởng chừng không bao giờ dứt. Mấy mụ thường kể, đôi lúc hết gạo còn đổ cả trấu vô mà giã, mà hò! Trai gái hò đối hò đáp, say sưa tới thâu canh… “ Hò hô hố hô!...Đáo tới nơi đây…! Tiếng hò càng vang bởi cái giọng ồ ồ của thằng Phớt bẹ theo. “ Ơi cha! Mệ cô cái thằng Tùy say, hết chuyện nghịch tặc nghịch đời chưa! Hắn dạy thằng Mỹ hò!”. Mụ Lé vừa sắp bánh ú bánh tét vào mẹt vừa chửi vừa cười. Mụ Thêm thì lườm đứt con mắt, giọng chanh chua: “ Ơi dà! Hò với giã!...Mậu Thân hắn “giã” cả trăm quả ca-nông tàu vô cái làng ni rồi! Chưa bưa à! Răng còn hò với giã!!.”. Mụ đang lầm bầm xỉa xói thì giọng chú Tùy oang oang: “Mấy mụ ơi!...lắng tai mà nghe Mỹ hò giã gạo này…Hò hô hố hô!...”. Chú bắt nhịp. “Đáo tói noi đay/ đát nuoc la lung/ nghe con chim keu tui cung sơ…Họ hô!...” “Mấy mụ nghe được chi không? Để tui hò “thông dịch” lại cho mấy mụ nghe: Hò hô…Đáo tới nơi đây/ đất nước lạ lùng / nghe con chim kêu tui cũng sợ/ gặp con cá vẫy vùng run ví cũng… ờ run! Hò hô!...Đó, mấy mụ nghe hay chưa!... Mụ Thêm vỗ đùi ra chiều hả hê: “Ờ, không run răng được!...Chết gần hết rồi mới “chạy làng” về đây! Không run răng được!”. Cả chợ cười cái rần. Mụ Lé nổi hứng: “Chà, hò nghe hợp tình chi lạ! Đây, thưởng cho…một đòn bánh tét! Hai anh em ăn cho no mà hò!...” Lại một trận cười. Mấy cái trò hò hát đã ăn thua gì! Chú còn nghĩ cách bày nhiều trò ngoạn mục khác khiến cả làng phải cười nhiều trận đến khản cổ!... Đó là buổi chiều trước hôm làng tổ chức đua ghe. Sau mấy ngụm rượu phừng phừng, chú rủ thằng Phớt xuống bến chợ. Thấy chú đứng chỉ chỉ chỏ chỏ ra cột vè giữa sông. Cột vè là một cây tre ngà cắm xuống lòng sông, trên ngọn có lá cờ ngũ sắc phấp phới…Chú đứng múa may giải thích với hắn về điều lệ cuộc đua. Tay chú ra bộ cầm dầm bơi “Hò hồ dô khoan! La hè! La hè!...”. Hắn ra vẻ thích thú gật gật, cười cười “Ô kê! Ô kê!...” Rồi không biết chú dặn dò thế nào mà đến sáng mai, lúc ba hồi trống nổi lên, xóm làng tề tựu đông đủ thì từ phía nhà thờ hoang, dáng thằng Phớt cũng lênh khênh đi ra… Giọng chú Tùy bô bô, tếu táo: “ Xin trình với làng, với bà con: Hôm nay ghe phe Tư – chợ kệ có một tay đua “đại kì khôi” xin tham gia!...” Chú chỉ tay phía thằng Phớt – “Một tay đua đến từ…bên tê đại dương! Hề hề…Xin trình làng!”... Chú thủ sẳn cái áo thun xanh viền đỏ của đội đua tới dúi dúi vào tay hắn. Hắn lột quần áo lính bỏ gốc sen hăm hở tròng áo thun vào, nhưng đứng kéo mãi cũng không tới quá ngực, cứ như bắt người lớn mặc áo con nít ba tuổi! Hắn đứng cười ngố ngáo rồi hươ tay làm động tác thể dục, bày cả cái bụng đầy lông lá! Cả làng rộ những trận cười vỡ chợ!...Chú Thao người phe Nhì lên tiếng đùa: “Ơ, ghe phe tư chơi chi có Mỹ nữa hè! Ai bơi cho lại!...” Giọng chú Tùy cà rỡn: “Mỹ dưng mà…thành dân chợ Kệ rồi!...Biết uống rượu Hương Cần, biết hò giã gạo…được mụ Lé thưởng bánh tét đàng hoàng nghe! Hề!... Đến lúc những đội đua sắp hàng làm lễ vào cuộc, hắn cũng khép nép đứng vào. Và lần lượt như mọi người, hắn cung kính cắm nén nhang lên bàn thờ Thành hoàng nghi ngút khói trầm và bắt chước chắp tay vái ba vái…Lúc ấy bỗng nhiên những tràng cười lặng phắc. Chú Thao cũng đứng gật gù, mỉm mỉm... Trống nổi lên. Cuộc đua bắt đầu. Hắn ngồi một cặp với chú Tùy và nhất cử nhất động theo chú…Đến vòng thứ nhì coi bộ hắn đuối! Những nhát chèo bắt đầu rời rạc, lỗi nhịp rồi buông xuôi luôn! Hắn há hốc thở, mặt mày tái méc… Tới pha lộn vè, các ghe tranh nhau khép vòng quyết liệt. Bỗng bọn trẻ la lên giữa tiếng trống giục và tiếng reo hò: “Ghe phe Tư lật!... Chết cha thằng Phớt chìm rồi!... Khống! Hắn nổi lên! Hắn biết bơi!... Trong cuộc đua, pha lộn vè là gay go, hấp dẫn nhất, ghe lật là chuyện thường! Kinh nghiệm, sự điêu luyện là lúc này. Nó đòi hỏi những tay đua phải nhanh nhẹn xao nước, rồi phải nhịp nhàng, đồng bộ phóng lên ghe tiếp tục cuộc đua… Nhưng những động tác này đối với một thân hình nặng nề - một người Mỹ như thằng Phớt thì phải học tới “bạc râu” may ra mới theo kịp!...Hắn bị bỏ lại! Chới với giữa cột vè một lúc rồi bơi vô bờ, ngồi thở hồng hộc!... Thằng Phớt bỏ cuộc, tất nhiên! Nhưng chú Tùy lại thành công thêm một mẻ gây cười để đời cho cả làng… Thấm thoắt mà đã hơn ba chục năm trời. Tôi – người kể lại câu chuyện này là đứa trẻ “đầu chưa sạch cứt trâu” trong đám trẻ của cái chợ Kệ ngày ấy. Vừa qua, tôi mới gặp lại chú Tùy tại Đồng nai. Lâu ngày chú cháu gặp lại nhau mừng khôn xiết!... Người làng tôi vào miền Đông lập nghiệp gần hết nửa làng. Mấy năm gần đây bà con đều phất lên nhờ nghề trồng tiêu…Cứ nhìn vườn tiêu xanh mướt, bát ngát hơn hai héc-ta của chú đủ biết cuộc sống gia đính chú sung túc nhường nào… Xấp xỉ sáu mươi, già đến nơi rồi nhưng cái tính “tào lao xịt bộp” của chú vẫn như ngày nào! Lúc tôi mở miệng định hỏi “chiếu lệ” về đời sống…, chú đã xua tay, giọng tưng tửng: “Ui dào, khỏi hỏi!...Tiền bạc tau chừ…lâu lâu phải kêu thím mi…chất ra sân, phơi! Để mối mọt ăn hết!” Thím ngồi bên lườm chú: “Ba mi thì cứ tật tào lao không bỏ, cháu chắt cười cho!” Chú hề hề: “Ơ, chú cháu tui lạ chi nhau! Dân chợ Kệ mà lị!” …Ngồi khề khà với chú trên bộ sập vuông vức, cao nghệu. Tôi bỗng nhớ cái nền miếu cạnh gốc sen của chú cháu ngày nào, gợi nhắc: “Chú còn nhớ thằng Phớt không chú!” – “Ui chao! Cái thằng bạn Mỹ nhớ đời! Quên răng được…à, mà không biết hắn còn sống hay chết hồi đó rồi!...” – “Hắn còn sống chú ơi!...Năm ngoái cháu về quê, gặp hắn trong đoàn cựu binh Mỹ ghé thăm làng mình, tìm chú quá trời!”. Chú nhảy dựng lên, vỗ đùi bôm bốp: “Ui chao! Rứa à! Thiệt rứa à!”. Tôi tính đùa chú cho vui (nhưng biết đâu có thật rồi cũng nên. Nghe nói mấy năm qua, rất nhiều đoàn cựu binh Mỹ tìm về làng tôi), thấy chú tin như đinh đóng cột, sẵn trớn tôi phịa luôn: “Hắn ghé chợ Kệ, quay phim chụp ảnh không sót chỗ nào!...Rồi còn lại ngồi chỗ nền miếu trầm ngâm xúc động, ra vẻ nhớ chú lắm!”…Chú cứ há hốc nhìn tôi, vỗ đùi lia lịa: “Ui chà!...Rứa cháu thấy hắn có già dữ không?” –“Cũng già nhưng không khác mấy, vẫn cái gương mặt ngố ngáo như hề, gặp là cháu nhận ra liền!”… Chú nốc liên tiếp hai ly rượu, rồi cao giọng: “Trái đất tròn! Rồi có ngày tau với hắn cũng gặp lại!...À, mà nghe nói hột tiêu của mình phần lớn xuất qua Mỹ!...” Chú vỗ cái bốp: “Rồi! Tau sẽ đi Mỹ!” Rồi chú vỗ bùm bùm xuống bộ sập: “Này, trong này là hai tấn rưỡi, tau đang trữ, chờ giá! Tau sẽ “mần” một chuyến “xuất khẩu tự túc”!...Qua bên đó, tau sẽ đi tìm thằng Phớt! Uống rượu với hắn…hai ba tháng đã đời chơi! Hà!…” Lúc chia tay tôi đã chếnh choáng, chú còn vỗ vai: “Dứt khoát tau sẽ đi Mỹ! Tau phải gặp lại thằng Phớt mới được!...” Tôi nói vói lại: “Qua bên đó chú nhớ tổ chức một trận đua ghe…với một buổi hò giã gạo…giới thiệu với nước Mỹ luôn nghe chú!...” -“Cha cái thằng…con nít nhớ dai!...Dân chợ kệ! Hề! Vỏ và cánh 14:34 | 26/08/2013 NGUYÊN QUÂN Lão Đạo vẫn ngồi chò hỏ, kiểu ngồi đặc trưng đôi chân trần dính kết bùn đất trên giường ruộng của nền văn minh lúa nước. Hai khuỷu tay lòi cục, trơ xương, chống tựa lên hai đầu gối cũng lòi cục trơ xương. Bốn khớp linh động tỳ lên nhau, trở thành bất động. Hành thế vô động của lão chẳng phải chỉ riêng ở chuyện ngồi. Đôi mắt nằm lọt thỏm trong đám da nhăn nhíu nhàu khô cũng đứng phắt, tịnh không một chút luân chuyển. Trong hốc cây cái xác con ve sầu nâu nhạt trong suốt nhìn thấu đến tận cùng. Đeo bám trên một mảng cây cũng màu nâu nhạt. Chính thấu thị trong suốt đến trần trụi của một cái xác vỏ bị bỏ lại đã tạo nên sự bất động của lão Đạo. Một mối liên kết vừa buồn cười vừa phi lý giữa thực thể đang sống và xác vỏ không còn hồn phách. Bầu trời cuối thu, ẩm ươn xám đậm. Chiều đã rơi vào hoàng hôn. Ánh tà dương hắt hiu càng làm khuôn mặt choắt khô, nhăn nheo khắc kỷ của một con người đi qua gần hết nghiệp sống thêm hiu hắt, ở trong cái hốc, xác ve càng sẫm đậm hơn. Cơn giông muộn của mùa thu, tràn về từ phía núi xa, ầm ì vạch từng luồng chớp sáng trên dãy phố chợ đã vắng teo, không còn lời mặc cả, chẳng âm tầng thương lượng. Cả khoảng không gian chợ đời vốn đầy ba động, lúc này chỉ còn lão Đạo ngồi chò hỏ bất động bên ngoài và xác vỏ con ve sầu bất động phía trong hốc cây đa. Thỉnh thoảng vài gã đạp xích lô ì ạch trườn qua, bỏ lại thanh âm cọt kẹt... cọt kẹt đến dại lòng. Vài người đàn bà bám chặt đôi quang gánh xoãi bước nhanh, bỏ lại tiếng dép lê xoèn xoẹt... Rồi tất cả sự sống động đều trôi tuột, mất hút dưới cái cổng thành gạch nâu loang lở, dĩ nhiên sự bất động của cái cổng thành từ thời phong kiến được vinh danh di sản thế giới cũng chẳng sống động, dù đã nhuốm biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu của hàng vạn con người từng quần quật xây dựng lên nó. Hàng vạn sức ba động rồi cũng trở thành vô động. Không một ai rỗi hơi ngoái nhìn thanh âm sự sống của mình ném lại giữa khoảng chợ đời, nơi lão Đạo vẫn ngồi bất động. Xác ve cũng bất động bám ngược trong hốc cây sần sùi gần bị che khuất bởi những lọn rễ chảy từ đám lá rậm rì xuống như râu hát bội của những gã võ quan, những hiền nhân minh triết múa máy quay cuồng trên khoảng sân đình. Mua vui cho đám trẻ con, cho những người đàn ông, đàn bà nông dân tẩy rửa thành tâm đến mấy cũng phảng phất mùi bùn đất. Bên trong hay bên ngoài chiếc hốc chỉ là một hình thể già nua bất động. Xác con ve sầu nâu nhạt và trong suốt vô giác, nhưng lão Đạo là một thực thể sống, đang còn sống. Biểu hiện sự sống là hơi thở. Những chiếc lông bạc thếch thò ra từ hai hốc mũi sâu ngòm của lão vẫn phất phơ theo chu kỳ nhất định. Thật chậm, mấy chục giây mới rung một nhịp. Mấy chục giây một nhịp thở là tiết tấu chuẩn, lão đã khổ luyện ngồi thiền và tạo dáng theo Dịch cân gần hết một đời người. Lão Đạo vẫn ngồi bất động trong thế chò hỏ, dĩ nhiên chẳng phải kiểu ngồi thiền hay Dịch ngoại nhập. Mọi trực quan của lão lúc này là cái xác ve sầu, nhưng sự suy tưởng sau lớp vỏ não vốn chật ních giáo điều đã bị đẩy tới đỉnh điểm. Lão đang trầm tư về cái xác nâu nhạt và hoài nghi sự trong suốt lạ thường ấy... Phải chăng trong cái hữu cơ bị phế thải, có mang thông điệp siêu nhiên tiến trình thoát xác của loài côn trùng siêu hạng ẩn dật, ẩn tàng, ẩn thân trong bóng tối hàng chục năm trời, chỉ chờ đợi thời cơ hóa thân vài ngày tuổi được bay, được ríu rít ca ngâm, được làm tình, truyền giống rồi “chết”. Hay chỉ đơn thuần là một mẫu vật chất vô hồn còn lại sau lần hoán đổi từ dạng này sang dạng khác bằng định mệnh bất biến của một sinh linh. Trí não của lão Đạo căng cứng. Những luận giải chủ quan đang dần hình thành một khối vật chất ngầu đục, dạng vỏ bọc nặng nề vá víu đầy khuôn thước, ngữ nghĩa, những phán truyền, răn dạy, những tư tưởng, triết luận từ Đông phương thẩm sâu nội thể, từ phương Tây duy lý giải phẫu tanh bành đã đeo đẳng hàng chục năm dài trong nỗ lực ly khai sự thối rữa nhục thể của lão, và bây giờ đang bao bọc chung quanh sự bất động của lão. Tất cả mọi thứ gom góp một đời ấy đều cô đặc, ngưng trệ trước cái xác ve. Nó đang ở đâu sau cú thoát xác ngoạn mục, để bay lượn giữa những vòm mây ngũ sắc, ca hát trên một cõi thiên đường bất diệt vô ưu nào đó...? Nó cũng đang bị quay tít trong vòng luân hồi nghiệt ngã để mục rã thêm một lần xác, đâu đó dưới lòng đất. Nơi nó mù lòa ẩn thân chờ đợi nhiều năm tháng dài. Lão Đạo càng lúc càng rơi sâu vào mê trận của thuật ngữ, của nghi vấn, của chân xác của hiện sinh, của hư vô. Trong trạng thái bị phân lập, tiềm thức lại có cơ hội trổi dậy chơi xỏ lão. Nhiều năm dài lão Đạo cố không nhớ, vì lão quan niệm tơ tưởng tiềm thức là thứ hàng hóa xa xỉ phải mua bằng thời gian sống. Tiềm thức hiện thân trong một thằng bé, tấm lưng trần còm cõi với những vết bầm xước, nứt nẻ. Cầm chiếc đuốc lồ ô, quờ quạng đi giữa khoảng vườn đầy bóng tối. Nó đi chầm chậm, từng bước chân trần dẫm lên lớp cỏ ướt sương. Đêm vẫn khô khao tiếng đại bác tầm xa vọng về từ những chóp núi loang lở trơ cháy, quyện lẫn với tiếng ồm oạp của lũ cóc nhái uệnh oạng ễnh ương, biến cải thành phiên khúc tang thương, chết chóc. Mặc những âm tầng mang giai điệu tang thương chết chóc, thằng bé và chiếc đuốc cứ chầm chậm đi, tỉ mỉ soi rọi từng gốc cây, từng bụi cỏ. Chiếc giỏ tre đeo xệch bên hông nhốt chật cứng lũ ve non. Con vừa chui lên khỏi mặt đất chưa thoát khỏi trạng thái mù lòa, con chưa kịp dấn thân vào hành trình thoát xác, con chưa kịp rung đôi cánh mỏng tang để bay lên... Trong khoảng vườn đổ đầy bóng tối, thằng bé vẫn đi với chiếc đuốc lồ ô. Trong ký ức mùi bếp lửa, mùi cháy khét của đôi cánh, của tiếng giãy chết và mùi thơm ngầy ngậy da thịt côn trùng được nướng chín, lão đạo rùng mình, phá tan thế ngồi bất động. Thằng bé và chiếc đuốc lồ ô chập chờn ánh lửa đi từ bắt đầu bóng đêm, đi sâu, đi xuyên qua suy tưởng của lão Đạo. Nó đi qua giống những người đàn bà đôi vai trĩu nặng quang gánh, những gã xích lô ì ạch đạp qua và không bao giờ quay đầu nhìn cái xác ve sót lại trong hốc cây đa. Lão Đạo vẫn ngồi chò hỏ, bốn khớp hoạt tỳ lên nhau, kiểu ngồi bất động đầy trăn trở đã bị phá tan trong cuộc chiến chống trả thằng bé đột hiện từ quá khứ khiến cơn tê dại từ khớp tay khuỷu chân lan nhanh, lão dần rơi vào trạng thái vô giác, lớp vỏ não bị xuyên thủng, từng nơ ron thần kinh nhũn nát, những sợi lông mũi cũng không còn chuyển động theo chu kỳ. Lớp võ mù đục bao quanh hình hài già nua còm cõi đang dần chuyển màu đậm hơn, nặng nề hơn. Lão Đạo không còn nghe âm thanh thường hằng của phố chợ, âm thanh chết chóc vọng về từ những chỏm núi xa, âm thanh oàm oạp thân thuộc của những cánh đồng, khu vườn trĩu hoa trái. Lão không còn nhìn thấy những luồng chớp sáng của cơn giông từ bầu trời dội xuống, không thấy xác ve, hốc cây đa, không thấy những bóng người đã đi lướt qua và không thấy bóng mình đang thu nhỏ dần. Lão không còn ngửi được mùi ủ mục của lá chết, mùi tế bào chết bong lóc khỏi thân thể, mùi khét cháy, mùi ngầy ngậy... Một hồi chuông nguyện cuối ngày chợt ngân vang, tiếng chuông từ một ngôi chùa, một tháp chuông nhà thờ, một thánh thất nào đó, có thể là từ tất cả hoặc không từ một nơi nào. Nhưng là vọng âm khải huyền báo hiệu cuộc chơi sinh tử của lão Đạo với cái xác ve khô bây giờ mới thật sự bắt đầu. Mọi giác quan bị phong tỏa, cô lập trong lớp vỏ mù đục hàng chục năm dài, nhân cơ hội thân xác bị băng hoại cũng cựa quậy hồi sinh, chúng bắt đầu ly khai, phá vỡ lớp vỏ mù đực xơ cứng. Bay. Vệt nứt dài trên lưng xác ve cố mở lớn mấy chiều không gian thành một vực xoáy sâu thẳm cuốn hút tất cả vào lại bên trong, nghiền nát, chế tác đôi cánh lụa mỏng tang. Ở đâu đó trên tàng cây lá rậm rì, chợt bật lên một tiếng ve ngân, thứ âm thanh trái mùa lạc lõng cô độc. Người đánh máy chữ 11:01 | 25/07/2013 NGUYỄN ĐỨC TÙNG Cô ngồi trước ba máy đánh chữ, cái trước mặt màu kem đã sờn, hai cái xanh ngọc hai bên còn mới. Bàn làm việc hướng vào vách, bên phải là cửa sổ nhìn ra con đường tráng xi măng cũ gần bến đò. Tôi hay đứng ngoài hiên tránh mưa nhìn vào, máy chữ chạy rì rào, cô nghiêng nửa mặt có chấm tàn nhang tím. Chỗ làm việc là góc thừa ra của tiệm thuốc Nguyệt Quế đường, vừa vặn đặt cái bàn, cái ghế, phía trong là kệ sắt cao đầy giấy tờ. Tôi ngắm những tờ giấy carbon đen sẫm trong mùi cam thảo, quế, táo tàu bay qua. Cô nói giọng Hà Nội, khoảng bốn mươi tuổi, gầy mảnh mai, tóc búi lên, gương mặt khô khan nhưng hiền, ít nói vì bận việc, một cái lông nhím vàng hổ phách trong suốt kẹp xuyên qua búi tóc. Cô mặc áo dài màu xanh bông lý, màu mận chín, ngón tay dài, lưng bàn tay những đường gân nổi lên như tay đàn ông, không nhẫn. Khi đã quen, cô gọi tôi vào chơi nhờ việc vặt, phần thưởng là tờ giấy carbon dùng nhiều lần đã bạc màu nhưng tôi quý lắm, ôi những tờ giấy carbon tôi dùng để đồ những hình vẽ thật đẹp làm tụi bạn lác mắt. Máy đánh chữ hiếm, đơn từ nộp công sở đều dùng giấy in nên việc lúc nào cũng bận, có lẽ vì thế mà cô cần ba máy một lúc, cái thì hôn thú, cái đơn xin việc, cái “thế vì khai sinh”. Công việc là đánh máy nhưng cô làm nhiều hơn, giúp sửa lỗi chính tả, sửa câu văn, cố vấn nhiều thứ linh tinh từ việc làm ăn đến hôn nhân tình cảm, có người đến tay không chỉ nói ý mình, cô liền thảo tờ đơn tự cô nghĩ ra. Một người khách giọng khàn vì thuốc lá, đứng sau lưng cô đọc ngắt quãng, ho vì lên cơn suyễn: Đơn xin hoãn dịch vì lý do gia cảnh… Họ tên con tôi: Nguyễn Văn… Năm sinh… Chánh quán… Trú quán… Tôi làm đơn này xin chính phủ xem xét hoãn dịch cho con tôi vì trong nhà chỉ có mình nó là con trai, không ai nối dõi tông đường, mẹ nó hay đau, con gái có ba đứa nhưng không tính. Cô quay lại: sao bác nói ba đứa con gái không tính, người đàn ông cười: thì cô sửa lại giùm. Cô có mấy chồng báo cũ để người chờ lật coi cho đỡ nóng ruột. Tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ sau kẹt cửa, đọc các tạp chí như Tự Do của chính phủ có ảnh đẹp, Hương Quê của bộ Thông tin đều đặn có truyện ngắn đồng quê của Bình Nguyên Lộc hoặc Sơn Nam, các nhật trình như Độc lập, Hòa bình, Sóng thần, Công luận, ngắm mấy tờ carbon, lắng nghe cuộc chuyện trò khi lớn lúc khẽ giữa cô và khách hàng. Thỉnh thoảng cô đứng dậy bật bếp lửa dầu hỏa ở góc nhà, chùm lửa xanh ngọn nhỏ liu riu, đun nước sôi pha trà Thiết Quan Âm trong ấm sành, cho tôi uống, di chuyển mau lẹ giữa những chồng giấy cao ngất. Hiệu của cô không tên, không có chỗ ngồi rộng rãi, ở trên đường vắng chạy ra bờ sông, không quảng cáo nhưng người có việc cần đều biết cách tìm đến. Ngoài hiên một cây dâu tằm cổ thụ cao rợp mát, những trái dâu đỏ mọng ngọt lịm, lá xanh mềm mại ngày nay không thấy nữa. Ngày mưa dầm nắng gắt đi học về muộn trễ chuyến đò cả giờ, tôi quay lại ghé vào, cô im lặng làm việc nhưng thỉnh thoảng quay nhìn tôi, mắt như cười, ấm áp. Đôi khi một ông khách đứng tuổi lịch sự, da tái xanh, má hóp, tóc chải dầu brillantine bóng, sơ mi trắng, cầm dù đen bất kể trời mưa hay tạnh, đứng ngoài cửa sổ trò chuyện, đưa giấy tờ hay trả tiền gì đó, nhưng có khi chỉ nói vài câu rồi đi. Những lúc ấy cô đứng lên, tựa người lên thành cửa, khoanh tay trước ngực trò chuyện. Sau khi ông khách đi rồi, cô kín đáo mỉm cười, ngửa đầu ra sau, nhắm mắt lại, mở mắt, quay về với công việc. Như thế, năm này qua năm khác, hết niên học này đến niên học khác của tôi, như thể cuộc đời này sẽ trôi đi êm đềm như vậy mãi với cô, không bao giờ thay đổi, không bao giờ ngừng lại, mà thay đổi cho ai, cách mạng làm gì, chiến tranh chết chóc làm chi? Đôi khi tôi chợt nghĩ hay cô là cô Mai, nhân vật của Khái Hưng trong Nửa Chừng Xuân, con ông Tú ngoài Ninh Bắc? Có em trai học trường Bảo hộ, tức trường Bưởi, nhà nghèo vì cha mất sớm, đem lòng yêu Lộc, nhưng rồi chuyện hai người không thành. Cô Mai đẹp, dịu dàng, cương nghị, trái tim đầy tình yêu thanh sạch. Có lúc tôi ước làm cậu Huy em trai của cô, đứa em học trò nghèo thương chị đến ứa nước mắt. Tôi ngồi nhìn những chiếc máy chữ nghiêm trang nằm ngoan ngoãn dưới hai bàn tay lượn nhấp nhô như sóng, cô dùng tám hay mười ngón để gõ phím, cổ tay thoăn thoắt đưa đi đưa lại, những cái cần bằng kim loại xám óng ánh nhảy nhót như vũ nữ phim Ấn Độ. Nhưng chiến sự đổi chiều không báo trước. Trong hai ngày hai đêm, những đơn vị sư đoàn bộ binh trú đóng căn cứ Ái Tử và Đông Hà hỗn loạn rút quân qua sông, bỏ lại chiến xa vũ khí, và điều đó sẽ lập lại đúng ba năm sau ở những nơi khác, người dân, viên chức kinh hoàng di tản, họ bị pháo kích ác liệt chặn lại trên quốc lộ, chạy lui chạy tới như kiến trên chảo rang dưới nắng tháng tư. Không khí nóng đặc lại, hoa phượng mới ra héo rũ nhưng không tàn, cuống non khô đi không chịu rơi xuống đất. Ngày cuối cùng trước khi ra đi tôi lang thang trên đường không người, mặt nhựa chảy mềm dưới trời xanh bao la, sự yên tĩnh của nó buông xuống mặt đất một không khí dị thường không ra chiến tranh chẳng phải hòa bình, bầu trời như nhật thực, tôi đi trên đường biên, giữa một vùng tối đen và một vùng sáng rực, nhưng cái đường biên kia di chuyển mau lẹ quá, nó chạy vùn vụt, tôi cố đuổi theo không kịp, vấp ngã trên những hầm hố công sự hay trên những thây người rải rác đó đây quanh quốc lộ một, gần ngã ba Long Hưng. Đi ngược về trung tâm, tôi đến trước những địa chỉ yêu dấu, trường Bồ Đề, Phước Môn, Thánh Tâm, Nguyễn Hoàng, hiệu sách Lương Giang, Phú Long, Tao Đàn, chào nhau lần cuối. Chắc chỉ có mình thôi, tôi nghĩ, là đứa lẩn thẩn đi chào bến đò chợ tỉnh nhiều bậc tam cấp đọng vảy cá trắng xóa, bốc mùi cá tanh, chào chùa Tỉnh hội rợp bóng ngô đồng, im bặt tiếng chuông, chào tiệm vải chất đầy tơ lụa mẹ tôi hay ghé qua, quán tiết canh vịt của ba tôi, tiệm cháo bánh canh của các chị tôi, đứng hồi lâu trước quán bi- da của bạn bè, những hòn bi xanh đỏ lăn lóc góc bàn, tôi cầm lên bỏ xuống. Trong chiều nắng xế, thành phố sắp biến mất trông như huyền thoại. Tôi đứng tần ngần trước căn nhà khang trang ngoài hiên có cây lê ki ma mỗi mùa xuân đều nở hoa trắng của người bạn gái cùng lớp, nhìn cánh cổng sơn xanh đóng im ỉm, lần cổng ấy ngày sau mạng nhện sẽ giăng đầy, hai con bồ câu trắng đứng rù rì chụm đầu vào nhau trên khoảng sân gạch gần ảng nước mưa, mặt nước có một lá sen nửa lành nửa rách. Tôi tìm đến tiệm người đánh máy chữ, cửa ra vào đóng, ổ khóa còn nguyên nhưng cửa sổ đã bị ai mở bật tung ra, tôi nhìn quanh một lúc, leo vào bật công tắc, không điện, có lẽ cô đã ra đi cùng lúc với hàng chục ngàn người tị nạn chiến tranh khác nhưng cũng như họ, yên chí rằng sẽ trở lại trong vài ngày tới, khi tình hình chiến sự yên ổn. Mùi hơi quen thuộc phảng phất, vài tờ giấy carbon đen lả tả trên sàn nhà, tôi cầm lên kề sát mũi hít hà những tờ giấy carbon cũ thơm phảng phất mùi hạnh đào, mùi ô mai tẩm đường, mùi quế hơi gắt, trên bàn ba chiếc máy đánh chữ vẫn còn nguyên. Tôi tiến lại gần, nhìn xuống một tờ giấy đang nằm trong máy giữa chừng, chiếc màu xanh ngọc bên trái, liếc qua mấy chữ trên cùng: GIẤY TỪ CON. Tôi ngạc nhiên, kéo ra đọc tiếp: Họ tên cha mẹ… Con trai của chúng tôi là… Sinh ngày… Học sinh lớp Đệ tứ, trường… Chúng tôi làm đơn này đăng lên nhật trình để thông cáo: kể từ ngày… chúng tôi không nhận… là con trai trong gia tộc. Lý do: không nghe lời nghiêm phụ, bỏ bê việc học, trốn nhà theo gánh hát cải lương Kim Chung. Nay kính trình… Ngày… Tôi đứng hồi lâu giữa căn phòng tối sẫm, mặt trời bên kia sông đang xuống sau rừng dương liễu Nhan Biều, ngả sang màu lửa lựu, vài con chim sẻ kêu thảng thốt trên mái ngói, một cành cây khô rơi xuống mặt đường, nẩy bật lên, lăn đi nhiều vòng, trong tịch mịch của phố xá bỏ hoang, những ngày bầy chim vỡ tổ bắt đầu. Tôi nghĩ đến chàng thanh niên có lẽ chừng đôi mươi giờ này vẫn chưa đọc được cái tin sét đánh trên báo của thân phụ anh, một người thương con nhưng có lẽ quá nghiêm khắc, tôi nghĩ đến cha mẹ người thanh niên kia giờ phiêu dạt nơi đâu, ga Lăng Cô hay bến tàu Đà Nẵng, hay đã tử nạn trên đường. Tôi nghĩ đến gánh cải lương miền Nam ra trình diễn ở thành phố gần giới tuyến trong ngày xuân thanh bình, trong gánh hát ấy biết đâu có một cô đào trẻ đẹp với giọng ca mê hoặc, sáng hôm sau lên đường khăn gói vào Nam, không biết mình vô tình mang theo trái tim một chàng trai Đệ tứ trung học, mê tân nhạc, vọng cổ, ghi ta, đờn sáo hơn chuyện học hành thi cử lẩm cẩm, biết đâu sau này chàng nổi tiếng ở Sài thành hoa lệ, thành công rạng rỡ về quê trong sự chào đón của khán thính giả như Út Trà Ôn, hay biết đâu anh lầm đường lạc lối, bị hắt hủi giữa chừng, thất bại chốn phồn hoa, đói khổ, một chiều dừng lại bên đường nhìn hạt bụi trong tia nắng xiên khoai mà ngoái về quê cũ. Nhưng quê cũ của anh đá nát vàng phai có đâu nữa mà ngoái lại? Hay biết đâu vài mươi năm sau, hai cha con nơi đất khách lại làm hòa với nhau, ôm nhau mừng tủi, bằng cách nào thì tôi không biết, nhưng thế nào cũng có cách, vì cha mẹ và con cái, hay anh chị em trong nhà, giận nhau vì lối sống, cãi nhau vì chính kiến, nhưng bỏ nhau hoài sao đặng. Phải không? Khi đó người cha biết đi tìm đâu người phụ nữ đã đánh máy cho ông, khẩn khoản đòi xin lại một tờ giấy cũ vàng ố, lẳng lặng cho vào ngọn lửa xanh lơ trong tiếng máy chữ rào rào chiều chạng vạng. Gần như vô thức, tôi gập nhỏ nhiều lần tờ giấy đánh máy, nhét vội vào túi quần sau, cài cúc, nhảy qua cửa sổ, vói tay khép cánh cửa mà đi. N.Đ.T (SH293/07-13) Sứ mệnh 15:34 | 16/04/2013 KIM NHAN SƠN 1. Ba thằng. Rõ ràng rất lực lưỡng. Chúng đứng thành hình tam giác. Đầu khum xuống đều nhau. Những búi cơ ở vai, tay và cả bắp chân của chúng thỉnh thoảng lại trào lên cuồn cuộn như túi đầy rắn treo cột điện. Nhìn chúng khó ai tin là người. Chúng đứng gồng như thế chẳng biết đã bao lâu. Bất động. Da trên cơ thể chúng khô đanh lại như cam sém nắng và bắt đầu nứt những kẽ chân chim. Ba cặp mắt vẫn nhìn găm vào vật khối cầu đỏ ối đang lồng lộn giữa hình tam giác người. Chúng đang quan sát rất tỉ mẩn. Gió bắt đầu chuyển động. Nhẹ nhưng đủ để nghe thấy âm thanh len rin rít nơi kẽ nứt của da. Quả cầu lửa bắt gió, lửa xòa ra rừng rực. Có vẻ nó đang được tiếp thêm sức mạnh. Càng lồng lộn dữ tợn. 2. Cách đó không xa. Hai vị tóc đã bạc trắng đang đánh cờ. Người ta nghi ngờ hai vị này là tiên. Có người bạo gan lại hỏi. Hai vị cười bí hiểm, vuốt chòm râu trắng như cước vẻ mặt điềm nhiên. Nếu ai đó tò mò rình nghe thì cũng chẳng thể phân biệt được người hay ma. Lời nói hai vị lạ. Cách đánh cờ cũng huyền bí. Chỉ có cái bàn đá mà không có quân cờ. Chắc cấp thượng thừa hai vị đánh bằng miệng. Nhiều người rình nghe nhưng chịu chết, không biết hai vị thuộc loại nào. Dân gian nhiều nơi đồn có hai thằng điên đánh bạc trên đồi. Nói chung, trắng đen lẫn lộn mà trở nên huyền thoại. Thử trích một đoạn hội thoại của hai vị như sau: Không nên lần khân, phải quyết thôi. Vị thứ nhất vuốt râu vẻ đắc ý. Được, đã thế Mộc Tinh chặn ở đây, lối này ông hết đường. Vị thứ hai đưa tay vẽ một đường ngoằn ngoèo trong không khí. À ha, ăn thua gì, Hỏa Tinh công phá. Vị thứ nhất chu mỏ thổi phì phì về phía tay đang vẽ của vị thứ hai. Vị thứ hai vội rụt tay lại, chưng hửng. Vị này ngẫm nghĩ một lát, mắt bỗng nhiên sáng lên. Hỏa Tinh này, vừa nói ông ta vừa phun một bãi nước miếng vào giữa bàn đá. Biết trúng kế. Vị thứ nhất tiu ngỉu, xua tay. Thôi hôm nay chơi đến đây. Còn bao việc trên trời dưới đất cần chúng ta. Dân gian nghe thế thì chắc mẩm là tiên. 3. Cách đó cũng không xa. Trong căn nhà dột nát. Hai mụ đàn bà ngồi uống rượu. Mặt hai mụ đến lúc đỏ kè. Chiều đổ dần vào tối. Lúc này mụ mập hơn mới đứng dậy bậm môi, chỉ tay về ngọn núi đay nghiến: Ăn sung mặc sướng không muốn, lại lo chuyện bao đồng, tính lên núi làm đạo tiên đạo cốt, để coi có yên không nhá? Mụ gầy hơn hếch mặt lên, ra chừng xỉn lắm: Ôi chị ơi, thế sự làm đếch gì, để ba bảy hai mốt ngày đói lác có rúc mặt về không cho biết? Nói xong mụ húp nốt nửa chén rượu sót. Mụ mập đảo một vòng rồi ngồi phệt xuống ghế. Ừ để xem gồng được bao lâu. Mụ quơ tay tìm chai. Rượu hết. Mụ khóc. Đoán là mụ nhớ chồng. 4. Ba thằng. Rõ ràng là ba hộ pháp. Mặt rắn lại, đơ cứng như bàn thạch. Cơ bắp cuộn xoắn chắc nịch. Chúng vẫn đứng khum vững chãi xung quanh quả cầu lửa cháy rực. Gió thổi mỗi lúc một mạnh hơn. Bên cạnh chúng đã để sẵn một chiếc cũi sắt và một đống dây thừng. Người ta lan truyền là chiếc cũi không phải loại thường. Nó được làm từ loại sắt nung tỉ độ. Còn dây thừng thì được bện từ màng trinh của tiên nữ, rồi ngâm qua nước nhân sâm ngàn năm, sau đó nghe đâu còn luộc qua lò bát quái ở trên trời. Để thử độ dẻo dai của nó. Người ta buộc một đầu dây vào sao Hỏa và đầu kia buộc vào đúng tám mươi sáu triệu con voi, tiếp đến người ta đốt đít chúng, một lực tổng thể như thế nghe nói sao Hỏa có nhích vài phân mà sợi dây không hề hấn gì. Đấy là tin đồn, thực hư thì có trời biết. Nhưng chắc chắn chuyện cái cũi sắt, đống dây thừng và ba thằng canh khối cầu lửa đỏ hỏn được người ta truyền tai nhau đúng một nghìn năm. Thực ra con số này cũng chưa được kiểm chứng. Chỉ biết từ khi có hai vị tóc râu bạc phơ đến ngồi đánh cờ gần ba thằng hộ pháp thì dân gian lại tỏ ra tò mò hơn. Họ kéo đến ngày một đông. Đứng kín cả một vùng. Họ quan sát, soi mói ba thằng hộ pháp và tất nhiên không bỏ qua hai vị tiên cốt đánh cờ. Trong đám đông lâu nhâu ấy, thấy rõ hai mụ một béo một gầy, tay chống khuỳnh ngang hông, quần xắn quá bẹn, đứng dẹo lè nhìn về hai vị râu trắng đang mải đánh cờ với ánh mắt hằn học, điêu đứng. Người đời xầm xì với nhau thuở xưa hai mụ có quan hệ với hai vị kia. Hai mụ không đính chính, bình luận gì. 5. Gió thổi mạnh. Quả cầu lồng lộn, lửa trào túa ra dữ dội. Nó đang tìm cách thoát ra khỏi cái hình tam giác hộ pháp người. Lửa phụt cháy rụi những đám lông trên chân ba thằng hộ pháp. Bắt đầu có những tiếng nổ nhỏ từ bên trong khối cầu. Tiếng nổ to dần. Lửa khẹt ra xanh lè như những mũi hàn khổng lồ. Một trong ba thằng, có vẻ là thằng thủ lĩnh. Phát ra một khẩu lệnh ngắn, chắc, đầy uy lực: Đã đến lúc. Thằng thứ hai, chắc là phó thủ lĩnh, cũng phát ra một khẩu lệnh đáp lại: Chưa. Tiếng đầu tiên sau quãng thời gian dài im lặng, đoàn kết đã tỏ ra chống đối nhau. Thằng thứ ba, chắc là thuộc hạ của hai thằng kia, nét mặt nổi gai rần rật, run rẩy, gồng mãi mới phát ra âm thanh: Sa.ao..o? Thằng này phân vân, không biết theo lệnh của ai. Chỉ có ba thằng thì có đến hai thằng chỉ huy nó. Nó chọn cách đứng yên. Quả cầu lửa bùng cháy hừng hực, lửa phun lên sáng cả góc trời, ánh lửa soi thấu da thịt ba thằng hộ pháp. Người ta có thể thấy nội tạng của chúng. Hơi nóng tỏa ra khiến đám đông giãn ra, nhưng họ vẫn chăm chú quan sát nhất cử nhất động của ba thằng. Đến khi sức nóng của khối lửa tăng lên chóng mặt, thằng thứ nhất quyết định phát khẩu lệnh thứ hai: Cũi sắt. Thằng thứ hai lập tức phát một khẩu lệnh khác: Dây thừng. Thằng thứ ba lại nổi gai rần rần, gồng một lúc rồi đáp lại, lần này giọng tròn hơn: Là sao? Nó vẫn không biết nên theo ai. Hai thằng ra lệnh một thằng thuộc hạ. Nó tiếp tục chọn cách đứng yên. Đám đông vẫn chăm chú quan sát. 6. Cạnh đó hai vị râu tóc bạc phơ đến hồi thủy chiến. Miệng phun phì phì nước bọt vào nhau. Kiểu đánh cờ của thần. Vừa phun nước vừa tranh luận hăng say. Hôm qua tôi yếu thế vì quên cái nguyên lý cơ bản này. Vị thứ nhất nói. Ai chả biết nước là vô địch. Vị thứ hai đáp, rồi phun mạnh vào mặt vị thứ nhất. Thì tôi chủ quan được chưa? Lần này thì coi đây. Vị thứ nhất đáp lại bằng tràng liên thanh nước nhưng vị thứ hai né được. Ông xem tụi nó làm ăn thế nào rồi. Vị thứ hai dùng chiến thuật phân tâm. Ba thằng với một hòn than, ông ồn ào gì. Vị thứ nhất tỏ ra cảnh giác. Mặt trời đấy, tro than gì, ông là hay chủ quan. Vị thứ hai tiếp tục tâm lý chiến. Yên tâm, tôi bố trí đâu vào đấy rồi, hai thằng lãnh đạo một thằng. Bố trí rất vững. Nói xong vị ta khạc nước về phía vị thứ hai, lần này thì chính xác vào giữa mặt. Biết không lừa được, vị thứ hai bèn nghĩ kế khác. Cuộc chiến giằng co bất phân thắng bại. Hai mụ đàn bà đứng vểu từ lâu chẳng nói năng gì. Mặt hằm hằm. Từ khi hai vị tiên cốt chiến với nhau quyết liệt, hai mụ tỏ ra khoái chí, bật cười khanh khách. Mọi người xung quanh bất bình ra mặt. Có người rủa thành tiếng: Chồng con đến nông nỗi mà còn cười. Hai mụ cụp mặt không cười nữa. Quả cầu lửa nứt hoác. Tràn một thứ nước quánh đặc nóng sốt xuống chân ba thằng. Đến nước này thằng thứ nhất ra khẩu lệnh cuối: Một là chết, hai là nghe tôi. Thằng thứ hai đáp lại: Nghe là chết. Thằng thứ nhất đáp ngọn: Sống. Thằng thứ ba muốn đào tẩu. Nó thấy không tin tưởng giao mạng mình cho hai thằng kia. Nó nhích bàn chân né vết nước nóng đang xăm xắp dưới lòng bàn chân. Nó cảm thấy hơi nóng đã ngấm lên tận não. Nhưng vẫn cố chịu đựng vì nó thấy không thể thoát ra được. Cái hình tam giác quái quỷ đó đã cột chặt chúng lại. Giờ thằng thứ ba muốn bứt ra khỏi đội ngũ. Dường như đoán được ý đồ của thằng thứ ba, thằng thứ nhất phát ra một cảnh báo đanh thép: Người ta đang nhìn mình. Chỉ cần thế thôi, thằng thứ ba hết hy vọng, đứng gồng lại ngay ngắn. Khẩu lệnh của thằng thứ nhất tỏ ra hiệu quả luôn với thằng thứ hai. Nó cũng gồng lại ngay ngắn. Thằng thứ nhất biết mình bắt đúng huyệt của hai thằng kia, được đà hắn phát ra hai mệnh lệnh đi kèm nhau: Cũi sắt đâu? Thằng thứ ba đáp: Có cũi sắt. Dây thừng đâu? Thằng thứ hai đáp. Có dây thừng. Trói nó lại, nhốt ngay! Lệnh thằng thứ nhất bỗng nhiên thông suốt. Chúng khum lại sát khối cầu lửa. Những bàn tay lực lưỡng nắm chặt sợi dây. Tiếng thét lệnh của thằng thứ nhất sang sảng. Trói lại, trói lại, ngay lập tức! Nhanh! Nhanh nữa nào… Đã đến lúc rồi! Nghe đến câu này thằng thứ hai hơi chùng vì ý hắn vẫn nghĩ là chưa đến lúc. Thằng thứ nhất cảm nhận được sự không đều tay. Nó phát một lệnh răn đe: Người ta đang nhìn mình. Sợi dây ngay lập tức được nắm chặt lại. Tuy nhiên, mọi việc không diễn ra đơn giản như chúng nghĩ. Quả cầu lửa lồng lên. Nó muốn thoát ra cái gọng kìm đang ngày một siết chặt. 7. Càng vùng vẫy thì sợi dây thừng càng siết chặt, nó ngửi được mùi tanh của máu tiên nữ đồng trinh. Nó nhận thấy chẳng thể thoát khỏi tay ba thằng hộ pháp được trang bị bảo bối nguy hiểm. Nó dịu lại, không phun lửa dữ dội nữa. Gió lặng dần. Nó suy tính hồi lâu rồi gượng nhích về một trong ba góc của hình tam giác. Đầu tiên nó dịch chuyển về phía thằng thứ ba. Thằng thứ ba tưởng nó tấn công mình vội nắm chặt dây thừng. Đột nhiên quả cầu lửa cất lời, êm, nhẹ đủ một mình thằng thứ ba nghe rõ: Tôi biết anh chẳng thiết tha gì? Quả cầu lửa phì khói làm dịu đôi chân bỏng rát của thằng thứ ba. Không đời nào, sứ mệnh của chúng tao là nhốt mày. Thằng thứ ba rướn mặt lên quả quyết. Các anh làm sao nhốt được mặt trời? Khối cầu uể oải nói. Chúng tôi có ý chí, có đoàn kết và chúng tôi có cũi sắt, dây thừng. Thằng thứ ba tỏ ra tin tưởng. Không nhốt ta được đâu, bởi tại chưa đến lúc thôi. Quả cầu lửa hơi nhích lên, chắc nó thấy mỏi, sợi dây thừng quấn quanh loang lổ vết cháy. Mi đừng quá tự đắc, chúng tao sẽ quyết hy sinh đến cùng. Thằng thứ ba mặt vẫn rướn lên. Quả cầu lửa quan sát thằng thứ ba một lát rồi lên tiếng: Anh cũng chỉ là tên tiểu tốt sai vặt. Lông mày thằng thứ ba rung nhẹ. Các đầu ngón chân bấm mạnh xuống vùng đất nhão. Quả cầu lửa biết đã điểm đúng huyệt nên tiếp tục tấn công: Nếu anh để ta thoát ra, ta sẽ cho anh quyền lực vô hạn. Bàn chân của thằng thứ ba bấm mạnh hơn vào đất, để ý thì mắt phải của hắn nhấp nháy đúng một lần. Trong lúc này, phía thằng chỉ huy phát ra lệnh dồn dập: Chúng ta có sức mạnh, chúng ta có đoàn kết, chúng ta có bảo bối, sẽ chẳng có gì ngăn nổi chúng ta chiến thắng… Thằng thứ ba giật mình tay nắm chặt sợi dây. Mắt rướn lên. Người gồng cứng lại. Biết không trông mong gì thằng tiểu tốt, quả cầu lửa thở khói phùn phụt. Nó nằm im một lát rồi cựa mình về góc của thằng thứ hai. Thằng thứ hai tay cầm chắc sợi dây, mắt nhìn xăm xoi thằng thứ nhất. Nếu thích, vị trí đó là của anh. Quả cầu lửa nói khi vừa nhích tới. Cái gì? Thằng thứ hai hơi hoảng. Chẳng phải anh rất thích. Quả cầu nhìn với ánh mắt tinh quái. Mi nhầm to rồi. Bọn tao rất thông suốt và thứ tự. Thằng thứ hai nói to hơn bình thường. Ông anh đừng dối lòng nữa, ta có quyền năng, khi ta thoát ra ta sẽ giúp. Quả cầu đáp. Ở đây không đến lượt mi. Chiến dịch sắp kết thúc. Tù nhân chính là mi. Không thể, ông anh ạ, không ai có thể nhốt nổi mặt trời. Quả cầu nhìn xa xăm. Cũng đúng lúc đó từ vị trí thằng thứ nhất lại phát ra lệnh, lần ngày chỉ gọn một câu: Người ta đang nhìn mình. Sợi dây thừng siết chặt hơn. Quả cầu lửa hết cử động đành nằm im. Lửa từ các khẽ nứt bắn ra lách tách. 8. Người kéo đến ngày một đông. Tạo thành một vòng khổng lồ. Nhìn từ xa cái hình thù được tạo ra cũng độc đáo. Một vòng tròn khổng lồ đủ màu sắc bao quanh hình tam giác, ở chính giữa hình tam giác một khối cầu đỏ ối lập lòe phát sáng. Có thể hình dung là chiếc đèn ông sao hoặc vòng hoa đám tang. Đáng nói là cái vòng tròn ấy ngày càng thít chặt lấy hình tam giác và hình tam giác thì thít chặt khối cầu lửa. Khi vòng tròn xáp gần hình tam giác thì ba thằng hộ pháp nghe rõ tiếng xì xầm, chỉ trỏ. Vì thế chúng lại chẳng dám lơ là công việc. Ba thằng lại gồng cứng như ba cột đồng. 9. Tuy ở gần nhưng hai vị tóc bạc râu trắng ngồi ở vị trí cao hơn nên có thể quan sát cục diện. Hai vị đã dừng chơi cờ. Mắt chăm chú quan sát cái hình kỳ quái đang diễn ra bên dưới. Vị thứ hai tỏ ra sốt ruột: Người đâu mà lắm thế? Vị thứ nhất vuốt râu ra chừng thông thái: Đúng như dự đoán của ta. Vị thứ hai vo tròn hai lòng bàn tay làm ống nhòm, một lúc sau, vị này quay lại thở dài: Chỉ có nước chết. Vị thứ nhất cười bí hiểm: Chết là chết thế nào, đằng nào chả chết. Vị thứ hai giật mình: Chứ ông nói hai thằng lãnh đạo một thằng, yên tâm. Vị thứ nhất thanh minh: Ông không thấy đám lâu nhâu kia à, không khéo chúng cho ra bã. Dự đoán thần sùng. Vị thứ hai chửi lửng, ngồi xuống đánh bịch. Vị thứ nhất nói bâng quơ: Chẳng liên quan gì. 10. Ta sẽ nói cho ngài một bí mật. Sau một hồi nằm yên quả cầu lửa quyết định nhích về phía thằng thứ nhất tìm cách thoát ra. Bí mật? Thằng thứ nhất giọng cao ngạo. Bí mật về ta, về các vị tiên, về đám đông và cả về lũ thuộc hạ của ngài nữa. Quả cầu lửa đáp. Không cần thiết, đối với ta, tất cả đã quá rõ ràng. Thằng thứ nhất dứt khoát. Thế ngài chỉ mãi là tù nhân mà thôi. Quả cầu lửa nén tiếng thở dài. Ai? Ta ư? Hay là chính mi? Thằng thứ nhất cười ré lên. Tội nghiệp! Quả cầu lửa thốt lên, cựa mình về vị trí cũ. Sợi dây thừng có đoạn đã cháy sém mỏng mất một nửa. 11. Người kéo đến đen đặc. Ba thằng hộ pháp gồng lên. Hai vị tóc trắng râu bạc đưa tay quẹt mồ hôi. Gió lại nổi lên. Quả cầu lửa bỗng bùng cháy dữ dội. Những bàn tay lực lưỡng riết chặt. Tiếng reo hò ầm ĩ. Vòng tròn bóp lại. Hình tam giác méo xệch. Quả cầu lửa lồng lộn. Bỗng xuất hiện một hình vuông bao lấy quả cầu. Đám đông xô vào, khum lại. Cuối cùng là tiếng nổ sáng lòa, khối cầu vỡ tung, đám đông dạt ra. Tiếng reo hò: Mặt trời kìa, mặt trời kìa… Người ta nhảy múa như điên xung quanh ba thằng hộ pháp. Biển người phấn khích dập dờn tựa sóng triều dâng. Đã đến lúc, đã đến lúc… họ la hét, chửi bới và rồi họ hát bài ca về tự do, nhưng bài ca đó chỉ mỗi ba từ “đã đến lúc”. Sau đó một thời gian khá lâu, có thể một trăm năm, hai trăm năm hoặc hai ngàn năm, không ai còn nhớ rõ. Người ta truyền tai nhau ba câu chuyện thật li kỳ. Câu chuyện thứ nhất là về ba vị thần tạo sinh sự sống. Câu chuyện thứ hai là ba thằng ác quỷ âm mưu nhốt mặt trời để hủy diệt sự sống. Câu chuyện thứ ba là có ba thằng điên hoang tưởng làm loạn, phá làng phá xóm. Mờ mờ ảo ảo chẳng biết đường nào mà lần. Còn chuyện hai vị tóc bạc râu dài là chuyện có thể có thật, bởi sau đó nghe nói có hai mụ đàn bà đến xách tai hai vị này lôi đi. Tất nhiên cũng chỉ là nghe nói. Thực hư có trời mới biết. K.N.S (SH290/04-13) Thuở hàn vi 11:04 | 11/04/2013 TRẦN THÙY MAI Sau bốn năm du học, về thăm nhà hai tháng theo chế độ phép, bỗng nhiên Ba sinh một cái tật hết sức đáng buồn: ăn không biết ngon nữa "Quái, ngày xưa anh thấy bún bò nó ngon kia. Lúc mới sang bên ấy, cứ nhớ về những món ăn của mình mà thèm quay thèm quắt. Thế mà bây giờ nếm lại, thấy chẳng ra làm sao cả! Hình như bây giờ cái gì cũng giảm chất lượng rồi thì phải!". Quả cũng có như thế thật. Bây giờ vật giá tăng vọt, quán hàng nào cũng giảm bớt vật liệu, cho nên phở càng lúc càng ít thịt đi, mì thánh không còn ngọt mùi xương gà, các thức ăn ở nhà cũng bị ảnh hưởng bởi nước mắm đã được pha chế dở hơn xưa... Cái gì cũng "dổm" đi một chút, kém chất đi một chút. Thế nhưng Hồng - vợ Ba - lại cứ không chịu chấp nhận như vậy. Cô cứ muốn giải thích rằng không phải mọi thứ thay đổi, mà chính là anh thay đổi: - Cũng là món canh cá nục nấu với thơm này, hồi trước bắc xuống em cho vào hai muỗng tiêu, anh khen nức nở. Bây giờ anh toàn kêu cay không ăn được. Chẳng qua vì cái lưỡi của anh bao nhiêu năm không quen dùng các thứ gia vị của mình thôi. Cứ y như Từ Thức về trần ấy. Hồng nói đến Từ Thức về trần, là có ý hơi mát mẻ. Vì ngay mấy hôm mới về, trong lúc vợ chồng còn vui vẻ, đằm thắm ghê lắm, đang nói chuyện cũ, chuyện mới, chuyện bên Tây chuyện bên ta, còn mân mê lục soạn những món quà, Hồng đã thấy anh có vẻ gì đấy hụt hẫng, lạ lùng với mọi cảnh vật chung quanh. "Cứ như là trên trời rớt xuống!". Cô thầm nghĩ thế nhưng không nói ra miệng. Một hôm, anh bước xuống bếp, thấy chị lúi húi rán cá trên cái lò mùn cưa. Đảo quanh mắt một vòng, anh "chật chật" lưỡi, lắc đầu: - Đi sang nước người ta một thời gian, về nhìn lại cơ ngơi của mình thấy mà ngán quá. Vừa nói anh vừa nhún vai, cái cử chỉ nhún vai rất "Tây" mà trước đây Hồng chưa từng thấy ở anh. Nhìn lại cả người anh, rõ ràng là mọi cái đều lạ: mái tóc dài phủ gáy, bộ quần áo vệ sinh mặc nhà kéo phécmơtuya trước ngực, và cả cái phong thái khi nói, khi phát ra từng âm thanh, trong nó khang khác thế nào ấy... Hồng vốn là týp người duy cảm, nên tức thì lúc đó cô cảm thấy thoáng qua trong tâm hồn một cái gì thật khó tả. Lật xong con cá trên chảo, cô nói chậm rãi: - Thế mà trước khi anh về, em đã cho bán hết sạch lợn gà, và quét vôi lại cái bếp đấy. Chắc anh cũng không còn nhớ trước đây bốn năm thì bếp nước nhà ta nó như thế nào? - Kể ra thì anh vẫn nhớ - mới có bốn năm thôi chứ có lâu la gì. Nhưng sao hồi ấy anh thấy nó khang trang hơn bây giờ nhiều. - Khi ấy mình thấy cái gì mà chẳng khang trang. Từ chỗ phải che mưa mà nấu ngoài hiên, gió thổi khói vào mắt cay xè, bỗng nhiên được cơ quan xây cho dãy bếp, mừng quýnh... - À há! Có lẽ lúc ấy mới xây nên phong quang sạch sẽ hơn bây giờ nhiều. - Nó cũng thế thôi, chỉ có con mắt anh bây giờ nó khác! Con mắt của Giu-li-vơ từ xứ khổng lồ về, nhìn thấy ai cũng là người tí hon cả ấy mà - Hồng mỉm cười tinh nghịch - cái gì cũng lụi xụi, kém chất, kể cả vợ cũng thế, bây giờ cũng kém "chất" hơn trước phải không?. Ba cười xuề xòa và vỗ mạnh vào lưng vợ. "Không, không, bà thì kém chất đi một chút thật, nhưng cái chất cay độc thì xem ra còn đậm hơn xưa". Nói xong Ba cười ha ha rồi đi lên nhà. Hồng lườm theo, rồi cô cũng bật cười. Vẫn cái thói quen hay đùa bỗ bã như thế. Thâm tâm, cô hơi phật lòng, và hơi trách anh tí xíu, trong âm thầm, rằng sau một chuyến đi xa lâu thế mà anh chưa hề có câu nào để làm vừa lòng vợ. Tựa hồ anh nghĩ bàn là và nồi áp suất đã thay anh nói lên quá đủ tình cảm của anh với vợ. Thật là chán nếu anh nghĩ cô chỉ cần có thế... Đến bữa ăn, Hồng dọn lên món cá rán và các thức ăn làm sẵn. Bé Tí ăn trưa ở trường mẫu giáo. Chỉ còn hai vợ chồng. "Ăn đi anh, cá trắm tát ở ao bác Kỳ, còn tươi lắm". Ba gắp một miếng, nhấm nháp, gật đầu rồi bảo: - Ăn cũng được. À, cái món cá chiên, ở bên kia người ta thường tưới lên một thứ nước xốt đặc biệt, không phải là xốt cà chua như ở mình đâu nhé, ăn ngon lắm. Gì chứ cái món chiên thì ta không bằng họ được. "Vậy thì mai em sẽ làm món kho vậy. Chắc là bên kia không có các món kho!" Hồng trả lời, giọng đã hơi mất kiên nhẫn. Trái với chồng, cô cảm thấy những bữa ăn ngon hơn hẳn bình thường. Nhưng, thiếu một lời động viên đang mong đợi, Hồng cảm thấy mất hứng thú, ăn qua loa cho xong bữa. Lúc thu dọn bát chén vào bếp, bỗng nhiên cô thấy mắt cay cay như vướng phải khói. *** "Tại sao cô ấy lại bỗng dưng khó chịu? Hình như có một cái gì khang khác... Ngày trước cô ấy có ít nói và trầm ngâm như thế đâu? Có lẽ nào Hồng không vui khi gặp nhau sau một chuyến đi lâu như thế? Không, ngày ra đón mình ở sân bay, cô ấy và cả mình đều sung sướng biết bao. Và những ngày sau đó... Nhưng tại sao vẻ linh hoạt và thân yêu ở Hồng chợt tắt đi nhanh chóng, phải chăng những nhiệt tình ban đầu của cô ấy chỉ là giả tạo? Phải chăng trong bốn năm vắng mặt cô ấy đã không nghĩ đến mình? Điều gì đã xảy ra trong thời gian ấy?" Mặc dù tính vô tâm và hay đùa, Ba cũng bắt đầu thấy "cái gì khang khác" mà Hồng đã thấy. Những lúc Hồng đi vắng anh ngồi hút thuốc, nhìn theo làn khói bốc lên và nhiều câu hỏi hiện ra trong tâm trí anh. Tại sao Hồng lại từ chối không may mặc những thứ vải, áo anh đem về làm quà cho cô? Tại sao anh đã đem về một chiếc xe đạp mới và nhẹ như tên bay mà cô cứ khăng khăng đi làm bằng chiếc xe đạp cũ, chiếc xe lắp từ năm nảo năm nào, cặp dè đã xám xỉn đi và đạp cứ phải ì à ì ạch? Một trăm rúp học bổng một tháng đâu phải đã đủ cho mọi nhu cầu đời sống, của một người đàn ông ở Mat-xcơ-va. Chính vì nghĩ đến vợ con mà tháng nào anh cũng đã phải hạn chế đến tối đa những yêu cầu cần thiết trong sinh hoạt. Lẽ nào Hồng lại không biết thế? Nhìn cái xe cô ấy đi mà đến phát sợ... - Này, em, sao cái giàn xe lại có hai chỗ hàn, trong thê thế này nhỉ? - Mối hàn thứ nhất là hồi em đi mua gạo, nặng quá lao xuống ao, gãy giàn. Hồi đó anh đang còn ở nhà mà? Còn mối hàn thứ hai là bị xe hon da húc phải, hôm đó xuống dốc mà đứt phanh... - Chết chưa! Đấy, xe mà kém chất là nó dẫn theo bao nhiêu cái nguy hiểm. - Kệ, người kém chất đi xe kém chất chứ sao. Nó mới xứng. "Lại bắt đầu "chướng" rồi", anh lẩm bẩm. Hồng bao giờ cũng vẫn là như thế, như cái ngày mới ăn ở với nhau: bướng bỉnh, nhạy cảm quá đáng, đôi khi hơi buồn cười. Bây giờ anh thấy vợ quá buồn cười, quá lố bịch. Tựa hồ như cô đang hờn mát, đang muốn làm mình làm mẩy với anh... Nhưng vì lý do gì mới được kia chứ? "Em không biết, ở xứ mình quen chiến tranh, nên nhân mạng con người nhiều khi chẳng ai xem ra sao cả. Hôm về, đi ngang cầu Chương Dương, anh thấy rành rành một chiếc xe buýt đã nổ bẹp hai lốp xe bên trái, vậy mà cứ cố lăn bánh cho bằng được! Ở nước ngoài mà có một cảnh tượng như thế, có lẽ lái xe sẽ bị đóng gông ngay!". - Ừ, - Hồng phụ họa - bên nước ngoài thì cái gì mà chẳng hay hơn bên nước mình. Nghe nói bên ấy người ta ợ cũng thơm lắm phải không anh? Câu nói của Hồng làm Ba khựng lại, nín thinh, kinh ngạc. Anh bị xúc phạm nhiều hơn là Hồng tưởng. Anh đã làm gì để cô nói anh nặng nề như thế. Bận rộn vì công việc, anh vốn lười suy nghĩ, phân tích trước những chuyện cư xử vặt vãnh giữa vợ chồng. Nhưng dù sao thì vợ anh cũng không nên thế, nói năng thì quá hơn mạ lị người ta, mà giọng thì cứ nhẹ nhàng như không... Vứt cái nhẹ nhàng ấy đi có được hơn không? Thấy anh trầm ngâm, Hồng kiếm chuyện hỏi cho có chuyện: - Thế là đến ngày đi người ta lại mua vé cho mình? - Vé đã có rồi. - Anh đáp, giọng khô khan - Đi là phải mua vé khứ hồi chứ, mới chắc chắn chủ động được ngày về. Nhỡ có gì trục trặc phải ở lại luôn thì thực chết toi, nhỡ luôn ngày nhập học. Tác phong làm việc bên ấy... Ba định nói tiếp "...không phải như bên mình" nhưng anh kịp ghìm câu nói lại "Hm... Hm… m" Hồng hơi hấm hứ một mình. Anh dùng chữ "Đi" và "Về" nghe sao chạnh lòng quá "Đi" Việt Nam và "Về" Matxcơva. Lẽ ra là phải ngược lại mới phải, ừ, nhưng bốn năm rồi, anh đã ăn, đã ở, đã sống bên ấy, quen nói năng cư xử theo những kiểu cách ấy, và mai đây sau đợt phép lại còn tiếp tục ba năm nữa... Anh đâu còn thường trú ở đây, chỗ thường trú của anh là một nơi khác, ở xa chỗ ở của Hồng hàng trăm ngàn cây số... Hồng nhớ lại cái ngày anh đi... Đêm cuối cùng hai vợ chồng nằm bên nhau, cạnh đấy là bé Lan mới lên hai nằm quấn mình trong chăn. Đêm khuya, anh đã ngủ rồi, riêng Hồng vẫn còn thao thức. Hồng nghĩ đến những ngày tháng đã qua. Những nỗi vui mừng khi nghe tin chồng được gọi đi học. Những vất vả khi anh còn phải học một năm tiếng Nga trong nước. Những hôm hai vợ chồng cùng nhau đi sắm sửa chuẩn bị quần áo cho anh. Rồi Hồng nghĩ đến những lời đùa cợt của bạn bè chung quanh: "Sang Tây nhớ sống như Tây đấy nhé, yêu như Tây đấy nhé, chị Hồng có thông cảm không nào?" Ngày mai, sống ở nơi xa xôi, rồi ai biết cuộc đời ai ra sao? Rồi anh sẽ sống với ai, thường ngày gặp gỡ những ai? Anh sẽ đi vào một chặng đời mới, chị dù có muốn giữ anh cũng không được, chị không thể ràng buộc anh hơn nữa... Hồng muốn thức chồng dậy, muốn nói với anh: "Anh ra đi, em trả lại sự tự do cho anh, anh hãy tự chủ lấy cuộc đời anh, em không muốn mà cũng không thể... Chỉ xin anh đừng quên đứa con bé bỏng, làm việc gì anh cũng hãy nhớ đến hạnh phúc của nó". Nghĩ thế nhưng rồi Hồng lại lặng yên, thinh thinh nuốt hết những điều định nói vào đáy lòng. Bởi, bây giờ thì đã có gì đâu, sao mình lại khi không "bật đèn xanh", bắc thang cho người ta leo? Biết đâu chừng anh lại nghĩ là mình gợi ý cho anh một sự thỏa hiệp tương tự, để anh cũng lại "bật đèn xanh" cho mình! Thôi hãy im lặng để thời gian trả lời tất cả... Hồng nghĩ thế rồi khóc, rồi lại nhìn chồng, nhìn con rồi lại khóc lặng lẽ... Cô thấy rõ đây là phút cuối cùng gần anh, từ nay anh sẽ xa, xa lắc. Và bây giờ, quả thật anh đã về nhưng cô vẫn thấy xa xôi thế nào ấy... - Này, em, hay là thời gian này em còn bận đi làm, anh tranh thủ đi một vòng vào Đà Nẵng, Quy Nhơn, thăm các anh các chị nhé, ở nhà làm gì, hết đi ra rồi lại đi vào. Câu nói của anh tắt nốt những đốm lửa cuối cùng còn bập bùng trong lòng Hồng. - Vâng thì đi... Đi cho nó vui, tội gì. Với lại, trước sau cũng phải vào không có anh chị lại trách. Vào Quy Nhơn, anh nhớ nói chị Yến mua cho em mấy cân tôm khô. - Ừ được thôi. Nhưng nhớ là khi về đừng bắt anh xơi tôm khô đấy. Mùi nó gờn gợn ghê thấy bà. Hồng hơi lườm chồng "Tôm khô Minh Hải bóc vỏ lột sạch, không có mà làm món nhậu đấy chứ lại còn chê. Nói vậy thôi, chứ ai bắt dân Tây ăn mắm bò hóc mà lo!". - Em cứ hay đùa, làm ai nghe được họ lại ác cảm với anh thì nguy. Chỉ vì anh thật thà, cái gì ngon thì nói ngon, cái gì dở thì nói dở! - Vâng, vâng em biết rồi, xin anh - Hồng vừa gượng cười vừa xua tay. Và thế là anh lại đi... Mãi hai tuần trước hết phép mới trở lại. Ba trở về bằng tàu hỏa, sau một chuyến đi khá nhọc mệt, nỗi nhọc mệt được nhân lên nhiều lần sau một thời gian bẵng đi không hề tiếp xúc với tình hình xe tàu khó khăn ở đất nước. Tắm rửa qua loa, anh kêu đói bụng, đói quá, hỏi xem có gì ăn không. Hồng đang chuẩn bị dọn cơm, bảo rằng tưởng tối nay chỉ có hai mẹ con thôi nên thức ăn sơ sài chẳng có gì. - Kệ, thôi có gì ăn nấy đừng bày vẻ nữa. Anh ăn một tí rồi đi nghỉ ngay thôi. Bé Lan huyên thuyên hỏi chuyện bố, còn Hồng thì xới cơm vào bát với nụ cười thường lệ - cái cười trầm lặng, nhiều ẩn ý mà cũng có thể là chẳng có ẩn ý gì. Rồi cả nhà bắt đầu ăn. Cái gì thế này? không hiểu sao Ba ăn ngon quá, như chưa từng bao giờ ngon miệng như thế suốt mấy năm nay. Một, hai, ba bát... Liên tục, anh đưa bát cho Hồng xới và... tự nhiên cô thấy vui vui, ngộ ngộ, rồi cuối cùng bật ra cười... - Mẹ ơi, mẹ cười gì thế mẹ? Mẹ cười ba. Lâu nay chăm chút từng li từng tí thì chê mãi. Bây giờ về, thịt bạc nhạc chấm mắm thì lại ăn ào ào. - Ừ, không hiểu sao cái thứ mắm này chấm thịt lợn ngon thế! Thú thực với em, từ mấy tháng nay, đến bây giờ anh mới thấy hứng thú với món ăn. Thế mới đúng phong vị quê hương cũng ghê thật! Lẽ ra em phải biết thế từ lâu mới phải. "Ư hừ... Hồng lại vừa lườm nhẹ vừa mỉm cười - mắm nêm này, anh có nhớ hồi đi công tác Bến Hải, vào chỗ làm mắm của hợp tác, sau đó về anh toàn tuyên bố là không bao giờ dám đụng vào bất cứ thứ mắm nào, ghê lắm... Vả, từ hồi lấy em có bao giờ anh tỏ ra thích mắm đâu!" - Ừ - Ba nhớ lại - hồi ở ngoài quê anh, cả nhà không quen ăn thứ này. Ngoài quê gọi là mắm chợp... - Ba bắt đầu triển khai câu nói, theo thói quen diễn giảng đã có từ ngày bắt đầu làm nghề dạy học - Khi nào có một đôi vợ chồng lấy nhau mà trông khập khiễng quá, ví dụ chồng già vợ trẻ, hoặc chồng đẹp, vợ xấu - chẳng hạn, thì người ta bảo "Thịt phay mà đem chấm mắm chợp". Sau ở với em, anh mới biết đến mùi của cái thứ này. Chẳng biết anh tập quen với nó từ bao giờ mà bây giờ có vẻ nghiện thế này nhỉ? Hồng vỗ lên mớ tóc tơ của bé Lan: - Từ hồi con bé này đau mắt chứ đâu. Anh có nhớ cái mùa đông năm ấy công chúa bỗng nhiên viêm phế quản rồi tiếp đến đau mắt không? nửa đêm nhìn lại mắt con thấy máu chảy đầm đìa, hai vợ chồng ôm chạy lên bệnh viện, dở khóc dở mếu! Chạy hết thầy hết thuốc ba tháng ròng, chỉ toàn ăn mắm cầm hơi chứ có gì đâu. Ba nhìn con gái một lát, trong trí hiện về những chuyện đã từ sa lắc xa lơ thuở nào. "Mẹ ơi, rồi sau mắt con có lành không?". "Lành chứ, sao con hỏi ngớ ngẩn thế. Nếu không lành thì làm sao con lại nhìn thấy ba, thấy mẹ được". Hồng âu yếm trả lời. Bé Lan bẽn lẽn ngúng nguẩy hai đuôi sam ngắn ngủn. Bất giác Ba mỉm cười. Ngày anh đi, cô con gái lên hai còn bụ bẫm lắm, xinh lắm. Lúc anh về thì bé đã lên sáu, vừa sún hai cái răng cửa, người thì dài và gầy ngoẵng ra. Nói thực tình, hình ảnh đứa con có làm anh hơi thất vọng. Nhưng bây giờ, sau mấy tuần vắng mặt anh, hai cái răng mới con con vừa nhô ra, trông hay hay, dễ thương chi lạ. Bữa cơm đã xong. Hồng dọn bát đũa xuống bếp rồi trở lên lau qua bàn ghế. Bé Lan bồng con búp bê Katia của bố vừa đem về tăng tăng đi chơi với các bạn láng giềng. Ba nhớ đến mấy hôm mới về, có lần Hồng đã hỏi vặn hỏi vẹo đôi tí về cái tên con búp bê này. Tại sao lại phải tên là Katia kia chứ? Ừ- Bây giờ Ba cũng thấy mình dở hơi thật. Tại sao lại phải cứ là Katia? Bây giờ anh thấy mọi cái đều vớ vẩn, trừ tiếng cười của con gái anh đang vang lên trong trẻo ngoài kia. Thấy Hồng định quay xuống bếp, Ba bảo: - Thôi ngồi chơi một chút đi em. Làm gì mà lúc nào cũng tất bật. Hồng hơi ngừng lại, ngần ngừ, muốn rửa dọn cho xong nhưng rồi lại chiều chồng, ngồi xuống bên anh. Bắt đầu có ngọn gió mát thổi qua các hàng cây, và một chút trăng đã nhô lên sau nóc dãy nhà đối diện. Hai vợ chồng ngồi bên nhau: Ba quàng tay qua vai vợ, lặng im nghe một điều gì đấy đang âm thầm khơi động từ dưới đáy tâm hồn. - Mới đó mà nhanh quá em nhỉ... Nhớ hồi anh vừa làm hồ sơ đi học, con bé của mình còn nằm trong tã, chưa ngoẹo đầu qua bên này được... - Cũng năm sáu năm qua rồi đấy anh... - Ừ, thế mà anh thấy như mới đây thôi. Nhớ cái hồi sinh ra nó, em cao hứng thế nào mà lại chuyển bụng lúc hai giờ sáng, chẳng có xe cộ gì anh phải chở bằng xe đạp qua năm cây số đường dốc mà trời lại lạnh như cắt. Giữa đường em đau quá bám không vững, anh toàn đặt em ngồi thế mà đẩy xe đi bộ... Hồng cười theo chồng. "Cái xe lắp hồi mới lấy nhau, ki cóp mãi mới đủ, phụ tùng thì chị em bạn bè mỗi người cho một ít. Bây giờ nhìn đến mỗi bộ phận là lại nhớ một người! Cũng may mà sức vận tải nó cũng ghê, lúc ấy ngồi trên xe em cứ nơm nớp sợ nó trục trặc một cái thì thực chết bỏ xừ". Hai vợ chồng bất giác lặng yên... Cái xe bảy năm qua, bây giờ đã cũ lắm, đi giữa đường phố bây giờ, bên những chiếc xe đạp choáng lộn trông có vẻ gì cổ lỗ... Thế nhưng Ba lại bắt đầu thông cảm với vợ về cái việc khư khư không chịu bán tống bán tháo nó đi. "Em ạ, cái xe này là phải bảo quản thật kỹ, biết đâu sau này con gái mình trở thành một thiên tài thì người ta sẽ đưa nó vào nhà truyền thống đấy". Hồng nắm tay Ba, bẻ gập từng ngón cho nó kêu lên răng rắc. "Thiên tài à? Em thì chẳng nghĩ được to tát như thế - Cô hạ giọng - Em chỉ muốn giữ nó lại để làm kỷ niệm thuở hàn vi". Gió lại thổi mát rười rượi, và vầng trăng bắt đầu tỏa sáng. Ba nhìn Hồng, lần đầu tiên thấy vợ mình vui, dịu dàng, hồn hậu kể từ ngày về phép. Hồng cũng nhìn Ba và thấy anh dễ thương, dễ gần, thân thuộc lạ. Không rõ cái gì chợt phá tan cái màn ngăn cách lâu nay thế? Cô bỡ ngỡ nghĩ thầm. Chẳng lẽ lại là cái mùi mắm chợp? Cứ thế, hai người ngồi bên nhau, cùng nghe trong tiếng cười văng vẳng của con ngoài xa vọng lại, những kỷ niệm của một thời tấm mẳn xa xưa...
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip