TTCK Pixie Chap1

Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán (TTCK) sơ khai đã xuất hiện ngay từ 

thời Trung cổ xa xưa. Vào khoảng thế kỷ XV, ở các thành phố lớn của các nước phương Tây, 

trong các phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau tại các quán 

cafe để thương lượng mua bán, trao đổi h àng hoá. Đặc điểm của hoạt động n ày là các thương 

gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của 

bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường 

hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc th ương lượng. Những quy 

ước này dần dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia. 

Năm 1453, ở thành phố Bruges (Bỉ), buổi họp đầu ti ên đã diễn ra tại một lữ quán của 

gia đình Vanber.  Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 túi da - tượng trưng cho 3 loại 

giao dịch: giao dịch hàng hoá, giao dịch ngoại tệ, giao dịch chứng khoán động sản.   2

Vào năm 1457, thành ph ố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn  thịnh do eo biển Even bị lấp 

cát nên mậu dịch thị tr ường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ). Ở đây 

thị trường phát triển rất nhanh chóng. Các thị trường như vậy cũng được thành lập ở Anh, 

Pháp, Đức, Mỹ. 

Sau một thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được yêu 

cầu của 3 loại giao dịch khác nhau nên đã phân ra thành nhiều thị trường khác nhau: thị 

trường hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán…với đặc tính riêng của từng thị 

trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. 

Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị 

trường hối đoái. 

Quá trình phát triển thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Thời 

kỳ huy hoàng nhất  là vào những năm 1875  - 1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh 

cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày 29/10/1929, ngày được gọi là “ngày 

thứ năm đen tối”, đây l à ngày mở đầu cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York, 

và sau đó lan rộng ra các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, Nhật bản. Sau thế chiến 

thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triển mạnh. Nh ưng rồi “cuộc khủng hoảng 

tài chính” năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp, 

kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng 

chỉ 2 năm sau, thị tr ường chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển và trở thành một 

định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền 

kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. 

1.2.   Khái niệm thị trường chứng khoán 

Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán: 

-   Thị trường chứng khoán: tiếng la tinh là BURSA, là một thị trường có tổ chức 

và hoạt động có điều khiển. 

-   Thị trường chứng khoán được định nghĩa theo Longman Dictionary Business 

English, như sau: một thị trường có tổ chức là nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo 

những quy tắc đã được ấn định. 

Các quan niệm trên đều được khái quát tr ên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều 

kiện lịch sử nhất định. 

Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị 

trường chứng khoán hiện nay là: 

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán,  trao đổi các loại chứng 

khoán. 

Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá, xác nhận quyền v à lợi ích hợp pháp của 

người sở hữu đối với nhà phát hành. 

1.3.   Phân loại thị trường chứng khoán 

Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị tr ường chứng khoán có thể được phân 

loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhi ên, thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức 

cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân 

loại theo quá trình luân chuyển vốn.  

1.3.1.   Phân loại theo hàng hoá của thị trường chứng khoán 

Theo các loại hàng hoá được mua bán tr ên thị trường, người ta có thể phân thị tr ường 

chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ phái 

sinh. 

-   Thị trường trái phiếu: 

  Thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua 

bán tại đó là các trái phiếu. 

-   Thị trường cổ phiếu:   3

  Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua 

bán tại đó là các cổ phiếu. 

-   Thị trường các công cụ phái sinh: 

  Thị trường các công cụ phái sinh là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao 

đổi, mua bán tại đó là chứng khoán phái sinh. Ví dụ: hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền 

chọn. 

1.3.2.   Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn 

Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ 

cấp. 

-   Thị trường sơ cấp (thị trường cấp 1): 

    + Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành mới các chứng khoán hay là nơi 

mua bán chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát 

hành. 

    + Các chứng khoán lần đầu tiên được bán ra thị trường được gọi là chứng 

khoán mới được phát hành. Nếu việc phát hành mới là các chứng khoán bổ sung được nhà 

phát hành đã có chứng khoán đưa ra công chúng thì được gọi là phân phối lần đầu. 

   + Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp nhằm mục đích làm tăng 

vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc mua bán, Chính phủ có th êm nguồn thu để tài trợ cho 

các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng. Các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm 

đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó, đưa nguồn vốn tiết kiệm vào đầu tư. 

-   Thị trường thứ cấp (thị trường cấp 2): 

   + Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng 

khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản 

xã hội. 

   + Thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã phát hành. 

Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Việc 

tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện cho việc thay đổi thời hạn của vốn, từ vốn 

ngắn hạn sang trung và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu 

quả. 

    + Thị trường thứ cấp xác định giá của  chứng khoán đã được phát hành trên thị 

trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty. 

    + Thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi 

phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở 

tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Vốn sẽ đ -

ược chuyển tới những công ty nào làm ăn có hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh 

tế xã hội. 

Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: ở thị trường sơ 

cấp, nguồn vốn tiết kiệm được thu hút vào công cuộc đầu tư phát triển kinh tế. Còn ở thị 

trường thứ cấp, việc giao dịch không làm tăng quy mô đầu tư vốn, không thu hút th êm được 

các nguồn tài chính mới mà chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ 

thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán. 

Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Nếu 

không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp. 

Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó hoạt động trôi chảy. 

Chính sự có mặt của thị trường thứ cấp đã giúp cho các chứng khoán có tính thanh khoản, làm 

tăng tính hấp dẫn của chứng khoán; từ đó làm tăng tiềm năng huy động vốn của các chủ thể 

phát hành chứng khoán. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt 

động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới thực sự vận 

động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp 

chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.   4

1.3.3.   Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường 

Theo cách phân loại này, thị trường chứng khoán được tổ chức thành các Sở giao dịch, 

thị trường chứng khoán phi tập trung và thị trường tự do. 

-   Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) 

    + SGDCK là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm 

tập trung. 

    + Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại SGDCK thông thường là 

chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng, đ ã trải qua nhiều thử thách trên thị trường và 

đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn  niêm yết do SGDCK đặt ra. 

    + SGDCK được tổ chức và quản lý một cách chặt chẽ bởi UBCKNN, các giao 

dịch chịu sự điều tiết của luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. 

-   Thị trường chứng khoán phi tập trung 

    + Thị trường chứng khoán phi tập trung là thị trường không có trung tâm giao 

dịch tập trung, đó l à một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với 

nhau và với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường chứng khoán phi tập trung 

được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch) của các ngân hàng và công  ty chứng khoán thông 

qua điện thoại hay máy vi tính diện rộng. 

    + Khối lượng giao dịch của thị tr ường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với 

SGDCK. 

    + Thị trường chứng khoán phi tập trung chịu sự quản lý của Sở giao dịch và 

Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. 

-   Thị trường tự do 

  Thị trường tự do là thị trường giao dịch tất cả các loại cổ phiếu đ ược phát hành 

thông qua việc thương lượng và thoả thuận trực tiếp giữa bên mua và bên bán tại bất cứ nơi 

đâu, vào bất kỳ lúc nào. 

1.4.   Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 

Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể tham gia hoạt động theo nhiều mục 

đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể quản lý v à giám sát các hoạt động 

của thị trường chứng khoán, và các tổ chức có liên quan. 

1.4.1.   Chủ thể phát hành 

Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng 

khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp v à một số tổ chức khác 

như: Quỹ đầu tư 

-   Chính phủ  

    + Chính phủ là chủ thể phát hành các chứng khoán: trái phiếu Kho bạc, trái 

phiếu công tr ình, tín phiếu Kho bạc nhằm mục đích t ìm vốn tài trợ cho những công tr ình lớn 

thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, y tế, hoặc bù đắp thiếu hụt Ngân 

sách Nhà nước. 

     + Chính quyền địa phương là chủ thể phát h ành trái phiếu địa phương để vay 

nợ nhằm huy động vốn phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. 

-   Doanh nghiệp  

  Doanh nghiệp là chủ thể phát hành các cổ phiếu hoặc trái phiếu doanh nghiệp 

để tìm vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 

-   Quỹ đầu tư 

  Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu t ư chuyên nghiệp, được hình thành bằng vốn 

góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác. 

Mục đích thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút những nhà đầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh 

doanh. Đặc trưng cơ bản nhất của Quỹ đầu tư là quỹ vừa đóng vai trò là tổ chức phát hành 

bằng việc phát hành ra các chứng khoán như chứng chỉ quỹ đầu tư; vừa đóng vai trò là tổ 

chức đầu tư, kinh doanh các loại chứng khoán.   5

1.4.2.   Nhà đầu tư 

Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên thị 

trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá 

nhân và nhà đầu tư có tổ chức. 

-   Các nhà đầu tư cá nhân 

  Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi 

tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. 

Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì 

mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn 

phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi  ro 

của mình. 

-   Các nhà đầu tư có tổ chức 

  Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng 

khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường 

chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu t ư, các công t y 

bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ bảo hiểm x ã hội khác. Đầu t ư thông qua các t ổ chức đầu t ư 

có ưu điểm là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện 

bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm. 

1.4.3.  Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 

-  Công ty chứng khoán: 

  Công ty chứng khoán là các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn 

hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán. Đó l à những tổ chức ki nh tế có tư cách pháp nhân, có 

vốn riêng và hạch toán kinh tế độc lập. Tuỳ theo vốn điều lệ và đăng ký kinh doanh mà m ột 

công ty có thể thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng 

khoán, tự doanh, quản lý danh mục đầu t ư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng 

khoán. 

-   Các ngân hàng thương mại (NHTM). 

  Tại một số n ước, các NHTM có thể sử dụng vốn tự có để tăng v à đa d ạng hoá 

lợi nhuận thông qua đầu t ư vào các chứng khoán. Tuy nhiên, các ngân hàng chỉ được đầu tư 

vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân h àng trước những biến động 

của giá chứng khoán. Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc 

lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. 

1.4.4.   Cơ quan quản lý và giám sát các hoạt động thị trường chứng khoán  

Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán đã cho thấy, đầu tiên thị 

trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu, trái phiếu 

và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi ích cho các nh à đầu tư 

và đảm bảo sự hoạt động của thị trường được thông suốt, ổn định và an toàn, bản thân các nhà 

kinh doanh chứng khoán và các qu ốc gia có thị trường chứng khoán hoạt động cho rằng cần 

phải có cơ quan quản lý và giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán.  

Cơ quan qu ản lý và giám sát thị trường chứng khoán được hình thành d ưới nhiều mô 

hình tổ chức hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan 

này trực thuộc Chính phủ, nh ưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản 

và Nhà nước. Cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán do Chính phủ của các 

nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng 

khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững. 

1.4.5.   Các tổ chức có liên quan 

Ngoài các chủ thể trên, trên thị trường chứng khoán còn có các tổ chức quan trọng 

khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán như Sở giao dịch 

chứng khoán; Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán; Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ 

chứng khoán; các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.   6

-   Sở giao dịch chứng khoán 

  Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ 

chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ cho các hoạt động giao dịch trên Sở giao 

dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao 

dịch chứng khoán trên Sở, phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán. 

-  Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán   

  Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng 

khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với 

mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty chứng khoán nói riêng và cho toàn ngành chứng 

khoán nói chung.  

  Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự quản, thực 

hiện một số chức năng chính như sau: 

  + Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. 

  + Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều h ành trên cơ sở các quy định pháp 

luật về chứng khoán. 

  + Điều tra và giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên. 

  + Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán. 

  + Hợp tác với Chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác 

động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. 

-   Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán 

  Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh 

toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. 

-   Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm 

  Công ty đánh giá h ệ số tín nhiệm l à công ty chuyên cung c ấp dịch vụ đánh giá 

năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam 

kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế 

thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải cho công ty. Vì thế, một công ty 

phát hành có thể mang nhiều mức hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó. 

  Hệ số tín nhiệm được biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tuỳ theo quy định 

của từng công ty xếp hạng. Ví dụ: theo hệ thống xếp hạng của Mooody’s sẽ có các hệ số tín 

nhiệm được ký hiệu là Aaa, Aa1, Baa1, B1; theo hệ thống xếp hạng của S&P, có các mức xếp 

hạng AAA, AA+, AA, AA-, A+, A 

  Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ 

số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình. 

Tiết 4, 5, 6: 

1.5.   Vai trò của thị trường chứng khoán 

Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị trường 

phát triển. Thị trường chứng khoán là chiếc cầu vô hình nối liền giữa cung và cầu vốn trong 

nền kinh tế. Một thị trường chứng khoán lành mạnh và hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện 

khai thác tốt các tiềm năng củ a nền kinh tế, tạo sự l ành mạnh trong việc thu hút v à phân phối 

vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất. 

1.5.1.   Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh 

tế 

Chức năng cơ bản của TTCK là công cụ huy động vốn đầu t ư cho nền kinh tế và tăng 

tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát h ành và luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua đi 

bán lại chứng khoán trên TTCK đã tạo điều kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu 

vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu t ư từ ngành này sang ngành khác, từ đó góp phần điều 

hoà vốn giữa các ngành kinh tế, phá vỡ “tính ỳ” của đầu tư trong sản xuất, tạo ra những động   7

năng cho sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh 

tế. 

Thị trường chứng khoán là một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài chính, 

là chất xúc tác quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy các hoạt 

động kinh tế. 

1.5.2.   Thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng h ơn, thông 

qua việc buộc các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng theo một tỷ lệ nhất 

định. 

Ví dụ: ở Việt Nam, các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng với tỷ lệ 20% 

đối với các doanh nghiệp có vốn d ưới 100 tỷ đồng. Còn đối với doanh nghiệp có số vốn  trên 

100 tỷ đồng thì tỷ lệ yêu cầu phát hành chứng khoán ra công chúng là 15%. 

Điều này, một là: giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế vào một nhóm nhỏ, song vẫn 

tập trung vốn cho phát triển kinh tế, từ đó, tạo sự cạnh tranh công bằng hơn góp phần tăng 

tính hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế. 

                hai là: việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám 

sát của xã hội đối với hoạt động của công ty. 

1.5.3.   Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước 

ngoài. 

Việc đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong 

đó có đầu tư vốn thông qua thị tr ường chứng khoán. Đây là hình thức đầu tư dễ dàng và hữu 

hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị tr ường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể theo 

dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. 

Hơn nữa, thị trường chứng khoán thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi 

trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. 

1.5.4.   Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ huy động các nguồn tài 

chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo điều kiện cho Chính phủ thực hiện 

các chính sách tài chính tiền tệ. 

Khi Ngân sách thu không đủ bù chi, Chính phủ có thể bù đắp thâm hụt Ngân sách 

bằng hai cách: phát hành tiền hoặc đi vay nợ. Trước đây, Chính phủ ta đã phát hành tiền để bù 

đắp thiếu hụt Ngân sách, và đã gây nên áp lực lạm phát rất lớn, gây ảnh hưởng xấu đến nền 

kinh tế. Nhưng trong vài năm gần đây, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu Chính phủ để 

tạo ra nguồn thu b ù đắp Ngân sách mà vẫn quản lý được lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng 

có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động v ào thị trường chứng khoán nhằm định 

hướng đầu tư cho sự phát triển cân đối nền kinh tế. 

Trên thực tế, khi chưa có thị trường chứng khoán thì Chính phủ vẫn phát hành các loại 

trái phiếu Chính phủ để huy động vốn, nhưng phần lớn đó là các trái phiếu ngắn hạn nhằm 

đáp ứng các khoản chi Ngân sách trong năm tài khoá. Còn đối với các trái phiếu dài hạn thì 

rất khó phát hành, vì không có thị trường chuyển nhượng cho các trái phiếu, nên rất khó khăn 

trong việc chuyển đổi từ trái phiếu ra tiền. Vì vậy, khi thị trường chứng khoán ra đời, bản thân 

nó không những tạo ra tính thanh khoản và tính khả mại (tính dễ mua bán) của các chứng 

khoán, mà còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển h ướng đầu tư từ lĩnh vực này sang l ĩnh 

vực khác. Vì vậy, thị trường chứng khoán được xem là công cụ đắc lực tro ng việc huy động 

các nguồn vốn dài hạn. 

1.5.5.   Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong 

vũ biểu của nền kinh tế.  

Thị trường chứng khoán phản ánh t ình trạng của các doanh nghiệp v à của cả nền kinh 

tế Quốc gia. Các thị giá chứng khoán được thể hiện thường xuyên trên thị trường đã phản ánh 

giá trị phần tài sản Có của doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá thực trạng của doanh nghiệp, 

mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn mạnh, có hiệu quả cao,   8

hứa hẹn triển vọng tương lai tốt thì giá trị thị trường của chứng khoán công ty mới cao và 

ngược lại. 

Ngoài sự đánh giá các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của 

nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và 

dự đoán tương lai của nền kinh tế. Diễn biến của thị giá chứng khoán và khái quát hơn là ch ỉ 

số chứng khoán đã phản ánh thông tin đa dạng và nhiều chiều cho người đầu tư trước diễn 

biến của các rủi ro. Thị tr ường chứng khoán còn phản ứng rất nhạy cảm tr ước các chính sách 

kinh tế vĩ mô, các biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách và quản 

lý thường thông qua thị tr ường chứng khoán để phân tích, dự đoán, đề ra các chính sách điều 

tiết kinh tế và phương pháp qu ản lý kinh tế thích hợp, qua đó tác động tới các hoạt động của 

nền kinh tế quốc dân. 

Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng có những tác 

động tiêu cực sau: 

-  Thị trường chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ. 

  Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua 

chứng khoán với hy vọng là giá chứng khoán sẽ tăng lên trong tương lai, và qua đó thu đ ược 

lợi nhuận. Yếu tố đầu c ơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả 

tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời mua 

vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán 

một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống 

một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường. 

-  Hoạt động giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán. 

  Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt những thông tin nội bộ của doanh 

nghiệp, cũng như các thông tin mật không được hoặc chưa được phép công bố và sử dụng các 

thông tin đó cho giao d ịch chứng khoán nhằm thu lợi bất chính gọi là giao dịch nội gián. Các 

giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có nguồn tin nội gián 

sẽ có lợi thế trong đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho riêng mình. Điều 

này sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. Như vậy sẽ tác động tiêu cực tới tích luỹ và đầu tư. 

-   Thị trường chứng khoán hoạt động tr ên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song khi có 

tin đồn không chính xác hoặc thông tin lệch lạc về hoạt động của một doanh nghiệp, điều n ày 

gây tác động đến tâm lý của những người đầu tư, dẫn tới thay đổi xu hướng đầu tư, ảnh hưởng 

đến thị giá chứng khoán của doanh nghiệp trên thị trường và gây thiệt hại cho đại đa số người 

đầu tư. 

Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thực hiện trên nhiều khía cạnh khác 

nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị tr ường chứng khoán thực sự phát huy hay bị 

hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia trên thị trường. 

1.6.  Giới thiệu một số thị trường chứng khoán trên thế giới 

1.6.1.  Thị trường chứng khoán Mỹ 

TTCK Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên 

tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị trường 

chứng khoán khác. 

-  Thị trường chứng khoán Mỹ được thành lập vào năm 1792, Sở giao dịch chứng 

khoán New York (NYSE) là sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) lớn nhất và lâu đời nhất 

nước Mỹ, đây hiện là trung tâm giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới, quản lý tới hơn 80% 

các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành thị trường chứng khoán 

quốc gia. 

-  Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock Exchưange  - AMEX) là thị 

trường chứng khoán tập trung lớn thứ 2 ở Mỹ.   9

-  Bên cạnh các thị trường chứng khoán tập trung l à các SGDCK gồm 14 sở giao 

dịch khác nhau, tại Mỹ còn có thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường OTC) rất phát 

triển, đó là Nasdaq. 

    Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm 1971 là thị 

trường có số lượng chứng khoán giao dịch lớn nhất ở Mỹ với 15000 chứng khoán. Chứng 

khoán giao dịch trên thị trường này chiếm đa số là của các công ty thuộc ngành Công nghệ 

thông tin, các công ty vừa và nhỏ. 

1.6.2.  Thị trường chứng khoán Nhật bản 

Thị trường chứng khoán Nhật bản đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn dài 

hạn cho Chính phủ v à các công ty. Nói đ ến thị trường chứng khoán Nhật bản, trước hết phải 

kể đến SGDCK Tokyo (TSE). 

SGDCK Tokyo hình thành vào cuối năm 1878. Đây  là SGDCK ra đời sớm nhất, là thị 

trường lớn nhất tại Nhật bản về số l ượng chứng khoán lưu hành cũng như về doanh thu, đứng 

thứ 2 về doanh số bán, chỉ sau NYSE. 

Bên cạnh các SGDCK (Nhật bản có 8 SGDCK), còn có các thị trường chứng khoán 

phi tập trung, tiêu biểu là thị trường Jasdaq và J-net. 

  + Thị trường Jasdaq, hoạt động từ năm 1991 trên cơ sở phát triển thị trường OTC 

truyền thống hoạt động từ tháng 2/1963 do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Nhật 

bản quản lý. 

  + Thị trường T-net được đưa vào hoạt động từ tháng 5 năm 2000, chịu sự quản lý 

trực tiếp của SGDCK Osaka (OSE). 

1.6.3.  Thị trường chứng khoán Thái Lan 

TTCK Thái Lan là một trong những thị trường chứng khoán phát triển nhanh nhất ở 

khu vực Châu á. TTCK Thái Lan ban đầu được các công ty tư nhân thành lập vào tháng 

7/1962. Đến năm 1970 thị trường này phải đóng cửa vì ít người tham gia và thiếu sự hỗ trợ 

của Nhà nước. Tháng 2/1974 Luật SGDCK ra đời và SGDCK được mở cửa trở lại vào năm 

1975. Kể từ năm 1986, SGDCK Thái Lan phát triển mạnh và đạt hiệu quả cao. 

Thị trường chứng khoán Thái Lan cũng l à nơi điển hình của việc sử dụng hệ thống vi 

tính hoàn toàn tự động. Với hệ thống giao dịch tự động này, SGDCK Thái Lan cho phép các 

công ty chứng khoán thông qua hệ thống máy vi tính thực hiện các giao dịch ngay tại văn 

phòng của họ mà không cần trực tiếp đến Sở. 

1.7.  Thị trường chứng khoán Việt Nam 

Sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận 

hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại thành phố Hồ  Chí Minh ngày 

20/10/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000. 

Các chủ thể tham gia trên TTCK Việt Nam: 

-  Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) 

  UBCKNN được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/1/1996 của Chính  

phủ. Đây là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng tổ chức v à quản lý Nhà nước 

về chứng khoán và thị trường chứng khoán: quản lý việc cấp phép, đăng ký phát hành và kinh 

doanh chứng khoán, tổ chức công tác thanh tra, giám sát hoạt động giao dịch, mua bán chứng  

khoán, … để đảm bảo thị trường hoạt động ổn định, công bằng và minh bạch. 

-   Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh 

  Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về 

việc thành lập TTGDCK, Quyết định 128/1998/QĐ-UBCK, ngày 1/8/1998 của chủ tịch 

UBCKNN thì TTGDCK là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc UBCKNN có tư cách pháp 

nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. TTGDCK TPHCM thực hiện các chức năng: tổ 

chức, quản lý điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch 

chứng khoán và cung cấp các dịch vụ hổ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng 

khoán; đăng ký chứng khoán, thanh toán bù trừ đối với các giao dịch chứng khoán; công bố   10

thông tin về hoạt động giao dịch chứng khoán; kiểm tra giám sát các hoạt động giao dịch 

chứng khoán và một số nhiệm vụ khác. 

-   Các công ty chứng khoán 

  Theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK, ngày 13/10/1998 của UBCKNN, các 

công ty chứng khoán được thành lập dưới hình thức pháp lý là công ty cổ phần hoặc các công 

ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và 

hạch toán kinh tế độc lập. Tuỳ theo vốn điều lệ v à đăng ký kinh doanh mà một công ty có thể 

thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự 

doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán. 

-   Các tổ chức phát hành chứng khoán 

  Theo các văn bản pháp lý hiện hành, các tổ chức được phép phát hành chứng 

khoán ở Việt Nam bao gồm: 

  + Chính phủ: phát hành tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc và trái phiếu đầu 

tư. 

  + Chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án và các 

nhu cầu chi tiêu của chính quyền địa phương. 

  + Các công ty cổ phần: phát hành cổ phiếu (cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu 

đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức và cổ phiếu ưu đãi hoàn lại) và trái phiếu doanh nghiệp. 

  + Các DNNN: phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 

  + Các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ: phát hành chứng chỉ 

quỹ đầu tư. 

  Tuy nhiên, trên thực tế tham gia phát hành chứng khoán trong thời gian qua 

chủ yếu là Chính phủ, các NHTMQD, một số DNNN và các DNNN khi tiến hành cổ phần 

hoá. 

-   Các nhà đầu tư chứng khoán 

  Theo các văn bản pháp luật hiện hành, các nhà đầu tư trên thị trường chứng 

khoán Việt Nam bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức, các quỹ đầu tư, các doanh 

nghiệp, các công ty bảo hiểm… 

-  Các tổ chức phụ trợ khác 

Ngoài các thành viên nêu trên, tham gia th ị trường chứng khoán Việt Nam c òn có các 

tổ chức phụ trợ khác như: các tổ chức lưu ký, thanh toán bù tr ừ, các tổ chức kiểm toán… đủ 

điều kiện được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán. 

Hiện nay, Ngân hàng đầu tư và phát tri ển Việt Nam được chọn là ngân hàng chỉ định 

thanh toán. 

Tóm tắt chương: 

Sự ra đời của thị trường chứng khoán: 

  Vào khoảng thế kỷ XV, ở các nước phương Tây, các thương gia thường tụ tập trao 

đổi, giao dịch. Các cuộc trao đổi chỉ diễn ra bằng lời nói, không có giấy tờ hay hàng hoá. Cuối 

thế kỷ XV, một khu chợ riêng được hình thành để các thương gia tụ họp trao đổi, mua bán. Từ 

đó, các quy tắc giao dịch dần dần xuất hiện. Năm 1453, tại Bruges (V ương Quốc Bỉ), ở quán 

của gia đình Vander, các thương gia tụ họp để trao đổi, giao dịch hàng hoá thông thường, 

ngoại tệ và chứng khoán. Năm 1947, địa điểm giao dịch được chuyển đến thị trấn Anbert (Bỉ). 

Tại đây, thị trường giao dịch đã phát triển rất mạnh mẽ. Các thị trường như vậy cũng được 

thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Do tốc độ phát triển nhanh, thị trường giao dịch các loại 

hàng hoá được tách ra: Thị trường hàng hoá, Thị trường hối đoái, Thị trường chứng khoán. 

Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường 

hối đoái. 

Khái niệm thị trường chứng khoán: Có nhiều khái niệm. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và 

rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị tr ường chứng khoán hiện nay là: Thị trường   11

chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng 

khoán được hiểu là các giấy tờ có giá, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu 

đối với nhà phát hành. 

Phân loại thị trường chứng khoán: 

-  Phân loại theo hàng hoá của thị trường chứng khoán: 

+ Thị trường trái phiếu 

+ Thị trường cổ phiếu 

+ Thị trường các công cụ phái sinh 

-   Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn 

  + Thị trường sơ cấp (thị trường cấp 1) 

  + Thị trường thứ cấp (thị trường cấp 2) 

-  Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường 

  + Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) 

  + Thị trường chứng khoán phi tập trung 

  + Thị trường tự do 

Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 

-  Chủ thể phát hành: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như: Quỹ 

đầu tư. 

-  Nhà đầu tư: 

  + Các nhà đầu tư cá nhân. 

  + Các nhà đầu tư có tổ chức. 

-  Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán: 

  + Công ty chứng khoán 

  + Các ngân hàng thương mại 

-  Cơ quan quản lý và giám sát các ho ạt động thị trường chứng khoán: hoạt động nhằm 

mục đích bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động của thị trường được 

thông suốt, ổn định và an toàn. 

-  Các tổ chức có liên quan:  

  + Sở giao dịch chứng khoán. 

  + Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán 

  + Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán 

  + Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm. 

Vai trò của thị trường chứng khoán 

-  Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế. 

-  Thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua 

việc buộc các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng theo một tỷ lệ nhất định. 

-  Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. 

-  Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà 

không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo điều kiện cho Chính phủ thực hiện các chính sách 

tài chính tiền tệ. 

-  Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ 

biểu của nền kinh tế. 

Tác động tiêu cực của thị trường chứng khoán: 

-  Yếu tố đầu cơ. 

-  Hiện tượng giao dịch nội gián. 

-  Hiện tượng phao tin đồn sai sự thật về giá của một loại chứng khoán hay hoạt động 

cuả doanh nghiệp. 

Câu hỏi ôn tập 

1.  Phân tích cấu trúc của thị trường chứng khoán?

2.  Vai trò của thị trường chứng khoán? Phân tích cơ sở khoa học của việc hình thành Thị 

trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. 

3.  Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán? Liên hệ với thực tiễn Thị tr ường chứng 

khoán Việt Nam. 

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #pix