ttkh kid2404
Chương 1: tổng quan về thị trường kỳ hạn
Chứng khoán phái sinh
là một loại chứng khoán được sinh ra từ một chứng khoán gốc và giá cả của nó phụ thuộc vào giá cả của chứng khoán gốc.
Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản là hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi.
Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên ký hợp đồng về những nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đã được xác định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá cả của thị trường tại thời điểm tương lai đó.
Mục đích: Nhằm giảm bớt rủi ro xảy ra do các biến cố có thể đẩy giá cả lên cao hoặc xuống thấp trong tương lai.
Một số loại hợp đồng tương lai cơ bản: Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán, hợp đồng tương lai lãi suất, hợp đồng tương lai ngoại hối, hợp đồng tương lai nông sản, hợp đồng tương lai kim loại và khoáng sản.
Ví dụ: Vào đầu năm 2010, công ty A ký với công ty B một hợp đồng tương lai mua 105 tấn cà phê của công ty B với giá là p đồng/kg với thời điểm mua là cuối năm 2010. Đến đúng thời điểm cuối năm 2010 như được quy định trong Hợp đồng, Công ty B phải bán cho công ty A 105 tấn cà phê trên với giá p đồng/kg và công ty A phải mua 105 tấn cà phê với giá p như trên cho dù giá thị trường của cà phê tại thời điểm đó là bao nhiêu.
Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên ký hợp đồng về giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá xác định vào thời điểm ký hợp đồng. Mức giá trong hợp đồng kỳ hạn có thể thay đổi tại thời điểm giao nhận hàng hoá theo sự thoả thuận của các bên.
Đặc điểm
§ Hợp đồng kỳ hạn rủi ro hơn so với hợp đồng tương lai vì nó chưa chắc được được thực hiện tức là hợp đồng có thể bị phá vỡ
§ Không được chuẩn hóa mà dựa trên nguyên tắc thỏa thuận (không phải ký quỹ, tức không có một tổ chức nào đứng ra đảm bảo về tính thực hiện của hợp đồng)
§ Hợp đồng kỳ hạn rất kém tính thanh khoản so với HD tương lai.
§ Hầu hết các bên thực hiện giao dịch thực sự trên thị trường.
Quyền chọn
à một dạng chứng khoán phái sinh (derivative securities). Có hai loại quyền chọn cơ bản: quyền chọn mua (call option) và quyền chọn bán (put option).
[sửa]
Quyền chọn có hai loại:
Quyền chọn mua: Quyền chọn mua là một loại hợp đồng trong đó người nắm giữ quyền chọn có quyền, nhưng không bị bắt buộc, mua một loại tài sản nào đó (tài sản có thể là cổ phiếu, trái phiếu, hoặc là một món hàng nào đó) với một giá đã được định trước (strike price) trong một thời gian đã định. Trong giao dịch này có hai phía: người mua quyền chọn mua, hay còn được gọi là người nắm giữ quyền chọn, và người bán quyền chọn mua. Người mua phải trả cho người bán một khoản phí giao dịch (option premium). Người nắm giữ quyền chọn mua (call option holder) sẽ quyết định thực hiện quyền của mình khi thấy có lợi nhuận và người bán quyền chọn mua sẽ phải có nghĩa vụ là bán tài sản đó cho người nắm giữ quyền chọn.
[sửa]
Người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho người bán. Người mua sẽ có quyền được mua (không bắt buộc mua) một lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận, vào thời điểm xác định trong tương lai (hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện quyền chọn mua.
Ví dụ: Giá cổ phiếu của ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ lên khoảng 200.000 đồng. Hiện tại, nếu muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà đầu tư phải bỏ ra 100.000.000 đồng để mua nó. Giả sử sau một thời gian giá cổ phiếu không đúng như dự báo bị giảm xuống còn 60.000 đồng thì nhà đầu tư bị lỗ: 40.000.000 đồng. Trong trường hợp này, để vừa giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực hiện theo dự báo, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Quyền chọn mua, cụ thể: mua 1000 cổ phiếu của AB với giá 100.000 đồng/cổ phiếu, trong thời gian 3 tháng với mức phí quyền chọn là 20.000 đồng/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000 đồng. Trong thời gian 3 tháng trên, nếu giá cổ phiếu AB tăng như dự báo lên mức 200.000 đồng/cổ phiếu thì bạn sẽ thu được: 1000 cổ phiếu x 200.000 đồng = 200.000.000 đồng tức là bạn lãi 100.000.000 đồng – 20.000.000 đồng phí mua quyền chọn = 80.000.000 đồng. Trong thường hợp giá cổ phiếu của AB không tăng mà liên tục giảm cho đến hết thời gian 3 tháng thì nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu mất 20.000.000 đồng tiền phí quyền chọn mua.
Quyền chọn bán Quyền chọn bán là một loại hợp đồng trong đó người nắm giữ quyền chọn có quyền, nhưng không bị bắt buộc, bán một loại tài sản nào đó (tài sản có thể là cổ phiếu, trái phiếu, hoặc là một món hàng nào đó) với một giá đã được định trước trong một thời gian đã định. Trong giao dịch này có hai phía: người mua quyền chọn bán, hay còn được gọi là người nắm giữ quyền chọn, và người bán quyền chọn bán. Người mua phải trả cho người bán một khoản phí giao dịch. Người nắm giữ quyền chọn bán (put option holder) sẽ quyết định thực hiện quyền của mình khi thấy có lợi nhuận và người bán quyền chọn bán sẽ phải có nghĩa vụ là mua tài sản đó từ người nắm giữ quyền chọn.
Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán ở một mức giá nhất định trong tương lai.
Ví dụ: Nhà đầu tư là người nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức giá thị trường hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ phiếu có thể giảm xuống còn 70.000 đồng/cổ phiếu thì sẽ bị mất 30.000.000 đồng. Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí 20.000 đồng/cổ phiếu = 20.000.000 đồng để đảm bảo rằng cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể bán được 100.000 đồng/cổ phiếu. Tức là nếu như giá cổ phiếu giảm xuống dưới 100.000 đồng/cổ phiếu thì nhà đầu tư có thể sẽ có lợi vì được bán cổ phiếu ở mức cao hơn mức giá của cổ phiếu đó trên thị trường vào thời điểm đó.
Ví dụ khác: Nhà đầu tư muốn bán 1000 cổ phiếu công ty AB nhưng không nắm toàn bộ số cổ phiếu trên. Nhà đầu tư sẽ đặt quyền chọn bán 1000 cổ phiếu công ty AB với mức giá 100.000/1 cổ phiếu, nếu như giá cổ phiếu công ty giảm xuống còn 60.000/1 cổ phiếu, nhà đầu tư sẽ mua lại 1000 cổ phiếu của công ty AB với giá 60.000/1 cổ phiếu và bán lại với mức giá 100.000/1 cổ phiếu theo quyền bán mà ông đã mua. Nếu giá cổ phiếu công ty AB tăng lên, nhà đầu tư có thể hủy quyền bán cổ phiếu và chịu thiệt hại ít hơn (số tiền đặt mua quyền bán cổ phiếu AB với mức giá 100.000/1 cổ phiếu
Hợp đồng hoán đổi
Hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
Ví dụ: Để có đủ ngoại tệ là đô la Mỹ cho hoạt động đầu tư tại thị trường Mỹ, Công ty A của Việt Nam đã thoả thuận một 1 Hợp đồng hoán đổi với Công ty B của Mỹ, theo đó Công ty B chuyển cho Công ty A một lượng USD nhất định, đổi lại Công ty A sẽ cung cấp đồng đồng VN cho hoạt động đầu tư của Công ty B tại Việt Nam.
thị trường giao dịch kỳ hạn
Trước khi bạn bắt đầu tìm hiểu về giao dịch kỳ hạn và quyền chọn trên kỳ hạn, bạn phải biết đôi điều về thị trường kỳ hạn. Hợp đồng kỳ hạn là khế ước căn bản để giao dịch quyền chọn. Do đó, giá của quyền chọn, thường được gọi là bảo phí (premiums), trực tiếp ảnh hưởng bởi giá của kỳ hạn.
Hơn thế, bạn hiểu nhiều chừng nào về thị trường này thì bạn sẽ được trang bị tốt hơn với điều kiện thị trường và mục tiêu cụ thể của bạn trong giao dịch. Bạn sẽ có những quyết định tốt hơn cho mình trong việc tham gia thị trường kỳ hạn, quyền chọn trên kỳ hạn.
Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là một cam kết giao hoặc nhận một số lượng nhất định với một chất lượng nhất định một mặt hàng nào đó ở một giá định trước ở một thời điểm trong tương lai. Mọi điều khoản của hợp đồng kỳ hạn, trừ giá, đã được chuẩn hóa và thiết lập trước. Giá của hợp đồng kỳ hạn được thiết lập tại thời điểm giao dịch qua hệ thống giao dịch điện tử hoặc trên sàn giao dịch.
Tất cả hợp đồng kỳ hạn cuối cùng đều được thanh khoản hoặc bằng bù trừ giữa số hợp đồng mua và hợp đồng bán hoặc bằng cách giao và nhận hàng thật. Với các mặt hàng nông nghiệp, số lượng hợp đồng thanh khoản trên giao nhận hàng thật thường chỉ bằng 2% của tổng số hợp đồng giao dịch. 98% số hợp đồng được thanh khoản bằng cách bù trừ; mua (bán) lại số lượng đã bán (mua) trước đó.
Chức năng của thị trường giao dịch
Chức năng kinh tế chính của sàn giao dịch kỳ hạn là quản lý rủi ro giá và xác định giá. Sàn giao dịch thực hiện hai chức năng này bằng cách cung cấp những phương tiện giao dịch để đem người mua và người bạn lại với nhau. Sàn giao dịch đồng thời thiết lập những quy định và áp đạt quyền cưỡng chế những quy định này để bảo đảm môi trường giao dịch cạnh tranh thông thoáng.
Tất cả những giao dịch mua bán phải được thực hiện bởi công ty thành viên của sàn qua các công ty môi giới.
Người tham gia giao dịch
Có thể chia những người tham gia thị trường giao dịch thành hai thành phần chính: người đối ứng giá và người đầu tư. Thị trường kỳ hạn tồn tại chính yếu là để đối ứng giá, một phương cách quản lý rủi ro về giá và bảo đảm giá cho các nhà sản xuất và các doanh nghiệp thương mại.
Đối ứng giá là mua và bán song song trên thị trường tiền mặt và thị trường kỳ hạn. Giá của một mặt hàng trên thị trường tiền mặt (hay thị trường hàng thật) và trên thị trường kỳ hạn thường lên xuống cùng nhau. Bằng cách mua ở thị trường này, bán ở thị trường kia, hoặc ngược lại, mức lời/lỗ ở hai thị trường sẽ bù trừ nhau. Nhờ đó, dù giá thị trường lên hay xuống, người đối ứng vẫn được đảm bảo với mức giá họ đã chọn.
Người đối ứng bao gồm:
Người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm như người nông dân, các hợp tác xã, nông trường, nông trại, ...
Các doanh nghiệp thương mại nhỏ. Họ mua sản phẩm từ người sản xuất và bán lại cho khách hàng trong dây chuyền tiêu thụ.
Các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu.
Các doanh nghiệp chế biến.
Đầu tư trên thị trường kỳ hạn tương tự như đầu tư trên các thị trường khác. Lợi nhuận, hay thua lỗ, của người đầu tư là do việc dự đoán đúng hay sai chiều hướng giá trên thị trường. Sự có mặt của người đầu tưgiúp cho thị trường kỳ hạn hoạt động. Họ chấp nhận rủi ro từ biến động của giá để thu lợi nhuận.
Người đầu tư bao gồm các quỹ đầu tư quốc tế, các ngân hàng, và những nhà đầu tư nhỏ.
Tiền ký quỵ
Tiền ký quỵ là khoản tiền cho một hợp đồng kỳ hạn mà người tham gia thị trường phải đóng vào trương mục giao dịch của mình . Số tiền ký quỵ này được quy định bởi sàn giao dịch.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip