Tử thư tây tạng t1-phan 1
Lương Vân Kiệt sững sờ nhìn Đường Phong, một lúc sau, than thở: “Chàng trai, tôi có thể tin cậu không?”
Đường Phong không chút khách khí đáp: “Tùy, dù sao tôi cũng không tin ông!”
Lương Vân Kiệt bị chặn họng nên ngớ cả người ra, đáp: “Xin cậu hãy tin tôi, Tề Ninh gian lận và tự sát, thật sự không liên quan tới tôi. Trong đó có một âm mưu to lớn”.
Đường Phong hỏi: “Âm mưu gì?”
Lương Vân Kiệt định nói nhưng rồi lại thôi, đắn đo một lúc, lại là câu: “Tôi có thể tin cậu không?”
Nếu như không phải thấy bộ dạng ông ta da dẻ nhăn nheo, râu tóc bạc phơ, thì Đường Phong chỉ muốn đấm một phát vào mặt ông ta, anh lạnh lùng đáp: “Ông muốn tôi tin ông, thì trước tiên ông phải tin tôi”.
Lương Vân Kiệt hỏi: “Cậu muốn tôi tin cậu thế nào đây?”
Đường Phong rút cuộc đã đưa câu chuyện về chủ đề chính: “Trước tiên tôi phải được biết, lần này ông tới đây tìm tôi là vì cái gì?”
Lương Vân Kiệt đáp: “Có một bí mật lớn, âm mưu lớn, liên lụy tới một phạm vi rất rộng, cũng rất nghiệm trọng, nghiêm trọng hơn cả những gì cậu tưởng tượng. Tôi cần được giúp đỡ. Tôi nhớ ra trong hội chợ đấu giá, cậu cũng có hứng thú với kệ tranh ngọc nên đã cho người tìm kiếm chút thông tin về cậu… đừng nổi giận, tôi không có ác ý, chỉ là muốn xác nhận lại chút thôi, xem cậu có đáng tin hay không”.
Đường Phong lạnh lùng đáp: “Kết quả là tôi không đáng tin?”
Lương Vân Kiệt lắc đầu nói: “Không, kết quả điều tra khiến tôi rất hài lòng, cậu là người vẫn có thể kiên quyết duy trì nguyên tắc của bản thân hiếm có còn sót lại trong xã hội vật chất hiện nay, đến cả người bạn già của tôi, La Trung Bình, cũng rất ca ngợi cậu”.
Đường Phong ngạc nhiên hỏi: “Ông quen biết giáo sư La Trung Bình?” – giáo sư La Trung Bình là nhà sử học nổi tiếng, trình độ học vấn và nhân cách tu dưỡng đều danh nổi như cồn trong giới học thuật. Đường Phong tuy mới chỉ tiếp xúc với ông vài lần, nhưng ông chính là một trong số rất ít người mà Đường Phong thật lòng kính phục.
Lương Vân Kiệt lấy tay ra hiệu đợi một chút, móc điện thoại ra gọi, nói vài câu, sau đó đưa điện thoại cho Đường Phong: “La Trung Bình muốn nói chuyện với cậu”. Đường Phong nhận điện thoại, đầu dây bên kia quả là giọng nói của giáo sư La, giáo sư La nhấn mạnh Lương Vân Kiệt là bạn của ông, tuyệt đối đáng tin cậy, sau đó nói thêm vài câu rồi ngắt điện thoại.
Đưa trả lại điện thoại cho Lương Vân Kiệt, thấy bộ dạng nhẹ nhõm của ông, Đường Phong nói: “Ban nãy ông cũng nói tôi là người trọng nguyên tắc, giáo sư La tin tưởng ông, tôi tin tưởng giáo sư La, nhưng điều đó không nhất thiết đồng nghĩa với việc tôi cũng tin tưởng ông”.
Lương Vân Kiệt sắc mặt đanh lại, có chút choáng váng, có vẻ muốn nổi giận, nhưng rút cuộc ông đã kìm chế được, hạ giọng nói: “Chàng trai, cậu còn muốn thế nào nữa?”
Đường Phong hơi xoay người hướng về phía trước, đáp: “Tôi muốn biết, tại sao ông lại chịu trả giá cao như vậy để mua tấm kệ tranh ngọc kỳ lạ đó, còn nữa, những túi hồ sơ ông có được lúc tới nhận kệ tranh ngọc có những gì trong đó?”
Hai câu hỏi này vừa thốt ra khỏi miệng, Đường Phong nhận thấy Lương Vân Kiệt, dù đã cố gắng hết sức kìm chế nhưng biểu hiện rõ ràng cho thấy ông vẫn bị chấn động, hai câu hỏi đó rõ ràng, đã tác động rất lớn tâm can ông. Ông uống một ngụm trà, dừng lại một lúc rồi mới đáp: “Những điều này tôi sẽ nói với cậu, nhưng phải sau khi tôi đã hoàn toàn tin tưởng cậu”.
Đường Phong nói: “Vậy thì đợi sau khi ông tin tưởng thì hẵng đến tìm tôi”. Nói xong anh đứng dậy bước nhanh ra khỏi quán trà bỏ mặc những lời gọi với theo của Lương Vân Kiệt.
Đường Phong cầm ô, đi men theo bờ sông Châu Giang. Về bí mật lớn mà Lương Vân Kiệt nói, anh thực sự rất quan tâm, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Lương Vân Kiệt có thể tùy tiện điều tra anh. Điều càng khiến anh bực bội là sau khi Lương Vân Kiệt điều tra xong mà vẫn không hoàn toàn tin tưởng anh, vẫn muốn anh chứng minh thêm về bản thân, vậy thì sao mà anh không tức giận đến mức tỏ thái độ cho được? Dù sao thì nếu Lương Vân Kiệt cần anh, nhất định vẫn phải đến tìm anh.
Mưa vẫn rơi, đã hơn 10 giờ đêm. Thời khắc này đối với cuộc sống phong phú về đêm của người Quảng Châu mà nói thì vừa vặn đến lúc. Những quán bar, nhà hàng ven sông Châu Giang đèn hoa xanh đỏ, nếu không phải trời mưa, sẽ càng náo nhiệt hơn. Đường Phong vô tâm không lưu luyến gì nơi đây, anh đi thẳng rồi rẽ vào một con đường yên tĩnh khuất lấp, anh nhớ là băng qua con đường này thì có thể trở về khách sạn mình ở.
Bước đi trên con đường tối thui, đột nhiên, Đường Phong nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, tìm kiếm nơi tiếng kêu phát ra thì lại thấy bên đường có một con ngõ hẹp, trong ngõ có hai bóng đen lướt qua, rất nhanh, con ngõ lại trở nên tĩnh lặng, mặc dù tiếng kêu thảm thiết vừa phát ra từ đây. Đường Phong thu hết can đảm, bước nhanh vào con ngõ, từ từ, chầm chậm… anh tới gần hơn, rồi nhìn thấy một người đang nằm trên đất. Đường Phong cúi xuống xem xét, giật mình khi phát hiện ra người nằm trên đất chính là ông lão tóc bạc phơ Lương Vân Kiệt. Lúc này, trước ngực Lương Vân Kiệt có một vết thương, máu tươi đang tuôn ra xối xả, Đường Phong vội vàng đỡ Lương Vân Kiệt dậy, khẽ kêu lên: “Lương lão tiên sinh! Lương lão tiên sinh!”.
Lương Vân Kiệt khó nhọc mở mắt, xem ra ông đã rất yếu, muốn mở miệng nói, nhưng lại không nghe rõ ông nói những gì. Đường Phong ghé tai vào sát miệng ông, lúc này mới nghe được đứt quãng: “Huyết chú
[Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ]
Lương Vân Kiệt ban nãy còn muốn nói bí mật ra cho Đường Phong, lúc này đã trở thành một cái xác lạnh cóng, nằm bất động trong con ngõ nhỏ mưa rơi, nước mưa vương vãi trên khuôn mặt Đường Phong và cũng rớt trên mái tóc bạc của Lương Vân Kiệt, Đường Phong nhẹ nhàng vuốt mắt cho ông, đột nhiên, anh nhớ lại một bóng đen còn lại, ban nãy rõ ràng nhìn thấy có hai bóng đen trong ngõ, nhưng khi Đường Phong đến gần lại chỉ phát hiện ra mỗi Lương Vân Kiệt nằm trên đất, vậy bóng đen kia đâu? Nghĩ tới đây, Đường Phong bất giác lạnh toát sống lưng, anh quay ngoắt đầu lại, phía bên này là con đường ban nãy anh vừa đi tới – không có người, lại nhìn về phía bên kia của con ngõ nhỏ trong mưa , đầu đó thông ra một con đường khác, hình như con đường đó còn náo nhiệt hơn, chốc chốc lại có xe chạy qua, hung thủ đã bỏ chạy theo hướng đó?
Đường Phong đứng dậy, từ từ hướng về phía đầu ngõ trong mưa đó, trong ngõ rất tối, Đường Phong cầm điện thoại, lấy nó làm công cụ chiếu sáng, anh cảnh giác quan sát xung quanh, đặc biệt là hai bên ngõ tối thui, Đường Phong bước khoảng ba chục bước, đột nhiên, sau lưng anh vọng lại một chuỗi âm thanh khe khẽ, Đường Phong xoay người lại nhìn, chỉ thấy một bóng đen đang bò lên xác của Lương Vân Kiệt, không biết đang làm gì. Đường Phong nhìn không rõ hình dạng của bóng đen, anh cũng không rõ mình lấy dũng khí từ đâu ra, hét lên một tiếng, sau đó nhặt một viên gạch dưới đất lên, bước nhanh về phía bóng đen đó, bóng đen thấy tình hình không ổn, quay đầu hướng về đầu ngõ bên kia bỏ chạy.
Đường Phong quay lại cạnh xác Lương Vân Kiệt, dùng ánh sáng yếu ớt phát ra từ điện thoại soi chiếu, chỉ thấy quần áo trên người Lương Vân Kiệt xộc xệch, chiếc túi da luôn đeo bên người rơi bên cạnh. Hình như bóng đen ban nãy tìm kiếm vật gì đó trên thi thể, có lẽ… có lẽ trên người Lương Vân Kiệt thật sự có vật quan trọng nào đó, bị bóng đen lấy đi mất rồi! Nhìn lại thấy bóng đen đó đã sắp chạy tới đầu ngõ, Đường Phong liền, bất chấp tất cả lao theo. Thời còn đi học, Đường Phong cũng đã từng đoạt giải quán quân chạy cự ly ngắn toàn trường, người bình thường không phải là đối thủ của anh, nên phút chốc, Đường Phong đã đuổi tới đầu ngõ, ra đường. Bóng đen và Đường Phong, một trước một sau, truy đuổi trên đường trong đêm tối. Nhờ ánh sáng đèn đường, Đường Phong nhìn thấy bóng đen đó mặc một chiếc áo khoác da, cổ áo dựng đứng, còn đội một chiếc mũ, nên lại càng chẳng nhìn rõ mặt người đó, tốc độ của bóng đen rất nhanh, Đường Phong cũng dốc hết sức lực toàn thân, nhưng vẫn không đuổi kịp! Nhưng, đuổi được một lúc, Đường Phong bỗng phát hiện ra, người đó vốn cũng không quen đường ở đây, bóng đen hoảng loạn không biết chọn đường nào nên lao về phía bờ sông Châu Giang...
“Thằng chó chết!” - lúc bóng đen chạy băng qua đường, vì không nhìn đèn giao thông, nên đã bị một chiếc tắc xi đang phi vùn vụt lao tới đâm phải, khiến người tài xế bật ra câu chửi.
Nhưng bóng đen bị đâm mà chẳng hề hấn gì cả, hắn lập tức đứng phắt dậy băng qua đường, mất hút bên bờ sông. Đường Phong đợi tín hiệu đèn giao thông chuyển xong mới băng qua đường, đến khi anh chạy tới bờ sông thì, bóng đen đã mất tăm từ lâu. Đường Phong nhìn về phía mặt sông, mưa khói bao trùm mịt mùng, giữa mặt sông xuất hiện một xoáy nước nho nhỏ, tâm xoáy nước đang nổi lên một chiếc mũ, đây chính là chiếc mũ mà người ban nãy đội, Đường Phong bất giác nghĩ – lẽ nào người đó nhảy xuống sông rồi?
Khắp người Đường Phong ướt đẫm nước mưa, anh thở dốc, quay người, nhìn xung quanh – đầu đường, một chiếc tắc xi đang đỗ đợi khách, bác tài lơ đãng hút thuốc, dùng ánh mắt kỳ lạ dò xét Đường Phong. Vài chiếc xe con đang đỗ ven đường, Đường Phong không nhìn rõ phía trong xe, anh không biết trong xe có phải cũng đang có đôi mắt chằm chằm nhìn mình hay không. Trong quán bar, mọi người vẫn đang điên cuồng. Trong quán cà phê, vài đôi tình nhân vẫn đang lưu luyến không rời. Trong góc tối bên đường, rút cuộc đang ẩn giấu điều gì? - Lúc này, Đường Phong bỗng nhiên cảm thấy xung quanh có vô số những con mắt đang chăm chú nhìn mình. Không! Đây không phải là thật, tất cả những điều này là sao đây? Ba ngày trước, Tề Ninh rơi xuống chết trước mặt mình, còn hôm nay Lương Vân Kiệt lại bị đâm chết trong ngõ mưa, trời nóng như vậy mà mình lại truy đuổi một bóng đen đội mũ, mặc áo khoác da trên phố giữa đêm? Bóng đen bí hiểm đó lúc này đang ẩn nấp ở đâu đây?
Sáng sớm hôm sau, chào đón Đường Phong không phải là nắng vàng rực rỡ, mà là những tia sáng chói mắt, ánh sáng chói lóa rọi lên mặt Đường Phong, đây là lần thứ hai trong tuần anh bị đưa tới đồn cảnh sát, và lần này thì anh lại trở thành người bị tình nghi phạm tội.
“Anh là người cuối cùng tiếp xúc với Lương Vân Kiệt, trên thi thể của Lương Vân Kiệt lại lấy được dấu vân tay của anh, anh cũng thừa nhận anh và Lương Vân Kiệt đã từng vì một vật quý giá mà phát sinh tranh chấp, đây là những chứng cứ không có lợi cho anh, vậy anh giải thích thế nào?” – Tưởng Nhất Dân, cảnh sát của đội hình sự sát mặt nhìn Đường Phong.
“Tôi đã nói rồi, là cái gã áo đen đó giết Lương Vân Kiệt. Nếu như tôi giết Lương Vân Kiệt, tôi có ngu đần tới mức đi báo công an không?” - Đường Phong kịch liệt phản bác lại.
“Người áo đen? Hừm, anh kể chuyện cứ như trong “Nghìn lẻ một đêm” ấy nhỉ, lại còn mặc áo khoác da? Anh có thấy ai mặc áo khoác da trong cái thời tiết này không? Còn về chuyện báo án, người báo án trong rất nhiều vụ án cuối cùng đều bị chứng thực chính là thủ phạm”.
“Tôi không thể nói rõ với anh!”
“Không nói rõ cũng phải nói!”
Đường Phong bị ánh sáng chói mắt rọi vào, liền nhắm chặt mắt lại.
Lúc này, cửa phòng thẩm vấn vang lên tiếng lạch cạch, Tưởng Nhất Dân nhìn nhìn ra ngoài cửa, rồi bước ra ngoài. Đường Phong ngồi quay lưng vào cửa phòng thẩm vấn, anh đang định quay đầu lại nhìn thì cùng lúc đó vang lên một giọng nói đầy nghiêm khắc của một điều tra viên khác: “Không được tự ý cử động, thật thà chút đi!”
Đường Phong đành phải quay đầu lại, anh không biết Tưởng Nhất Dân đi đâu, làm gì, trong lòng anh rối bời, muốn sắp xếp để làm sáng tỏ hàng loạt sự việc này, nhưng anh càng nghĩ, đầu óc càng rối loạn, anh muốn nhanh chóng được gột sạch nghi vấn, ra khỏi cái nơi quái quỷ này…
Khoảng 10 phút sau, cửa phòng thẩm vấn mở ra, nhưng Đường Phong không thấy bóng dáng của Tưởng Nhất Dân đâu, còn viên cảnh sát đang chăm chăm canh giữ anh thì lại đi ra ngoài. Đường Phong càng thấp thỏm bất an trong lòng. Chính trong giây phút này, ba cảnh sát cao to lực lưỡng mặc đồng phục xuất hiện trước mặt anh, đúng lúc Đường Phong đang ngớ người ra thì một người trong họ cất giọng hỏi: “Anh là Đường tiên sinh?”
Đường Phong kinh ngạc gật gật đầu, “Mời anh đi theo chúng tôi”. - Khẩu khí của người cao to lực lưỡng đó không khỏi khiến anh hoài nghi.
Đường Phong không hiểu nổi, sao trong đồn cảnh sát lại mọc đâu ra mấy vị này, lại còn muốn đem mình đi, nên anh lớn tiếng hỏi lại: “Các anh là ai? Dựa vào cái gì mà đưa tôi đi?”
Người cao to đứng đầu cười nhạt với Đường Phong vài tiếng, rồi đáp: “Lẽ nào anh đồng ý ở lại đây?”
Không đợi Đường Phong trả lời, người cao to đó lại nghiêm mặt nói: “Mời anh hãy phối hợp hành động cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đảm bảo an toàn cho anh”. Nói xong, không đợi Đường Phong kịp phản ứng lại, hai người cao to còn lại, một người bên trái một người bên phải, kẹp lấy Đường Phong, kéo ra khỏi đồn cảnh sát.
Tại bãi đỗ xe của đồn cảnh sát, Đường Phong bị mấy người cao to nhấc lên một chiếc Chevrolet, thùng xe phía sau và buồng lái phía trước của chiếc xe này hoàn toàn được tách ra, hai người cao to kẹp Đường Phong ngồi phía sau. Bởi chẳng nhìn rõ cảnh vật bên ngoài, cũng không rõ đi được bao xa, Đường Phong đoán mò chắc là ra khỏi thành phố rồi, nên anh hỏi hai người đó: “Các anh muốn đưa tôi đi đâu?” - Hai người cao to đó giống như hai bức tượng King Kong vô cảm, ngồi thẳng lưng, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, vẻ mặt nghiêm nghị, chẳng hề để ý tới câu hỏi của Đường Phong.
Khi Đường Phòng bị hai người cao to xốc nách đưa xuống xe thì đã là lúc hoàng hôn. Đường Phong phát hiện họ đang ở tại một sân bay chuyên dụng, trên bãi đáp máy bay có một chiếc trực thăng Mi-171 đang đợi lệnh cất cánh. Ba người cao lớn đó lại kẹp Đường Phong kéo lên chiếc Mi-171. Trong ánh chiều tàn, trực thăng từ từ cất cánh, hướng về phía Bắc, kèm theo những tiếng động cơ ầm ầm vang vọng. Đường Phong nhìn thấy họ bay qua những dòng sông, còn có cả những dãy núi đồi miên man…
Tiếng động cơ ồn ào từ từ tắt ngấm, ba người cao lớn lại kẹp Đường Phong nhảy xuống trực thăng, Đường Phong nhìn ngó xung quanh, trong màn đêm, một tòa nhà màu xám hiện lên trước mặt. Nhìn từ bên ngoài, tòa nhà màu xám này cao hơn mười tầng, hoàn toàn kín mít, không có lấy một cánh cửa sổ. Trên đỉnh tòa nhà là vô số những ăng-ten to nhỏ, đủ mọi hình dạng, dựng đứng, thậm chí còn có một cột ra-đa đang chầm chậm xoay dò soát trong không trung. Xung quanh tòa nhà là một bãi hoang trơ trọi, không nhìn thấy gì khác. Phía xa xa, những rừng cây rậm rạp, hiện lên trong màn đêm sâu hun hút tưởng như vô tận. Đường Phong lờ mờ phát hiện ra bên bìa rừng bị bao vây bởi tầng tầng lớp lớp lưới sắt. Đây là đâu, là một khu căn cứ quân sự bí mật sao? Chưa để Đường Phong kịp nghĩ cho tỏ tường, ba người kia đã lôi anh vào trong tòa nhà màu xám khổng lồ.
Bên trong tòa nhà này, không gian yên tĩnh tới kỳ lạ, Đường Phong bị ba người cao to đưa vào một hành lang dài hun hút, sau đó lại rẽ sang một hướng khác, rồi lên cầu thang sàn thép. Giày da của ba người cao to gõ lên sàn cầu thang vọng lại những âm thanh đáng sợ giữa không gian kín như bưng này. Đường Phong tò mò quan sát tòa nhà kỳ quái, từ lúc bước vào đây, anh chưa nhìn thấy người nào cả, nhưng anh lại nhìn thấy camera xoay tròn 360 độ trên nóc nhà, mỗi lần họ rẽ vào một ngã rẽ, đầu dò của camera liền giống như chim ưng săn mồi nhắm chuẩn theo họ. Đường Phong cảm thấy toàn thân nổi da gà, bốn phía tường, trên trần nhà đều giống như có vô số những con mắt đang nhìn chằm chằm về phía anh. Anh cũng không biết mình đã đi qua mấy tầng lầu, ba người cao to vẫn kẹp chặt lấy anh, đi vào một hành lang dài hun hút, bốn người đứng lại trên hành lang. Người từ đầu tới giờ xách hành lý, giống như sếp của mấy người này quay người lại nói với hai người cao to còn lại đang ở bên cạnh Đường Phong: “Nhiệm vụ của các anh đã kết thúc rồi”.
Hai người cao to đó đạp giầy “pai” một tiếng, đứng nghiêm, sau đó giơ tay chào theo kiểu quân đội với sếp của mình rồi quay người bước đi. Đường Phong tiếp tục theo người “sếp” cao to kia đi về phía trước. Lúc này, anh giật mình khi phát hiện ra sàn nhà dưới chân mình, và cả tường hai bên hành lang hóa ra đều được bọc bằng thép, một tòa nhà kết cấu thép, giống như một mê cung, phía trước, nhìn không rõ đầu hành lang. Vậy người cao to này muốn đưa mình đi đâu đây?
Nơi đầu hành lang, người cao to dừng lại trước một cánh cửa, hơi ngẩng đầu, mắt nhìn thẳng vào vị trí trên cánh cửa, bất động. Đường Phong cảm thấy tò mò, ghé đầu lại gần, cũng nhìn lên cánh cửa, trên cửa có lắp một vật nhìn như là đầu dò camera, nhưng nó lại không giống với những đầu dò thông thường khác. Đường Phong bức bối hỏi: “Đây là cái gì thế?”
“Đừng sờ soạng lung tung, đây là hệ thống nhận biết giác mạc”. Mấy tiếng đồng hồ vừa qua, người cao to luôn giữ im lặng này rút cuộc cũng đã trả lời câu hỏi của Đường Phong, vừa nói dứt lời, cánh cửa sắt trước mặt họ đã tự động mở ra.
Cao cấp vậy sao! Xem ra đây không phải nơi mà người bình thường có thể vào được - Đường Phong ngẫm nghĩ, đi theo người cao to vào một mật thất tối đen. Trong bóng tối, anh nghe thấy người cao to đột nhiên dừng lại, đứng nghiêm, sau đó lớn tiếng nói: “Báo cáo đội trưởng, tôi đã tuân lệnh đưa Đường Phong tới đây”.
Vừa dứt lời, toàn bộ đèn trong mật thất đều được bật lên, sáng chói tới mức Đường Phong phải nheo mắt lại. Đội trưởng? Đội trưởng bí ẩn đó là ai? Anh cố gắng thích nghi với không gian trong mật thất, rồi rút cuộc đã nhìn rõ: trong mật thất trống trải không có bất cứ vật gì, chỉ có một chiếc bàn dài đang bày trước mặt họ, phía sau bàn là một người đang đứng im, người đó khoảng 35, 36 tuổi, thân hình mập mạp, lưng hổ eo gấu, cơ bắp từng múi trước ngực khiến cho chiếc áo phông rằn-ri căng cộm cả lên. Lúc này, vị đội trưởng bí ẩn bước tới trước mặt Đường Phong, nở một nụ cười, nói: “Anh chính là Đường Phong tiên sinh?”
“Đúng vậy, các anh là ai?”
“Chúng tôi là ai, ban nãy bọn họ không nói với anh sao?” - giọng điệu của người đội trưởng này rất nhã nhặn. Đường Phong không hiểu sao lại cảm thấy có thiện cảm với vị đội trưởng này.
“Cả đường đi tôi hỏi họ, nhưng họ chẳng chịu hé răng lấy một lời”.
“Họ làm rất đúng, bởi vì mỗi công việc mà chúng tôi làm, đều liên quan tới cơ mật quốc gia, việc không nên nói thì một chữ cũng không thể hé răng”.
“Cơ mật quốc gia?” - Đường Phong thấy đầu mình toàn hơi nước, nghe xong mà vẫn không hiểu bản thân mình thì liên quan gì tới cơ mật quốc gia.
“Được rồi, anh có thể gọi tôi là Hàn Giang”.
“Hàn Giang, đây là tên của anh sao? Anh không định nói với tôi nhiều hơn sao?”
Hàn Giang bước tới trước mặt Đường Phong, đáp: “Tôi biết những nghi vấn trong lòng anh, vì chúng tôi đã mời anh tới đây nên sẽ nói với anh tất cả, nhưng trước khi anh biết về mọi thứ, anh phải tuyên thệ trước đã”.
“Tuyên thệ? Tuyên thệ cái gì cơ chứ?”
“Tuyên thệ gìn giữ tất cả những bí mật mà anh biết, đây là lời thề bảo mật”. Nói xong, Hàn Giang đưa cho Đường Phong một cuốn sổ nhỏ, trên bìa da của cuốn sổ viết bốn chữ “Chế độ bảo mật”, mở cuốn sổ nhỏ ra, trang đầu tiên chính là lời thề bảo mật. Đường Phong vừa đọc, Hàn Giang vừa đứng bên giới thiệu: “Tuyên thệ, đồng nghĩa với việc anh sắp biết rất nhiều bí mật, đồng thời cũng có nghĩa là trước khi những cơ mật này được giải mã, anh bắt buộc phải gìn giữ những cơ mật này một cách tuyệt đối. Nếu như anh tiết lộ chúng, bất luận là vô tình hay hữu ý ... Nhớ kĩ là, chỉ cần anh tiết lộ cơ mật, anh sẽ phải gánh trách nhiệm tương đương với trách nhiệm pháp luật”.
Đường Phong đọc lướt qua lời thề một lần, lúc đó đầu anh đã căng phồng lên rồi. Tuyên thệ hay là cự tuyệt? Anh hỏi thăm dò Hàn Giang: “Tại sao nhất định phải bắt tôi tuyên thệ, tôi muốn biết các anh là ai, sao lại ép tôi tới đây, đây cũng thuộc về cơ mật quốc gia sao?”
“Đúng vậy, thân phận, công việc và kinh nghiệm của những người như chúng tôi đều thuộc về cơ mật quốc gia” - Hàn Giang kiên định đáp.
“Vậy thì tôi không muốn biết nữa, có thể đưa tôi về không?” - Đường Phong định đánh bài chuồn.
Hàn Giang chau mày, khoanh tay, đi đi lại lại vài bước trước mặt Đường Phong, dáng vẻ đầy tâm sự, giống như sắp đưa ra một quyết định trọng đại vậy. Sau đó, Hàn Giang dừng lại trước mặt Đường Phong, nhìn Đường Phong chằm chằm, vỗ vỗ vai anh nói: “Tiểu tử, nếu như tối hôm qua cậu không gặp Lương Vân Kiệt, có lẽ cậu cũng có thể về, nhưng, hiện giờ nói gì thì cũng đã muộn rồi…”
“Cái gì? Hóa ra các anh đưa tôi tới đây là do liên quan tới cái chết của Lương Vân Kiệt! Nói như vậy thì cũng có nghĩa là liên quan tới… kệ tranh ngọc Tây Hạ rồi, thảo nào Lương Vân Kiệt bảo rằng đằng sau kệ tranh ngọc có ẩn giấu một bí mật to lớn!” - Đường Phong dường như cũng bắt đầu hiểu được đôi chút.
5
Hàn Giang gật đầu: “Đúng vậy! Nói gì cũng đã muộn, anh đã biết một vài thứ không nên biết, bởi vậy, Đường Phong, vì anh đã được dẫn tới đây, muốn quay về, sẽ là điều không thể. Hiện giờ trước mặt anh chỉ còn lại duy nhất một con đường, đó chính là hợp tác cùng chúng tôi, để làm sáng tỏ toàn bộ vấn đề”.
Nghe xong những lời này của Hàn Giang, Đường Phong ủ dột, ngồi bất động trên chiếc ghế cạnh chiếc bàn dài, Tề Ninh tự sát, Lương Vân Kiệt bị đâm chết, nghi vấn trong hội chợ đấu giá, người áo đen nhảy xuống sông Châu Giang… Tất cả những điều này khiến anh thực sự vô cùng tò mò, nhưng để thỏa mãn sự tò mò, thì phải gia nhập vào một tổ chức chính phủ bí ẩn. Như vậy có đáng hay không? Anh ngẩng đầu nhìn Hàn Giang, Hàn Giang nhìn anh bằng ánh mắt đầy tin tưởng, anh gật đầu với Hàn Giang, đáp: “Được thôi! Tôi tuyên thệ!”
Hàn Giang dẫn Đường Phong tới một bức tường trong mật thất, ấn vào một nút điều khiển, máy chiếu trên trần nhà liền lập tức phản chiếu hình ảnh quốc kỳ lên tường, dưới sự hướng dẫn của Hàn Giang, Đường Phong giơ tay, bắt đầu tuyên thệ trước quốc kỳ…
Tuyên thệ hoàn tất, Hàn Giang cuối cùng đã nở nụ cười, anh kéo người cao to từ nãy tới giờ cứ đứng thẳng bên cạnh, nói với Đường Phong: “Được rồi, giờ thì tôi có thể giải đáp thắc mắc của anh. Trước tiên, tôi xin giới thiệu một chút, vị này là đồng nghiệp Triệu Vĩnh của tôi, anh đã từng phục vụ 8 năm trong đội hải quân lục chiến, võ nghệ siêu phải biết đấy!”
“Đội trưởng quá khen rồi, ban nãy nếu như có chỗ nào mạo phạm, xin Đường tiên sinh bỏ qua cho!” - nói xong, Triệu Vĩnh giơ bàn tay vạm vỡ về phía Đường Phong.
“Không có gì, anh cũng là thực thi nhiệm vụ thôi mà!” Đường Phong khách sáo bắt bắt tay Triệu Vĩnh.
“Tiếp theo tôi sẽ giới thiệu một chút về tổ chức của chúng tôi, chúng tôi là đội hành động đặc biệt, nhánh một, trực thuộc Cơ quan an ninh quốc gia, kí hiệu của chúng tôi là ‘Lão K’, bởi vậy chúng tôi cũng đựoc gọi là ‘Đội hành động lão K’. Thành viên của đội hành động chúng tôi không chỉ đến từ Cơ quan an ninh quốc gia, mà còn tập hợp tinh anh của các ngành khác, ví dụ như Triệu Vĩnh, anh ấy chính là người nhái mà tôi đã chọn lựa từ đội hải quân lục chiến. Muốn cướp sinh mệnh đối thủ dưới nước, đối với anh ấy mà nói, dễ như trở bàn tay”.
“Nhưng tôi lại chẳng có tài nghệ nào cả, thì làm được gì nhỉ?” - Đường Phong nhìn nhìn Triệu Vĩnh, nghi ngờ hỏi.
Hàn Giang chỉ vào ngực mình, cười đáp: “Thực ra thành viên tham gia vào đội hành động của chúng tôi không phải ai cũng biết võ nghệ, nhưng đều bắt buộc phải có sở trường mà chúng tôi cần. Ví dụ như anh, chúng tôi muốn bản thân anh, tri thức của anh, trí tuệ của anh. Kể từ khi anh và Lương Vân Kiệt gặp nhau tại hội chợ đấu giá, toàn bộ hồ sơ của anh đã được lưu trữ trong máy tính của tôi”. - Vừa nói, Hàn Giang vừa ấn chiếc điều khiển trong tay, hồ sơ và ảnh của Đường Phong đều xuất hiện trên máy chiếu – Họ tên: Đường Phong, 30 tuổi, chiều cao: 180 cm, cân nặng: 76 kg… Tiếp theo còn bao gồm cả lí lịch từ thời niên thiếu tới khi trưởng thành, trường tốt nghiệp, sở trường, sở thích… của Đường Phong, cũng phải tới cả nghìn chữ.
Lòng Đường Phong thầm kinh ngạc, Hàn Giang chuyển chủ đề: “Phàm là thành viên gia nhập vào đội hành động của chúng tôi, mỗi người đều có một kí hiệu, ví dụ kí hiệu của tôi là K2, Triệu Vĩnh là K3, kí hiệu của anh trong đội là K7”.
“K7! Nói như vậy tức là trừ ba người chúng ta ra, vẫn còn bốn thành viên khác? Họ là những ai? K1 là ai? Lẽ nào chức vụ của anh ấy còn cao hơn anh?” - Đường Phong cảm thấy vô cùng tò mò.
“Đừng quên kỷ luật của chúng ta, việc không nên hỏi thì đừng hỏi”. - Hàn Giang đột nhiên nghiêm mặt hạ giọng trách Đường Phong, nhưng chẳng mấy chốc, Hàn Giang lại ôn hòa trở lại, giải thích với Đường Phong: “Anh chỉ cần tham gia hành động cùng chúng tôi thì sẽ gặp những thành viên khác, nhưng…” nói tới đây, Hàn Giang đột nhiên trở nên trầm ngâm. “Nhưng gì cơ?” - Đường Phong truy hỏi.
Hàn Giang tiếp lời: “Nhưng, có ba thành viên đến tôi cũng chưa từng găp bao giờ, hơn nữa hồ sơ của họ cũng trống trơn, đặc biệt là vị K1, tôi cũng rất băn khoăn…”
“Gì cơ? Đến cả “sếp” như anh cũng chưa từng gặp! Không, không đúng, nói như vậy, người K1 đó mới thực sự chính là “sếp”, nhưng anh lại là đội trưởng, vậy thì chúng ta rút cuộc nên nghe ai?”
“Đương nhiên là nghe tôi, ghi nhớ này tiểu tử, nhất định đừng cho rằng mình thông minh, trong Lão K, cho dù ai có kí hiệu lớn hơn, có bản lĩnh nhiều hơn, nhưng tất cả hành động bắt buộc phải phục tùng theo sự chỉ huy của tôi” - Hàn Giang kề sát Đường Phong nói.
Hàn Giang, Triệu Vĩnh và Đường Phong ba người ngồi nguyên cạnh chiếc bàn dài, Hàn Giang kích chuột vào hồ sơ của Lương Vân Kiệt trên máy tính, giới thiệu với Đường Phong: “Anh chắc là rất ngạc nhiên vì không biết chúng tôi tìm thấy anh bằng cách nào, rất đơn giản, bởi vì chúng tôi luôn quan tâm nhất cử nhất động của Lương Vân Kiệt”.
“Lương Vân Kiệt sao vậy? Ông ta không phải là một thương nhân vô cùng thành công sao?”
“Không sai! Ông ta là một thương nhân thành công, nhưng anh có biết lai lịch của ông ta không? Ông ta là người Bắc Kinh, tốt nghiệp chuyên ngành tiếng Nga tại Đại học Bắc Kinh vào những năm cuối thập niên 50, chính trong thời gian ông ta tốt nghiệp, một điều bất ngờ đã làm thay đổi vận mệnh của ông ta. Thời gian đó vẫn đang là “thời kỳ trăng mật” của Trung Quốc và Liên Xô, một đoàn đại biểu học thuật của Viện nghiên cứu Đông Phương học thuộc Học viện khoa học Liên Xô viếng thăm Trung Quốc. Lúc đó họ mang tới một kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ thần bí. Đúng! Đó chính là kệ tranh trong hội chợ đấu giá”.
Nói xong, trên màn hình máy tính của Hàn Giang xuất hiện ảnh của kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ.
Hàn Giang tiếp tục giới thiệu: “Lúc đó, chuyên gia Liên Xô nói, tấm kệ tranh ngọc này được nhà thám hiểm người Nga Kozlov tìm thấy tại di chỉ Hắc Thủy Thành vào năm 1909, họ đã từng nhiều năm nghiên cứu, phát hiện ra trong đó ẩn giấu bí mật vô cùng kinh ngạc, hy vọng có thể tổ chức một đội khoa học khảo sát, tới cố địa Tây Hạ, tìm kiếm bí mật phía sau kệ tranh ngọc. Sau này, hai nước Trung - Liên đã tổ chức một đội thám hiểm khoa học hùng mạnh, đi tới Tây Bắc, và Lương Vân Kiệt lúc đó được tổ chức này tuyển chọn, đảm nhiệm vai trò phiên dịch của đội thám hiểm khoa học. Nhưng sau đó đội thám hiểm đã hoàn toàn thất bại trong sa mạc, chỉ có hai người may mắn sống sót”.
“Vậy ông ta chính là một trong số hai người may mắn sống sót rồi?” - Đường Phong nói.
“Đúng vậy, ông ta chính là người duy nhất của phía Trung Quốc may mắn sống sót trong đội thám hiểm. Năm đó, sau khi đội thám hiểm Trung - Liên gặp nạn tại sa mạc Badain Jaran, quân đội đã phái rất nhiều người xâm nhập vào sa mạc để tìm kiếm, cuối cùng chỉ phát hiện ra lạc đà và trang thiết bị của đội thám hiểm, nhưng trước sau vẫn không phát hiện ra thành viên nào của đội. Bao nhiêu năm qua đi, họ sống không thấy người, chết không thấy xác, cả đội thám hiểm cuối cùng chỉ có hai người được cứu, trong đó một người là Lương Vân Kiệt. Khi ông ta được phát hiện ra thì đang thoi thóp, nhưng điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ ở chỗ, địa điểm ông ta được phát hiện ra lại gần với biên giới của sa mạc Badain Jaran, cách địa điểm đội thám hiểm gặp tai nạn tới cả vài trăm cây số. Điều chúng tôi không thể hiểu là, trong môi trường không có nước, không có thực vật, mà sao họ lại có thể chạy tới tận biên giới sa mạc?”
“Sau đó thì sao?” - Đường Phong hỏi.
“Lương Vân Kiệt giữ lại được tính mạng, nhưng cũng do ông ta giữ lại được tính mạng nên trong thập niên đặc biệt đó, số phận của ông không tránh khỏi xảy ra những chuyển biến. Trước tiên ông bị tình nghi làm đặc vụ cho Đài Loan, âm mưu phá hoại chuyến thám hiểm khoa học, rồi bị cách ly thẩm tra hai tháng, nhưng điều tra đi điều tra lại cũng không phát hiện ra ông ta có vấn đề gì nên đành phải thả ông ra. Chẳng bao lâu sau, quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô rạn nứt, do ông học tiếng Nga, cộng thêm những biểu hiện của ông trong lần thám hiểm đó, nên bị chụp lên đầu chiếc mũ gián điệp của Liên Xô, tổ chức định cho ông tội danh liên kết với chính phủ Liên Xô, âm mưu lật đổ quốc gia, sau khi sự việc bại lộ, có ý đồ vượt biên, tháo chạy tới Mông Cổ, kết quả là ông lại bị cách ly thẩm tra lần nữa”.
“Thật không ngờ số phận của Lương Vân Kiệt lại trắc trở như vậy” - Đường Phong bất giác cảm thán.
Hàn Giang lại tiếp tục kể: “Vẫn chưa hết, thẩm tra vẫn không có kết quả, ba tháng sau, Lương Vân Kiệt lại được trả tự do, nhưng Cơ quan an ninh quốc gia lúc đó vẫn nhất mực âm thầm giám sát Lương Vân Kiệt. Vài năm nhanh chóng qua đi, sau khi ‘Cách mạng văn hóa’ bùng phát, Cơ quan an ninh quốc gia cũng bị xáo trộn, không còn ai giám sát Lương Vân Kiệt nữa. Cũng chính lúc này, Lương Vân Kiệt nhân cơ hội thời thế loạn lạc, vậy là cuối thập niên 60, ông vượt biên sang Hồng Kông, sau đó cũng không hiểu ông ta làm cách nào mà kiếm được thùng vàng đầu tiên tại Hồng Kông, sáng lập nên tập đoàn Tân Sinh, hơn nữa càng kinh doanh càng phát đạt, Lương Vân Kiệt cũng từ đó trở thành doanh nhân nổi tiếng. Lần này, việc Lương Vân Kiệt quay trở lại đại lục sau 40 năm, kể từ khi ông ta xuống máy bay là đã thu hút sự chú ý của chúng tôi…”.
“Bởi vậy các anh nhất loạt ngầm giám sát hành tung của Lương Vân Kiệt, lẽ nào là bởi trước đây các anh từng nghi ngờ ông ta?”
Hàn Giang phẩy tay: “Dĩ nhiên không chỉ do việc trước đây, chúng tôi theo dõi ông ta, là bởi gần đây chúng tôi nhận được tin tình báo vô cùng tin cậy”.
Đường Phong lại hỏi Triệu Vĩnh: “Các anh đã giám sát Lương Vân Kiệt chặt chẽ như vậy, sao lại để ông ấy bị người ta giết chứ?”
Vừa nghe thấy Đường Phong hỏi vậy, trên mặt Triệu Vĩnh - người đàn ông cao to bỗng gợn lên những vầng đỏ ửng, anh bối rối đáp: “Đó đều là trách nhiệm của tôi, đội trưởng luôn phái tôi theo dõi Lương Vân Kiệt, thực ra cũng là để bảo vệ ông ta, nếu như không có tôi bảo vệ, khả năng Lương Vân Kiệt đã bị người ta xử từ lâu rồi. Nhưng tối hôm qua, tôi lại để mất dấu ông ấy, lúc bọn anh nói chuyện trong quán trà, tôi ngồi ngay bàn gần đấy, theo dõi hai người. Sau khi anh bỏ đi, Lương Vân Kiệt cũng lập tức rời khỏi quán trà, tôi bám theo sau, nhưng sau khi đi qua hai dãy phố tôi lại để mất dấu ông ta, tôi nghĩ chắc là ông ta đã phát hiện ra tôi nên cố ý cắt đuôi. Việc sau đó, anh đều đã biết rồi đấy!
“Vậy anh có nhìn thấy bóng đen đó không?”
“Tôi thấy rồi, vốn dĩ tôi muốn lộ diện giúp anh truy đuổi bóng đen đó, nhưng bóng đen đó trong lúc hoảng loạn không biết đường đã nhảy xuống sông Châu Giang, nên tôi cũng không ra mặt”.
“Hóa ra là vậy, nhưng… nhưng anh không cảm thấy kỳ lạ sao? Một người có tuổi như Lương Vân Kiệt mà lại có thể cắt đuôi một đặc công có tố chất, lại đã từng qua huấn luyện như anh, lẽ nào…”
“Lẽ nào Lương Vân Kiệt năm đó thực sự là gián điệp? Đúng vậy! Tôi cũng cảm thấy kỳ lạ, với thân phận và tay nghề của tôi thì không nên xảy ra sai lầm đơn giản như vậy, trừ khi người đó cũng có phản xạ trinh sát, phản xạ năng lực đeo bám rất giỏi”. - Triệu Vĩnh nói hộ Đường Phong những nghi vấn trong lòng, cả hai đều chìm trong im lặng.
Hàn Giang quay sang nhìn Đường Phong, phá vỡ sự im lặng này: “Tạm thời không quan tâm tới Lương Vân Kiệt nữa, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta bây giờ là phải tranh thủ thời gian, vượt mặt đối thủ, tìm thấy kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ đó. Đường Phong, anh là người cuối cùng gặp Lương Vân Kiệt, tôi nghĩ ông ta nhất định đã nói với anh một vài việc liên quan tới kệ tranh ngọc”.
“Đúng vậy, chúng tôi đã nói về kệ tranh ngọc, nhưng ông ta đã không hoàn toàn tin tưởng tôi… à, trước khi chết, ông ấy có nhắc đến huyết chú, ông ấy nói huyết chú đáng sợ đã trở lại rồi”.
“Huyết chú nào, toàn là nói linh tinh. Từ trước tới nay tôi chẳng tin huyết chú nào cả…” - Triệu Vĩnh còn muốn phát biểu một bài luận về chủ nghĩa duy vật, nhưng đã bị Hàn Giang vung tay ngăn lại, Hàn Giang nói với Đường Phong: “Đường Phong, trừ huyết chú ra, ông ta có còn nói gì khác với anh không?”
Đường Phong cúi đầu trầm ngâm, đột nhiên nhớ ra: “Trước khi chết, Lương Vân Kiệt hổn hển nói với tôi mấy từ ‘thư viện, bảy, bảy mươi mốt’ không hiểu nghĩa là gì?”
“Có phải là tủ cất đồ trong thư viện không nhỉ, ý của Lương Vân Kiệt là chiếc tủ cất đồ số 7 hoặc số 71 trong thư viện”. - Triệu Vĩnh dựa vào linh cảm nghề nghiệp nghĩ ngay ra đáp án.
Ý tưởng của Triệu Vĩnh không hẹn mà gặp lại trùng khớp với suy nghĩ của Hàn Giang, một ý tưởng rõ nét xuất hiện trong đầu Hàn Giang, Hàn Giang đi đi lại lại trong mật thất, đột nhiên dừng lại, lệnh cho Triệu Vĩnh và Đường Phong: “Tiếp theo chúng ta chia nhau hành động, Triệu Vĩnh, anh và Đường Phong quay lại Quảng Châu, đi lấy đồ Lương Vân Kiệt để lại trong thư viện, tôi lập tức về Bắc Kinh, báo cáo với bộ tổng, xin chỉ đạo bước hành động tiếp theo”.
Ba người thương lượng xong, Triệu Vĩnh đưa Đường Phong ra khỏi mật thất. Khi Đường Phong được hít thở lại không khí trong lành thì bên ngoài bầu trời đã ngập tràn ánh sao, Đường Phong lại ngồi lên chiếc trực thăng Mi-171 lúc đến. Trên trực thăng, không ai nói chuyện, trong khoang máy bay chỉ còn lại tiếng động cơ rền rĩ.
CHƯƠNG 3
Dương Thành truy hung
1
S
áng hôm sau, thư viện vừa mở cửa, Đường Phong, Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân cùng nhau tới thư viện. Tưởng Nhất Dân gọi người quản lý thư viện tới mở chiếc tủ cất đồ số 71 ra, Đường Phong và Triệu Vĩnh nhìn chằm chằm vào đó, trong tủ cất đồ trống trơn. Tiếp theo là tủ cất đồ số 7, bên trong cũng lại trống trơn. “Lẽ nào lại để chúng vượt mặt cướp trước?” - Triệu Vĩnh nghi ngờ hỏi, nhưng anh lập tức lệnh cho người quản lý: “Mở tất cả tủ cất đồ ra”. - Người quản lý có vẻ chần chừ do dự, nhìn sang phía Tưởng Nhất Dân, Tưởng Nhất Dân gật đầu nói: “Mở tất!”
“Cạch” một tiếng, người quản lý mở tất cả tủ cất đồ ra, Triệu Vĩnh, Đường Phong và Tưởng Nhất Dân lần lượt kiểm tra từng tủ, bận bịu nửa ngày nhưng cũng không tìm thấy bất cứ thứ gì đáng chú ý, chứ đừng nói đến kệ tranh ngọc.
Người trong thư viện mỗi lúc một đông, Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân đi xem xét hình ảnh camera trong phòng giám sát, Đường Phong đứng ngoài hành lang, hồi tưởng lại những việc xảy ra tối hôm trước, từng cảnh tượng, từng chi tiết lần lượt hiển hiện trước mắt, rút cuộc Lương Vân Kiệt cất gì trong tủ đồ? Lẽ nào thực sự là kệ tranh ngọc?
“Đường Phong, anh tới đây một chút”. - Triệu Vĩnh gọi Đường Phong vào phòng giám sát, cắt đứt mạch suy nghĩ của Đường Phong.
Đường Phong theo Triệu Vĩnh vào phòng giám sát. Trên màn hình, một người đàn ông mặc áo phông trắng, đeo túi, mặt mũi lấm lét lẻn vào khu tủ cất đồ. Triệu Vĩnh chỉ vào người đàn ông mặc áo trắng trên màn hình: “Đường Phong, người đàn ông này lẻn vào khu cất đồ trong thư viện lúc 3 giờ 26 phút sáng nay, lấy một số đồ từ trong tủ số 71 ra”.
“Tủ cất đồ số 71? Xem ra Lương Vân Kiệt thật sự có cất giữ vật gì đó quan trọng bên trong tủ đựng đồ, bởi vậy ông ấy mới day dứt không quên nhắn lại trước khi chết”. - Đường Phong quả quyết với phán đoán đầu tiên của mình.
“Tôi thấy có hai khả năng, thứ nhất là do tủ cất đồ số 71 ở tương đối xa camera, tên trộm này gặp may đánh cắp được đồ quan trọng của Lương Vân Kiệt; hai là, không đơn giản như vậy, tên trộm này biết trước trong tủ cất đồ số 71 có cất đồ vật quan trọng, bởi vậy, hắn mới đột nhập vào thư viện lúc nửa đêm, lấy đồ đi. Hơn nữa, từ thủ đoạn gây án cho thấy, người này cũng thuộc dạng cao thủ, hiện trường gần như không để lại vết tích gì, tiếc là… tiếc là tủ cất đồ số 71 cách camera hơi xa, bởi vậy không thấy rõ người này lấy đi vật gì” - Triệu Vĩnh tiếc nuối nói.
“Đường Phong, anh nhìn xem, người đàn ông áo trắng này có phải là kẻ tối qua đã giết hại Lương Vân Kiệt không?” - Tưởng Nhất Dân hỏi.
Đường Phong nhìn vào màn hình, chăm chú hồi lâu, cuối cùng lắc đầu: “Không, không phải”.
“Anh nhìn kĩ lại xem nào?” - Triệu Vĩnh truy hỏi.
Đường Phong đáp lại rất kiên quyết: “Tuyệt đối không phải là người này, người này dáng thấp nhỏ, tuy tôi không nhìn rõ mặt của kẻ giết Lương Vân Kiệt, nhưng thân hình hắn rất cao to”.
Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân lại chăm chú nhìn người đàn ông áo trắng hồi lâu, đây là hình ảnh duy nhất mà camera chộp được khuôn mặt của người đàn ông áo trắng, Triệu Vĩnh đã phóng to hình ảnh lên mức lớn nhất. Rút cuộc, Tưởng Nhất Dân đập bàn nói: “Bất luận đây có phải là hung thủ sát hại Lương Vân Kiệt hay không, hắn chắc chắn đã lấy đi vật quan trọng trong tủ cất đồ số 71, tóm hắn trước đã rồi tính sau. Tôi lập tức đi bố trí lực lượng, dựa vào khuôn mặt này, bảo đảm… trong vòng ba ngày sẽ tóm được hắn về cho các anh”.
Khi Tưởng Nhất Dân chốt lại câu: “trong vòng ba ngày”, anh ta cũng chần chừ hồi lâu. Đường Phong và Triệu Vĩnh đều hiểu rằng, trong cái thành phố có tới hơn chín triệu nhân khẩu, hơn nữa lượng người luân chuyển dày đặc như Quảng Châu, muốn trong vòng ba ngày tóm được người đó, nói dễ vậy sao? Nhưng, hiện giờ cũng chỉ có thể như vậy.
2
Rời khỏi thư viện, Triệu Vĩnh nói muốn đi xử lý chút việc, để Đường Phong theo Tưởng Nhất Dân về đồn cảnh sát đợi anh. Đường Phong cùng Tưởng Nhất Dân vừa về tới đồn cảnh sát, Tưởng Nhất Dân liền nhận điện thoại của chủ nhiệm Lưu gọi tới từ trung tâm pháp y: “Người nhà của Lương Vân Kiệt đến nhận di thể của ông ta để đưa đi hỏa táng rồi”.
Tưởng Nhất Dân nghe xong liền cuống cả lên, gầm gào trong điện thoại: “Án vẫn chưa phá xong, thi thể sao có thể hỏa thiêu được? Anh tạm ổn định người của Lương gia, một lúc nữa tôi sẽ đến đấy, nhất định phải đợi tôi đến!”.
Nói xong, Tưởng Nhất Dân liền kéo Đường Phong lao tới trung tâm pháp y.
Tới trung tâm pháp y, Tưởng Nhất Dân phóng một mạch lên cầu thang, Đường Phong chỉ lo cúi đầu nhìn đường, không ngờ lên cầu thang tầng hai lại đâm sầm vào người một cô gái xinh đẹp, người đẹp trách mắng: “Cái anh này, đi sao không nhìn đường thế!”
“Xin lỗi!” - Đường Phong vội vàng xin lỗi, anh chăm chú nhìn người đẹp trước mặt, trừ liên tục nói câu “xin lỗi” ra, lúc đó tuyệt nhiên không nghĩ ra từ nào khác, người đẹp không buồn để ý đến anh, khẽ “hừm” một tiếng, rồi quay đầu đi xuống cầu thang.
Người đẹp đã xuống cầu thang từ lâu, nhưng Đường Phong vẫn đứng nguyên trên đó, thẫn thờ nhìn theo bóng dáng cô gái đẹp đang khuất dần. Bỗng nhiên anh cảm thấy hình như mình đã từng gặp cô gái này ở đâu đó…
“Anh quen cô gái đó à?” - Tưởng Nhất Dân hỏi Đường Phong, Đường Phong bừng tỉnh, lắc đầu nói: “Không!… không quen!”
Hai người không nói gì nữa, cùng nhau tiến vào nhà xác âm u, tìm thấy chủ nhiệm Lưu của trung tâm pháp y. Vừa mới nhìn thấy Tưởng Nhất Dân, chủ nhiệm Lưu liền nói: “Sao giờ các anh mới tới, người thân Lương gia vừa mới đi”.
“Thế thi thể của Lương Vân Kiệt đâu?” - Đường Phong vội vã hỏi.
“Đã hỏa táng rồi!” - Chủ nhiệm Lưu rất bình tĩnh trả lời.
“Không phải tôi dặn anh đợi tôi tới mới tính sao?” - Tưởng Nhất Dân trách móc.
“Tôi cũng hết cách, đây là ý của cấp trên”. - Bác sỹ Lưu nhún vai rồi rời khỏi nhà xác.
“Người nhà họ Lương sao phải vội vã hỏa táng Lương Vân Kiệt như vậy?” - Đường Phong hỏi Tưởng Nhất Dân.
Tưởng Nhất Dân đanh mặt lại, nói: “Tôi cũng đang nghĩ đến vấn đề đó”.
Hai người nghiền ngẫm hồi lâu, cũng không tìm ra lời giải đáp, quá thất vọng, họ đang định rời khỏi trung tâm pháp y thì tại hành lang lại gặp ngay Triệu Vĩnh đang hấp tấp đi tới. Nhìn thấy Triệu Vĩnh, Tưởng Nhất Dân báo cáo trước về việc thi thể của Lương Vân Kiệt đã được hỏa táng. Triệu Vĩnh nghe xong, chau mày, mãi sau mới chậm rãi nói: “Xem ra, vụ án này càng lúc càng phức tạp rồi”.
“Nghĩa là sao?” Đường Phong và Tưởng Nhất Dân hỏi.
“Các anh tới đây xem, đây là thứ mà người của chúng tôi trục vớt được tại hạ lưu sông Châu Giang” - Vừa nói Triệu Vĩnh vừa dẫn Đường Phong và Tưởng Nhất Dân tiến vào một căn phòng, đưa cho họ xem một chiếc áo khoác da màu đen và một chiếc mũ màu xanh tím than.
“Đây chính là chiếc áo mà tối qua người đó mặc, còn cả chiếc mũ này nữa. Thời tiết hiện giờ nóng như thế, sao người đó sao lại mặc áo khoác da thế này, còn đội mũ nữa, đúng là dị nhân!” Đường Phong vừa nhìn cái đã nhận ra ngay bộ trang phục này.
Triệu Vĩnh chau mày, nói: “Bởi vậy vụ án này càng lúc càng phức tạp, các anh nghĩ, tên trộm sáng sớm hôm nay tới thư viện lấy đồ, nếu như hắn không phải là loại trộm thông thường, chỉ vì đồ trong tủ cất đồ số 71 mới tới, vậy thì tại sao hắn lại biết trong tủ có đồ quan trọng? Chỉ có một khả năng, đó là sát thủ sát hại Lương Vân Kiệt tối qua bảo hắn tới lấy đồ trong tủ”.
“Nói như vậy thì tên sát thủ tối qua nhảy xuống sông Châu Giang thật rồi, vậy hắn đâu? Hay là chết đuối rồi?” - Đường Phong chêm vào.
“Thi thể của sát thủ đó cũng được vớt lên rồi, nhưng… nhưng khả năng hắn không phải là chết đuối”.
“Không phải chết đuối?” - Đường Phong và Tưởng Nhất Dân đồng thanh kinh ngạc.
Triệu Vĩnh giải thích: “Chúng tôi phát hiện ra một vết thương trên bụng dưới thi thể, hiện đang tiến hành giám định, vì thế tôi mới vội tới đây”.
“Phức tạp vậy sao, lại mọc thêm một tên sát thủ?” - Đường Phong kinh ngạc.
Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân không nói thêm gì nữa, ba người đều trở nên trầm ngâm.
3
Một lúc sau, chủ nhiệm Lưu gọi mọi người vào trong phòng giải phẫu, chỉ thấy một thi thể đàn ông trung niên nằm thẳng đơ trên bàn giải phẫu. Đường Phong chú ý tới hai bên tóc mai đã điểm bạc của người này, tuổi tác ít nhất cũng ngoài 50. Quả nhiên, kết quả giải phẫu của chủ nhiệm Lưu đã chứng thực cho phán đoán của Đường Phong: “Tuổi của nạn nhân khoảng trên 50, lúc còn sống cơ thể rất khỏe mạnh, không có bất cứ bệnh tật gì; thi thể đã xuất hiện tình trạng phân hủy, có mốc xanh, bởi vậy tôi đoán thời gian chết khoảng hơn 12 tiếng đồng hồ; vết thương chí mạng của nạn nhân nằm ở vết dao trên bụng dưới, khả năng bị dao găm hoặc một vật sắc nhọn sát thương”.
“Anh khẳng định hắn ta không phải chết đuối? Nhưng thi thể này được vớt lên từ sông Châu Giang?” - Tưởng Nhất Dân nghi ngờ hỏi lại.
Chủ nhiệm Lưu nhìn Tưởng Nhất Dân, đáp: “Cái này tôi có thể phán đoán ra, tuy nạn nhân có hiện tượng ngạt nước, ví dụ như niêm mạc mắt của nạn nhân có hiện tượng xuất huyết, màng nhĩ cũng bị rách do áp lực của nước và hơi xuất huyết, nhưng điều này không thể khẳng định nguyên nhân cái chết của nạn nhân là do ngạt nước, đòn chí mạng là vết thương dao đâm ở bụng dưới của nạn nhân, sau đó mới ngạt nước chết”.
“Ý của anh là… rất có khả năng nạn nhân bị người ta đâm một dao dưới nước, sau đó dẫn đến ngạt nước mà chết?” - Tưởng Nhất Dân hỏi.
Chủ nhiệm Lưu khẽ gật đầu, nói tiếp: “Việc này thực sự có chút kỳ lạ, nhưng tôi cũng chỉ có thể giải thích như vậy”. - Chủ nhiệm Lưu ngừng lại một lúc, nói tiếp: “Các anh hiện giờ đã xác định rõ thân phận của nạn nhân chưa?”
Triệu Vĩnh lắc đầu: “Trên người nạn nhân không có bất cứ giấy tờ nào để chứng minh thân phận, anh có phát hiện ra điều gì trên người nạn nhân không?”
“Ồ, đúng rồi, nếu anh không nhắc thì suýt nữa tôi cũng quên mất, tôi phát hiện ra một điều trên cơ thể nạn nhân”. Đường Phong, Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân cùng lần theo hướng tay chủ nhiệm Lưu chỉ, Đường Phong trợn tròn mắt, anh nhìn thấy sau mang tai của nạn nhân, có một vết xăm màu xanh nhạt, “Đây là cái gì?” - Đường Phong tò mò hỏi.
“Một hình xăm, hình như là… một con sói, trên… trên người con sói còn có một con chim ưng đậu thẳng đứng”. Triệu Vĩnh mất một hồi lâu, rút cuộc đã nhận ra hình dạng của vết xăm.
“Nó tượng trưng cho điều gì?” - Tưởng Nhất Dân thấy vô cùng khó hiểu.
“Có lẽ tượng trưng cho tổ chức của chúng, cũng có thể chẳng tượng trưng cho gì cả”. - Triệu Vĩnh chậm rãi nói.
Chủ nhiệm Lưu cuối cùng cũng lên tiếng: “Báo cáo chi tiết về việc khám nghiệm tử thi mấy hôm nữa mới có, đến lúc đó các anh từ từ nghiên cứu” - nói xong, chủ nhiệm Lưu rời khỏi phòng giải phẫu.
“Đến lúc đó tiếp tục nghiên cứu? E rằng đến lúc đó thì không kịp nữa rồi!” - Triệu Vĩnh lẩm bẩm.
“Tất cả những điều này rút cuộc là thế nào?” - Đường Phong cảm giác đầu óc mình cũng sắp rối tung lên.
Triệu Vĩnh tổng kết lại mọi việc: “Chúng ta liên kết sự tình lại, tôi phán đoán toàn bộ sự việc chắc là thế này, người áo đen này tối qua chặn Lương Vân Kiệt trong ngõ tối, rất có khả năng là truy hỏi Lương Vân Kiệt về kệ tranh ngọc, Lương Vân Kiệt không nói, và xảy ra ẩu đả với người áo đen. Trong khi ẩu đả, Lương Vân Kiệt bị người áo đen đâm trúng, sau đó Đường Phong tới, người áo đen không bỏ chạy ngay mà trốn trong con ngõ, nghe trộm những lời trăn trối Lương Vân Kiệt nói với Đường Phong…”
“Người áo đen này sau khi giết người, vẫn còn có thể trấn tĩnh như vậy, trốn trong chỗ tối nghe trộm, lại còn nhảy xuống sông Châu Giang trong hoàn cảnh như tối qua, định bơi đi, có thể nói bản lĩnh không thường, tố chất tâm lý rất tốt . Từ đó có thể nhận thấy, người áo đen này thật sự rất không đơn giản đâu!” - Đường Phong ngạc nhiên nói.
“Đúng vậy! Nhưng người nào đã đâm chết hắn dưới nước chứ?” - Triệu Vĩnh chau mày.
“Còn nữa, tổ chức muốn lấy mạng Lương Vân Kiệt, tại sao lại phái một sát thủ ăn mặc kỳ dị và tuổi tác cao như thế này?” - Đường Phong không sao tìm thấy điểm tương đồng giữa tay sát thủ và hình ảnh định sẵn trong đầu mình.
“Ai mà biết được, một quái nhân!” - Triệu Vĩnh tự mình lẩm bẩm.
“Một quái nhân?” - Đường Phong nhìn chằm chằm vào vết xăm dưới mang tai người đó, lại chìm trong suy tư.
4
Trở về đồn cảnh sát, Tưởng Nhất Dân nhận được báo cáo: “Chúng tôi đã phát hiện ra kẻ tình nghi trộm cắp đồ trong tủ cất đồ thư viện tại đường Bắc Giải Phóng, người này tên là Lâm Hải, có tiền sự xã hội đen ở Hồng Kông”.
Đây chính là mệnh lệnh hành động, Tưởng Nhất Dân lập tức dẫn theo vài cảnh sát hình sự xuất phát, Triệu Vĩnh và Đường Phong cũng định đi theo, Tưởng Nhất Dân quay đầu lại nói với Triệu Vĩnh: “Tóm một tên trộm quèn, không cần phí công các anh đâu”. Nói xong, Tưởng Nhất Dân dẫn vài đồng nghiệp lái chiếc Accord lao ra khỏi đội cảnh sát hình sự.
“Chúng ta cứ đợi ở đây thế này sao?” - Đường Phong có chút thất vọng hỏi Triệu Vĩnh.
Triệu Vĩnh cười cười đáp: “Người của lão K chúng ta đương nhiên không thể ở đây đợi suông được rồi, họ không đưa chúng ta đi, chúng ta sẽ tự đi, anh đi theo tôi”. - Nói xong, Triệu Vĩnh dẫn Đường Phong bước nhanh tới một con phố nhỏ khuất sau đồn cảnh sát. Tại đây, Đường Phong nhìn thấy ghế lái của Triệu Vĩnh – trên chiếc Hummer H3 to lớn, dũng mãnh.
Triệu Vĩnh giới thiệu với Đường Phong: “Chiếc Hummer phiên bản dân dụng này không sánh được với chiếc quân dụng, nhưng để tóm tên trộm quèn thì cũng dư sức. Triệu Vĩnh khởi động xe, Đường Phong lập tức cảm nhận được sức mạnh mà từ trước tới nay chưa từng được trải nghiệm.
Khi Đường Phong và Triệu Vĩnh đuổi kịp chiếc Accord của Tưởng Nhất Dân, Tưởng Nhất Dân đã vất vả đuổi theo Lâm Hải cả nửa vòng thành phố Quảng Châu. Lâm Hải lái một chiếc Sonata dòng Sedan, vượt lên trước lao sang trái, đâm sang phải, rồi lại quay ngang đâm thẳng, hoàn toàn chẳng khác gì lao vào chốn không người. Bất ngờ, chiếc Sonata đột nhiên rẽ quặt vào một con ngõ nhỏ ven đường, Tưởng Nhất Dân và những xe cảnh sát hoàn toàn không ngờ tới chiêu này của Lâm Hải, lần lượt phanh gấp, đột ngột quay đầu xe.
Triệu Vĩnh thấy Lâm Hải ngạo mạn nhường vậy, hậm hực nói: “Đến lúc kết thúc rồi!” - nói xong, anh đánh mạnh vô lăng, lao lên định chặn đầu từ một con đường gần đó, khi Triệu Vĩnh lái Hummer lao tới đầu ngõ, Sonata của Lâm Hải vừa vặn đâm đúng đầu Hummer, chiếc Sonata điên cuồng rút cuộc đã phải dừng lại, nhưng Lâm Hải vẫn không cam chịu, hắn tức tốc mở cửa xuống xe, cửa xe phía bên kia Triệu Vĩnh ngồi bị đâm biến dạng, nên Triệu Vĩnh không mở được cửa, vậy là Đường Phong mở cửa phía bên anh ra, nhảy xuống xe trước.
Đường Phong vừa xuống xe, mới kịp nhìn đã thấy Lâm Hải, phản ứng rất nhanh, thoắt cái đã chạy lên vỉa hè. Đường Phong không đợi Triệu Vĩnh và cảnh sát phía sau chạy lên, một mình lao về phía Lâm Hải.
Lâm Hải bất chấp mọi thứ điên cuồng lao thẳng về phía trước. Đường Phong phát hiện con đường mà họ đang chạy rất đông người qua lại, địa hình phức tạp, nhưng có vẻ như Lâm Hải rất quen thuộc với khu này, hắn khoác trên vai một chiếc ba lô, thuần thục băng qua những cửa hàng, lách giữa dòng xe cộ, dòng người, mấy lần suýt nữa mất hút khỏi tầm mắt của Đường Phong, nhưng mỗi lần như vậy, hắn lại bị Đường Phong phát hiện ra.
Đường Phong đuổi được vài trăm mét, thì đột nhiên, Lâm Hải đang lao điên cuồng bỗng dưng đứng khựng lại, Đường Phong cũng đột nhiên cảm thấy có gì đó không bình thường. Hai người đứng cách nhau một đoạn, gần như đồng thời dừng lại, cảnh giác quan sát xung quanh, dòng người bên cạnh đông đúc ồn ào, vô cùng náo loạn.
“Sao thế?” - Triệu Vĩnh đuổi kịp, thắc mắc với Đường Phong.
Đường Phong ngẩng đầu, nhìn về hướng những cao ốc xung quanh, anh đột nhiên nhận ra… “Ban nãy có người nổ súng bắn chúng ta, có sát thủ bắn tỉa!”
“Cái gì? Sát thủ bắn tỉa!” - Triệu Vĩnh kinh ngạc, cũng nhìn hướng lên những cao ốc xung quanh. Lúc này, Đường Phong cảm thấy, trong từng tòa nhà hai bên đường, từng ô cửa sổ, sau từng miếng kính, từng bức tường hình như đều có một đôi mắt chim ưng đang chăm chú dõi theo họ…
“Nhưng tôi cảm nhận, súng không nhằm bắn vào tôi, mà là nhắm vào Lâm Hải”. - Đường Phong phán đoán.
“Ý anh là có người muốn giết người diệt khẩu?”
“Mặc kệ hắn, nhanh chóng tóm lấy Lâm Hải!”. - Nói xong, Đường Phong quay đầu nhìn lại về hướng Lâm Hải vừa mới dừng lại, phát hiện Lâm Hải đã lẫn trong dòng người.
Lâm Hải hình như cũng cảm nhận được mục tiêu thực sự của súng trường bắn tỉa là mình, hắn liền chui tọt vào một khu chợ buôn bán ồn ào ven đường, lượng người ở đây càng đông đúc hơn. Chạy thục mạng, căng thẳng, cộng thêm cả khủng hoảng đã khiến Lâm Hải hao tổn quá nhiều sức lực, Đường Phong phát hiện bước chân của Lâm Hải đã bắt đầu loạng choạng…
5
Lâm Hải chốc chốc lại quay đầu, nhìn Đường Phong và Triệu Vĩnh từng bước áp sát, Lâm Hải muốn tăng tốc, nhưng đôi chân dường như đã không còn nghe lời hắn, hắn loạng choạng rẽ những đám đông trước mặt, điên cuồng lao về phía trước. Đột nhiên, hắn đâm sầm vào một người nước ngoài cao to vạm vỡ, ông tây này đang chọn đồ chơi trong sạp hàng trước mặt, bị Lâm Hải “tấn công” đột ngột như vậy, cả người chao đảo, chiếc ô trên tay rơi xuống đất, Lâm Hải cũng bị ngã nhào ra đất.
Rồi Lâm Hải lại lồm cồm bò dậy, tiếp tục tháo chạy. Đường Phong và Triệu Vĩnh tách đám người, bám đuổi theo sau. Được vài trăm mét, Đường Phong phát hiện một bên chân của Lâm Hải hình như bị chuột rút, hầu như không thể cử động được, nhưng Lâm Hải vẫn kéo lê chân, khó nhọc lao về phía trước.
Thấy Đường Phong và Triệu Vĩnh sắp đuổi kịp, Lâm Hải đột nhiên kéo mạnh phéc-mơ-tuya chiếc ba lô, nhìn vật trong túi một cái, sau đó hét lên: “Đều là do những thứ vô dụng này hại bố mày, mẹ nhà nó, bố mày không quan tâm nhiều nữa!” - vừa hét hắn vừa quẳng vật trong túi lên không trung, khu chợ lúc đó bỗng trở nên hỗn loạn không tưởng…
Đường Phong nhìn thấy những thứ Lâm Hải vứt ra đều là những cuộn giấy, anh đón lấy một tờ rồi giở ra xem. Trên đó toàn là những chữ nước ngoài mà anh không biết, hình như là tiếng Nga. Chính trong giây phút Đường Phong sững sờ, thì Triệu Vĩnh đã kịp tung đòn vồ bắt được tôi luyện trong hải quân lục chiến, anh nhảy người lên cao, xô Lâm Hải ngã soài ra đất, dùng đầu gối ghì chặt eo lưng của hắn. Tuy đã ngã ra đất, Lâm Hải vẫn không cam lòng, ra sức giãy giụa, nhưng dù thế nào thì hắn cũng không phải là đối thủ của Triệu Vĩnh. Bị đè dưới sức nặng cơ thể của Triệu Vĩnh, sau khi gầm rú, rên rỉ những tiếng kêu trong sức cùng lực kiệt, Lâm Hải cuối cùng cũng im lìm bất động.
“Mày chạy đi!” - Triệu Vĩnh vẫn ghì chặt đè lên người Lâm Hải. Đường Phong vội vàng lao lên cướp lấy chiếc ba lô của Lâm Hải. Anh vội dốc ngược ba lô lên nhưng cũng không phát hiện ra kệ tranh ngọc như kỳ vọng. Lẽ nào Lâm Hải chuyển kệ tranh ngọc đi mất rồi? Hoặc là… trong tủ cất đồ vốn không có kệ tranh ngọc? Nghĩ tới đây, Đường Phong cố hỏi Lâm Hải đang bị đè bẹp: “Kệ tranh ngọc đâu?” - Lâm Hải nằm trên mặt đất, vẫn im thin thít.
Lúc này, Tưởng Nhất Dân cùng mọi người đã tới nơi, anh vừa lao tới đã rút ngay còng số 8 còng chặt tay Lâm Hải, đột nhiên hét lên kinh ngạc: “Sao hắn không động đậy gì cả?”. Đường Phong và Triệu Vĩnh nhìn xuống Lâm Hải bên dưới, giờ mới phát hiện, Lâm Hải lúc này bất động, giống như đã chết, trong miệng còn ộc ra cả máu tươi.
“Lẽ nào do ban nãy tôi đã dùng sức quá mạnh? Không đúng! Cho dù có vậy cũng không đến nỗi miệng trào máu tươi mà! Cái này tôi cũng biết điểm dừng”. - Triệu Vĩnh nghi ngờ đưa tay vào mũi Lâm Hải, Lâm Hải lúc này đã tắt thở.
Tất cả mọi người ở hiện trường đều sững sờ, Đường Phong nhìn xung quanh, những người vây xem, và cả dòng người đông đúc ồn ào, từng khuôn mặt, lướt qua mắt anh, Đường Phong nhanh chóng hồi tưởng lại từng cảnh tượng ban nãy, tháo chạy, truy đuổi, súng bắn tỉa… đột nhiên, Đường Phong thảng thốt hét to lên: “Là lão tây ban nãy!”
“Lão tây?” - Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân không hiểu.
Đường Phong hạ giọng: “Vì có người muốn Lâm Hải chết, nên sẽ không chỉ sắp xếp một tay sát thủ bắn tỉa, chúng ắt hẳn còn sắp xếp thêm sát thủ khác nữa, lão tây ban nãy, chắc chắn có vấn đề! Sau khi Lâm Hải va vào người hắn ta, một bên đùi đã không cử động được, nhất định là do lão tây kia đã ra tay”.
Mọi người lách ra khỏi đám đông đang vây quanh, tìm kiếm người nước ngoài ban nãy, những biển người mênh mông, người đó đã “lặn không sủi tăm”.
6
Trở về đội cảnh sát hình sự, không kịp nghỉ ngơi, ba người lập tức chia nhánh hành động. Triệu Vĩnh đến trung tâm pháp y tham gia khám nghiệm tử thi của Lâm Hải; Tưởng Nhất Dân đi kiểm tra đạn rơi lại ở hiện trường, sau đó căn cứ vào đường đạn để phân tích, phán đoán vị trí của sát thủ bắn tỉa lúc đó; còn Đường Phong thì ở lại, bắt đầu nghiên cứu chữ nghĩa trên những hồ sơ tài liệu trong túi của Lâm Hải. Những tài liệu này đã được công an thu giữ lại toàn bộ, Đường Phong phát hiện chữ trên những hồ sơ tài liệu này toàn là tiếng nước ngoài, không phải là tiếng Anh và tiếng Pháp mình tinh thông, mà là tiếng Nga. May mà thời còn đi học, Đường Phong đã từng học môn tự chọn là tiếng Nga, sau đó cũng không dùng tới, quên gần hết, không ngờ lúc này lại cần đến.
Quả thật là những gì áp dụng được từ sách rất ít ỏi, Đường Phong vừa đoán vừa mò mẫm hơn hai tiếng đồng hồ, đầu cóc như muốn nổ tung, mà vẫn chưa hiểu được bao nhiêu nội dung, anh không hiểu những hồ sơ tài liệu này có liên quan gì tới kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ? Và những kẻ phía sau bóng tối, giết chết Lương Vân Kiệt, phái Lâm Hải đi lấy cắp những hồ sơ tài liệu này, tại sao lại phải giết người diệt khẩu? Nhưng khi Đường Phong tiện tay lật giở một tập tài liệu, anh đột nhiên trợn tròn mắt, ánh mắt lóe lên tia kinh ngạc, bởi anh nhìn thấy trên bìa một bộ hồ sơ ba chữ tiếng Nga màu đen rất to К Г В, Đường Phong biết rõ ba chữ này tượng trưng cho điều gì? Nó tượng trưng cho tổ chức thần bí nhất, vĩ đại nhất, khiến người ta khiếp sợ nhất thế giới – Ủy ban an ninh quốc gia KGB.
Đúng lúc Đường Phong đang nghiền ngẫm vấn đề này, thì Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân từng người một cầm một xấp tài liệu, sắc mặt nặng nề bước vào. “Báo cáo khám nghiệm tử thi của Lâm Hải có rồi à?” - Đường Phong hỏi.
“Sao mà nhanh thế được! Hiện mới chỉ bước đầu tiến hành giải phẫu tử thi, kết quả thu được cũng khiến chúng ta phải kinh ngạc rồi!” - Triệu Vĩnh nghiêm túc trả lời.
“Kinh ngạc? Rút cuộc Lâm Hải chết vì cái gì?” - Đường Phong ngạc nhiên hỏi dồn.
Triệu Vĩnh không trả lời câu hỏi của Đường Phong mà quay ra hỏi Tưởng Nhất Dân: “Chỗ anh bên đó sao rồi?”
Tưởng Nhất Dân mở hồ sơ trước mặt ra, bắt đầu đọc theo những gì trong đó ghi lại: “Từ hai viên đạn sót lại ở hiện trường cho thấy, sát thủ bắn tỉa đã sử dụng loại súng bắn tỉa PM 7,62 ly do Anh sản xuất, loại súng này được chế tạo bởi hệ thống công ty chế tạo vũ khí tinh xảo bí mật của Anh, súng dài từ 1124~1194 mm, báng súng dài 655mm, nặng 6,5 kg, sơ tốc nòng súng 314~330m/giây, có thể đặt trong hộp, thuận tiện mang theo bên mình. Hung thủ đã sử dụng tới loại súng bắn tỉa chuyên nghiệp như vậy, nên có thể thấy, lai lịch của chúng không hề tầm thường…”. - Nói xong, Tưởng Nhất Dân phán đoán: “Thông qua phân tích đường đạn, chúng tôi có thể xác định, xạ thủ bắn tỉa đã bắn Lâm Hải từ một tòa cao ốc 11 tầng ven đường, nhưng không bắn trúng Lâm Hải, từ đó, có thể phán đoán được, cùng lúc khi chúng ta truy kích Lâm Hải, còn có một đám người khác cũng đang bám theo Lâm Hải, chúng thậm chí còn tiến bộ hơn chúng ta, và đã vượt mặt chúng ta”.
“Sát thủ chuyên nghiệp thật đấy, còn dùng cả súng bắn tỉa để bắn nữa” - Đường Phong nói.
“Còn chuyên nghiệp hơn ở chỗ này này!” - Triệu Vĩnh lật giở tập tài liệu trước mặt mình, vẻ mặt nghiêm trọng: “Theo khám nghiệm ban đầu của pháp y, nguyên nhân thực sự cái chết của Lâm Hải là tử vong vì trúng độc”.
“Trúng độc!” - Triệu Vĩnh vừa đọc ra kết luận, cả Đường Phong và Tưởng Nhất Dân đều kinh ngạc thất sắc.
“Đúng vậy, trúng độc, hơn nữa không phải chỉ là chất độc thông thường. Chúng tôi đã phát hiện ra, trên đùi của Lâm Hải có một vết kim tiêm rất nhỏ, từ trong vết kim tiêm đó lấy ra được một hạt kim loại có đường kính chỉ khoảng 1mm. Trong hạt kim loại này còn sót lại độc tố, cụ thể là loại độc gì, thì chúng tôi còn phải gửi đến Bắc Kinh để tiến hành kiểm nghiệm bước nữa, nhưng hiện giờ chúng tôi cũng có thể đoán ra một trong những loại độc tố đó – độc tố Ricin”.
“Độc tố Ricin? - Một trong những loại độc tố độc nhất trên thế giới, mà đến nay vẫn chưa có thuốc giải độc! Tôi còn nhớ những năm thập niên 70 của thế kỷ trước, KGB đã từng sử dụng loại độc tố này để làm công cụ ám sát những người phản bội tháo chạy.” - Trong đầu Đường Phong lập tức xuất hiện sự liên tưởng này.
“Đúng vậy, dùng súng bắn tỉa ám sát, đây khả năng là hành vi của những tập đoàn tội phạm, với nhưng các anh nghĩ xem, sử dụng đến phương pháp dùng Ricin giết người này, với những tập đoàn tội phạm bình thường thì liệu có khả năng không? Đường Phong nói không sai, phương pháp ám sát này là thủ đoạn đặc công chuyên dụng, trước đây KGB từng nhiều lần sử dụng cách này để xử tử mục tiêu ám sát. Hơn nữa theo như tôi biết, chúng còn vì mục đích này mà thiết kế ra một loại ô, đầu ô được cải tạo đặc biệt để chuyên dùng bắn loại hạt kim loại này, các anh có còn nhớ lão tây mà Lâm Hải đâm phải khi đó không? Lúc ấy, trong tay lão ta có cầm một chiếc ô”.
“Ý anh là khi Lâm Hải đâm vào lão tây đó, người đó đã dùng mũi ô chích một nhát vào đùi Lâm Hải, bắn hạt kim loại có chứa độc tố Ricin vào cơ thể Lâm Hải.” - Tưởng Nhất Dân chau mày nói.
“Đúng vậy, ngoài điều này ra, tôi không nghĩ ra còn có cách giải thích nào tốt hơn. Lúc đó Lâm Hải đã trải qua cả một chặng đường chạy thục mạng, toàn thân nóng ran, mạch máu lưu thông nhanh, nên độc tố chẳng mấy chốc đã lan khắp cơ thể; vậy là, chưa tới 10 phút là đã mất mạng rồi!” - Kết luận của Triệu Vĩnh, khiến Đường Phong và Tưởng Nhất Dân trong thời tiết nóng bức này bỗng cảm thấy rùng mình.
7
Sau khi Tưởng Nhất Dân và Triệu Vĩnh nói xong từng kết luận của cá nhân mình, Đường Phong định sẽ nói tiếp về tình hình nghiên cứu những hồ sơ tài liệu của anh, nhưng Triệu Vĩnh đã ngắt lời. Anh ta cầm tập hồ sơ tài liệu này lên và kéo Đường Phong rời khỏi đồn cảnh sát. Trên đường trở về khách sạn, Đường Phong mù mờ hỏi: “Tại sao ban nãy anh không để tôi nói về tình hình của những hồ sơ tài liệu đó?”
“Bởi vì kỉ luật, những tài liệu này là của Lương Vân Kiệt, liên quan tới bí mật đằng sau kệ tranh cổ, cảnh sát Tưởng tuy là người của chúng ta, nhưng anh ấy vẫn chưa đủ tư cách để tiếp xúc với những cơ mật này.” - Triệu Vĩnh nghiêm túc trả lời Đường Phong.
Đường Phong lại lần nữa được lĩnh hội sự nghiêm khắc của kỉ luật, kể cả với những chiến hữu kề vai chiến đấu với mình, điều gì không nên nói thì kiên quyết không được nói.
“Nhưng bây giờ thì anh có thể nói xem sao.” - Triệu Vĩnh đổi giọng.
“Bây giờ? Trên đường đi?”
“Đúng vậy, ngay bây giờ, trên đường đi, thế này là tốt nhất, không có ai nghe thấy, đối thủ của chúng ta thực lực không phải vừa, không biết chừng trong khách sạn cũng đã bị chúng lắp máy nghe trộm, thế nên nói bây giờ là tốt nhất”.
Đường Phong gật gật đầu, nói nhỏ: “Tôi đã xem qua, những tài liệu này đều là tài liệu bằng tiếng Nga, hơn nữa, có lẽ còn có không ít tài liệu tuyệt mật của chính quyền Liên Xô trước đây…”
“Tài liệu tuyệt mật?” - Triệu Vĩnh ngắt lời Đường Phong.
“Đúng vậy, có một vài tài liệu tuyệt mật, thậm chí còn thuộc dạng cấp cao nhất của KGB”.
“KGB? Tài liệu bảo mật cấp cao như vậy sao lại xuất hiện ở đây được?” - Triệu Vĩnh càng thêm phần kinh ngạc.
“Nhưng trình độ tiếng Nga của tôi rất kém, có rất nhiều chỗ tôi đọc cũng không hiểu, bởi vậy tôi chỉ hiểu được khoảng một nửa” - Đường Phong giải thích.
Triệu Vĩnh liếc nhìn túi hồ sơ, nói: “Đường Phong, trước khi trở về đội cảnh sát hình sự, tôi đã báo cáo sơ lược với đội trưởng tình hình hôm nay, đội trưởng cũng vô cùng ngạc nhiên trước những gì chúng ta gặp phải, anh ấy ra lệnh cho chúng ta phải lập tức đem những hồ sơ này về Bắc Kinh, anh ấy sẽ mời chuyên gia của bộ tổng tới tìm hiểu những tài liệu này”.
“Bay về Bắc Kinh! Vậy ở đây thì sao?”
“Ở đây thì giao cho hội cảnh sát Tưởng xử lý. Theo như phán đoán của đội trưởng thì kệ tranh ngọc sẽ không thể xuất hiện tại Quảng Châu”.
“Kệ tranh ngọc không ở Quảng Châu, vậy thì ở đâu? Còn cả những tài liệu này nữa, tại sao Lương Vân Kiệt lại giấu chúng trong tủ đồ ở thư viện?” - Đường Phong nói một loạt nghi ngờ trong lòng.
Triệu Vĩnh nhìn Đường Phong, chau mày, không trả lời câu hỏi của Đường Phong, giống như đang chìm đắm trong suy tư vậy.
Trở lại khách sạn, Đường Phong đột nhiên phát hiện ra trên bàn có thêm một tấm thiệp mời, anh mở ra xem:
“Tang lễ của tiên sinh Lương Vân Kiệt - chủ tịch danh dự hội đồng quản trị tập đoàn Tân Sinh - Hồng Kông, cử hành vào 9 giờ sáng ngày 20 tháng 8 tại lễ đường Cơ Ân - nhà tang lễ Hồng Kông, kính mời Đường Phong tiên sinh tham dự. Địa chỉ: Nhà tang lễ Hồng Kông - số 679 đường Anh Hoàng, Bắc Giác, Hồng Kông”.
Đường Phong xem xong, trong lòng vô cùng sửng sốt, tấm thiệp mời trên tay bỗng rơi xuống đất, Triệu Vĩnh vội vàng nhặt tấm thiệp lên xem. “Sao họ lại biết tôi ở đây nhỉ? - Tôi và Lương Vân Kiệt chỉ vô tình gặp gỡ, trước đây chưa từng giao du, Lương gia sao lại muốn mời tôi tới dự tang lễ của Lương Vân Kiệt? Xem ra nhất cử nhất động của tôi đều có người theo dõi!”.
Triệu Vĩnh đọc xong thiệp mời cũng tỏ ra kinh ngạc không kém, anh vội vàng tìm nhân viên phục vụ hỏi: “Tấm thiệp mời này để ở phòng 906 lúc nào vậy?”
Nhân viên phục vụ nhớ lại: “Là lúc trưa, khi chúng tôi quét dọn vệ sinh, có một cô gái bảo chúng tôi đặt tấm thiệp lên bàn”.
“Cô gái? Cô ta có vào trong phòng không?”
“Không! Khi khách không ở đây, trừ nhân viên khách sạn ra, chúng tôi không cho phép người nào vào phòng của khách”.
Triệu Vĩnh vẫn chưa yên tâm, trở lại phòng, đóng chặt cửa, sau đó bắt đầu kiểm tra khắp nơi, lục tìm máy nghe trộm, camera, tivi, dưới gậm giường, trong phòng tắm... khắp mọi ngóc ngách anh đều tìm kiếm một lượt, nhưng không phát hiện ra bất cứ vật khả nghi nào.
Lúc này Triệu Vĩnh mới gọi vào số điện thoại của Hàn Giang, báo cáo với Hàn Giang về tình hình mới nhất. Hàn Giang nghe xong bảo Triệu Vĩnh chuyển máy để anh nói chuyện với Đường Phong. Đường Phong nghe máy, đầu dây bên kia vang lên giọng nói biểu cảm của Hàn Giang: “Đường Phong, chúng tôi cho rằng đây là một cơ hội tốt, hiện giờ kệ tranh ngọc rất có khả năng đang ở Hồng Kông, thế nên cậu yên tâm, tôi sẽ lập tức thông báo để cảnh sát Hồng Kông biết, sẽ có người bảo vệ cậu”.
CHƯƠNG 4
Lễ tang kinh hồn
1
Đ
ường Phong nghỉ ngơi một ngày ở Quảng Châu, sáng ngày 20 tháng 6 anh đặt chân tới Hồng Kông. Ra khỏi sân bay quốc tế Hồng Kông, tắc xi chở Đường Phong lao thẳng tới nhà tang lễ Hồng Kông số 679 đường Anh Hoàng, Bắc Giác đảo Hồng Kông. Khi Đường Phong tới nơi, tiền sảnh nhà tang lễ đã đông kín những nhân vật quan trọng trong giới chính trị, những tinh anh của giới doanh nghiệp, bạn bè thân hữu gần xa tới tham dự tang lễ của Lương Vân Kiệt. Đường Phong không biết mình được coi là gì của Lương Vân Kiệt, vì anh chỉ mới tiếp xúc với ông có vài lần, thời gian gặp mặt cộng lại cũng không quá một tiếng đồng hồ, nhưng lại là người tận mắt chứng kiến ông bị đâm chết trong con ngõ mưa…
Trong Lễ đường Cơ Ân, tiếng nhạc đám ma trầm buồn vang vọng, một bức di ảnh rất lớn của Lương Vân Kiệt treo cao trong điện, Đường Phong theo dòng người chầm chậm tiến vào lễ đường, cúi vái ba vái trước di ảnh. Người nhà của Lương Vân Kiệt đứng bên cạnh cảm tạ, Đường Phong chú ý thấy, người đàn ông trung niên đầu tiên đứng bên trái di ảnh, tuy chít khăn tang, nét mặt u sầu, nhưng không che giấu được sự tinh anh trên khuôn mặt, xem ra quả là một nhân sỹ có sự nghiệp thành đạt. Khỏi phải hỏi, đây chắc chắn là con trai của Lương Vân Kiệt, chủ tịch hội đồng quản trị đương nhiệm của tập đoàn Tân Sinh Hồng Kông – Lương Dũng Tuyền.
“Xin đừng quá đau buồn!” - Đường Phong và Lương Dũng Tuyền bắt tay nhau, đây là một đôi tay rắn chắc nhưng cũng rất thô ráp, Đường Phong trong lòng kinh ngạc, Lương Dũng Tuyền được nuôi dưỡng trong một môi trường đầy đủ điều kiện, sao lại có đôi tay thô ráp như vậy?
Lương Dũng Tuyền nhìn Đường Phong, vẻ mặt trấn tĩnh, đáp lời cảm ơn. Đường Phong nhanh chóng theo dòng người rời khỏi nhà tang lễ. Ra đến bên ngoài, Đường Phong thở phào một hơi, xem ra cho tới lúc này, hành động của anh cũng được coi là thuận lợi! Đường Phong vừa bước đi vô định trên vỉa hè dành cho người đi bộ, vừa tính toán xem làm cách nào để tới gặp được Lương Dũng Tuyền.
Đương lúc tính toán, Đường Phong bất giác đi vào một con đường nhỏ có phần vắng vẻ, đột nhiên, trước mặt lướt qua một người đàn ông cơ thể tráng kiện mặc bộ vest, đeo kính râm, chặn ngang đường. Người này nói bằng tiếng phổ thông cứng nhắc: “Đường tiên sinh, ông chủ chúng tôi mời ngài đến phủ làm khách, hy vọng ngài có thể ghé qua!”
Đường Phong thấy người này cũng khá khách khí, anh định thần, hỏi lại: “Ông chủ của các anh là ai? Hình như ở Hồng Kông tôi không có người quen”.
“Đi rồi ngài sẽ biết”. Một chiếc Mercedes lập tức lao tới, đỗ xịch bên cạnh Đường Phong. Hai người đàn ông cao to từ trong xe chui ra, không nói năng gì, xốc nách Đường Phong ấn vào trong xe. Đường Phong ra sức giãy giụa, bỗng thấy một vật lạnh toát, cứng đơ kề sát sau lưng mình, và anh biết đó là – một khẩu súng. “Đừng làm khó chúng tôi, chúng tôi chỉ thực thi theo mệnh lệnh” - Người cầm súng cục cằn đe dọa Đường Phong.
Đường Phong bị kẹp lên xe, chiếc Mercedes lao như bay xuyên qua những con đường lớn nhỏ trên đảo Hồng Kông, chẳng mấy chốc, đã tới núi Thái Bình. Trong vòng bốn ngày, Đường Phong đã bị hai nhóm người ép lên xe, lần trước là hội Triệu Vĩnh, lần này lại là hội nào đây? Là hội đâm chết Lương Vân Kiệt, mưu sát Lâm Hải tại Quảng Châu? Hay là… nếu đúng là hội người đó, mình sẽ rắc rối đây!
Trên đường đi, Đường Phong không rối bời trong những suy nghĩ, mãi cho tới khi chiếc Mercedes dừng lại trước cửa một biệt thự sang trọng trên núi Thái Bình.
2
Mấy người cao to dẫn Đường Phong vào một phòng sách rồi lui ra, Đường Phong tiến lại đẩy cửa phòng để sách đi ra thì phát hiện cửa phòng đã bị khóa bên ngoài. Đường Phong quay người lại quan sát căn phòng này. Phòng sách rất lớn, trang trí nội thất xa xỉ, tấm rèm cửa dày cộm được kéo lên không để ánh sáng lọt vào, hai chùm đèn soi sáng toàn bộ phòng sách, Đường Phong bước tới cạnh bàn đọc sách, phát hiện trên chiếc bàn sang trọng này, ngoài hai tờ báo của ngày hôm nay ra, chỉ có một khung ảnh. Anh cầm khung ảnh lên chăm chú nhìn, trong khung ảnh là một tấm ảnh thiếu nữ. Khuôn mặt thiếu nữ trên tấm ảnh khá xinh xắn, điềm tĩnh tự nhiên, nhưng không mất đi vẻ quyến rũ. Đường Phong chăm chú ngắm nhìn cô gái trong ảnh, bất giác tâm trí lơ lửng, bỗng có cảm giác là mình đã từng gặp người con gái này ở đâu.
Đường Phong buông khung ảnh xuống, vén tấm rèm cửa dày cộm lên, giờ mới phát hiện ra, đứng trước tấm cửa kính sát đất khổng lồ này, nhìn xuống có thể bao quát cảnh vật của hơn nửa đảo Hồng Kông. Đường Phong biết rằng, trên núi Thái Bình, giá của những biệt thự hào hoa thế này không thường, chắc chắn không phải là nơi ở của những người giàu có bình thường. Vậy chủ nhân của ngôi biệt thự sang trọng này là ai nhỉ? - Đường Phong ngẫm nghĩ. Lúc này, cửa phòng sách được mở ra, Đường Phong quay đầu lại nhìn, bước vào là một người phụ nữ giúp việc bưng lên cho Đường Phong một bữa trưa thịnh soạn, Đường Phong không chút hòa khí hỏi sẵng: “Chủ nhân của các người mời tôi tới đây, tại sao lại không tới gặp tôi?...… Chủ nhân của các người rút cuộc là ai?”.
Người phụ nữ giúp việc không buồn để ý tới câu hỏi của Đường Phong, chỉ lo đặt đồ ăn xong xuôi, sau đó lại lui ra khỏi phòng sách, rồi lại khóa cửa lại. Đường Phong nhìn đồ ăn, đang cơn đói bụng, anh cũng không buồn khách khí làm gì. Rồi như một cơn gió lốc, chẳng mấy chốc anh đã “tiêu diệt” hết thức ăn.
Ăn xong, Đường Phong bước tới trước giá sách. Chủ nhân của phòng sách sưu tập sách rất phong phú, trên giá kín mít những tác phẩm lớn trong nước và nước ngoài, chẳng hạn như: “Hai mươi bốn bộ sử thi”, “Tư trị thông giám”… Đường Phong đọc lướt một lượt từ đầu tới cuối tên những cuốn sách mà chủ nhân phòng sách sưu tầm, các tác phẩm nổi tiếng của nhiều lĩnh vực đều đầy đủ; hơn nữa, còn theo mô hình của thư viện, sắp xếp số thứ tự từ A đến Z, chỉ khác là… trong vô số những cuốn sách mà chủ nhân phòng sách sưu tập, Đường Phong không thấy lấy một cuốn tiểu thuyết nào.
“Có lẽ chủ nhân phòng sách là một vị giáo sư già bác học, không thích đọc tiểu thuyết… nhỉ?” - Đường Phong đột nhiên phát hiện ra một cuốn tiểu thuyết có chút ngả vàng trong một góc khuất trên giá sách. Đầy bụng nghi ngờ, anh nhấc cuốn tiểu thuyết này ra – “Tứ bình ám sự”. Đường Phong biết cuốn này là một trong loạt tiểu thuyết trinh thám “Địch Công kỳ án” của nhà văn Hà Lan Robert Hans Van Gulik, “Địch công kỳ án” viết về câu truyện điều tra phá án của danh tướng Địch Nhân Kiệt thời nhà Đường Trung Quốc, còn “Tứ bình ám sự” chính là cuốn nổi tiếng nhất trong số đó. Trong số sách sưu tập của chủ nhân phòng sách không hề có cuốn tiểu thuyết nào khác, vậy sao lại xuất hiện cuốn “Tứ bình ám sự” này? Nhìn cuốn sách được lật giở tới mức cũ kĩ, nhất định là chủ nhân phải thường xuyên đọc nó. Vậy rút cuộc cuốn “Tứ bình ám sự” này đặc biệt ở chỗ nào? … Đường Phong tỉ mẩn lật giở cuốn sách, nhưng cũng không phát hiện ra có gì đặc biệt…
Đường Phong ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không hiểu nổi, đúng lúc này, cánh cửa phòng sách lại được mở ra lần nữa, Đường Phong vội vàng đưa tay đặt cuốn “Tứ bình ám sự” về chỗ cũ, quay đầu lại nhìn, lần này không phải là người phụ nữ giúp việc, người bước vào hóa ra là chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Tân Sinh mà anh vừa gặp ở nhà tang lễ sáng nay - Lương Dũng Tuyền.
3
“Chào cậu, Đường Phong”. - Lương Dũng Tuyền bước vào phòng sách, mở lời trước.
Đường Phong vô cùng kinh ngạc, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh: “Tôi nên sớm nghĩ tới ông, ở Hồng Kông, trừ ông ra thì còn có ai muốn gặp tôi nữa, nhưng ông là chủ tịch của tập đoàn Tân Sinh, lẽ nào lại mời khách theo kiểu này ư?”
Lương Dũng Tuyền không vì lời chất vấn của Đường Phong mà nổi giận, vẻ mặt vẫn điềm tĩnh nói: “Chàng thanh niên, trước khi chúng ta nói chuyện, tôi sẽ đính chính lại một điều sai lầm trong câu nói ban nãy của cậu”.
“Sai lầm?”
“Đúng vậy, sai lầm rất lớn. Tới giờ mà cậu vẫn chưa biết mình đang ở trong vùng nguy hiểm sao?”
“Tôi đương nhiên đang ở trong vùng nguy hiểm rồi, sự nguy hiểm này không phải do ông mang tới cho tôi sao?”
“Không! Không! Không!” - Lương Dũng Tuyền ngắt lời Đường Phong, “Chàng thanh niên, cậu nói không đúng, cậu phải biết rằng, ở Hồng Kông, không chỉ có tôi muốn gặp cậu, những người muốn gặp cậu còn rất nhiều đấy!”.
Đường Phong ngạc nhiên: “Còn rất nhiều người? Tôi chẳng có người quen nào ở Hồng Kông cả?”
Lương Dũng Tuyền lắc lắc đầu: “Đương nhiên, những người muốn gặp cậu không nhất thiết phải là người Hồng Kông, nhưng họ thực sự đã tới đây, chính trong tang lễ của cha tôi sáng nay, tôi đã ngửi thấy mùi dị thường, bởi vậy tôi mời cậu tới, là để bảo vệ cậu. Nếu như ban nãy thuộc hạ của tôi có gì thất lễ, tôi sẽ bảo họ tới xin lỗi cậu”.
Lương Dũng Tuyền vừa mới dứt lời, cửa phòng sách mở toang, người đàn ông cao to dẫn đầu ban nãy ép Đường Phong lên chiếc Mercedes bước vào phòng sách, bỏ kính râm xuống, xin lỗi Đường Phong: “Đường tiên sinh, ban nãy có gì thất thố, mong được lượng thứ”.
“Đây là vệ sỹ tráng kiện nhất của tôi, Hoàng Đại Hổ, cậu ấy xuất thân là lính đặc chủng, kỹ thuật bắn súng chuẩn xác, võ nghệ có hạng đấy. Cậu cũng biết giới thương nhân chúng tôi, làm ăn lớn rồi, luôn phải mời vài vệ sỹ” - Lương Dũng Tuyền đứng bên cạnh giới thiệu.
Lúc này, sự phẫn nộ trong lòng Đường Phong đã nguôi ngoai đi rất nhiều, vốn dĩ bản thân muốn đến tìm gặp Lương Dũng Tuyền, nhưng không ngờ lại gặp được Lương Dũng Tuyền theo cách này, nhưng Đường Phong vẫn chưa hiểu Lương Dũng Tuyền vừa nói “những người muốn gặp mình còn rất nhiều” rút cuộc là ai.
Lương Dũng Tuyền như nhìn thấu tâm tư của Đường Phong: “Có thể cậu đang nghĩ những người muốn gặp cậu là ai? Thực ra tôi cũng không biết những người đó từ đâu tới, nhưng tôi biết, họ tới là bởi kệ tranh ngọc”.
“Nhưng kệ tranh ngọc không ở trong tay tôi mà?”
“Nhưng những người đó không nghĩ vậy, họ cho rằng trước khi cha tôi chết, ông đã trao lại kệ tranh ngọc cho cậu, vì thế họ đều muốn mời cậu tới ‘làm khách’, nhưng có điều họ sẽ không đối đãi với cậu thân thiện giống như tôi đâu”.
“Chắc ông cũng nghĩ như vậy hả? Thế nên mới bắt tôi tới đây” - Đường Phong cười lạnh lùng.
Khóe miệng Lương Dũng Tuyền hé cười: “Đường Phong à, trong lòng cậu vẫn có thù ý với tôi, nhưng tôi nói thật lòng với cậu nhé, từ khi cha tôi mua tấm kệ tranh ngọc về, nó luôn được để ở đây, kệ tranh ngọc hiện giờ đang ở trong tay tôi, tôi có lý do gì để nghi ngờ cậu lấy nhỉ?”
“Kệ tranh ngọc quả nhiên ở trong tay ông!” - Đường Phong tuy đã chuẩn bị từ trước, nhưng vẫn không kém phần ngạc nhiên.
Lương Dũng Tuyền gật đầu xác nhận.
Đường Phong vẫn không khỏi thắc mắc: “Vậy tại sao ông lại mới tôi đến đây?”
“ Mời cậu tới để nói chuyện, vì dù gì cậu cũng là người cuối cùng tiếp xúc với cha tôi” - Lương Dũng Tuyến quay ngoắt chủ đề , hỏi thẳng Đường Phong.
“Sao vậy, ông cũng nghi ngờ là tôi giết cụ nhà?”
“Tất cả những người đã từng tiếp xúc với ông, tôi đều có lý do để nghi ngờ” - Lương Dũng Tuyền thăm dò Đường Phong bằng ánh mắt đặc biệt.
Đường Phong vừa nghe thấy câu này, nộ khí mới tạm lắng xuống đã lại trào lên lồng ngực, nhưng anh vẫn kìm nén sự phẫn nộ trong lòng, giải thích với Lương Dũng Tuyền: “Tên áo đen giết hại Lương lão tiên sinh đã chết rồi, điều này ông có thể đi hỏi phía cảnh sát”.
“Nhưng sát thủ thực sự phía sau bóng tối thì sao? Cậu không cho rằng tên áo đen đó giết cha tôi là để cướp kệ tranh ngọc chứ?”
“Lẽ nào ông nghi ngờ tôi thông đồng với tên áo đen đó, sau đó lại giết người diệt khẩu? Ông… ông có lý do gì nghi ngờ tôi chứ? Ông nghi ngờ tôi, tôi thì lại nghi ngờ ông đấy?” - Đường Phong không kìm nén được sự tức giận trong lòng.
“Ồ! Nghi ngờ tôi? Khà khà, cậu nghi ngờ gì tôi, nói nghe xem nào. Lẽ nào cậu nghi ngờ tôi giết hại cha mình?” - Lương Dũng Tuyền bị Đường Phong hỏi vặn mà lại thấy thú vị.
“Từ khi cụ nhà bắt đầu bỏ số tiền giá trên trời ra mua tấm kệ tranh ngọc này, hành động của ông khiến tôi nghi ngờ, còn cả vụ tự sát của chuyên gia đấu giá Tề Ninh. Còn nữa, sau khi cụ nhà bị sát hại tại Quảng Châu, Lương gia các ông tại sao không đợi cảnh sát phá án, mà lại vội vàng đem di thể ông cụ đi hỏa táng?”
Lương Dũng Tuyền nhìn Đường Phong chằm chằm, rất bình tĩnh đáp lại: “Bởi vì tôi không tin tưởng trong một thời gian ngắn cảnh sát có thể phá án, di thể của cha tôi không thể cứ nằm mãi trong nhà xác chờ đợi đám cảnh sát ngu xuẩn đó từ từ phá án được!”.
“Tại sao ông cho rằng trong một thời gian ngắn vụ án này không thể phá nổi? Xem ra Lương tiên sinh còn biết nhiều hơn cả chúng tôi đấy!”
“Không! Đường Phong, tôi không hề biết nhiều hơn cậu. Tôi giống cậu, cho rằng ngay từ ban đầu, sự việc này chính là một âm mưu, một âm mưu to lớn, người dựng nên âm mưu này không phải là cha tôi, cũng không phải là tôi, Lương gia chúng tôi là người bị hại, giống như cậu bị cuốn vào đó, ngâm mình trong đó. Đối diện với âm mưu to lớn này, Đường Phong, cậu cho rằng những cảnh sát đó có thể phá án trong một thời gian ngắn không?”
Đường Phong nghe xong câu này bắt đầu trở nên mơ hồ, lẽ nào bản thân mình thực sự rơi vào một âm mưu to lớn? Anh cúi đầu, suy nghĩ rối bời, nhưng lại chẳng nghĩ ra được điều gì khác, anh nhìn Lương Dũng Tuyền, chậm rãi hỏi: “Vậy ông cho rằng tất cả những điều này là thế nào? Là ai đã hại cụ nhà? Ai đã dựng nên âm mưu to lớn này?”
Lương Dũng Tuyền vẫn im lặng, từ cửa phòng sách bỗng vang lên một giọng nói: “Anh biết rõ rồi mà sao vẫn cố hỏi nhỉ?”
4
Đường Phong quay đầu lại nhìn về phía cửa phòng sách và bỗng sững sờ, đó chính là cô gái anh vừa thấy trong bức ảnh ban nãy. Cô gái này chừng 25, 26 tuổi, làn da trắng mịn, mái tóc dài thướt tha, đôi mắt sáng, răng trắng, dáng người cao ráo, đường cong mỹ miều, nhìn thật quen, hình như đã gặp ở đâu đó, không phải là chỉ trong bức ảnh ban nãy, là tại… trên cầu thang của trung tâm pháp y! Đường Phong đột nhiên nhớ ra, đúng vậy, trên cầu thang trung tâm pháp y, mình đã từng đâm sầm vào cô gái này.
Đường Phong bối rối đứng dậy, vẻ thẫn thờ ngắm cô gái trước mặt, cô gái cũng không tỏ ra yếu thế chằm chằm nhìn Đường Phong, không khí bỗng có phần bối rối. “Để tôi giới thiệu một chút, đây là tiểu nữ Lương Viện” - Lời giới thiệu của Lương Dũng Tuyền phá vỡ bầu không khí bối rối này.
Cô gái trước mặt là con gái của Lương Dũng Tuyền! Tiểu thư con nhà giàu, thảo nào ngạo mạn ngang ngược nhường vậy. Đường Phong vội vàng đưa tay về phía Lương Viện: “Xin lỗi Lương tiểu thư, lần trước ở Quảng Châu tôi không cẩn thận đã đâm vào cô”. Lương Viện khẽ “hứ” một tiếng, nhưng không bắt tay lại.
Đường Phong lại lần nữa lĩnh giáo tính khí của đại tiểu thư Lương Viện, ngại ngùng thu tay về. “Viện Viện, không được bất lịch sự, người ta xin lỗi con kìa.” - Lương Dũng Tuyền khẽ trách mắng.
Lương Viện lẩm bẩm phản bác: “Con không bắt tay với kẻ bị tình nghi giết ông nội”.
“Kẻ bị tình nghi?” - Đường Phong hỏi mà lòng thầm đau khổ.
“Đúng vậy, cuộc điện thoại cuối cùng là ông nội tôi gọi cho anh, người cuối cùng gặp ông nội tôi gặp cũng là anh, tôi không nghi ngờ anh thì nghi ngờ ai, hôm nay vừa hay cha tôi tóm anh tới đây, tôi phải thẩm vấn anh cho kỹ !” - Lương Viện đỏ mặt tức tối.
“Nói như vậy, thì người đưa thiệp mời tới phòng tôi cũng chính là cô sao?” - Đường Phong hỏi lại.
“Là tôi đưa đấy, cha tôi nói phải mời anh tới, tìm anh nói chuyện, nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên tóm lấy anh, sau đó thẩm vấn anh kĩ càng.” - Nói xong, Lương Viện quay về phía Hoàng Đại Hổ bên cạnh: “Đại Hổ, tiếp theo phải nhờ anh đấy, nếu anh ta không thành thật, thì dạy cho anh ta một trận”.
Hoàng Đại Hổ không biết phải làm thế nào, quay lại hỏi Lương Dũng Tuyền: “Ông chủ, ngài xem…”
Lúc Đường Phong và Lương Viện nói chuyện với nhau, Lương Dũng Tuyền lặng lẽ quan sát nét mặt, lời ăn tiếng nói, mãi cho tới khi Hoàng Đại Hổ hỏi ông, ông mới ngăn Lương Viện lại: “Viện Viện, không được làm loạn, Đường Phong là khách mà cha mời tới, ban nãy cha đã nói chuyện qua với anh ta rồi…” - Lương Dũng Tuyền chưa nói hết câu, đã lại quay ra nói với Đường Phong: “Đường Phong, thực ra tôi chỉ muốn tìm cậu đến để tìm hiểu một chút tình hình, hy vọng cậu có thể cung cấp vài manh mối hữu dụng, giúp tôi tìm ra hung thủ thực sự đứng sau vụ giết hại cha tôi, ban nãy những lời nói nghi ngờ cậu, đều là tiểu nữ muốn nói để thử cậu, bởi vậy…”
Lương Dũng Tuyền đổ hết trách nhiệm cho Lương Viện, Đường Phong cũng đành phải hòa nhã trở lại, anh nhìn khuôn mặt tức tối của Viện Viện, lại nhớ tới nhiệm vụ tới Hồng Kông của mình, liền hỏi lại Lương Dũng Tuyền: “Tôi nghĩ Lương tiên sinh nhất định đã thử ra kết quả?”
Lương Dũng Tuyền nở một nụ cười: “Đúng vậy, giờ tôi đã tin cậu chắc chắn không phải là sát thủ trong bóng tối đó. Tiểu nữ được tôi nuông chiều từ nhỏ, lại thêm việc ông nội bị hại, tính khí gần đây rất không ổn, mong cậu lượng thứ”.
“Tôi hiểu” - Đường Phong tỏ ra rất rộng lượng, “Vậy ngài cho rằng sát thủ trong bóng tối thực sự là ai?”
“Chính là bọn người mà lúc đầu tôi nói họ cũng muốn gặp cậu, nhưng tôi vẫn chưa biết họ là ai, nhưng… nhưng tôi lo lắng nhất không phải là đám người đó, mà là…”
“Còn có ai nữa? Còn ai muốn đoạt được kệ tranh ngọc?”
5
Lương Dũng Tuyền không trả lời ngay câu hỏi của Đường Phong, mà đứng dậy, mặt hướng về phía cửa kính sát đất, quay lưng lại phía Đường Phong, im lặng hồi lâu. Đường Phong mắt đối mắt với Hoàng Đại Hổ đứng bên cạnh, không biết Lương Dũng Tuyền đang tư lự điều gì… Đột nhiên, Lương Dũng Tuyền quay người lại, nhìn Đường Phong, gần như từng chữ từng chữ một thốt ra từ miệng: “Hay - là - huyết - chú?”.
“Huyết chú?” - Đường Phong giật bắn mình.
“Đúng vậy, huyết chú! Cha tôi từng kể với tôi rằng, phàm là những người có ý đồ giải mã bí mật của kệ tranh ngọc đều sẽ bị tai họa giáng xuống đầu”.
“Cụ nhà còn nói gì với ngài nữa không?”
“Khi cha tôi mua tấm kệ tranh ngọc về, tôi đã từng hỏi ông việc liên quan tới kệ tranh ngọc, nhưng hình như ông không muốn tôi tham gia vào việc này. Vì tôi hỏi nhiều quá, ông mới nói với tôi rằng đó là huyết chú”.
“Xem ra ông cụ tin rằng có huyết chú tồn tại, thế nên cụ cũng giấu cả ông”.
“Tôi nghĩ thế này, việc này chắc chắn rất nguy hiểm, cho nên cha tôi luôn giữ kín với tôi và Viện Viện. Viện Viện cũng rất tò mò về kệ tranh ngọc, nhưng cha tôi quyết không chịu tiết lộ gì cho nó”.
“Đúng vậy! Ông nội luôn giải đáp mọi thắc mắc của tôi, nhưng lần này ông lại không chịu nói, hơn nữa còn cảnh cáo tôi không được đi tìm hiểu sự việc về kệ tranh ngọc. Lúc đó tôi cảm thấy rất bức bối, giờ nghĩ lại mới thấy ông nội lúc đó chắc là đã cảm nhận được sự nguy hiểm.” - Lương Viện đứng bên cạnh nói.
Đường Phong nghe xong lời Lương Viện tường thuật lại, nhìn hai cha con, rồi đột nhiên hỏi Lương Dũng Tuyền: “Ông cũng tin có huyết chú?”
“Tôi vốn không tin, nhưng… cái chết của cha, chuyên gia đấu giá tự sát, còn cả đội thám hiểm bị mất tích năm nào, khiến tôi tin rằng việc này không đơn giản như vậy.” - Lương Dũng Tuyền chau mày.
“Bất luận là có huyết chú hay không, chúng ta đều đã bị cuốn vào đó, muốn tóm được sát thủ thực sự trong bóng tối giết hại Lương lão tiên sinh, muốn bóc gỡ được đống bí mật này, hiện tại chỉ có một cách.” - Đường Phong kiên định nói.
“Cách gì?” - Lương Dũng Tuyền hơi nghiêng người, nhìn Đường Phong.
“Hiện giờ chúng tôi muốn có kệ tranh ngọc đang ở trong tay ông, trước tiên phải giải đáp những văn tự Tây Hạ trên kệ tranh ngọc đã…” - Đường Phong kể lại toàn bộ mục đích lần này tới Hồng Kông của anh.
Không ngờ Lương Dũng Tuyền sau khi nghe những lời Đường Phong nói lại bật cười ha hả. Đường Phong chau mày, nhìn ông ta không hiểu. Lương Dũng Tuyền cười xong, nói: “Tôi đoán ngay được tâm ý của cậu” - Tiếp đó lại hỏi Lương Viện: “Viện Viện, đồ đã đem tới chưa?”
Đường Phong lúc này mới chú ý tới chiếc cặp khóa số trong tay Lương Viện. Lương Viện đưa chiếc cặp cho Lương Dũng Tuyền. Lương Dũng Tuyền mở cặp, lấy từ trong đó ra chiếc hộp làm bằng gỗ tử đàn được chạm khắc tinh xảo. Sau đó, Lương Dũng Tuyền cẩn thận mở chiếc hộp ra, Đường Phong để ý thấy trong giây phút chiếc hộp được mở ra, trong mắt Lương Dũng Tuyền lóe lên một ánh nhìn không dễ thấy rõ, “Đây chính là kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ!” - Lương Dũng Tuyền cố gắng che giấu sự xúc động trong lòng, đẩy chiếc hộp bằng gỗ tử đàn tới trước mặt Đường Phong.
Đây cũng là lần đầu tiên Đường Phong được ngắm kệ tranh ngọc này ở một khoảng cách gần như thế. Đây chính là kệ tranh ngọc Tây Hạ mang theo huyết chú sao? Anh cảm nhận được cả nhịp tim mình đang tăng tốc, anh ra sức kìm nén sự kích động trong lòng, nhưng vẫn vô thức đưa tay ra chạm vào kệ tranh ngọc.
Kệ tranh ngọc dài 30 cm, rộng khoảng 20 cm, dày 3 cm, được tạc thành bởi cả tấm bạch ngọc nephrite vùng Hòa Điền Tân Cương. Trong thời tiết nóng bức dường này, vậy mà bề mặt kệ tranh ngọc lại buốt giá thấu tận xương tủy. Khung kệ tranh ngọc có chạm khắc hai vòng hoa sen, uốn lượn xung quanh bề mặt kệ tranh ngọc. Giữa hai vòng hoa sen lại chạm một hàng ngọc lam, san hô đỏ, còn cả những châu báu mà Đường Phong không biết tên gọi của chúng là gì, tuy vậy bụi trần năm tháng cũng không thể che lấp được vẻ lấp lánh của những châu báu này. Hơn 800 năm qua rồi, vậy mà chúng vẫn long lanh tỏa sáng! Mặt chính của kệ tranh ngọc chạm trổ một số ký hiệu kỳ lạ, đây lẽ nào chính là văn tự Tây Hạ cổ xưa đã chết tự bao giờ? Sự tích lũy từ hàng trăm năm qua đã hình thành ngọc tẩm thấm vào bên trong, cộng thêm sự ăn mòn của thời gian khiến cho những kí hiệu này trở nên mờ ảo…
“Sao rồi, đúng nó không?” - Lương Dũng Tuyền cắt ngang suy nghĩ của Đường Phong.
“Không sai, chính là nó”. - Nói xong, Đường Phong đóng chiếc hộp gỗ tử đàn lại, đẩy chiếc hộp về phía Lương Dũng Tuyền, nhưng không đẩy tới trước mặt ông ta, mà vô tư đẩy chiếc hộp vào vị trí chính giữa bàn sách.
“Đường Phong, cậu cho rằng kệ tranh ngọc này chính là mấu chốt để giải đáp mọi việc hiện giờ?” - Lương Dũng Tuyền hỏi.
“Cái này thì phải cần tới sự giúp đỡ của ngài.” - Đường Phong chớp lấy cơ hội nói với Lương Dũng Tuyền: “Phía cảnh sát hy vọng Lương tiên sinh có thể giao cho chúng tôi kệ tranh ngọc này, trước tiên phải giải được bí mật của kệ tranh ngọc, chúng tôi sẽ mời những chuyên gia giải mã trong nước và quốc tế xuất sắc nhất tới; hai là vì sự an toàn của ngài, hiện tại nếu kệ tranh ngọc vẫn tiếp tục để lại đây thì sẽ rất không an toàn, ngài và gia đình sẽ đối diện với nguy hiểm. Dù sao thì từ khi kệ tranh ngọc này xuất hiện trong nước, vài người đã phải mất mạng. Vậy nên…”
Đường Phong không nói nữa, bởi bản thân Lương Dũng Tuyền cũng đã đang chìm trong suy tư. Năm phút sau, Lương Dũng Tuyền ngẫm nghĩ chín muồi, rút cuộc cũng gật đầu: “Đường Phong, cậu nói rất có lý, tôi cũng nghĩ như vậy, tôi đồng ý giao lại kệ tranh ngọc này, hy vọng phía cảnh sát sẽ mau chóng phá án. Nhưng, tôi có một điều kiện”.
“Điều kiện?” - Tinh thần Đường Phong bỗng chùng xuống. Nhưng anh vẫn vờ như trấn tĩnh nói: “Lương tiên sinh, có điều kiện gì xin ngài cứ nói”.
“Điều kiện của tôi thực ra rất đơn giản, kệ tranh ngọc để ở chỗ tôi không an toàn, có thể để các cậu mang đi, nhưng tôi cần phái một người đi theo kệ tranh ngọc, cũng có nghĩa là hy vọng có một người của tôi gia nhập vào nhánh đội ngũ của các cậu. Vì dù sao thì kệ tranh ngọc này cũng là di vật của cha tôi... Hơn nữa, nếu như thực sự có phát hiện gì đáng kinh ngạc, vật này có khả năng còn tăng thêm giá trị đấy!”.
“Lương Dũng Tuyền quả đúng là thương nhân.” - Đường Phong rủa thầm trong bụng. Nhưng anh vẫn tươi cười: “Xin Lương tiên sinh hãy yên tâm, chúng tôi nhất định sẽ đảm bảo an toàn cho kệ tranh ngọc, chúng tôi chỉ mượn dùng, sau khi nghiên cứu, nhất định sẽ trả lại. Nhưng điều kiện của ngài, e rằng…”
“Sao, các cậu không đồng ý?”
“Không, chỉ là việc này tôi không quyết được. Ngoài ra, ngài định để ai theo chúng tôi vậy?”
Lương Dũng Tuyền nhìn sang Hoàng Đại Hổ nãy giờ vẫn đứng nghiêm bên cạnh, nói: “Tôi muốn phái anh ta theo cậu, được không?”
Đường Phong quay đầu lại nhìn Hoàng Đại Hổ, Hoàng Đại Hổ không biểu hiện thái độ gì, vẫn giữ vẻ mặt nghiêm nghị. “Không biết chừng, cậu ta còn có thể giúp đỡ các cậu đấy!” - Lương Dũng Tuyền nhấn mạnh với Đường Phong.
Đường Phong chưa kịp trả lời thì Lương Viện đã đột nhiên nói chen vào: “Cha, để con đi cho”.
Lương Dũng Tuyền nổi giận: “Một đứa con gái như con, sao có thể mạo hiểm được!”
“Để tóm được hung thủ sát hại ông nội, bất kể khổ sở đến mức nào, nguy hiểm tới mức nào con cũng chịu!” - Lương Viện cố chấp nói.
“Hồ đồ, cha chỉ có mình con, mẹ con mất sớm…” - hai cha con Lương Dũng Tuyền và Lương Viện bắt đầu tranh cãi. Đường Phong đứng bên cạnh nghe, lòng nhủ thầm: tốt nhất đừng để đại tiểu thư này đi theo, Hoàng Đại Hổ cũng đừng đi theo là tốt nhất, nhưng nếu bắt buộc phải chọn lựa giữa hai vị này, thì anh thà chọn Hoàng Đại Hổ còn hơn.
Hai cha con Lương Dũng Tuyền và Lương Viện nói qua nói lại mãi không dứt. Lương Dũng Tuyền, đường đường là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty đa quốc gia lớn, vậy mà cũng không nói nổi con gái. Cuối cùng, Đường Phong đành phá vỡ cuộc tranh cãi của hai cha con họ bằng cách nói với Lương Dũng Tuyền: “Lương tiên sinh, tôi có thể dùng điện thoại của ông một chút không? Tôi muốn hỏi ý kiến…”
Lương Dũng Tuyền hiểu ý của Đường Phong, không biết làm sao, đành buông tha cho Đường Phong: “Đường Phong, để cậu chê cười rồi, cậu đừng thấy tôi ở ngoài oai phong, việc trong nhà chúng tôi, ồ…” - nói xong, Lương Dũng Tuyền kéo Lương Viện và Hoàng Đại Hổ cùng nhau ra khỏi phòng sách.
Đường Phong thấy phòng sách rộng thênh thang chỉ còn lại mình mình, vậy là gọi điện thoại cho Hàn Giang, Hàn Giang nghe xong điều kiện của Lương Dũng Tuyền, do dự hồi lâu rồi mới nói với Đường Phong: “Cậu có thể đồng ý điều kiện của ông ta”.
“Để Hoàng Đại Hổ gia nhập thật sao?”
“Thì giờ không phải hết cách rồi sao! Ngoài ra, cậu phải cẩn thận hơn nữa, chúng ta nhận được một số tin tức rất không tốt, Triệu Vĩnh cũng đã tới Hồng Kông rồi!”
“Ồ! Triệu Vĩnh đến đây làm gì?”
“Cậu ấy có nhiệm vụ của cậu ấy, cậu chỉ cần đem kệ tranh ngọc về là được rồi!”
Sau khi nói chuyện với Hàn Giang xong, Đường Phong trả lời Lương Dũng Tuyền: “Chúng tôi chấp nhận điều kiện của ông, Hoàng Đại Hổ sẽ quay về cùng tôi!”
“Ông chủ, ông yên tâm, tôi nhất định bảo đảm an toàn cho kệ tranh ngọc.” - Hoàng Đại Hổ lập tức cam kết với Lương Dũng Tuyền.
Lương Dũng Tuyền hài lòng gật gật đầu, nhưng Lương Viện lại bĩu môi, cô ta không hài lòng. Đường Phong cười thầm trong bụng, nhưng chẳng mấy chốc anh nhận ra là không nên ở lại đây lâu, thà đi sớm còn hơn, nên liền đề nghị với Lương Dũng Tuyền: “Lương tiên sinh, nếu đám người đó đã xuất hiện ở Hồng Kông rồi, thì an toàn là ưu tiên hàng đầu, tôi nghĩ đi sớm là tốt nhất”.
Lương Dũng Tuyền gật đầu, nói: “Để Đại Hổ chuẩn bị chút đã, chúng ta ăn xong bữa tối sẽ đi”.
Bữa tối xong xuôi, đợi Hoàng Đại Hổ chuẩn bị xong, Lương Viện nhất quyết muốn tiễn Hoàng Đại Hổ và Đường Phong ra sân bay. Lương Dũng Tuyền cũng bó tay, đành phải đồng ý.
Lương Dũng Tuyền tiễn Đường Phong và Lương Viện tới cổng, giao chiếc cặp khóa mật mã đựng kệ tranh ngọc cho Đường Phong, nhưng Lương Viện cướp ngay lấy chiếc cặp mật mã, ôm khư khư trong lòng.
Lương Dũng Tuyền chán nản lắc đầu với Đường Phong, rồi lại dặn dò Hoàng Đại Hổ: “Cậu phải cẩn thận đấy!”.
“Ông chủ, ngài yên tâm.” - Hoàng Đại Hổ gật đầu đầy tự tin.
7
Ánh trăng trải thảm trên núi Thái Bình, trên vịnh Victoria, phía xa xa đèn hoa lấp lánh. Trong thời khắc này, cảnh vật quả là đẹp tựa như hoa. Nhưng Đường Phong chẳng còn tâm trí mà để lưu luyến, anh ngả người vào ghế sau chiếc Mercedes, hồi tưởng lại những gì mình gặp phải trong lần tới Hồng Kông này. Ban đầu, vốn chỉ muốn gặp gỡ Lương Dũng Tuyền, hỏi xem kệ tranh ngọc có ở trong tay ông ta không, vậy mà không ngờ, hóa ra lại có thể đưa được kệ tranh ngọc trở về, tuy phải kèm theo một điều kiện, nhưng chuyến đi Hồng Kông này, thật chẳng uổng công!
Nghĩ tới đây, Đường Phong liếc nhìn sang Lương Viện đang ngồi bên cạnh, Lương Viện trợn tròn mắt cũng đang nhìn Đường Phong. Đường Phong không kìm được liền hỏi Lương Viện: “Bây giờ cô không sợ kẻ bị tình nghi là tôi nữa sao?”
“Hừm! Đương nhiên là tôi không sợ anh!”
Đường Phong bó tay lắc lắc đầu, đột nhiên như nhớ ra điều gì đó: “Tôi nghe cô nói chuyện thấy không giống con gái Hồng Kông lắm”.
“Đúng vậy, hồi nhỏ, cha tôi thường đưa tôi đi du lịch ở đại lục, tôi còn học mấy năm ở Bắc Kinh nữa mà, sau đó mới đi Mỹ du học, vừa mới về nước gần đây thì ông nội đã bị hại rồi…” - Lương Viện bất giác rơi lệ.
Giữa lúc hai người nói chuyện, chiếc Mercedes rẽ sang một ngã rẽ trên núi, trước mặt bỗng nhiên xuất hiện một chiếc Toyota Pickup và vài người mặc đồng phục màu vàng cam, chặn ngang phần lớn đường, dáng vẻ như là công nhân thi công đường. Đường Phong lập tức trở nên cảnh giác, con đường này khá heo hút, lại là buổi tối, ngộ nhỡ xảy ra sự cố… Tài xế chầm chầm dừng chiếc Mercedes lại, nhưng tay vẫn nắm chặt vô lăng, đề phòng bất trắc. Hoàng Đại Hổ sờ sờ khẩu súng Luger P89 cỡ đạn 9 ly do Mỹ sản xuất đang nằm dưới lớp vỏ áo vest. Khẩu súng này anh ta được người bạn làm cảnh sát ở Mỹ trước khi chết để lại cho anh nên anh luôn mang theo bên mình phòng thân. Băng đạn đầy ự, tổng cộng có 15 viên, với bản lĩnh của anh, mấy người trước mặt nếu có mưu đồ gì, 15 phát đạn thừa đủ để tiễn họ lên Tây thiên!
Ngồi trên xe quan sát một lúc, không thấy có gì bất thường, mấy người đó quả thật đang thi công, có lẽ mình quá đa nghi rồi. Đường Phong cũng bớt phần cảnh giác, Hoàng Đại Hổ cũng đỡ căng thẳng hơn, anh quay lại nhìn Đường Phong một cái, sau đó nhảy xuống xe, bước lên phía trước, hét lên với mấy công nhân đang thi công: “Có nhầm không đấy hả mà thi công lúc này, mau nhường đường đi!”.
Một người trong số đó có vẻ là tổ trưởng, trả lời Hoàng Đại Hổ: “Đợi một chút, xong ngay đây!”. Nói xong, anh ta hô hào những người khác nhường đường. Hoàng Đại Hổ càng lơ là cảnh giác, nhưng đột nhiên cảm thấy đâu đó có chút không bình thường… ở đâu không bình thường nhỉ? Hoàng Đại Hổ nhìn chằm chằm vào đám người trước mặt, đột nhiên nhận ra – không đúng! Người ban nãy vừa trả lời anh, không phải nói tiếng Quảng Đông, mà lại nói tiếng phổ thông rất chuẩn. Chính trong giây phút Hoàng Đại Hổ tỉnh ngộ, đám người trước mặt đột nhiên lôi từ chiếc Pickup xuống mấy khẩu súng liên thanh có nòng giảm thanh MP510A3, Hoàng Đại Hổ định rút súng ra nhưng đã quá muộn, “Tạch! Tạch! Tạch! Tạch…” một loạt đạn ồ ạt bắn ra, hơn chục phát đạn găm thẳng vào người Hoàng Đại Hổ, Hoàng Đại Hổ đáng thương chưa kịp rút súng đã bị bắn cho xối xả!
Đường Phong và Lương Viện ngồi trong Mercedes tận mắt chứng kiến cảnh tượng này, vô cùng hoảng hốt. May mà tài xế phản ứng nhanh, vội vàng lùi xe lại. Súng liên thanh lập tức bắn điên cuồng về phía chiếc Mercedes. Đường Phong giữ Lương Viện cúi rạp xuống ghế sau, tài xế gập người xuống, khó nhọc đánh vô lăng. May mà bác tài kỹ năng điêu luyện, khởi động, rẽ ngoặt, quay đầu đều thành công, tiếng phanh xe khốc liệt xé toạc màn đêm yên tĩnh, đúng lúc tài xế quay đầu xe, chuẩn bị dốc hết sức tháo lui về phía sau thì từ đằng sau bỗng xông lên một chiếc BMW màu xanh đậm, chặn ngang đường rút lui của chiếc Mercedes.
Ba người nhảy ra từ trong xe BMW, rút súng bắn liên hồi về phía chiếc Mercedes. Đi kèm tiếng thét thất thanh của Lương Viện, cơ thể và đầu tài xế bị từng viên đạn bắn trúng, máu tươi và óc trắng bắn tung tóe lên tấm kính chắn gió đang vỡ vụn…
Người trong xe BMW từng bước từng bước áp sát chiếc Mercedes, mở cửa sau xe, một tên béo trong số đó tướng mạo dữ tợn, trên mặt có ba vết sẹo cười nham hiểm: “Khà khà, Đường tiên sinh, và cả tiểu thư này nữa, chúng tôi đợi lâu lắm rồi đấy, mau đi theo chúng tôi!” - Nói xong, mấy người còn lại liền lôi Đường Phong và Lương Viện đang cứng đờ cả người ra khỏi chiếc Mercedes và định cướp chiếc cặp khóa số trong tay Lương Viện, Lương Viện gào khóc, ra sức giữ chặt chiếc cặp trong lòng.
“Các người là ai?” - Đường Phong cố gắng giữ bình tĩnh, chất vấn.
“Ba vết sẹo” cười nhạt: “Là ai? Giống các người, là những người hứng thú với thứ trong chiếc cặp khóa số này” - Nói xong, “ba vết sẹo” bước tới sau lưng Lương Viện vẫn đang gào khóc, vung tay, dùng báng súng CZ75 do Tiệp Khắc chế tạo đập mạnh vào gáy Lương Viện, khiến cô ngất đi, sau đó hắn giật lấy chiếc cặp trong tay Lương Viện, ôm Lương Viện lên chiếc BMW. Đường Phong cũng bị áp giải lên xe, chiếc Pickup đi trước, BMW theo sau, lao vun vút xuống núi.
Mấy phút sau, Đường Phong ngồi trong BMW nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát kêu hú, trong lòng bỗng nhen lên một tia hy vọng, nhưng “ba vết sẹo” lại không hề hoảng hốt, quay đầu lại nhìn xe cảnh sát đang bám đuôi phía sau, cười nhạt hai tiếng, ánh mắt lộ ra sự hung tợn, hắn ra lệnh cho tài xế vượt mặt chiếc Pickup, sau đó lạnh lùng cười rồi gầm gừ: “Cho chúng mày lên Tây thiên luôn!”
“Ba vết sẹo” nói xong, Đường Phong liền nghe thấy tiếng nổ ầm ầm phía sau lưng, rung chuyển tới mức đôi tai anh cũng tê cả đi. Anh không biết phía sau xảy ra chuyện gì, nhưng từ điệu cười nhạt trên mặt “ba vết sẹo” thì có thể nhận ra xe cảnh sát phía sau đã lành ít dữ nhiều.
8
Đường Phong và Lương Viện bị áp giải lên một chiếc tàu chở hàng cũ nát, tàu hàng chầm chậm rời khỏi bến. Cái tên “ba vết sẹo” đó xem ra là thủ lĩnh của đám người này, hắn bố trí xong việc trên boong tàu liền áp giải Đường Phong và Lương Viện chui vào trong khoang, cầm lấy chiếc cặp khóa số, ép hỏi Lương Viện: “Mật mã của chiếc cặp này là bao nhiêu?”
Lương Viện vừa tỉnh lại trước khi lên tàu, mới cử động được cổ và gáy thì đã đau buốt thấu tận tâm can. Cô trợn mắt nhìn gã béo có ba vết sẹo trước mặt, hét lên: “Mật mã? Tôi không biết, ông mau thả chúng tôi ra, nếu không để cha tôi biết, sẽ cho các người chết cũng không yên đâu”.
Đã đến lúc này rồi mà Lương Viện vẫn còn giở tính tiểu thư ra đây, Đường Phong nghe vậy vừa lo vừa tức, lại cũng buồn cười. Anh nhìn sang tên “ba vết sẹo”, mặt hắn lộ rõ vẻ dâm tà: “Em gái mi nhon, em nói sao mà sợ thế! Cha em là ai nhỉ? Có phải Lương Dũng Tuyền không, ha ha, danh tiếng của cha em quả đúng như sấm đánh bên tai, anh thật sự sợ quá đi!” - nói xong, “ba vết sẹo” còn thò cả cánh tay béo múp míp sờ nắn khuôn mặt trắng nõn của Lương Viện. Lương Viện nghiến răng, xấu hổ cúi đầu. “Ba vết sẹo” đang định giở trò sàm sỡ cơ thể Lương Viện, thì một tên đồng bọn bỗng hớt hải lao vào khoang tàu: “Đại ca, không ổn rồi, phía sau có thuyền đang đuổi theo chúng ta”.
“Ba vết sẹo” nghe vậy, đẩy Lương Viện lại, gào lên với hai tên cướp trong khoang tàu: “Tao ra ngoài xem sao, chúng mày trông chừng hai đứa nó” - Nói xong, “ba vết sẹo” liền giương thẳng khẩu súng máy AEK999 thông dụng lên, lao ra khỏi khoang tàu.
Đường Phong lại lóe lên tia hy vọng, anh đã có thể nghe rõ tiếng động cơ trực thăng từ phía xa xa, còn có cả tiếng bước chân hoảng loạn, tiếng chửi mắng của đám cướp trên boong tàu.
“Các người đã bị bao vây, lập tức buông vũ khí đầu hàng, nếu không chúng tôi sẽ phóng hỏa!...” - Phía sau vang lên giọng nói kiên định đầy sức mạnh.
Đường Phong trong khoang tàu nhận ra đây là giọng của Hàn Giang, anh mừng rỡ nói nhỏ với Lương Viện: “Chúng ta sắp được cứu rồi!”. Lập tức, họ nghe thấy tiếng hỗn loạn trên sàn tàu, xem ra nhóm cướp đã loạn hết cả lên rồi đây. “Ba vết sẹo” gầm gừ hét lên ra lệnh cho đám thuộc hạ: “Nhanh! Tăng hết tốc độ chạy trước, chỉ cần tới Công Hải thì sẽ có thuyền tới tiếp ứng cho chúng ta, đến lúc đó, chúng không dám làm gì chúng ta cả!”
Đường Phong nhận thấy tàu chở hàng đang tăng tốc hết sức để tháo chạy. Anh và Lương Viện nhìn nhau, hai người đều đang nghĩ kế để thoát thân, nhưng khi họ chưa kịp nghĩ ra cách gì thì, “ba vết sẹo” đã đột nhiên lao trở lại khoang tàu, quẳng khẩu súng máy nặng trịch xuống, móc ra khẩu súng cầm tay CZ75, ra lệnh cho một tên cướp khác: “Mày tóm lấy đứa con gái này, theo tao ra ngoài!” - Nói xong, “ba vết sẹo” dùng cánh tay trái thô thiển kẹp lấy cổ Đường Phong, tay phải giữ súng gí chặt vào thái dương Đường Phong rồi bước lên sàn tàu, tên cướp kia thì kẹp lấy Lương Viện, cũng theo sau lên sàn tàu. Trên sàn tàu, gió biển vi vu, ở đây đã không còn nhìn thấy đèn đóm trên vịnh Victoria nữa, phía xa xa chỉ có ánh sao thưa thớt tỏa sáng, xem ra chỗ này đã cách Hồng Kông rất xa rồi, chắc là sắp tới Công Hải rồi.
“Ba vết sẹo” đưa Đường Phong tới đuôi thuyền, gào thét về phía chiếc ca nô đang lao tới: “Chúng mày đừng lên đây, trong tay bọn tao có con tin!” - Hét xong, “ba vết sẹo” lại lo sợ quay đầu lại nhìn, xem tàu hàng còn cách Công Hải bao xa?
Hàn Giang đứng sau ca nô nhìn thấy Đường Phong và Lương Viện, anh lập tức dùng loa phóng thanh hét lên: “Các người không chạy được nữa đâu, khẩn trương phóng thích con tin! Nếu không thì…”
“Nếu không cái rắm! Mày tưởng tao ngu chắc, phóng thích con tin? Tao bây giờ mà phóng thích con tin, lập tức sẽ bị chúng mày bắn cho thủng lỗ chỗ!” - “Ba vết sẹo” hằn học cướp lời Hàn Giang.
Hàn Giang thấy tình hình như vậy, liền hạ giọng ra lệnh qua máy bộ đàm, mấy xạ thủ bắn tỉa trên ca nô đã nhắm chuẩn vị trí “ba vết sẹo” cùng những tên cướp khác, sẵn sàng chuẩn bị bắn tỉa, đồng thời, một chiếc trực thăng Z-9 tức tốc bay sát xuống mạn tàu hàng. Vài cọng tóc trên đầu “ba vết sẹo” đều đã bị cánh quạt của chiếc trực thăng thổi tung cả lên, bọn cướp hoảng loạn, lần lượt ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, lo sợ thành viên đội đặc chiến từ trên không trung leo xuống…
“Ba vết sẹo” hoảng hốt nhìn chằm chằm vào chiếc trực thăng trên đỉnh đầu, dồn hết sự tập trung về phía bầu trời, tay phải cầm súng từ từ rời khỏi thái dương của Đường Phong, run lẩy bẩy nhắm lên trời, cánh tay xiết cổ Đường Phong cũng không còn thít chặt như trước nữa… Đây là cơ hội tốt nhất, cũng là cơ hội duy nhất! Đường Phong thấy vậy liền quyết định dùng cùi chỏ chọc mạnh vào mạng sườn “ba vết sẹo”, khiến hắn gào rú ầm lên. Đường Phong lại vung tay, hất rơi khẩu súng trong tay “ba vết sẹo”. Rồi Đường Phong nhanh như chớp chộp lấy khẩu súng cầm tay CZ75, nhắm vào tên cướp đang uy hiếp Lương Viện nổ một phát súng. Phát súng này tuy không trúng nhưng lại khiến tên cướp hoảng sợ, thả tay khỏi người Lương Viện. Đường Phong do không bỏ lỡ cơ hội, lao lên ôm chặt lấy Lương Viện, cùng cô nhảy ào xuống biển.
Đường Phong ôm Lương Viện từ từ ngoi lên mặt nước, chiếc trực thăng S-76 từ từ bay lơ lửng trên đầu họ, mặt biển bị gió quạt thổi từ chiếc trực thăng làm dậy lên từng lớp sóng khổng lồ, trực thăng thả thang dây xuống, Đường Phong tay phải kéo thang dây, tay trái ôm Lương Viện, khó nhọc leo lên. Trước khi Lương Viện bị uống vài ngụm nước biển mặn chát vốn đã bất tỉnh nhân sự, giờ thì đã tỉnh lại, thấy mình được Đường Phong ôm chặt cứng, cô vừa xấu hổ vừa giận dữ, điệu đà gào lên với Đường Phong: “Anh bỏ tôi ra, đồ tồi, định lợi dụng cơ hội sàm sỡ tôi hả?”.
Nhưng Lương Viện càng gào, đôi ngực căng tròn mây mẩy của cô càng áp sát vào lồng ngực rắn rỏi của Đường Phong, khiến cô càng thêm xấu hổ tức giận. Đường Phong lúc này vừa mệt vừa lạnh, làm gì rảnh rỗi mà có hứng sàm sỡ gái đẹp, anh khẽ hét lên với Lương Viện: “Đừng động đậy nữa, nếu còn ngọ nguậy, tôi mà buông tay thật thì cô sẽ rơi xuống biển đấy!”
“Tôi rơi xuống biển cũng không cần anh lo, đồ lưu manh!” - Lương Viện vẫn ngoan cố. Đúng lúc này, chiếc trực thăng phía trên không hiểu vì lí do gì đã lắc mạnh một cái, Lương Viện hét toáng lên, lúc này thì hay rồi, Đường Phong không cần phải làm gì, cô ta đã chủ động ôm chặt lấy cổ anh, hơn nữa lại còn ôm rất chặt, tới nỗi Đường Phong không thở được…
Khi Đường Phong và Lương Viện được cứu lên bờ, thì Hàn Giang đã đợi ở trên đó từ rất lâu rồi. Đường Phong mặt trắng bệch, thở hổn hển hỏi Hàn Giang: “Sao anh tới Hồng Kông nhanh vậy?”
“Hừm! Tôi đến muộn một bước, cái mạng quèn của cậu đã nộp lại đây rồi” - Rồi Hàn Giang chững lại một lúc, quay đầu về phía Lương Viện hỏi: “Vị này là... tiểu thư Lương Viện sao?”
“Đúng, cô ta chính là thiên kim Lương Viện - con gái của Lương Dũng Tuyền” - Đường Phong trả lời thay Lương Viện.
“Cô hoảng sợ lắm phải không? Tôi là Hàn Giang, hiện đang phụ trách vụ án của ông nội cô, cũng phụ trách cả sự việc này. Nếu cô có ý kiến, yêu cầu hay là nhớ ra manh mối gì có giá trị về sự việc này đều có thể nói với tôi” - Hàn Giang vừa nói vừa thân thiện bắt bắt tay Lương Viện.
Lương Viện nhìn Hàn Giang, đưa ra yêu cầu của mình: “Yêu cầu duy nhất của tôi chính là cùng hành động với các anh, tóm lấy hung thủ sát hại ông nội tôi”.
“Việc này…” - người vốn luôn hành sự quyết đoán như Hàn Giang cũng bắt đầu trở nên do dự.
“Sao? Anh không đồng ý? Nếu anh không đồng ý, tôi sẽ không giao kệ tranh ngọc cho các anh!” - Lương Viện cứng đầu nói .
“Anh thấy rồi đấy, cô tiểu thư này mới là kẻ đeo bám vướng víu!” - Đường Phong nói nhỏ bên tai Hàn Giang.
Trong lúc Hàn Giang đang khó xử thì một chiếc trực thăng từ từ hạ xuống bên cạnh họ. Triệu Vĩnh xách chiếc cặp khóa số nhảy ra khỏi trực thăng, báo cáo với Hàn Giang: “Chiếc cặp đã được tôi giành lại, chỉ có điều không biết vật đó có còn nguyên vẹn hay không?”.
“Đúng! Chính là chiếc cặp này!” - Không chờ Hàn Giang mở miệng, Đường Phong đã nhận ngay ra chiếc cặp có để kệ tranh ngọc đang ở trong tay Triệu Vĩnh.
Lương Viện giành ngay lấy chiếc cặp khóa số trong tay Triệu Vĩnh, rồi cho tới khi nhìn thấy kệ tranh ngọc còn nguyên vẹn cô mới yên tâm. Đoạn cô lại quay đầu, hỏi Hàn Giang: “Sao rồi, đội trưởng Hàn, suy nghĩ xong chưa? Cho phép tôi tham gia không?”
Hàn Giang bó tay lắc lắc đầu, nhưng anh không lập tức đồng ý với Lương Viện ngay, mà hỏi lại cô ta: “Lương tiểu thư, cô có biết đám người mưu đồ bắt cóc bọn cô là ai không?”
“Làm sao mà tôi biết được! Có bao nhiêu người hứng thú với kệ tranh ngọc. Nhưng… nhưng tôi nghi ngờ đám người này rất có khả năng chính là đám người đã giết hại ông nội tôi.” - Lương Viện suy đoán.
“Làm thế nào mà biết được?”
“Trực giác mách bảo tôi vậy, trực giác của tôi từ trước tới nay đều rất chuẩn.”
“Khà khà, xem ra cô giống hệt tôi, đều rất tin vào trực giác của mình.” - Trực giác của Hàn Giang đã từng nhiều lần giúp anh hóa giải hoạn nạn, anh luôn tự hào về điều đó, nhưng lúc này đây anh vẫn muốn tin vào những chứng cứ hơn.
10
Lúc này, một chiếc Mercedes đã dừng lại ngoài đường cảnh giới, Hàn Giang nhìn thấy người đang xuống xe chính là Lương Dũng Tuyền, anh hất hất tay về phía cảnh sát của cảnh giới tuyến, Lương Dũng Tuyền liền vượt qua cảnh giới tuyến, bước về phía họ.
Lương Dũng Tuyền mặt mày sa sầm, sau khi bắt tay Hàn Giang xong liền nhìn chằm chằm Đường Phong và Lương Viện, một lúc sau mới mở miệng nói: “Sao rồi? Đường Phong, tôi đã nói trước rồi, đám người đó sẽ không khách sáo với cậu như tôi đâu, giờ thì cậu đã ý thức rõ ràng về những nguy hiểm mà các cậu phải đối diện rồi chứ?”
“Đúng vậy, nhóm tội phạm này thực sự rất lớn mạnh”. - Đường Phong không thể không thừa nhận.
“Còn con nữa, Lương Viện!” - Lương Dũng Tuyền quay lại nói với Lương Viện: “Giờ thì chắc con cũng đã biết sự việc này nguy hiểm đến nhường nào rồi, con còn muốn đi cùng nhóm của Đường Phong không?”
“Muốn! Cha, bây giờ Hoàng Đại Hổ đã chết, cha hãy để con đi cùng Đường Phong và các anh ấy, nhất định con sẽ tóm được hung thủ sát hại ông nội.” - Lương Viện ngây thơ nhìn Lương Dũng Tuyền.
Lương Dũng Tuyền vừa nghe thấy những lời này, tức giận tới nỗi cứng miệng không thốt nên lời. Ông trợn mắt nhìn Lương Viện, kìm nén mãi, cũng không thốt ra được lấy một câu, rút cuộc, hậm hực lườm Lương Viện một cái rồi bực tức bỏ đi.
Triệu Vĩnh mang chiếc cặp khóa số đựng kệ tranh ngọc nhảy lên trực thăng, trên bờ chỉ còn lại ba người Đường Phong, Lương Viện và Hàn Giang. Cả ba đều đang đăm chiêu suy nghĩ về kế hoạch bước tiếp theo của riêng mình, bỗng Đường Phong đột nhiên hỏi Lương Viện: “Tôi có một câu muốn hỏi cô mãi... Ông nội cô đã từng nói gì với cô trong thời gian sau khi mua kệ tranh ngọc về? Hoặc là… hoặc là có hành động bất thường nào không?”
Lương Viện nghĩ một lúc rồi nói: “Sau khi mua kệ tranh ngọc này về, ông nội thường ở trong phòng, giống như đang nghiên cứu gì đó vậy, có lúc ông nội cũng đi ra ngoài thăm một số người bạn cũ, đều là người quen của ông nội. Còn nữa, ông nội không cho tôi và cha tiếp xúc với kệ tranh ngọc này, tôi cũng chỉ mới nhìn thấy nó có một lần sau hội chợ đấu giá, ngoài những điều này ra, tôi không thấy ông nội có gì không bình thường”.
“Cô nghĩ tiếp xem, thật sự hết rồi sao?” - Đường Phong vẫn hy vọng có thể lấy được một vài manh mối có giá trị từ Lương Viện.
Lương Viện ngẫm nghĩ hồi lâu, ánh mắt đột nhiên sáng lên: “Đúng rồi, nếu anh không nhắc tôi cũng quên mất, trước khi đi Quảng Châu ông nội tôi có nhận được một bức thư”.
“Thư?” - Đường Phong và Hàn Giang đều kinh ngạc.
“Ừm, chính trong sáng hôm đó, tôi phát hiện ra một bức thư trong hòm thư, thư gửi cho ông nội, nhưng trên phong bì lại không đề địa chỉ của người gửi, lúc đó tôi cảm thấy rất lạ, thời buổi này còn có ai viết thư nữa nhỉ? Thêm nữa, còn không có địa chỉ của người gửi, sau đó, tôi đưa thư cho ông nội. Bây giờ nghĩ lại, có lẽ việc ông nội đi Quảng Châu chắc là có liên quan rất lớn tới bức thư đó”.
“Bức thư đó bây giờ có còn không?” - Đường Phong truy hỏi.
“Ông nội xem xong đã đốt ngay rồi. Tôi hỏi ông nội về nội dung bức thư, ông nội chỉ nói muốn một mình yên tĩnh một lúc, tôi liền rời khỏi phòng sách. Ông nội ở lại một mình trong phòng sách khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ, tôi đợi tới khi ông ra, thì ông nói với tôi là ông phải đi Quảng Châu một chuyến. Lúc đó tôi nói muốn đi cùng ông, nhưng ông nội không cho và nói hôm sau có thể sẽ quay luôn, nhưng không ngờ…” - Lương Viện nói tới đây, đã lại bắt đầu thút thít.
“Đốt rồi?... Xem ra Lương tiên sinh đi Quảng Châu không chỉ vì tìm tôi” - Đường Phong lẩm bẩm.
“Thông tin mà Lương Viện nói cũng rất quan trọng, mục đích mà Lương lão tiên sinh đến Quảng Châu có lẽ là để có được những hồ sơ tài liệu này, sau khi có được những hồ sơ tài liệu này, ông mới đi tìm Đường Phong, sự việc sau đó, chúng ta đều đã biết rồi” - Hàn Giang phân tích.
“Những hồ sơ đó rút cuộc có giá trị gì đối với việc giải mã bí mật của kệ tranh ngọc?” - Đường Phong không hiểu nên thắc mắc.
“Vậy thì phải đợi tới khi chúng ta quay lại Bắc Kinh mới biết được.” - Hàn Giang nói xong, một cơn gió biển mặn chát thổi tới, tuy là mùa hè, nhưng gió biển lại khiến cả ba người khẽ rùng mình vì lạnh.
CHƯƠNG 5
Bảy bức thư tuyệt mật
1
T
rong một căn nhà cao tầng với vẻ ngoài rất phổ biến nằm ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh, Triệu Vĩnh dẫn Đường Phong và Lương Viện vào một căn mật thất kéo rèm dày cộm. Trong mật thất, ngoài Hàn Giang, còn có một lão tiên sinh tóc bạc phơ ngồi trên xe lăn đang hiền từ nhìn Đường Phong và Lương Viện cùng một người đàn ông khác chạc tuổi Hàn Giang, tay cầm tẩu thuốc, đeo kính gọng vàng, dáng vẻ học thức.
Đường Phong và Lương Viện ngồi ngay ngắn, Hàn Giang mở lời: “Ngồi ở đây đều là người của chúng ta, tôi sẽ nói thẳng luôn; trước tiên, tôi thay mặt tổng bộ cảm tạ tiểu thư Lương Viện và tiên sinh Lương Dũng Tuyền đã trao lại kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ. Xin tiểu thư Lương Viện hãy yên tâm, sau khi sự việc này kết thúc, kệ tranh ngọc đương nhiên sẽ được hoàn lại nguyên vẹn, ngoài ra, thông qua phê chuẩn đặc biệt của tổng bộ, sẽ cho phép cô tham gia hành động của chúng tôi”.
“Ồ! Đội trưởng Hàn, thật sao?” - Lương Viện không dám tin vào điều đó.
Hàn Giang trịnh trọng gật gật đầu: “Đúng vậy, Lương tiểu thư, cô không nghe lầm, tuy cô không phải là thành viên chính thức của lão K, nhưng tôi đã coi cô như là một trong những thành viên của chúng tôi rồi”.
“Hì hì, Đường Phong không cho tôi tham gia, anh ta luôn cự nự với tôi” - vừa nói, Lương Viện vừa lườm Đường Phong một cái, Đường Phong chẳng biết phải làm sao, chỉ lắc đầu, khiến mọi người đều bật cười.
Cười xong, Hàn Giang chỉ vào một vị tiên sinh tóc bạc phơ, nói với Đường Phong và Lương Viện: “Vị này chắc không cần phải giới thiệu với các bạn nữa đâu nhỉ, nhà sử học nổi tiếng, giáo sư La Trung Bình. Giáo sư La Trung Bình bao năm nay đắm đuối nghiên cứu lịch sử Tây Hạ, nhiều năm chuyên sâu nghiên cứu khảo sát cố địa Tây Hạ, là người rất có uy tín trong lĩnh vực Tây Hạ học ở nước ta. Đường Phong, cậu và giáo sư La cũng được coi là quen biết lâu rồi, chắc cậu vẫn chưa biết, giáo sư La cũng là thành viên của lão K chúng ta đấy!”.
Đường Phong nghe thấy, vô cùng kinh ngạc. La Trung Bình gật đầu: “Đúng vậy, tôi chính là K4, đội trưởng Hàn là bang chủ, cứ nhất định lôi bộ xương già như tôi vào đấy”. Nói xong, giáo sư La quay lại nói với Lương Viện: “Viện Viện, ông là bạn thân lâu năm của ông nội cháu, ông rất buồn khi ông nội cháu gặp nạn, cháu phải tin rằng đội trưởng Hàn chắc chắn sẽ tóm được hung thủ, chúng ta nhất định sẽ hóa giải những bí mật bao trùm lên kệ tranh ngọc”. Lương Viện mắt ngấn lệ, gật đầu lia lịa.
Lúc này, Hàn Giang lại giới thiệu tiếp: “Giáo sư La học vấn tinh thông từ cổ chí kim, không những chỉ chuyên sâu nghiên cứu lịch sử và văn tự cổ, mà còn tinh thông vài ngoại ngữ; những tài liệu mà các cậu mang về, giáo sư La đã dịch hết ra rồi, sau đây sẽ mời giáo sư La giảng giải sơ bộ cho chúng ta”.
Giáo sư La nhìn mọi người đã ngồi yên vị, lúc này mới lấy những tài liệu bí mật đó ra, bắt đầu giới thiệu: “Những tài liệu tiếng Nga mà các cậu mang về này quả thật rất khó hiểu. Đây đều là những tài liệu tối mật, tôi không biết những tài liệu này sao lại lưu lạc trong nước, nhưng chúng thật sự rất quan trọng, hỗ trợ rất lớn cho việc chúng ta giải mã những bí mật phía sau kệ tranh ngọc. Tôi đã xem xét tất cả tài liệu, phần lớn đây là tài liệu nghiên cứu lịch sử Tây Hạ của một vài học giả Liên Xô, còn cả một ít văn kiện thông thường, nhưng trong đó có một phần tài liệu vô cùng quan trọng.” - Nói xong, giáo sư La đưa cho mọi người xem phần tài liệu tuyệt mật của KGB.
Mọi người đổ dồn ánh mắt lên văn kiện tuyệt mật trong tay giáo sư La. Giáo sư La nhấc cặp kính lão, mở tập tài liệu tuyệt mật trên bìa có in ba chữ tiếng Nga màu đen “КГВ”, “tập tài liệu tuyệt mật của KGB này, thực ra là 7 bức thư tuyệt mật”.
“Bảy bức thư tuyệt mật?” - mọi người đều ngạc nhiên thắc mắc.
Nét mặt giáo sư La đanh lại, ông bắt đầu đọc và giải thích bảy bức thư tuyệt mật này: “Tôi đã dịch bảy bức thư này sang tiếng Trung, sau đây mọi người xem đi, xem xong sẽ nộp lại để thống nhất bảo quản”.
2
Bức thư thứ nhất là vào năm 1938, thư của nhà Hán học Liên Xô nổi tiếng Ivanovich Ivanov (Aleksei Ivanovich Ivanov) gửi cho Lavrentiy Beria (Lavrenti Pavles dze Beria) thời đó là người đứng đầu cơ quan tình báo.
Đồng chí Lavrenti Pavles dze Beria:
Hãy cho phép tôi được gọi ngài như vậy. Theo như chỉ đạo của ngài và thuộc hạ của ngài dành cho tôi, những ngày này, trong nhà giam, tôi đã suy nghĩ đi suy nghĩ lại, mấy chục năm qua, bất luận là ở Trung Quốc, hay là ở nước ngoài, tôi luôn cố gắng hết sức trung thành phục vụ quốc gia. Từ trước tới nay chưa từng làm bất cứ một việc gì bất lợi cho quốc gia và nhân dân, bởi vậy, chỉ đạo của ngài và thuộc hạ của ngài khiến tôi không sao chấp nhận được.
Nếu như nói rằng những năm qua tôi đã làm sai việc gì, vậy thì, việc tôi có thể nghĩ ra chính là thành quả nghiên cứu mà tôi đã giấu ngài và quốc gia. Tôi đã làm việc này là vì thành quả nghiên cứu này khiến tôi vô cùng kinh ngạc, trước khi rút ra được kết luận cuối cùng, tôi không biết có nên công bố kết quả này với thế giới hay không. Nhưng, hiện giờ tôi đã quyết tâm, quyết định “thẳng thắn” với ngài, bởi vì nếu nhỡ tôi chết rồi, thành quả nghiên cứu này sẽ không còn ai biết, nếu thế tôi có chết cũng không nhắm được mắt.
Thành quả nghiên cứu này liên quan tới bí mật về một báu vật của cung điện Mùa Đông được chôn giấu. Đương nhiên, báu vật này không xuất thân từ cung điện, mà đến từ Đông Phương xa xôi. Hơn 900 năm qua, tại phía tây Trung Quốc đã từng xuất hiện một đế quốc do người Đảng Hạng gây dựng, sùng bái màu trắng, người Hán gọi đế quốc này là “Tây Hạ”, người Mông Cổ gọi quốc gia này là “Đường Ngột Thích”. Đế quốc màu trắng này một thời từng ở trên đỉnh cao của lịch sử Trung Quốc, mãi tới tận năm 1227 mới bị Thành Cát Tư Hãn diệt vong. Kể từ đó, tất cả những gì liên quan tới đế quốc màu trắng liền mất tích, chôn vùi trong sa mạc cát vàng miên man, giống như chưa từng tồn tại thế giới này.
Mấy trăm năm sau, khi nhân thế đã hoàn toàn lãng quên đế quốc màu trắng này, nhà thám hiểm trứ danh Coats Ivanov của nước ta trong một chuyến khảo sát Tây Hạ, Trung Quốc, đã vô tình phát hiện ra Hắc Thành - một tòa thành cổ thời Tây Hạ đã bị cát vàng chôn vùi từ lâu. Trong tòa thành cổ này, Coats Ivanov đã tìm thấy một lượng lớn văn hiến Tây Hạ và tượng phật quý báu cùng rất nhiều văn vật khác, trong đó, có một văn vật Tây Hạ vô cùng quý hiếm, nó được gọi là “kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu”. Từ rất lâu rồi không ai biết tới báu vật này, và nó ngủ say trong kho văn vật của cung điện Mùa Đông. Cũng giống như Coats Ivanov vô tình phát hiện thấy Hắc Thành, trong một lần tình cờ, tôi đã phát hiện ra báu vật mà Coats Ivanov mang về từ Hắc Thành đó trong cung điện Mùa Đông. Bao năm qua, tôi đã nghiên cứu tìm tòi để giải mã bí mật của báu vật này. Mấy lần trước tới Trung Quốc điều tra thực địa, cuối cùng tôi đã phát hiện ra, phía sau báu vật này có ẩn giấu một bí mật kinh hồn… Nhưng, đúng lúc nghiên cứu của tôi tới thời khắc mấu chốt, thì tôi lại bị ngài đưa vào nhà giam.
Tôi cũng không cầu xin ngài để được tự do, nhưng xin ngài hãy suy nghĩ về lời khẩn cầu của tôi. Cho dù tôi đã phạm vào trọng tội, nhưng xin ngài hãy cho phép tôi được tiếp tục công việc nghiên cứu của mình, để bí mật kinh hồn đó được phơi bày trước ánh sáng. Hy vọng ngài sẽ cân nhắc kỹ lưỡng đề nghị của tôi, bởi dù sao thì đây cũng là việc có lợi cho ngài và cho quốc gia của chúng ta, và cũng là để đáp lại tâm nguyện cuối cùng của tôi.
Aleksei Ivanovich Ivanov
Sau khi đọc xong bức thư thứ nhất, giáo sư La nhìn mọi người nói: “Ivanovich Ivanov là nhà Hán học nổi tiếng của nước Nga, đã từng nhiều lần tới Trung Quốc, ông từng phát hiện ra cuốn “Phiên Hán hợp thời chưởng trung châu”
[Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ]
trong số những văn vật Tây Hạ được khai quật tại Hắc Thành, đây là cuốn từ điển song ngữ tiếng Tây Hạ và tiếng Hán. Nhờ phát hiện được cuốn từ điển này, mà người đời sau đã đọc hiểu được những điều kiện sáng tạo ra văn tự Tây Hạ đã thất truyền, cũng có nghĩa là, Ivanovich Ivanov là học giả đầu tiên trong giới học thuật có thể đọc và hiểu được văn tự Tây Hạ cổ xưa. Từ bức thư này có thể nhận ra, năm 1938 Ivanovich Ivanov đã rơi vào vòng tù tội, đó cũng là lúc công việc nghiên cứu kệ tranh ngọc Tây Hạ của ông đang ở trong giai đoạn then chốt, ông không muốn từ bỏ nghiên cứu, vậy là ở trong ngục ông đã viết bức thư này cho giám đốc cơ quan tình báo Liên Xô - Beria. Trong thư có nhắc tới kệ tranh ngọc và công việc ông đang nghiên cứu, hy vọng có thể được trao trả tự do, tiếp tục công việc nghiên cứu của mình”.
“Vậy sau đó Beria có đồng ý lời thỉnh cầu của ông ấy không?” - Lương Viện nóng lòng hỏi.
Giáo sư La không vội vã cũng không chần chừ, đáp: “Vậy thì phải đọc bức thư thứ hai rồi”.
3
Bức thư thứ hai là của Beria trả lời thư cho Ivanovich Ivanov nửa tháng sau.
Aleksei Ivanovich Ivanov:
Tôi đã đọc bức thư anh viết cho tôi, với học thức uyên bác của anh, tôi rất ngưỡng mộ, đặc biệt là những nghiên cứu về “đế quốc màu trắng” của Trung Quốc cổ đại. Nhưng tôi phải nói rõ ràng với anh rằng, tôi không hứng thú với những nghiên cứu của anh, tôi cũng tin rằng quốc gia chúng ta cũng không có bất cứ hứng thú gì với việc này. Hội nghị đại biểu toàn quốc vừa trải qua một cuộc tranh luận kịch liệt, và thấy rằng nghiên cứu lịch sử của anh không có chút lợi ích gì do chúng tôi, chúng tôi cần là cần tương lai, một tương lai hoàn toàn mới, chứ không phải là quá khứ cổ xưa đại xa lắc xa lơ của anh! Tỉnh ngộ đi, Ivanovich Ivanov. Chỉ khi nào anh thực sự ngẫm nghĩ về hành vi phạm tội của mình, thừa nhận với nhân dân, lúc đó anh mới có cơ hội nhận được sự khoan hồng. Ngoài ra, không còn con đường nào khác! Đừng tham vọng dựa vào những sáng tạo theo tưởng tượng về sự ly kỳ của lịch sử Đông Phương để được trao trả tự do! Được rồi, cứ vậy nhé, tôi không muốn lãng phí thời gian với anh và mớ nghiên cứu vô vị của anh, bởi vì còn rất nhiều việc đang chờ đợi tôi. Tôi cảm thấy thời gian đang rất thúc gấp gáp, còn anh, thời gian còn lại cũng không nhiều nữa đâu, hy vọng anh tự lo cho mình.
Lavrenti Pavles dze Beria “Từ bức thư thứ hai có thể nhận thấy, Beria lúc đó chức cao vọng trọng, ra điều ngạo mạn, ông không hứng thú với nghiên cứu của Ivanovich Ivanov, càng không tin tưởng cái gọi là thành quả nghiên cứu mà Ivanovich Ivanov nói tới, nên đương nhiên sẽ không phê chuẩn cho ông ta tiếp tục nghiên cứu. Beria thậm chí còn cho rằng Ivanovich Ivanov vì muốn mưu cầu mạng sống nên đã tự tưởng tượng ra bí mật Đông Phương gì đó. Thậm chí sau đó Beria cũng không thay đổi ý định, Ivanovich Ivanov có viết thư tiếp cho Beria nữa hay không, chúng ta cũng không biết được, bởi vì sau đó không có bất cứ thông tin gì liên quan tới vấn đề này.” - Đường Phong đọc xong bức thư thứ hai, mở lời trước. Giáo sư La Trung Bình gật đầu: “Đúng vậy, hai bức thư này hoàn toàn phù hợp với tình hình mà tôi tìm hiểu được. Theo như tôi biết, Ivanovich Ivanov và Aleksandrovich Nevsky - người học trò mà ông hài lòng nhất, đều chết vì trận “đại gột rửa”, vào khoảng năm 1938. Vì cái chết của Ivanovich Ivanov và nhiều người khác mà từ đó trở về sau, càng không có ai nghiên cứu những văn tự và văn vật Tây Hạ đó nữa. Nên tôi suy đoán tấm kệ tranh ngọc Tây Hạ từ đó trở đi chắc là cứ nằm mãi trong kho văn vật của cung điện Mùa Đông”. “Vậy sao lại có đội thám hiểm liên hợp đó nhỉ? Chắc chắn là sau đó có người bắt đầu nghiên cứu lại về kệ tranh ngọc Tây Hạ” - Đường Phong suy đoán. Giáo sư La gật gù đồng tình: “Đường Phong, cậu nói không sai, sau đó lại có người phát hiện ra kệ tranh ngọc Tây Hạ này và bắt đầu tiến hành nghiên cứu lại. Người này chính là giáo sư Hán học thế hệ mới Menshikov, năm đó ông mới gần 20 tuổi, đang học tại Đại học Leningrad; thầy giáo của ông ta là nhân vật xuất chúng trong giới Hán học Liên Xô lúc đó, Alekseev. Cũng chính nhờ phát hiện và nỗ lực của họ nên mới có đội thám hiểm liên hợp sau này, tiếp theo chúng ta sẽ tiếp tục đọc bức thư thứ ba”. 4 Bức thư thứ ba là vào năm 1951, Menshikov (Lev N. Menshikov) sau này trở thành giáo sư Hán học nổi tiếng, viết cho thầy giáo của ông viện sỹ Viện khoa học Liên Xô, nhà Hán học nổi tiếng Alekseev (Vasily Mikhailovich Alekseev): Thưa thầy kính mến, Khi viết bức thư này, em cảm nhận rõ đôi tay mình đang run rẩy. Thầy đừng lo lắng, đây không phải vì nguyên nhân sức khỏe của em, mà là bởi một sự thật kinh hoàng mà hôm qua em phát hiện được ở cung điện Mùa Đông đã khiến em kích động vô cùng. Tuần trước, theo sự chỉ đạo của thầy, em và Misha đã đến thực tập tại viện khoa học viện nghiên cứu Đông Phương học, khi tra cứu và đọc những tài liệu nghiên cứu phức tạp này, Misha vô tình phát hiện ra một số tài liệu nghiên cứu mà Ivanovich Ivanov viết vào những thập niên 20, 30. Thày đã biết rồi đấy, tìm kiếm tài liệu là việc làm khô khan và đau khổ, nhưng phần tài liệu nghiên cứu này của Ivanovich Ivanov lại khiến em và Misha vô cùng kích động và phấn khích. Trong phần tài liệu này, Ivanovich Ivanov có nhắc tới, vào cuối thập niên 20, ông vô tình phát hiện ra một báu vật đến từ vương triều Tây Hạ Trung Quốc trong cung điện Mùa Đông, tên gọi của báu vật này là “kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu”. Theo như Ivanovich Ivanov nói thì, kệ tranh ngọc này có khắc rất nhiều ký hiệu kỳ quái, Ivanovich Ivanov đã nghiên cứu kệ tranh ngọc này trong một thời gian dài, phán đoán những kí hiệu kỳ quái trên kệ tranh ngọc đó chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất từ lâu, và ông đã nhận diện được một số văn tự Tây Hạ trên bề mặt kệ tranh, rồi thông qua việc giải nghĩa những văn tự này, ông đã phát hiện ra một bí mật kinh hoàng ẩn giấu phía sau báu vật Tây Hạ đó. Đáng tiếc là sau đó Ivanovich Ivanov đã bị chết trong ngục nên ông đã không thể tiếp tục hoàn thành nghiên cứu của mình. Đọc tới đây, em và Misha đã không thể chờ đợi thêm được nữa, hai chúng em lập tức lao tới cung điện Mùa Đông. Trong kho văn vật ngun ngút của cung điện Mùa Đông, rút cuộc chúng em cũng tìm thấy kệ tranh ngọc Tây Hạ đó. Khi em mở chiếc hộp gỗ tử đàn có đựng kệ tranh ngọc ra, em vô cùng kinh ngạc, đây là một báu vật tuyệt mỹ mà em chưa từng được chiêm ngưỡng, em không biết còn có thể dùng từ ngữ nào để hình dung cảm giác của em lúc đó. Kệ tranh ngọc được tạc thành từ cả tấm bạch ngọc Nephrite vùng Hòa Điền Tân Cương, khung kệ tranh ngọc có chạm khắc hai vòng hoa sen cuốn quanh, giữa hai vòng hoa sen lại chạm khắc một hàng châu báu. Em nhìn thấy những ký hiệu kỳ quái trên kệ tranh ngọc, đó có lẽ chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất từ lâu mà Ivanovich Ivanov từng nhắc đến. Tuy cả em và Misha đều không hiểu nổi một kí tự nào trên đó, nhưng hai chúng em đều cảm thấy những kí hiệu không ai hiểu đó đúng như Ivanovich Ivanov từng nói, nhất định chứa đựng một bí mật kinh khủng nào đó. Em và Misha quyết định tiếp tục ở lại cung điện Mùa Đông nghiên cứu kệ tranh ngọc Tây Hạ này, và sẽ lấy chủ đề đó để viết luận văn. Em gửi kèm theo thư này hai bức ảnh của kệ tranh ngọc Tây Hạ, hy vọng nhận được sự giúp đỡ và chỉ đạo của thầy. Chúc thầy mau chóng phục hồi sức khỏe! Học sinh của thầy Đọc xong bức thư thứ ba, tất cả mọi người trong mật thất đều im lặng, họ lại tiếp tục giở bức thư thứ tư ra. 5 Bức thứ tư là thư hồi âm của Alekseev cho Menshikov. Lev N. Menshikov thân yêu: Đang bệnh nhận được thư của em, thầy được an ủi rất nhiều. Không! Đúng ra phải nói là phấn khích, thư của em khiến thầy củng cố thêm lòng tin, thầy là người đã động viện em chọn lựa con đường nghiên cứu học thuật này. Thầy biết, với một thanh niên trẻ tuổi như em, cả ngày vùi đầu nghiên cứu trong đống hồ sơ, tài liệu, sách vở quả là rất khô khan, đặc biệt lại là nghiên cứu văn minh Phương Đông xa lắc và cổ xưa. Nhưng, chàng thanh niên, mong em hãy tin vào tầm nhìn của thầy, thầy không thể nhìn lầm em, em rất có thiên phú trong lĩnh vực này, chỉ cần em kiên trì, thầy tin rằng, sau này em nhất định sẽ thay thế thầy, vượt qua thầy. Thầy rất vui mừng khi thấy em hứng thú với văn minh Tây Hạ. Em biết rồi đấy, nhờ phát hiện kinh động thế giới của Coats Ivanov về Hắc Thành tại Trung Quốc năm 1909, quốc gia chúng ta đã nắm giữ được một lượng lớn văn hiến, tài liệu, văn vật gốc về nghiên cứu lịch sử và văn hóa Tây Hạ, mà thậm chí là cả Trung Quốc, cố hương của nền văn minh này, cũng không thể có nhiều tài liệu gốc như vậy. Do đó, văn minh Tây Hạ tại Trung Quốc và cả nghiên cứu về Tây Hạ học đều đang ở chỗ chúng ta. Nhưng bất hạnh ở chỗ, kể từ sau khi Ivanovich Ivanov chết, nghiên cứu về văn minh Tây Hạ của chúng ta đã bị ngắt quãng, chúng ta hiện giờ đang vô cùng thiếu những học giả trẻ như em, tiến hành những nghiên cứu liên quan, rồi nhất định sẽ tới một ngày chúng ta có thể quảng bá Tây Hạ học. Còn về báu vật em nhắc tới trong thư, từ những năm trước, Ivanovich Ivanov đã từng đề cập tới với thầy, nhưng sau đó cùng với sự ra đi của ông, báu vật này cũng dần bị người ta quên lãng, nếu không có sự nhắc nhở của em, có lẽ tới lúc chết thầy cũng không nhớ ra báu vật đó. Dựa vào kinh nghiệm lâu năm và trực giác của thầy, thầy có thể khẳng định với em rằng, nghiên cứu của em và Misha về kệ tranh ngọc Tây Hạ này rất quan trọng. Thông qua tường thuật của em trong thư, và cả hai bức ảnh đó nữa, thầy tin rằng ý nghĩa của kệ tranh ngọc Tây Hạ này vô cùng trọng đại. Thầy vẫn chưa biết nó ẩn giấu bí mật gì, nhưng thầy tin tưởng vào trình độ học thuật của Ivanovich Ivanov, bởi ông đã nhiều năm nghiên cứu báu vật này, mà đến khi chết vẫn lưu luyến không quên, nên nhất định là có phát hiện gì quan trọng về nó. Viết tới đây thôi, hy vọng sẽ được gặp mặt nói chuyện với em và Misha, và để tận mắt nhìn thấy báu vật Tây Hạ đó. Cuối cùng, than vãn với em một câu, mùi bệnh viện thực là quá khó ngửi, bác sỹ ở đây cũng rất đáng ghét, nên rất mong sớm được ra viện để được công tác cùng các em. Đúng rồi, thầy đột nhiên nhớ ra câu thơ, nếu như thầy nhớ không lầm, thì chắc là thế này: “Hắc Đầu Thạch Thất hoang thủy vực, xích diện phụ chủng bạch cao hà, trường di dược nhân quốc tại bỉ” (viết bằng tiếng Trung). Thập niên 30, cũng chính là trước khi Ivanovich Ivanov bị bắt, ông đã từng gửi một bức thư cho thầy. Trong thư, Ivanovich Ivanov vô cùng phấn khích, kể rằng ông đã có được bước đột phá trọng đại trong nghiên cứu Tây Hạ học, nhưng ông không nói là có được đột phá gì, mà chỉ viết mấy câu thơ không đầu không cuối này bằng chữ Hán ở cuối thư. Lúc đó thầy không hứng thú lắm với việc nghiên cứu về Tây Hạ, bởi vậy cũng không nghiên cứu sâu. Không ngờ, sau đó thì nghe tin Ivanovich Ivanov bị bắt giam, nên bức thư đó trở thành bức thư cuối cùng ông ấy viết cho thầy. Bởi vậy mấy năm sau đó, thầy thường lôi bức thư này ra đọc lại, rồi thời gian dài trôi qua, thầy cũng thuộc cả mấy câu thơ bằng tiếng Hán này, nhưng thầy vẫn không hiểu hàm ý của chúng. Sau đó, bức thư bị thất lạc trong chiến tranh vệ quốc, thật là đáng tiếc! Hy vọng mấy câu thơ này có thể hỗ trợ cho nghiên cứu của các em. Vasily Mikhailovich Alekseev Đọc xong bức thư này, Đường Phong nói: “Bức thư thứ ba và bức thư thứ tư cho thấy rõ, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, kệ tranh ngọc Tây Hạ và tài liệu nghiên cứu của Ivanovich Ivanov đã lần nữa thu hút sự chú ý của Alekseev và Menshikov cùng những học giả Liên Xô khác. Họ chắc chắn đã tiến hành nghiên cứu và đạt được những thành quả xuất chúng về vấn đề này. Nhưng rút cuộc họ nghiên cứu cụ thể tới bước nào, chúng ta cũng không biết được, nên chỉ có thể từ ngôn ngữ trong hai bức thư này để tìm ra một số manh mối mà thôi. Giáo sư La Trung Bình đeo kính lão, nhìn hai bức thư đã được dịch ra này, trầm tư hồi lâu mới cất lời: “Quan trọng là phải xem Alekseev và Menshikov đã tìm thấy bao nhiêu tài liệu nghiên cứu của Ivanovich Ivanov. Vì từ nội dung trong thư mà phán đoán, cho tới nay Ivanovich Ivanov chắc là người tiếp cận gần nhất với chân tướng của bí mật. Bởi vậy, nếu như tài liệu nghiên cứu của Ivanovich Ivanov vẫn còn tồn tại, vậy thì, sẽ hỗ trợ rất lớn cho công tác nghiên cứu của nhóm Menshikov. Nhưng những năm 30 là thời kỳ vô cùng hỗn loạn, tài liệu nghiên cứu của rất nhiều học giả đều đã bị mất, tôi suy đoán, có lẽ Menshikov chỉ tìm thấy một phần tài liệu của Ivanovich Ivanov, còn về nghiên cứu sau này của họ, đạt được thành quả gì thì cũng không rõ nữa. Nhưng, mấy câu thơ đó…” “Đúng vậy, mấy câu thơ đó nghĩa là gì nhỉ?” - Đường Phong truy hỏi. Giáo sư La lắc đầu, giải thích: “Theo như thói quen xưng hô của người Nga, ‘Misha’ rõ ràng không phải là tên thật của người đó, chỉ là tên gọi thân mật giữa những người bạn hoặc người thân với nhau, bởi vậy tôi cũng không thể phán đoán người này rút cuộc là ai, nhưng từ nội dung của hai bức thư có thể thấy, cái người Misha này chắc là bạn học của Menshikov, hai người họ đã cùng nhau phát hiện ra kệ tranh ngọc tại cung điện Mùa Đông…” “Hay là ta xem luôn bức thư thứ năm đi!” - Chưa kịp đợi giáo sư La nói xong, Lương Viện đã hấp tấp mở bức thư thứ năm ra. 6 Bức thứ năm, viết năm 1951, thư của Suslov (Mikhail Andreyevich Suslov), nhà lãnh đạo văn hóa chủ quản và tư tưởng Liên Xô viết cho Alekseev. Đồng chí Mikhail Andreyevich Suslov thân mến: Hôm trước, hai học sinh của ông đã tường thuật lại với tôi về thành quả nghiên cứu gần đây của họ. Mong ông lượng thứ, vì kiến thức về phương diện lịch sử, tôi biết rất ít, đặc biệt là về văn minh Đông Phương xa xôi, tôi càng chưa từng chuyên sâu nghiên cứu. Nhưng gần đây, Viễn Đông đang có những biến động hoàn toàn khác biệt, sự biến động này khiến chúng tôi cảm thấy vui mừng. Vì sự biến động này cũng chính là yêu cầu mà ông và học sinh của ông đề xuất – tới Trung Quốc để khảo sát thực địa. Tuy tôi hoàn toàn có thể hiểu được tâm trạng nóng ruột muốn đến Trung Quốc để khảo sát của ông và học sinh, cũng có thể hiểu giá trị nghiên cứu khổng lồ bao hàm trong đó, nhưng, tôi rất lấy làm tiếc khi phải thông báo với ông rằng, đề nghị của ông và học sinh, hiện tại, ít nhất là thời gian tới vẫn không thể thực hiện được. Đây cũng là đáp án cuối cùng của trọng tâm vấn đề, tôi vô cùng xin lỗi! Ông biết đấy, hiện tại Viễn Đông đang tiến hành một cuộc chiến tranh đáng sợ, kẻ thù của chúng ta và kẻ thù của chính quyền mới ở Trung Quốc đều đang cật lực ngăn chặn tiến trình giải phóng và kiến thiết Trung Quốc - nơi mà ông định đến. Ở đó cướp bóc hoành hành, điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, càng có khả năng gặp phải sự phá hoại của thế lực đối địch nước ngoài. Bởi vậy, vì chúng tôi đã từng có trải nghiệm qua những kinh nghiệm về sự thận trọng, nên quyết định đình chỉ hoạt động khảo cổ của ông, dù chỉ là tạm thời, để đợi tới khi tình hình ổn định, điều kiện chín muồi, chúng tôi sẽ cân nhắc lại đề nghị của ông. Chúc ông sớm phục hồi sức khỏe. Mikhail Andreyevich Suslov “Từ bức thư này có thể nhìn ra vấn đề, Alekseev và Menshikov cùng những người khác, vì muốn tiến thêm một bước bóc gỡ bí mật của kệ tranh ngọc, nên đã đề xuất với chính quyền việc muốn tới Trung Quốc để khảo sát thực địa. Từ đó, tôi suy đoán nghiên cứu của họ nhất định đã có rất nhiều tiến triển, bởi vậy mới nóng lòng tới Trung Quốc khảo sát đến thế. Và cũng từ bức thư này ta có thể nhận ra, chính quyền đã không đồng ý với yêu cầu của họ, ít nhất là tới năm 1951 cũng vẫn chưa đồng ý”. Đường Phong đọc xong thư lên tiếng trước. Triệu Vĩnh tiếp lời: “Trong thư nhắc tới ‘Viễn Đông đang tiến hành một chiến tranh đáng sợ’, chắc là ám chỉ chiến tranh Triều Tiên, điều này phù hợp với niên đại trong thư, hơn nữa dải tây bắc lúc đó quả thực không ổn định, cân nhắc tới nhân tố an toàn, bởi vậy chính quyền Liên Xô đã cự tuyệt đề nghị của Alekseev và mọi người”. “Khà khà, chính quyền cự tuyệt đề nghị của Alekseev và mọi người, tôi thấy không phải vì nhân tố an toàn gì cả, mà chủ yếu là do nghiên cứu của Alekseev và Menshikov vẫn chưa đánh động được những nhân vật lớn ở tầng cấp cao kia, vì trong tiền đề không đủ chứng cứ thì họ vốn sẽ không tin tưởng đề nghị của Alekseev và Menshikov, mà chỉ coi đó là sự hoang tưởng của những phần tử tri thức. Nhưng nếu như có đủ chứng cứ, để chính quyền tin tưởng, thì bắt buộc phải đi khảo sát thực địa, bởi vậy sự việc mới gác lại tại đây.” - Giáo sư La Trung Bình phát biểu quan điểm của mình. “Vậy sau đó, rút cuộc Alekseev có tới Trung Quốc không nhỉ?” - Lương Viện hỏi giáo sư La. Giáo sư La lắc đầu, thở dài: “Rất không may, không có sau này nữa, bởi vì năm đó Alekseev đã qua đời trong bệnh viện”. “Á? Vậy sao?” - Lương Viện giật mình. Sau một hồi trầm ngâm, giáo sư La phá vỡ sự im lặng: “Chúng ta tiếp tục đọc bức thư thứ sáu đi, bức thư thứ sáu, cũng là bức quái dị nhất, thần bí nhất, dài nhất trong bảy bức thư. Bức thư thứ sáu viết năm 1958, nhưng họ tên của cả người viết và người nhận thư đều bị che đi rồi. (Phần xưng hô bị bôi đen): Hôm trước, khi tới tham quan cung điện Mùa Đông và viện nghiên cứu Đông Phương học học viện khoa học Liên Xô tại Leningrad, em thấy rất nhiều văn vật cổ có xuất xứ từ khu vực tây bắc nước ta. Những văn vật này, phần lớn là thuộc thời đại đế quốc Nga, được những nhà thám hiểm người Nga khai quật và đánh cắp mang về, trong đó, có kinh thư thời nhà Đường lấy ra từ Động Tàng Kinh Đôn Hoàng, cũng có cả văn hiến Tây Hạ lấy ra từ Hắc Thành. Những văn vật quý báu này, trước đây rất ít người trong nước biết tới, nên em có thể được coi là người Trung Quốc đầu tiên đã nhìn thấy những văn vật quý báu này. Đây không biết nên gọi là hạnh phúc? hay là bất hạnh nữa? Nếu suy nghĩ sâu sa thì đây là hạnh phúc của cá nhân em, nhưng lại là bất hạnh lớn của quốc gia, vì báu vật của Trung Quốc lưu lạc tha hương tới đất nước khác, người trong nước lại không hề hay biết, thì đúng là nỗi bất hạnh lớn của đất nước rồi! Đặc biệt là những văn vật Tây Hạ quý báu đó, trước đây, đến cả người được mang danh là “học giả” như em cũng đều chưa từng nghe thấy, nên thế nhân càng không biết được trên đời này hóa ra còn có những báu vật như vậy. Tại cung điện Mùa Đông, các nhà nghiên cứu Liên Xô còn đặc biệt bày ra cho em xem một báu vật Tây Hạ, mà theo như họ nói thì báu vật này tên là “kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu”. Nhà nghiên cứu Liên Xô còn kể cho em nghe một số thành quả nghiên cứu của họ về kệ tranh ngọc. Tuy em không hoàn toàn hiểu hết, nhưng có thể nhận ra là Liên Xô vô cùng coi trọng kệ tranh ngọc Tây Hạ đó. (Một dòng phía dưới bị bôi đen) Hôm nay em tới Mátxcơva, khi quan chức cao cấp của phía Liên Xô đón tiếp em, họ đã chính thức đề xuất mong rằng họ có thể cử một đoàn thám hiểm tới khảo sát khu vực tây bắc Trung Quốc. Em cảm thấy việc này không hề đơn giản, mà rất có khả năng là liên quan tới kệ tranh ngọc Tây Hạ đó. Nhưng khi em hỏi thăm về nội dung khảo sát cụ thể thì bất luận là quan chức hay là các nhà nghiên cứu của Liên Xô đều úp úp mở mở, có gì đó khó nói phải giấu giếm… (Hai dòng sau đó bị bôi đen) (Dòng đầu bị bôi đen) Theo ngu ý của em, để phía Liên Xô đơn độc thám hiểm là không thể, chỉ có tổ chức đội thám hiểm liên hợp, may ra việc này còn có thể… (Mười dòng sau đó gần như bị xóa toàn bộ, không thể đọc được) “Sao bức thư này lại loạn lên thế nhỉ? Đằng sau vẫn chưa viết xong, hơn nữa người gửi thư, người nhận thư cũng không biết là ai?” - Lương Viện đọc xong bức thư liền hỏi ngay. Giáo sư La nói: “Bởi vậy ông mới gọi bức thư này là thư của nhân vật bí ẩn. Trong thư không chỉ có những chỗ đề cập tới thân phận của người nhận thư đều đã bị bôi đen, mà còn cả rất nhiều nội dung khác cũng đã bị bôi đen”. “Ông gọi người nhận thư là nhân vật bí ẩn, vậy người gửi thư thì sao? Hình như ông biết người đó là ai?” - Đường Phong hỏi. Giáo sư La lắc đầu, đáp: “Đường Phong, tôi không thể khẳng định người gửi thư đó là ai, nhưng từ giọng điệu và tường thuật trong thư mà phán đoán, người gửi thư và người nhận thư chắc là người Trung Quốc. Bức thư này khác với những bức kia, và người gửi thư này theo như tôi phán đoán, có lẽ là một học giả rất quan trọng của nước ta thời đó, địa vị của người này đồng thời cũng rất cao, nếu không thì phía Liên Xô sao lại đề xuất tới việc cử đoàn thám hiểm liên hợp với ông ta làm gì?” “Ừm, giáo sư La nói có lý. Đây quả thực là một bức thư kỳ lạ, mà bức thư này vốn được viết bằng tiếng Trung sao?” Đường Phong lại hỏi giáo sư La. “Không! Bức thư này không phải viết bằng tiếng Trung, mà cũng được viết bằng tiếng Nga”. “Một học giả nổi tiếng của Trung Quốc mà lại dùng tiếng Nga viết thư cho một người Trung Quốc? Sao kỳ lạ vậy?” - Đường Phong không khỏi kinh ngạc, nhân vật bí ẩn này rút cuộc là ai? “Điều này ít nhất cũng cho thấy nhân vật nhận thư bí ẩn này cũng tinh thông tiếng Nga, chỉ có điều chúng ta không biết người nhận thư này là ai…” Triệu Vĩnh ngắt lời giáo sư La: “Điều mà tôi quan tâm nhất là bức thư này đã bị ai bôi đen? Có xuất hiện điều gì kỳ lạ không? Là người gửi thư tự bôi đen hay người nhận thư bí ẩn bôi đen hoặc là người nào khác? Sao bức thư này lại rơi vào tay KGB?”. “Có lẽ bức thư này vốn không gửi đi, hoặc là người bôi đen bức thư chính là KGB” - Đường Phong phán đoán. Triệu Vĩnh phản bác: “Đây đều là những hồ sơ tuyệt mật của KGB. Nếu đã liệt vào hồ sơ tuyệt mật như vậy, thì KGB không hà cớ gì phải bôi đen vài chỗ trong bức thư như vậy, nếu như thật sự không yên tâm, thì họ chắc chắn sẽ chọn cách tiêu hủy nó đi rồi”. Đường Phong không còn lời nào để nói lại, lúc này, Lương Viện lại nóng vội hỏi: “Các anh đừng có tranh luận nữa, sau đó thì sao?” “Sau đó? Sau đó thì có đội thám hiểm liên hợp giống như cơn ác mộng đó!” - Giáo sư La rầu rĩ nói. 8 Bức thứ bảy, thư của chủ tịch KGB Shelepin (Alexander Nikolayevich Shelepin) gửi cho Sakharov (Victor Mikhailovich Sakharov), bộ trưởng đầu tiên của KGB (Bức thư này không có thời gian cụ thể) Đồng chí Mikhailovich Sakharov: Sự thất bại của hành động “Hắc Thành” đã khiến chúng ta tổn thất rất nhiều đồng chí ưu tú, vì vậy tôi rất tiếc khi phải thông báo với anh rằng, chúng ta phải lập tức dừng ngay hành động lần này lại. Người đảng viên cộng sản chúng ta đều không tin vào thần thánh, càng không thể tin tưởng vào bất cứ truyền thuyết thần ma quỷ quái nào, nhưng lần này trong sa mạc tại tây bắc Trung Quốc, những điều ly kỳ đáng sợ mà đội thám hiểm gặp phải đã khiến tôi không thể giải thích được bằng bất cứ cách nào; cũng có thể là đã có sự phá hoại của thế lực thù địch nước ngoài, nhưng ở phương diện này, chúng ta cũng không có chứng cứ xác thực. Vật báu ẩn giấu bí mật của vương triều Tây Hạ đến từ Trung Quốc đó, tôi nghĩ chỉ có thể để lại cho thế hệ sau thám hiểm nghiên cứu mà thôi, còn tôi và anh cùng thế hệ chúng ta khả năng không còn cơ hội để bóc trần những bí mật trong đó nữa. Dưới đây là mệnh lệnh của tôi: 1. Lập tức chấm dứt hành động “Hắc Thành”, điều toàn bộ thành viên của chúng ta về, bao gồm các nhà khoa học của các chuyên ngành, nhân viên đặc công, quân nhân. Đồng thời, việc điều tra liên quan tới nguyên nhân thất bại của lần hành động này, cùng kế hoạch tìm kiếm thành viên mất tích cũng dừng lại. 2. Toàn bộ thành viên tham gia hành động lần này, bao gồm các nhà khoa học, nhân viên đặc công, quân nhân, bất luận họ biết được bao nhiêu vấn đề có liên quan đến hành động lần này, nhất loạt yêu cầu họ phải kí cam kết bảo mật, cam kết vĩnh viễn không được tiết lộ bất cứ bí mật nào liên quan tới hành động “Hắc Thành”, nếu không họ sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc nhất. 3. Với mấy vị chuyên gia biết rõ nhất về sự tình cung điện Mùa Đông và viện nghiên cứu Đông Phương của Học viện khoa học, anh hãy sắp xếp một thời gian thích hợp, tôi muốn gặp mặt họ nói chuyện. 4. Tiêu hủy toàn bộ văn kiện liên quan tới hành động “Hắc Thành”, việc này phải do anh đích thân thực thi. 5. Còn về vật báu đến từ vương triều Tây Hạ Trung Quốc, cũng do anh tìm kiếm nơi nào an toàn nhất để cất giữ. Ghi nhớ là: cất giữ vĩnh viễn! Nếu không được tổng bộ cho phép, thì tuyệt đối không được để vật này lộ diện, nếu như một ngày nào đó vật này xuất hiện trở lại, nhất định sẽ dẫn tới một sự hỗn loạn đáng sợ mới, điều đó tôi không hy vọng nhìn thấy. 6. Với những thành viên may mắn sống sót, cố gắng hết sức cấp cứu, còn về sắp xếp sau này cho họ, tôi sẽ cân nhắc tiếp. Như vậy đi, tổng cộng là 6 điểm, mong anh nhớ kĩ và nghiêm túc thi hành. Bởi cấp độ bảo mật của hành động “Hắc Thành” rất cao, sẽ không tiếp tục phát tài liệu liên quan, thư này đọc xong, lập tức phải tiêu hủy. Shelepin “Từ bức thư của Shelepin, chúng ta có thể biết được rằng KGB đã gọi cuộc thám hiểm lần đó là hành động “Hắc Thành”, hơn nữa trong thư ông ta cũng đã nói rất rõ, hành động cuối cùng đã thất bại, cũng có nghĩa là họ đã không tìm ra được bí mật chôn giấu trong kệ tranh ngọc” - giáo sư La phân tích. Đường Phong tiếp lời: “Như vậy, đối chiếu với tình hình mà Lương lão tiên sinh nói, Lương Vân Kiệt là phiên dịch tiếng Nga của đội thám hiểm, cũng tham gia vào chuyến thám hiểm đó, kết quả đội thám hiểm đã gặp nạn tại sa mạc Badain Jaran, gần như toàn quân tan tác. Lương lão tiên sinh là người duy nhất của phía Trung Quốc may mắn sống sót”. Giáo sư La Trung Bình gật gù: “Đúng vậy, tôi cũng là người nắm được tình hình của chuyến thám hiểm đó, lần đó xém chút nữa tôi cũng được chọn để tham gia vào đoàn thám hiểm. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ, khi danh sách của đoàn thám hiểm được công bố, tôi đã buồn bã đến nhường nào, còn mấy thanh niên được chọn mà tôi quen thì đã hưng phấn vô cùng, nhưng, sau đó…” - Giáo sư La gần như chìm trong hồi ức, mãi một lúc sau, ông mới tiếp tục kể: “Sau khi đoàn thám hiểm gặp nạn, tôi ngày càng hứng thú với lịch sử Tây Hạ. Tôi càng quyết tâm hoàn thành cho được tâm nguyện vẫn còn dang dở của đoàn thám hiểm. Bởi vậy, bao năm qua tôi đã nhiều lần thâm nhập vào sa mạc Badain Jaran, Hạ Lan Sơn, Sa mạc Tengger, vùng phía Tây Xuyên và nhiều nơi khác để khảo sát, tìm kiếm văn minh Tây Hạ đã mất tích”. “Bao nhiêu năm kiên trì như vậy, ngài đã trở thành đại gia về văn hóa lịch sử Tây Hạ rồi” - Đường Phong nói. Giáo sư La hất hất tay: “Bởi vậy tôi thường nghĩ, năm đó bị rớt khỏi đoàn thám hiểm, là sự may mắn của tôi? Hay là không may? Câu hỏi này tới tận giờ tôi vẫn chưa trả lời được”. “Nhưng tôi vẫn chưa hiểu là trong thư, Shelepin đã ra lệnh tiêu hủy tất cả những văn kiện liên quan, vậy tại sao hôm nay chúng ta vẫn có thể đọc được bảy bức thư tuyệt mật này? Còn cả mệnh lệnh cất giữ vĩnh viễn báu vật Tây Hạ của ông ấy, báu vật đó chắc là kệ tranh ngọc. Nếu như kệ tranh ngọc bị cất giấu vĩnh viễn, thì tại sao giờ đây nó lại lộ diện?” Câu hỏi của Lương Viện lại khiến mọi người chìm trong suy tư. “Văn kiện có khả năng lọt ra ngoài ra từ nội bộ KGB. Sau khi Liên Xô tan rã, KGB bị giải tán, rất nhiều văn kiện vốn là tài liệu cơ mật của KGB bị thất lạc. Còn về việc kệ tranh ngọc tại sao lại xuất hiện, tôi không biết, cũng có khả năng giống như đống tài liệu này bị thất thoát ra từ KGB vậy, cũng có khả năng là từ con đường khác nào đó” - Hàn Giang vốn trầm tư từ đầu tới giờ bỗng phát biểu suy đoán của mình. “Ừm, tôi hoàn toàn đồng ý với phán đoán của đội trưởng, nhưng, còn có một nghi vấn lớn nhất, đó là từ nội dung của bảy bức thư này có thể nhận thấy, chắc chắn là các học giả Liên Xô thông qua việc nghiên cứu kệ tranh ngọc đã thu được những manh mối rất quan trọng, bởi vậy mới có thể thuyết phục được các lãnh đạo cấp cao đồng ý cho họ tới Trung Quốc khảo sát. Vậy rút cuộc họ đã phát hiện ra điều gì trên kệ tranh ngọc?” - Đường Phong nói ra nghi vấn trọng tâm. “Không sai, đúng như Đường Phong nói, nhất định mấy vị học giả Liên Xô đó đã phát hiện ra điều gì trên kệ tranh ngọc, hiện tại kệ tranh ngọc này đang ở trong tay chúng ta, chúng ta cũng phải nhanh chóng tìm hiểu kệ tranh ngọc này để hóa giải bí mật bao trùm lên nó, dĩ nhiên, phải trông cậy vào những nghiên cứu của giáo sư La rồi”. Mọi người cùng đổ dồn ánh mắt hy vọng về phía giáo sư La. Giáo sư La cười khan hai tiếng, nói: “Các bạn đừng nhìn tôi như thế, kệ tranh ngọc trải qua bao nhiêu năm như vậy, những kí hiệu trên bề mặt... ồ, chính là những văn tự Tây Hạ mà Đường Phong nói, đã loang lổ không nhìn rõ nữa rồi. Hiện giờ tôi đang điều chế một loại chất lỏng đặc biệt, các bạn muốn nhìn rõ những văn tự Tây Hạ trên kệ tranh ngọc này thì hãy chờ thêm một thời gian nữa; còn sau khi xử lý xong xuôi, có thể giải mã được những văn tự Tây Hạ để tìm ra bí mật của kệ tranh ngọc này hay không, thì còn phải xem vận may của chúng ta nữa”. Đường Phong nghe xong những lời của giáo sư La liền quay lại nhìn nhìn Hàn Giang, trong lòng hai người không hẹn mà gặp cùng nảy sinh một suy nghĩ kỳ lạ: ta đã tiếp cận được chân tướng của bí mật, hay là đang càng lúc càng xa rời bí mật đó đây? CHƯƠNG 6 M ột tuần sau, Đường Phong, Lương Viện, Hàn Giang, Triệu Vĩnh và giáo sư La lại tập hợp trong mật thất của ngôi nhà nhỏ. Tấm kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ đang nằm ngay ngắn trên chiếc bàn trước mặt họ… Giáo sư La Trung Bình sau một tuần đóng cửa nghiên cứu, đã cơ bản giải mã được những kí hiệu bí ẩn trên bề mặt kệ tranh ngọc. Giáo sư La phát cho mọi người bốn bản in thác bản của bề mặt kệ tranh ngọc, ông giới thiệu: “Từ bảy văn kiện tuyệt mật đó, chúng ta đã biết được năm đó Ivanovich Ivanov đã phát hiện ra một số kí hiệu bí ẩn trên bề mặt kệ tranh ngọc. Ivanovich Ivanov, Alekseev và Menshikov đều cho rằng, những kí hiệu bí ẩn này chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất nhiều năm qua, và họ đã tiến hành một số công việc dịch nghĩa. Nhưng kệ tranh ngọc mà Đường Phong mang về này, do năm tháng bào mòn, cộng thêm điều kiện bảo tồn sau này không tốt, nên những kí hiệu bí ẩn trên bề mặt đó giờ đều bị cáu bẩn, mờ nét, bản in thác bản mà mọi người đang nhìn thấy là do tôi dùng một loại chất lỏng đặc biệt để lau rửa, kệ tranh ngọc sau khi được rửa sạch sẽ thì mới tiến hành lấy thác bản, nên bản in thác bản giờ cũng khá là rõ ràng rồi. Văn tự Tây Hạ là một loại văn tự chết, hiện nay ở nước ta, thậm chí là trên toàn thế giới, số người có thể đọc hiểu được văn tự Tây Hạ không vượt quá 20 người. Tôi tuy bất tài, nhưng đã bao năm học hành nghiên cứu văn tự Tây Hạ, bởi vậy cũng may mắn nhận biết được một vài văn tự Tây Hạ” - giáo sư La nói. Lương Viện hiếu kỳ ngắt lời giáo sư La: “Giáo sư đừng giảng bài cho chúng cháu nữa, nếu giáo sư có thể đọc hiểu thì mau mau nói cho mọi người biết, những văn tự Tây Hạ trên đó nghĩa là gì đi ạ?” Giáo sư La cười nói: “Viện Viện, cháu đừng nóng vội, nếu muốn phá giải bí mật ẩn giấu trong kệ tranh ngọc Tây Hạ, mọi người ở đây vẫn bắt buộc phải nghe ông lải nhải. Không nói để các bạn đọc hiểu được văn tự Tây Hạ, thì ít nhất cũng phải để các bạn đại khái hiểu được văn hóa lịch sử Tây Hạ; có như vậy các bạn mới có thể hiểu rõ được giá trị và văn hóa ẩn chứa bên trong kệ tranh ngọc này, bởi vậy ông phải giảng bài cho mọi người trước đã”. “Giảng bài? Cháu vừa mới tốt nghiệp từ Mỹ về, đến đây lại phải lên lớp sao?” - Lương Viện tỏ ra nhụt chí. Hàn Giang nghiêm mặt nói với mọi người: “Trên phương diện học thuật, giáo sư La là chuyên gia, chúng ta đều là học sinh, hơn nữa còn là học sinh tiểu học, bởi vậy bắt buộc phải nghe giáo sư La giảng bài cho chúng ta trước đã. Còn riêng Đường Phong, về phương diện này dĩ nhiên không phải là học sinh tiểu học, nhưng tôi có yêu cầu cao hơn với anh, nên anh lại càng phải chăm chú nghe giảng hơn chúng tôi, chăm học hơn chúng tôi?” Những lời Hàn Giang nói khiến Đường Phong cảm thấy áp lực tăng lên gấp đôi. Anh bắt đầu hiểu ra tác dụng và giá trị của mình trong đội ngũ này, nhưng lúc này anh cũng không thể biết mình có khả năng đáp ứng được yêu cầu của Hàn Giang hay không, đặc biệt là việc đọc hiểu văn tự Tây Hạ đã thất truyền. 2 Giáo sư La bật máy chiếu lên, trên màn hình máy chiếu xuất hiện một ngọn núi tuyết nguy nga, dưới núi tuyết là rừng cây um tùm hun hút, đang có một đám người quấn trên người những tấm da thú đang đuổi bắt dã thú, hoàn toàn là cảnh tượng của một xã hội nguyên thủy. Tiếp đó, giáo sư La bắt đầu bài giảng của ông: “Người Đảng Hạng kiến lập vương triều Tây Hạ, từng là một chi của người Khương cổ. Vào thời viễn cổ, người Khương cổ sinh sống tại đông bắc cao nguyên Thanh Tạng, tại đây họ đã sáng tạo ra văn hóa Tây Khương. Người Đảng Hạng chính là một chi trong bộ lạc Tây Khương. Vào khoảng thế kỷ thứ tư, người Đảng Hạng bắt đầu bước lên vũ đài lịch sử Trung Quốc. Kể từ đó, người Đảng Hạng đã không ngừng nghỉ tiến những bước tiến di chuyển của họ. Vào thời kỳ cuối Nam Bắc triều, người Đảng Hạng bắt đầu hoạt động tại thượng lưu sông Hoàng Hà và khu vực bắc Tứ Xuyên, cũng chính là vùng đông nam tỉnh Thanh Hải và dải Tùng Phan, Hắc Thủy, Bắc Xuyên, Mậu Huyện của Tứ Xuyên. Trong “Tùy thư - Đảng Hạng truyền” có ghi chép lại: Đảng Hạng lấy thị tộc để phân chia bộ lạc, họ lớn thì hơn năm vạn người, họ nhỏ thì hơn nghìn người. “Tục thượng vũ lực, vô pháp lệnh, các vi sinh nghiệp, hữu chiến trận tắc tương đồn tụ, vô dao phú, bất tương vãng lai. Mục dưỡng ngưu, dương, trư dĩ cộng thực, bất tri giá sắc”. Người Đảng Hạng lúc đó chủ yếu sống bằng chăn nuôi gia súc, săn bắt, vẫn còn chưa biết sản xuất nông nghiệp, thuộc thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy. Sau này, Đảng Hạng Khương dần dần phát triển thành 8 bộ lạc lớn là: thị tộc Tế Phong, thị tộc Phí Thính, thị tộc Vãng Lợi, thị tộc Pha Siêu, thị tộc Dã Từ, thị tộc Phòng Đương, thị tộc Mễ Cầm, thị tộc Thác Bạt, trong đó thực lực của bộ lạc Thác Bạt là mạnh nhất”. “Vậy thì, cái từ ‘Đảng Hạng’ này từ đâu mà có vậy?” - Lương Viện lại tò mò hỏi. Giáo sư La giải thích: “Cái tên ‘Đảng Hạng’ này là kết quả của dịch âm sang tiếng Hán, khả năng lớn là dân tộc Hán cổ đã vay mượn cách gọi Đảng Hạng của một vài dân tộc thiểu số khác ở Tây Bắc, ví dụ như người Mông Cổ gọi người Đảng Hạng là ‘Đường Cổ Đặc’ hoặc ‘Đường Ngột Thích”. Hầu hết các điển tịch tiếng Hán cũng tiếp tục dùng cách xưng hô này. Trong lúc đó, người Đảng Hạng lại tự gọi mình là ‘Miến Dược’ hoặc ‘Nhĩ Dược’, cách xưng hô này gần giống với cách gọi người Đảng Hạng của người Tạng. Trong văn hiến của dân tộc Tạng cổ, người Tạng gọi người Đảng Hạng trong thời kỳ Thổ Phiên di cư tới vùng Đông Bắc cao nguyên Thanh Tạng là Nhĩ Dược”. “Cũng có nghĩa là người Đảng Hạng thời kỳ này đã từ phía tây Tứ Xuyên di chuyển tới vành đai hồ Thanh Hải?” - Đường Phong truy hỏi. “Đúng vậy, nhưng thời kỳ này, trên cao nguyên Thanh Tạng, một vương triều khác là Thổ Phiên cũng phát triển, mở rộng ra bên ngoài. Để trốn tránh sự xâm lược và nô dịch của Thổ Phiên, các bộ lạc Đảng Hạng đã lần lượt di chuyển về một vương triều mới nổi lên – Đại Đường. Triều Đường đã tiếp nạp họ, người Đảng Hạng liền di chuyển tới khu vực hành lang Hà Tây và khu vực Cam Nam. Sau loạn An Sử [Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ]
7
Tứ Bình
1
Đường Phong tiếp lời giáo sư La: “Phần lịch sử sau đó tôi đã biết rồi”.
“Vậy thì sau đây sẽ tới lượt cậu nói nhé” - Giáo sư La đang muốn thử Đường Phong.
Đường Phong tiếp tục phần giới thiệu của giáo sư La: “Sau khi người Đảng Hạng định cư tại khu vực Thiểm Bắc, Hà Sáo, họ đã phát triển rất nhanh chóng và lớn mạnh. Những năm cuối thời Đường, thiên hạ đại loạn, từng nhóm người lớn mạnh khởi nghĩa, lãnh tụ kiệt xuất Thác Bạt Tư Cung của người Đảng Hạng đã dẫn dắt người Đảng Hạng không ngừng mở rộng thực lực của bộ tộc, và đã lập đại công trong việc trấn áp khởi nghĩa Hoàng Sào, được triều Đường phong làm Định Nan quân tiết độ sứ, phong tước Hạ quốc công và ban tặng họ “Nguy Danh”. Bởi vậy trong sử sách cũng gọi hoàng tộc Tây Hạ là họ Ngôi Danh. Kể từ đó, người Đảng Hạng từng bước chiếm hữu vùng đất của 5 châu gồm: Ngân Châu, Hạ Châu, Hựu Châu, Tuy Châu, Tịnh Châu, trở thành chư hầu một phương. Sau khi triều Tống được thiết lập, triều đình thực thi chính sách bóc lột, thời Tống Thái Tông, hậu duệ của Thác Bạt Tư Cung là Ngôi Danh Kế Bổng tiếp tục kế nhiệm chức Định Nan quân tiết độ sứ. Không lâu sau, nội bộ quý tộc Đảng Hạng phát sinh đấu đá tranh giành quyền lực, triều Tống nhân cơ hội dụ dỗ Ngôi Danh Kế Bổng dẫn dắt tộc người đầu hàng, thuận theo triều Tống và dâng tặng vùng đất 5 châu: Ngân Châu, Hạ Châu, Hựu Châu, Tuy Châu, Tịnh Châu. Kể từ đó, nội bộ dân tộc Đảng Hạng phân tách và đứng trước nguy cơ suy vong. Lúc này, trong những người Đảng Hạng không muốn thuận theo triều Tống, có một người đứng lên kêu gọi, dẫn lĩnh tộc người tháo chạy tới Địa Cân Trạch, cách đông bắc Hạ Châu 300 lý (khoảng 150km), tự xưng vương, chống lại triều Tống. Người này chính là người đặt nền móng cho vương triều Tây Hạ - Thác Bạt Kế Thiên.
Hơn 20 năm sau đó, người Đảng Hạ dưới sự lãnh đạo của Thác Bạt Kế Thiên, đã mở mang bờ cõi, chinh phạt bốn bề, mở rộng lãnh thổ, khai phá vùng sa mạc rộng lớn, không chỉ lấy lại lãnh thổ 5 châu đã mất, mà còn công chiếm trấn địa trọng điểm của tây bắc bấy giờ là Linh Châu. Đến thời kỳ con trai của Thác Bạt Kế Thiên, là Thác Bạt Đức Minh cầm quyền, người Đảng Hạng một mặt xoay sở với hai cường quốc Tống, Liêu, một mặt chinh chiến với Thổ Phiên, Hồi Cốt, mở rộng về hướng tây, khống chế huyết mạch trên con đường tơ lụa – vành đai Hà Tây, từng bước thiết lập bờ cõi của nước Tây Hạ sau này, đồng thời xây dựng đô thành của vương triều Tây Hạ dưới chân núi Hạ Lan, đặt tên là Hưng Khánh Phủ.
Năm 1038, con trai của Thác Bạt Đức Minh là Nguyên Hạo, trải qua một thời gian dài chuẩn bị, từ bỏ họ tên mà hoàng đế nhà Tống ban tặng, tự xưng là họ Ngôi Danh, chính thức xưng đế, kiến lập nên vương triều của người Đảng Hạng, lấy quốc hiệu Đại Hạ, người đời sau thường gọi vương triều này là “Tây Hạ”. Vào thời kỳ huy hoàng nhất của vương triều Tây Hạ, Hoàng Hà được coi là ranh giới phía đông, phía tây kéo dài mãi đến Tây vực, khống chế con đường tơ lụa, phía nam đối đầu với Túc Quan, phía bắc dựa vào đại sa mạc, diện tích hơn cả ngàn dặm, bao gồm Ninh Hạ, toàn bộ Cam Túc và Thiểm Tây, Nội Mông Cổ, Thanh Hải, một phần địa phận của Tân Cương ngày nay. Nguyên Hạo sau khi xưng đế, đã xây dựng bộ điển chương chế độ hoàn chỉnh, còn sáng tạo ra một hệ thống cả văn tự Tây Hạ độc đáo nữa”.
3
Giáo sư La nghe Đường Phong tường thuật xong, mỉm cười nói: “Đường Phong, lịch sử Tây Hạ mà cậu vừa nói rất chính xác, vì cậu đã nhắc đến Nguyên Hạo sáng lập ra văn tự Tây Hạ, vậy tiếp theo tôi sẽ nói về văn tự Tây Hạ đã thất truyền”. Giáo sư La bấm nút điều khiển, một số ký tự kỳ lạ liền hiện ra trên màn hình máy chiếu, rồi ông tiếp giảng giải với mọi người: “Những ký tự đặc biệt trên màn hình máy chiếu này chính là văn tự Tây Hạ. Trước khi Nguyên Hạo xưng đế, dân tộc Đảng Hạng vốn không có văn tự riêng. Những năm đầu, khi người Đảng Hạng còn sống du mục trên vùng cao nguyên Thanh Tạng, do ngôn ngữ Đảng Hạng gần gũi với Tạng ngữ, nên họ đã vay mượn chữ cái của Tạng văn để phiên âm ngôn ngữ của mình. Sự sáng tạo ra chữ viết Tây Hạ đã đánh dấu cho một bước phát triển mới, lên một mình độ cao hơn của văn minh dân tộc Đảng Hạng. “Tống sử” ghi: “Nguyên Hạo tự chế phiên thư, mệnh Dã Lợi Nhậm Vinh diễn dịch chi, thành thập lưỡng quyển, tự hình thể phương chỉnh loại bát phân, nhi họa pha trùng phục. Giáo quốc nhân kỷ sự dụng phồn thư, nhi dịch “Hiếu kinh”, “Nhĩ Nhã”, “Tứ ngôn tạp tự” vi phồn ngữ”. Thẩm Khoát người Tống thì viết trong “Mộng khê bút đàm”: “Nguyên Hạo quả bản, kỳ đồ ngẫu khuất tiên sáng tạo phiên thư, độc cục nhất lầu thượng, lũy niên phương thành, chí thị hiến chi”. Trong hai đoạn văn ghi chép này, đã nói rằng, trước khi Nguyên Hạo kiến lập vương triều Tây Hạ, đã ra lệnh cho đại thần thuộc hạ Dã Lợi Nhậm Vinh sáng tạo ra văn tự Tây Hạ, lệnh cho nhân dân trong trước sử dụng loại chữ mới này. Nguyên Hạo còn phiên dịch rất nhiều điển tịch Hán văn thành chữ Tây Hạ. Thực ra, theo ý kiến của tôi, văn tự Tây Hạ vốn không phải do cá nhân nào sáng tạo ra, mà là được từng bước hình thành trong dân gian, cuối cùng được Dã Lợi Nhậm Vinh sưu tầm thu thập chỉnh sửa mà thành”. Giáo sư La giới thiệu liền một mạch sự ra đời và hoàn thiện của văn tự Tây Hạ.
Lương Viện nhìn chằm chằm vào những văn tự Tây Hạ kỳ quái trên màn hình máy chiếu, đột nhiên hỏi: “Giáo sư, sao cháu thấy mấy văn tự Tây Hạ này hơi giống tiếng Hán nhỉ, nhưng cháu chẳng hiểu được chữ nào cả”.
“Khà khà! Viện Viện, cháu quan sát khá lắm, văn tự Tây Hạ chính là Hán tự vay mượn, biến đổi mà thành. Các bạn xem, văn tự Tây Hạ, về kết cấu rất giống Hán tự. Cũng giống như chữ ô vuông, do nét chấm, ngang, sổ, mác, hất, quai, móc câu… tạo thành, đến cả thể chữ cũng giống như Hán tự, có 5 loại thể chữ: Khải, Hành, Thảo, Triện, Lệ. Những người lần đầu nhìn thấy văn tự Tây Hạ đều nhầm rằng đây là chữ Hán, thực ra đây hoàn toàn là một loại văn tự khác. Cho tới nay, tổng cộng đã phát hiện ra hơn 5000 chữ trong văn tự Tây Hạ, tuy giống chữ Hán, nhưng không có bất cứ một chữ nào tương đồng với chữ Hán. Điều này đã phản ánh ý thức dân tộc mạnh mẽ của người Đảng Hạng. Chúng ta xem lại mấy văn tự Tây Hạ này nhé, nét nhiều nhưng rời rạc, nhiều nét nghiêng, đặc biệt là nét phẩy, nét mác, bởi vậy mới có sách lịch sử viết về văn tự Tây Hạ là ‘loại phù triện’, ý nói là nét chữ Tây Hạ nhiều mà rời rạc, mù mờ khó hiểu. Bởi vậy, sau khi Tây Hạ diệt vong, văn tự Tây Hạ nhanh chóng biến mất, chôn vùi trong tai họa rình rập.
Sau khi Tây Hạ bị người Mông Cổ tiêu diệt, văn tự Tây Hạ cũng nhanh chóng biến mất trong dòng chảy lịch sử, mấy trăm năm sau không ai hay biết. Mãi cho đến những năm Gia Khánh triều Thanh, một học giả người Cam Túc là Trương Tấu trở về quê dưỡng bệnh, khi đến một ngôi miếu ở Vũ Uy, phát hiện thấy một căn phòng nhỏ đóng kín, ông hỏi một nhà sư ở đó là: “Trong phòng có vật gì?” Nhà sư nói: “Trong phòng là một tấm bia, tấm bia này rất quái dị, e rằng là yêu nghiệt, bởi vậy mới để trong phòng đóng kín cửa”. Trương Tấu bao năm làm quan bên ngoài, nghe nhiều biết nhiều, không tin vào truyền thuyết ma quỷ nên đã yêu cầu nhà sư mở cửa phòng để xem thử là yêu nghiệt gì. Nhà sư không còn cách nào khác, đành phải mở cửa phòng cho Trương Tấu vào. Trương Tấu phát hiện trong phòng quả nhiên có một tấm bia, chữ trên tấm bia là những văn tự mà một đại học giả như ông chưa từng được biết đến, Trương Tấu lúc đó kinh ngạc thất sắc. Khi ông cẩn thận rón rén đi vòng ra sau tấm bia thì phát hiện ra mặt sau tấm bia có khắc chữ Hán, số chữ nhiều gần bằng chữ ở mặt trước. Trương Tấu bấy giờ mới hốt hoảng hiểu ra, hóa ra văn tự ở mặt trước chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất! Tấm bia này chính là “Lương Châu trùng tu Hộ Quốc Tự cảm ứng tháp bia”
[Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ]
rất nổi tiếng, hiện vẫn bảo tồn trong viện bảo tàng tại thành phố Vũ Uy.
Kể từ đó về sau, văn tự Tây Hạ dần dần được giới học thuật coi trọng. Năm 1909, nhà thám hiểm người Nga Kozlov tại di chỉ Hắc Thủy Thành thuộc lãnh thổ Ejinaqi đã đào trộm một lượng lớn văn hiến có viết văn tự Tây Hạ trên đó. Kozlov vận chuyển tất cả những văn hiến Tây Hạ này tới Petersburg, nhà Hán học nước Nga Ivanovich Ivanov đã phát hiện ra cuốn “Phiên Hán hợp thời chưởng trung châu” nổi tiếng trong văn hiến Tây Hạ được Kozlov chuyển về. Đây là một cuốn từ điển song ngữ tiếng Tây Hạ và tiếng Hán, do học giả Tây Hạ là Cốt Lạc Mậu Tài biên soạn. Ivanovich Ivanov nhờ có cuốn từ điển này đã đọc hiểu không ít văn hiến Tây Hạ cổ xưa. Ở nước ta, người bắt đầu nghiên cứu một cách hệ thống văn tự Tây Hạ là hai cha con học giả nổi tiếng La Chấn Ngọc và La Phúc Trường. Năm 1913, hai cha con La Chấn Ngọc và La Phúc Trường có được một phần của “Phiên Hán hợp thời chưởng trung châu” từ chỗ Ivanovich Ivanov. Trải qua nhiều năm nghiên cứu, La Phúc Trường đã dùng “Sáu phương pháp tạo nên chữ Hán truyền thống” là: tượng hình, chỉ sự, hình thanh, hội ý, giả tá, chuyển chú để phân tích văn tự Tây Hạ, giúp mọi người nâng cao rõ rệt kiến thức về cấu tạo văn tự Tây Hạ. Sau đó, ngày càng có nhiều học giả nghiên cứu văn tự Tây Hạ, nhưng do văn tự Tây Hạ biến mất đã nhiều năm nên đã không còn giá trị thực tế, cộng thêm nét chữ của văn tự Tây Hạ nhiều mà rời rạc, mù mờ khó hiểu, thế nên cho tới tận ngày nay, số học giả có thể nắm vững văn tự Tây Hạ chỉ còn lại thưa thớt vài người”.
4
Chính trong lúc mọi người đang rất đỗi ngạc nhiên về văn tự Tây Hạ cổ xưa thì Hàn Giang lại nhìn chằm chằm kệ tranh ngọc trước mặt, không nói một lời. Bề mặt kệ tranh ngọc này rút cuộc khắc nội dung gì? Có thực sự ly kỳ đáng sợ như vậy không? Bao nhiêu người vì nó mà mất mạng, huyết chú đáng sợ! … Văn tự trên kệ tranh ngọc, anh không hiểu nổi một chữ, thật là một cuốn thiên thư, không! Phải nói là tử thư! Nghĩ tới đây, Hàn Giang đột nhiên lên tiếng: “Giáo sư, vậy thì tiếp theo chúng ta sẽ giải thích nội dung của tử thư bí ẩn trên kệ tranh ngọc nhé”.
“Tử thư?” - Mọi người nghe thấy từ này thốt ra từ miệng Hàn Giang đều rất đỗi sợ hãi. Giáo sư La cũng hơi sững sờ, liền cười đáp: “Không sai, đội trưởng Hàn nói không sai, đây quả thực là một cuốn tử thư”.
“Tử thư! Lẽ nào giáo sư cũng không biết sao?” - Đường Phong ngạc nhiên hỏi.
Giáo sư La trầm ngâm hồi lâu, đáp: “Tôi vừa nói ban nãy rồi đấy, văn tự Tây Hạ giống như chữ Hán, có năm thể thư: Khải, Hành, Thảo, Triện, Lệ. Cho tới nay, tôi đã từng nhìn thấy bốn thể chữ Khải, Hành, Thảo, Triện trong văn tự Tây Hạ, chỉ có duy nhất thể chữ Lệ là chưa từng thấy trong văn tự Tây Hạ. Còn văn tự trên kệ tranh ngọc này, từ kinh nghiệm bao năm qua của tôi cho thấy, chúng vừa không phải là thể chữ Khải Tây Hạ, cũng không phải là thể chữ Hành Tây Hạ, càng không phải là thể chữ Thảo Tây Hạ hay thể chữ Triện Tây Hạ, bởi vậy bước đầu tôi phán đoán, văn tự Tây Hạ trên kệ tranh ngọc chắc là thể chữ Lệ Tây Hạ mà nhân thế chưa từng nhìn thấy!”
“A! Sao phức tạp vậy, vì chưa có ai từng nhìn thấy, vậy thì cũng chẳng có ai hiểu đâu nhỉ?” - Lương Viện không giấu nổi sự thất vọng.
“Khà khà, các bạn không phải sốt ruột đâu! Dù lần đầu tiên tôi đọc những văn tự này cũng không hiểu, nhưng rút cuộc cũng chỉ là thể chữ không giống, văn tự vẫn là văn tự Tây Hạ, nếu là thể chữ Khải và thể chữ Hành Tây Hạ thường thấy, thì chỉ cần một tiếng đồng hồ là tôi có thể dịch ra. Nguyên nhân đóng cửa một tuần là do cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy thể chữ Lệ. Vẫn may, thông qua một tuần nghiên cứu, tôi vừa đọc vừa mù mờ đoán nên cũng dịch được đại khái nội dung văn tự trên kệ tranh ngọc, chỉ có điều tôi cũng không thể hoàn toàn khẳng định…” - nói tới đây, giáo sư La ngưng bặt.
Hàn Giang nhìn giáo sư La đầy tin tưởng: “Giáo sư, bất luận là chính xác hay không, ngài cứ nói xem sao”.
Giáo sư La gật gật đầu, bắt đầu dịch những văn tự trên kệ tranh ngọc: “Văn tự trên kệ tranh ngọc phân thành hai phần trước sau, chữ ở phần trên ít hơn, hơi giống như phần mở đầu trong toàn bộ bài văn, bước đầu tôi tạm dịch ra, toàn bộ phần mở đầu này là: Tử tôn hữu nan, tứ bình hợp nhất, thiên sơn vạn thủy, cửu tử nhất sinh, Hạn Hải Mật Thành, nại trường sinh thiên tí hựu, khả đắc phục quốc chi tư, phục quốc chi nhân, phi ngã tử tôn, tất thụ huyết chú. Tổng cộng có 44 chữ, văn gốc không có dấu câu, dấu câu ở giữa là do tôi thêm vào, đây chỉ là bản dịch ban đầu của tôi, thâm tâm cũng không chắc chắn, đặc biệt là ‘Hạn Hải Mật Thành’ mấy chữ đó đã bị bào mòn, rất không rõ ràng”.
“Giáo sư, bốn mươi tư chữ này nghĩa là gì?” - Đường Phong nói ra sự thắc mắc trong lòng mọi người.
Sắc mặt giáo sư La đanh lại, hình như ông đang băn khoăn cân nhắc trùng trùng, mọi người đợi mãi một lúc lâu sau mới nghe thấy giáo sư La nói: “Bốn mươi bốn chữ này, theo như suy đoán ban đầu của tôi, có liên quan tới một bí mật lớn của vương triều Tây Hạ…”
5
Giáo sư La nói tiếp: “Dưới đây tôi sẽ đọc và giải thích từng câu, câu thứ nhất ‘tử tôn hữu nan’, tôi suy đoán chữ ‘nan’ này, chắc là chỉ đại nạn mà vương triều Tây Hạ gặp phải, chẳng hạn như khi thời kỳ đất nước gặp hoạn nạn, cũng ý nói là con cháu hậu duệ, nếu như đến lúc gặp đại nạn; câu thứ hai ‘tứ bình hợp nhất’, câu này tôi trăn trở suy nghĩ mãi, ngẫm nghĩ mãi mà chẳng ra, nhưng sau đó tôi phân tích xong toàn bộ, lúc quay lại nhìn câu này mới ngộ ra, bởi vậy chúng ta tạm thời không xem câu này, tiếp tục; hai câu sau là ‘thiên sơn vạn thủy, cửu tử nhất sinh’, hai câu này về mặt chữ nghĩa không khó giải thích, chúng nói về gian nan, nguy hiểm, gian nan và nguy hiểm gì nhỉ? Tôi nghĩ chắc là chỉ con đường gian nan, vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh; xem tiếp câu sau ‘Hạn Hải Mật Thành’, Hạn Hải Mật Thành là ý gì đây? Tôi lúc đầu cũng nghĩ không ra, nhưng tôi liên kết câu này với hai câu trước lại với nhau thì gần như đã hiểu ra, vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh là vì đi đâu đây? Là bởi vì đi đến Hạn Hải Mật Thành”.
“Hạn Hải Mật Thành? Đây là nơi nào mà phải vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh mới tới được? Bí ẩn thật đấy!” - Lương Viện hỏi giáo sư La.
Giáo sư La lắc lắc đầu: “Cả đời ta nghiên cứu lịch sử Tây Hạ nhưng cũng chưa bao giờ nghe thấy nơi nào tên là Hạn Hải Mật Thành cả”.
“Có khi nào nghĩa là thế này không nhỉ, Hạn Hải là một địa danh, Mật Thành là một địa danh, ‘Mật Thành’ nghe có vẻ giống tên của một thành phố” - Lương Viện đoán mò.
Đường Phong cũng suy đoán theo: “Hạn Hải, tôi thấy không có ý nghĩa gì đặc biệt cả, chính là chỉ sa mạc, Hạn Hải Mật Thành, ghép lại là nói về một thành trì bí mật trong sa mạc, gọi là Mật Thành”.
Giáo sư La nghe Đường Phong phân tích, khẽ gật đầu: “Điểm này tôi đồng ý với quan điểm của Đường Phong, Mật Thành rất có khả năng là một thành trì ẩn giấu trong sa mạc. Chúng ta xem tiếp, câu sau ‘nại trường sinh thiên tí hựu’, câu này chắc là không có ý nghĩa thực tế gì, chỉ là ý nghĩa cầu nguyện ông trời phù hộ. Trung Quốc cổ đại, rất nhiều dân tộc du mục ở phương bắc như Mông Cổ, Khiết Đan, Đảng Hạng… đều sùng bái ông trời. Khi ra ngoài chinh chiến, săn bắn, phàm là có hoạt động gì quan trọng, họ đều phải cử hành nghi thức, cầu nguyện ông trời phù hộ. Hai câu sau, ‘khả đắc phục quốc chi tư, phục quốc chi nhân’, theo như suy đoán của tôi, nghĩa là nói vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh, tìm thấy Hạn Hải Mật Thành là có thể có được tài nguyên phục quốc, nhân lực để phục quốc, ‘phục quốc chi tư’ may mà còn dễ lý giải, chính là của cải, của cải có thể đủ để phục quốc các bạn thử nghĩ xem phải có bao nhiêu?”
“Tôi đã hiểu ra chút ít rồi, thảo nào mấy trăm năm nay, bao nhiêu người muốn có được kệ tranh ngọc này, hóa ra không chỉ là vì báu vật này, mà còn vì kho tài nguyên phục quốc khác thường đó!” - Lời của Đường Phong khiến mọi người đều bừng tỉnh.
Trước mắt mọi người bừng lên ánh sáng, gần như chuỗi sự việc này đã lần ra đầu mối, nhưng giáo sư La vẫn chau mày băn khoăn: “Các bạn đừng vui mừng vội, việc này không đơn giản chỉ là tranh giành một đống của cải khổng lồ. ‘Phục quốc chi tư’ thì dễ lý giải, nhưng ‘phục quốc chi nhân’ thì nên lý giải thế nào đây?”
Phục quốc chi nhân! Lẽ nào là một đội quân? Sao lại như vậy được, mọi người đều chìm trong im lặng. Giáo sư La nói tiếp: “Được! Chúng ta tạm thời không để ý tới ‘phục quốc chi nhân’ này nữa, xem tiếp hai câu cuối cùng, ‘phi ngã tử tôn, tất thụ huyết chú’ ”.
Khi mấy từ “tất thụ huyết chú” thốt ra từ miệng giáo sư La, trong lòng tất cả mọi người trong mật thất đều run rẩy, huyết chú! Huyết chú đáng sợ! Hóa ra chính là nội dung khắc trên kệ tranh ngọc này.
“Phi ngã tử tôn, tất thụ huyết chú. Hai câu này tuy đáng sợ, nhưng lại dễ hiểu, đây là lời nguyền rủa lúc đó của người chế tác ra kệ tranh ngọc này, nếu như người nào không phải con cháu Tây Hạ đoạt được kệ tranh ngọc, tìm thấy Hạn Hải Mật Thành, thì sẽ bị huyết chú”. Giáo sư La giải thích xong, lại nhìn mọi người, ai ai cũng nặng trĩu tâm trạng, đến ngay cả Hàn Giang và Triệu Vĩnh vốn không tin quỷ thần mà sắc mặt cũng sầm xuống.
Vẫn là Lương Viện hỏi trước: “Vậy thì chúng ta cũng sẽ gặp phải lời nguyền của huyết chú?”
Giáo sư La cười đáp: “Thực ra, đây phần lớn là cách người xưa dùng để đe dọa người khác”.
“Giáo sư, có lẽ ngài vẫn chưa biết, nửa tháng nay, ngoài Lương Vân Kiệt ra, đã có một số người vì kệ tranh ngọc này mà mất mạng” - Hàn Giang rút cuộc cũng mở miệng.
Lời của Hàn Giang khiến giáo sư La cũng kinh ngạc. Trầm ngâm một hồi, giáo sư La mới khó nhọc nhoẻn một nụ cười: “Mọi người không cần phải lo lắng, dựa vào bao năm nghiên cứu của tôi, sau khi vương triều Tây Hạ bị diệt vong, rất nhiều người Đảng Hạng đã gia nhập đại quân Mông Cổ, người Mông Cổ gọi những người Đảng Hạng này là quân ‘Đường Ngột Thích’, trong đó có một nhánh sau này đã lấy chữ ‘Đường’ làm họ của mình, định cư tại nội địa, do đó mà nói, Đường Phong, cậu xem ra rất có khả năng là hậu duệ của người Đảng Hạng đấy! Vì đã là con cháu của người Đảng Hạng, nên cũng không nhất thiết phải lo lắng huyết chú gì đâu, khà khà”.
“Cái gì? Tôi là hậu duệ của người Đảng Hạng! Giáo sư La, ngài đừng an ủi chúng tôi như thế chứ!” - Mọi người đều biết giáo sư La bịa ra một lý do để an ủi mọi người, nhưng Đường Phong vẫn cứ bóc mẽ ông.
“Được rồi, đừng loanh quanh với cái ‘huyết chú’ nữa, chúng ta khi đã gia nhập lão K, thì sẽ không sợ huyết chú nào cả!” - Lời của Hàn Giang cất lên rất đanh thép và đầy cương quyết.
6
Hàn Giang nhìn khắp mọi người trong phòng một lượt, rồi nghiêm túc nói: “Bóc gỡ bí mật của kệ tranh ngọc vốn rất nguy hiểm, nhưng tôi không tin huyết chú nào hết. Lẽ nào con người mấy trăm năm trước còn có thể sống lại để cản trở chúng ta? Chỉ có những đối thủ tham lam, hung tàn, họ mới thực sự là kẻ thù của chúng ta! Giáo sư La, ngài vẫn chưa giải thích xem câu thứ hai nghĩa là gì?”
Giáo sư La nhìn Hàn Giang, tiếp tục giải thích: “Trước đó tôi đã nói rồi, ban đầu tôi cũng không hiểu câu thứ hai ‘tứ bình hợp nhất’ nghĩa là gì? Nhưng khi tôi đọc và giải thích xong toàn văn, quay lại xem câu thứ hai, hình như bắt đầu lý giải hàm ý của tứ bình hợp nhất. ‘Tứ bình hợp nhất’, tôi suy đoán chắc là có bốn kệ tranh ngọc…”
“Bốn kệ tranh ngọc?” - Giáo sư La nói tới đây, mọi người đều tròn mắt kinh ngạc.
“Đúng vậy, bốn kệ tranh ngọc, chỉ có ghép bốn kệ tranh ngọc lại với nhau, mới có thể biết được vị trí chính xác của Hạn Hải Mật Thành, các bạn xem…”, vừa nói, giáo sư La vừa đeo găng tay trắng vào, lật úp mặt sau kệ tranh ngọc lên, chỉ vào một vài chỗ lõm, nói: “Mọi người hãy nhìn viền những chỗ lõm xuống ở mặt sau, theo như suy đoán của tôi, mặt sau kệ tranh ngọc là một tấm bản đồ được khắc chìm”.
“Bản đồ?”
“Nói chính xác là bản đồ hướng tới Hạn Hải Mật Thành”.
“Liệu đó có phải là một bức bản đồ kho báu?” - Lương Viện hỏi.
Giáo sư La cười đáp: “Cháu muốn nói vậy cũng được, nhưng chỉ có một bức thì không đủ, phải tập hợp bốn kệ tranh ngọc này, ghép chúng lại với nhau, mới có thể nhìn rõ bản đồ hướng tới Hạn Hải Mật Thành”.
“Ồ!” - Lương Viện gật gật đầu.
“Cũng với ý nghĩa như vậy, văn tự Tây Hạ trên mặt chính của kệ tranh ngọc, trừ phần thứ nhất mà chúng ta đã giải mã được ra, phần chữ chính to hơn ở phía dưới, theo tôi suy đoán thì chính là địa điểm mà bốn kệ tranh ngọc được cất giấu, cũng có khả năng vẫn còn một số tin tức liên quan tới Hạn Hải Mật Thành. Dưới đây chúng ta sẽ xem xem phần chữ chính trên kệ tranh ngọc, thông qua bước đầu phiên dịch, phần chính của kệ tranh ngọc dịch sang chữ Hán là ‘Hắc Đầu Thạch Thất hoang thủy vực, xích diện phụ chủng bạch cao hà, trường miên di dược nhân quốc tại bỉ’ ”.
Giáo sư La đọc tới đây rồi im bặt. Lương Viện thúc giục: “Giáo sư, sao ông không đọc tiếp ạ?”
“Hết rồi, ông đã đọc hết rồi.”
“Cái gì? Phần chữ chính chỉ có mấy chữ này thôi sao?”, mọi người vô cùng thất vọng.
“Đúng vậy, phần chữ chính của kệ tranh ngọc này chỉ có 21 chữ”.
Đường Phong nghe mấy câu chữ Tây Hạ mà giáo sư La phiên dịch, bỗng nhiên kinh ngạc: “Mấy… mấy câu này hình như tôi đã được nghe qua, đúng rồi, chính là bảy bức thư đó, thư của viện sỹ Alekseev viết cho Menshikov, ở cuối bức thư đó, Alekseev đột nhiên viết thêm một đoạn, nói rằng năm đó, trước khi Ivanovich Ivanov chết, đã từng nhắc tới mấy câu thơ, chính là mấy câu này”.
“Đúng! Đường Phong, khi tôi phiên dịch ra mấy câu này, tôi cũng đã rất ngạc nhiên, điều đó cho thấy năm đó Ivanovich Ivanov đã từng giải mã được mấy câu thơ này, đáng tiếc sau đó ông đã qua đời, không thể tiếp tục nghiên cứu được nữa”.
“Vậy bài thơ đó nghĩa là gì nhỉ? Có liên quan gì tới kệ tranh ngọc?” - Đường Phong hỏi.
“Câu thơ này thuật lại địa điểm mà chắc là thời kỳ đầu người Đảng Hạng đã từng sinh sống, ‘bạch cao hà’, tôi cho rằng đó là chỉ lưu vực Bạch Hà thuộc tây bắc Tứ Xuyên hiện nay, đây vốn là nơi tụ tập sinh sống của người Đảng Hạng thời kỳ đầu, còn Hắc Đầu Thạch Thất rất có khả năng chính là nơi cất giấu một trong ba kệ tranh ngọc còn lại. Nếu như suy đoán của tôi đều chính xác thì sẽ có ý nghĩa học thuật vô cùng trọng đại đối với việc viết lại toàn bộ lịch sử Tây Hạ.” - Có thể nhận thấy, giáo sư La đã cất cao giọng khi nói tới đây.
“Nói như vậy, tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất chính là mục tiêu tiếp theo của chúng ta rồi!” - Triệu Vĩnh vừa nói vừa đưa ánh mắt thăm dò về phía Hàn Giang.
Mọi người đều nhìn Hàn Giang, nhưng Hàn Giang vẫn im lặng, và Đường Phong lại là người cất lời: “Các vị, không phải tôi nghi ngờ trình độ nghiên cứu của giáo sư La, nhưng chỉ dựa vào chút chứng cứ hiện giờ liền suy đoán là có bốn kệ tranh ngọc, rồi lại nói Hắc Đầu Thạch Thất gì đấy có cất giấu các kệ tranh ngọc khác, thì tôi vẫn chưa thể tin được. Hơn nữa, chúng ta cũng không biết vị trí cụ thể của Hắc Đầu Thạch Thất này ở đâu thì đi tìm thế nào đây?”
Giáo sư La rất bình tĩnh nói: “Tôi đã nói rồi, tất cả những điều này đều chỉ là suy đoán của cá nhân tôi, nhưng cậu hỏi vừa rồi khiến tôi nhớ ra, trên kệ tranh ngọc có một chứng cứ có thể chứng minh cho phán đoán của tôi, có thể các bạn vẫn chưa biết trên kệ tranh ngọc này còn có một chữ Hán”.
“Ồ! Trên kệ tranh ngọc có một chữ Hán, sao tôi không nhìn thấy nhỉ?” - Đường Phong tỏ rõ vẻ nghi ngờ.
Giáo sư La xoay kệ tranh ngọc chếch đi một chút rồi, chỉ lên vách bên cạnh kệ tranh ngọc và nói với mọi người: “Mời các vị xem, ở đây có một chữ Hán rất nhỏ”.
Mọi người quây lại gần hơn, chăm chú quan sát, quả nhiên, tất cả đều nhận ra, trên vách bên cạnh kệ tranh ngọc, có một chữ “Bạch” nho nhỏ.
“Chữ ‘Bạch’ này lại nói lên điều gì đây?” - Đường Phong thắc mắc.
“Nói lên điều gì? Chữ ‘Bạch’ này thực ra là tên của kệ tranh ngọc!”
“Tên? Tên của nó không phải là kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ sao?” - Đường Phong cảm thấy đầu óc càng mụ mị hơn trước.
“Tôi đã từng nói rồi, tôi suy đoán tổng cộng có bốn kệ tranh ngọc, chỉ tới khi nào ghép bốn kệ tranh ngọc này lại với nhau mới có thể hoàn toàn biết được trên kệ tranh ngọc viết những gì, mới có thể nhìn rõ bản đồ phía sau kệ tranh ngọc. Vậy thì, người chế tác lúc tạo ra bốn kệ tranh ngọc này, nhất định đã đánh số hiệu cho từng kệ tranh ngọc. Chữ ‘bạch’ viết bằng chữ Hán này, chính là số hiệu của kệ tranh ngọc này hoặc là tên của nó: tên gọi đầy đủ của kệ tranh ngọc này chắc phải là: kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ tên Bạch”. “Kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ tên Bạch? Vậy những kệ tranh ngọc khác thì đánh số hiệu gì đây?” - Đường Phong hỏi.
“Hãy nghe tôi từ từ nói, mọi người biết rồi đấy, tên gọi ‘Tây Hạ’ này là tên gọi trong sử thi Hán văn, vốn không phải là quốc hiệu, mà người Đảng Hạng tự đặt. Quốc hiệu mà người Đảng Hạng tự đặt, trong giới học thuật có rất nhiều cách nói khác nhau. Rất nhiều học giả đều cho rằng, người Đảng Hạng tự xưng quốc gia của mình là ‘Đại Bạch Cao Quốc’ hoặc ‘Bạch Cao Đại Quốc’. Còn có một cách nói khác, cho rằng người Đảng Hạng tự xưng quốc gia mình là ‘Bạch Cao Đại Hạ Quốc’, tên gọi này là do học giả nước Nga Evgenij Ivanovich Kychanov nghiên cứu Tây Hạ, căn cứ vào cuốn “Đại tàng kinh Tây Hạ văn” được bảo tồn trong viện bảo tàng nhân loại học tại Stockholm Thụy Điển, phiên dịch từng chữ thành chữ Hán mà có được. Bản thân tôi cũng đồng ý hơn với cách nói này. Lại nói về kệ tranh ngọc trước mặt chúng ta, từ những văn tự khắc trên bề mặt có thể phán đoán, kệ tranh ngọc này chắc là kệ đầu tiên trong bốn kệ tranh ngọc, bởi vì, đối chiếu với bốn chữ ‘Bạch, Cao, Đại, Hạ’ mà tôi suy đoán, ba kệ tranh ngọc còn lại sẽ lần lượt là kệ tranh ngọc chữ ‘Cao’, kệ tranh ngọc chữ ‘Đại’, kệ tranh ngọc chữ ‘Hạ’ ”. Suy đoán của giáo sư La khiến mọi người tăng thêm lòng tin, và dường như đã càng lúc càng cận kề hơn với chân tướng của sự việc.
Giáo sư La tiếp tục nói: “Tôi bổ sung thêm một điểm, nếu như chúng ta thực sự tìm ra Hạn Hải Mật Thành, vậy thì ở đó sẽ có gì đây? Kho báu, cái này đương nhiên là có, thậm chí còn có rất nhiều rất nhiều kỳ châu dị bảo, nhưng tôi lại không hứng thú với kho báu. Năm 1908, Coats Ivanov đã phát hiện ra Hắc Thành và đã khai quật với con số lên tới hàng vạn văn vật Tây Hạ. Tôi nghĩ cái Hạn Hải Mật Thành này chắc chắn sẽ to hơn Hắc Thành, còn trọng đại, hoành tráng hơn thì tôi không dám tưởng tượng. Ở đó có thể chôn giấu bao nhiêu di sản văn hóa, làm chấn động thế giới, có lẽ sẽ có một bộ “Đại tàng thư” hoàn chỉnh bằng chữ Tây Hạ, có lẽ sẽ có vô số tượng phật tinh xảo, còn huy hoàng hơn cả Đôn Hoàng vĩ đại, có lẽ còn có rất nhiều những kỳ tích mà chúng ta có nghĩ cũng không nghĩ tới…” - giáo sư La đã không thể giấu được sự hưng phấn, ông đã hoàn toàn say sưa trong Hạn Hải Mật Thành của mình.
Cuối cùng, Hàn Giang đứng thẳng dậy, tổng kết với mọi người: “Tôi cho rằng, suy đoán của giáo sư La là hợp tình hợp lý, mục tiêu tiếp theo của chúng ta là bắt buộc phải vượt mặt đối thủ, tìm đủ bốn kệ tranh ngọc, giải mã bí mật của Hạn Hải Mật Thành”.
“Nhưng, bước tiếp theo chúng ta phải hành động thế nào đây?” - Đường Phong hỏi Hàn Giang.
Hàn Giang không trả lời, giáo sư La lên tiếng: “Muốn tìm kệ tranh ngọc Hắc Đầu Thạch Thất, tôi lại nhớ tới một manh mối. Vào thập niên 20, 30 của thế kỷ trước, nhà thám hiểm người Mỹ Joseph Rock hoạt động sôi nổi tại khu vực phía tây Tứ Xuyên. Rồi vào những năm cuối đời, trong một bài viết của mình, ông đã nhắc tới thông tin sau chuyến khảo sát núi tuyết Minya Konka nằm ở tận cùng tây bắc Tứ Xuyên, do một trận lở bùn đá đáng sợ nên ông đã tới nhầm một đào nguyên ngoại thế. Ở đó non xanh nước biếc, dân chúng hồn hậu, người dân sùng bái đạo Phật, nhưng lại gìn giữ một số lượng lớn phong tục tôn giáo nguyên thủy. Thủ lĩnh địa phương và Lạt ma tiếp đãi Rock vô cùng nhiệt tình, cuối cùng đã dẫn ông ra khỏi đào nguyên bên ngoài nhân gian đó. Rock nhiều năm sinh sống tại Trung Quốc, am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Quốc, ông phát hiện ra phong tục tập quán và tướng mạo của những người sinh sống ở đó rất khác biệt so với cư dân của khu vực phía tây Tứ Xuyên khác. Bởi vậy ông cho rằng, cư dân ở đây là từ nơi khác di cư tới. Tiếp đó Lock đã táo bạo suy đoán: của cư dân ở đó chính là hậu duệ của người Đảng Hạng di cư tới khu vực phía tây Tứ Xuyên, để chạy trốn sự truy sát của thiết kị binh Mông Cổ”.
8
Đường Phong nghiêng đầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi hỏi lại giáo sư La: “Tôi cũng từng nghe qua tại khu vực Xuyên Tây có hậu duệ người Đảng Hạng, nhưng trong trí nhớ của tôi, đó hình như là chỉ khu vực Mộc Nhã. Rock đã từng cho rằng, người Mộc Nhã chính là hậu duệ của người Đảng Hạng, nhưng sau này vì ông tới đào nguyên ngoại thế đó nên đã thay đổi quan điểm. Ông cho rằng cư dân sống ở đó càng giống hậu duệ của người Đảng Hạng hơn. Sau này Rock vẫn muốn đi tìm lại vùng đào nguyên đó, nhưng ông đi khắp hang động vách núi thuộc dải tây bắc Tứ Xuyên mà cũng không tìm thấy vùng đào nguyên ngoại thế này. Vậy là, Rock đã gọi vùng đất đó là ‘Shangri La cuối cùng’, trở thành điều tiếc nuối cuối cùng của cuộc đời ông”.
“Lẽ nào Lock không để lại vật gì đó, như một tấm ảnh chẳng hạn?” - Đường Phong hỏi.
Giáo sư La lắc lắc đầu, “Không có, bản thân ông nói rằng, trước khi ông đi vào vùng đào nguyên ngoại thế đó, ông đã gặp phải một trận lở bùn đá đáng sợ. Ông đã thất lạc những người đồng hành khác, máy ảnh cùng những thiết bị khác mà ông mang theo cũng bị trôi theo bùn đá, bởi vậy không thể lưu lại hình ảnh hay tài liệu gì. Còn về lần đi lạc đó, ông chỉ để lại những dòng ghi chép ngắn gọn. Trong đoạn ghi chép này, Rock còn đặc biệt nhắc tới ngọn núi ở gần đó mà người địa phương sùng bái, và kể lại trong hang núi trên tuyết sơn có cất thánh vật của họ. Điều này hình như có mối liên hệ nào đó với Hắc Đầu Thạch Thất trong truyền thuyết”.
“Ý ngài là Hắc Đầu Thạch Thất rất có khả năng ở đó?” - Lương Viện ngạc nhiên hỏi.
Giáo sư La khẽ gật đầu, đáp: “Khả năng này rất lớn, nếu giống như Rock từng suy đoán, ở đó có hậu duệ của người Đảng Hạng sinh sống, vậy thì, hang núi mà người địa phương thường nói rất có khả năng chính là Hắc Đầu Thạch Thất. Còn bản thân tôi vô cùng ngưỡng mộ Lock, ông là một nhà thám hiểm rất cẩn thận và nghiêm túc, đồng thời cũng là một học giả, tôi nghĩ độ tin cậy trong những lời nói của ông khá cao”.
Đường Phong hình như đã hiểu ra ý của giáo sư La, “Giáo sư La, ý của ông là muốn chúng tôi đi tìm kiếm đào nguyên ngoại thế mà Lock gọi là ‘Shangri La cuối cùng’, tìm kiếm hậu duệ của người Đảng Hạng ở đó, tìm hiểu tình hình liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất?”
“Đúng vậy, hiện nay đây chính là manh mối duy nhất của chúng ta, tôi tin chắc địa danh đó thực sự tồn tại” - Giáo sư La nói rất kiên định.
Đường Phong nhìn nhìn giáo sư La, rồi lại nhìn Hàn Giang, như muốn nghe ý kiến của anh. Hàn Giang trầm tư hồi lâu, lúc này mới cất lời: “Tôi tin tưởng vào phán đoán của giáo sư La, tìm thấy đào nguyên ngoại thế mà Rock đã từng đến, chính là mục tiêu của chúng ta”. Hàn Giang lại nhìn một lượt mọi người đang ngồi bên dưới, đưa ra mệnh lệnh: “Hành động lần này của chúng ta phải tiến hành trong tình trạng bảo mật, do tôi và Đường Phong thực thi, những người khác ở lại đây trấn thủ, khi tôi không có mặt, công việc ở đây do Triệu Vĩnh phụ trách”.
Nói xong, Hàn Giang quay ra bàn giao cho Triệu Vĩnh: “Sau khi tôi đi phải luôn luôn giữ liên lạc với tôi, đồng thời đảm bảo tốt viện trợ…” - Hàn Giang đang nói thì Lương Viện liền ngắt lời anh, hỏi thẳng thừng: “Sao lần hành động này không cho tôi đi theo?”
Hàn Giang quay đầu lại nhìn Lương Viện, nghiêm mặt nói: “Lần hành động này, rất có khả năng chúng ta phải thâm nhập vào hang sâu trên tuyết sơn, có khi còn gặp phải sự công kích của kẻ thù, cô là con gái, sao mà đi được!”
“Vậy thì tôi làm gì?”
“Cô hãy ở đây chăm sóc giáo sư La, đợi tôi trở về.”
Lương Viện vẫn muốn tranh luận nhưng Hàn Giang không buồn để ý đến cô nữa, anh cùng Triệu Vĩnh đi ra khỏi mật thất, chỉ còn lại Lương Viện bĩu môi, đứng ngây trước cửa… Đường Phong thấy bộ dạng Lương Viện như vậy, không nhịn cười, đúng lúc đó thì bị Lương Viện nhìn thấy, cô trợn mắt lườm Đường Phong một cái, nói không chút hào khí: “Anh cứ cười đi, không cho tôi đi, tôi cũng sẽ đi bằng được, hừm! Từ bé đến lớn, chưa có ai từng ngăn cản được bổn cô nương”.
Đường Phong thu lại nụ cười, cũng bắt chước điệu bộ của Hàn Giang, nghiêm mặt nói với Lương Viện: “Tiểu thư Lương, đây không phải là nơi để cô dở thói đỏng đảnh đâu nhé, tôi thấy cô nên ở lại đây chăm sóc giáo sư La đi”.
Lương Viện bị Đường Phong chọc tức như vậy bèn đẩy xe lăn của giáo sư La, thở hổn hển bỏ đi, trong mật thất chỉ còn lại Đường Phong. Đường Phong đứng bên cửa sổ, vén một góc tấm rèm cửa dày cộm lên, phía xa xa, những dãy núi tĩnh mịch, trong lòng Đường Phong bỗng đột nhiên trào lên một dự cảm không lành.
CHƯƠNG 7
Hạ cánh khẩn cấp
1
N
ăm 1227, Hưng Khánh Phủ, thời khắc cuối cùng của vương triều Tây Hạ, bị kị binh Mông Cổ hùng mạnh nhất thế giới bao vây, nên thành quách đã cô độc vài tháng nay. Thành Cát Tư Hãn oai phong ngạo mạn, ngồi chỉnh tề trong lều, kiểm duyệt đội kị binh đã theo ông quét sạch đại lục Âu Á… Đột nhiên, một thiếu niên áo trắng từ trên trời rơi xuống, tay cầm bảo kiếm, rạch nát lều, tấn công Thành Cát Tư Hãn từ cửa lều. Thành Cát Tư Hãn né người tránh một đao, đang định rút dao phản kích thì thiếu niên này lại bồi thêm một kiếm, đâm thẳng giữa ngực Thành Cát Tư Hãn, kiếm bay vun vút như gió, Thành Cát Tư Hãn không còn chỗ nào để nấp, ngã nhào trong những nhát kiếm. Đợi tới khi các chư hầu đứng ngoài lao vào trong lều thì thiếu niên áo trắng đã cúi rạp người, bay ra khỏi lều, cuốn theo bụi trần… Nhìn lại thì Thành Cát Tư Hãn, bá vương của Âu Á đại lục này đã tắt thở. Chính trong thời khắc mà vị vĩ nhân này mê man lìa đời, ông, Bột Nhi Chỉ Cân Thiết Mộc Chân, Hãn vương vĩ đại nhất trên thảo nguyên trong lịch sử từ trước tới nay, với tấm thân tàn, lấy danh nghĩa trường sinh thiên chỉ lên trời thề rằng: dĩ tử chi, dĩ diệt chi, dĩ tuyệt chi! Vậy là, ngày đen tối nhất trong lịch sử vương triều Tây Hạ đã đến…
Vào cái đêm Hưng Khánh Phủ thành bị phá vỡ, kị binh Mông Cổ đã tuân theo lời trăn trối trước khi chết của Thành Cát Tư Hãn, triển khai thảm sát đẫm máu người Đảng Hạng, đàn ông đầu lìa khỏi xác, đàn bà thì bị làm nhục. Thiếu niên áo trắng tay giữ bảo kiếm, chỉ lo giết địch, cậu vừa đánh vừa rút lui, lui vào một mảnh sân to trong một ngôi nhà sâu hun hút, nhưng chỉ thấy xác người la liệt, máu chảy thành sông, hai tên lính Mông Cổ đang định hãm hiếp phụ nữ. Thiếu niên áo trắng xông lên, vung kiếm trong tay kết liễu hai tên lính Mông Cổ đó. Thiếu niên hỏi người phụ nữ: “Đây là phủ đệ của gia đình nào vậy?”
Người phụ nữ không trả lời, mà lôi một tay nải từ trong người ra, đưa cho thiếu niên: “Nhanh! Nhanh đưa tay nải này rời khỏi đây!”
“Trong này có gì vậy?” - Thiếu niên không hiểu ý của người phụ nữ.
Người phụ nữ kìm nén sự đau đớn uất hận, xé nát tâm can hét lên với thiếu niên áo trắng: “Đây là hy vọng của người Đảng Hạng chúng ta, nhanh đem tay nải này rời khỏi đây, đi càng xa càng tốt…”
Nói xong, người phụ nữ lao đầu vào cột chết. Thanh niên áo trắng lau khô nước mắt, khoác tay nải, lao ra cửa. Ngoài đó, trừ xác của người Đảng Hạng ra thì chỉ còn lại đám kị binh Mông Cổ giết người tới đỏ cả mắt. Thiếu niên áo trắng vừa xuất hiện trên phố thì đã đụng ngay một kị binh Mông Cổ, hắn múa đao cong vút lao tới. Thiếu niên thấy vậy, nhưng không hoảng loạn, cầm chắc thanh kiếm, chỉ đợi tên kị binh Mông Cổ lao tới đâm mình. Tên kị binh Mông Cổ tiến lại phía cậu mỗi lúc một gần, thiếu niên đã có thể nhìn thấy máu tươi nhỏ từ lưỡi đao xuống. Chính trong giây phút tên kị binh Mông Cổ lao tới trước mặt, thiếu niên liền né người một cái, một ánh đao lóe sáng trên con phố, tên kị binh Mông Cổ ngã ngựa trong tiếng thét gào. Thiếu niên áo trắng chạy nhanh vài bước, bay lên không trung, nhảy lên con hắc mã của tên kị binh Mông Cổ, xiết mạnh dây cương, ngựa đen quay đầu, phi thẳng ra khỏi cửa nam của Hưng Khánh Phủ. Trước cổng thành, người Mông Cổ bắn tên như mưa, thiếu niên áo trắng rạp người xuống lưng ngựa, lao qua vòng vây.
Hắc mã phi vun vút trên đường, qua thảo nguyên, sa mạc, hoang mạc, vách núi, rừng sâu. Thiếu niên cũng không biết mình đã đi được bao xa, cũng không biết con hắc mã này muốn đưa mình tới đâu, bởi chỉ có tiếng gió vun vút bên tai cậu… Đột nhiên, hắc mã hí lên một tràng dài, hai chân trước chồm lên cao, rồi khựng lại không chịu bước tiếp. Thiếu niên áo trắng kinh ngạc, tập trung quan sát, lúc này mới phát hiện ra phía trước chính là dãy núi tuyết trùng trùng điệp điệp nguy nga đang chặn đứng đường đi của mình! Còn phía sau, cậu đã nghe thấy tiếng vó ngựa của kị binh truy đuổi. Quay ngựa đại chiến một trận với truy binh, hay là vượt qua núi tuyết? Truy binh phía sau càng lúc càng gần, núi tuyết phía trước cao vút chạm mây, đi đâu về đâu? Đây thực là một vùng đất chết…
2
“Vùng đất chết! Tôi phải làm thế nào? Làm thế nào đây?” - Đường Phong sau khi hét lên một tiếng thất thanh, rút cuộc đã tỉnh dậy, anh phát hiện xung quanh chẳng có truy bình nào cả, cũng chẳng có tuyết sơn, chỉ có một đám hành khách đang nhìn mình bằng ánh mắt kinh ngạc.
“Không có gì, ban nãy nằm mơ thấy ác mộng.” - Nói xong, Đường Phong lại đổ người lên lưng ghế. Anh lau vệt mồ hôi trên trán, quay mặt đi, nhìn thấy tầng mây bên ngoài cửa máy bay, cuối cùng anh cũng nhớ ra, mình đang trên chuyến bay bay tới Thành Đô.
Mục tiêu hành động lần này của anh và Hàn Giang là tới vùng phía tây Tứ Xuyên, Cam Nam và khu vực Đông bắc Thanh Hải để tìm các kệ tranh ngọc khác. Nhưng khu vực này vắt ngang ba tỉnh Tứ Xuyên, Cam Túc, Thanh Hải, nối liền mấy chục ki lô mét vuông của mười mấy dân tộc Hán, Tạng, Khương, Hồi… Trên diện tích lãnh thổ rộng lớn như vậy, trong môi trường phức tạp như vậy, mà tìm kiếm một kệ tranh ngọc bé xíu, thì cũng đủ tưởng tượng ra sẽ khó khăn đến mức nào. Nhưng hiện giờ họ chỉ có một manh mối duy nhất, chính là “Hắc Đầu Thạch Thất” mà giáo sư La đã suy đoán ra từ những ghi chép ngắn gọn của nhà thám hiểm Rock.
Trong hai tháng qua, Đường Phong đã phải chịu đựng sự huấn luyện quá tải: hàng ngày dậy từ lúc 6 giờ sáng, cùng Triệu Vĩnh đeo đồ nặng chạy năm cây số, ăn sáng xong, vẫn còn cả một đống bài tập thể lực, tiếp theo đó Hàn Giang sẽ giới thiệu giảng giải cho Đường Phong về nguyên lý của các loại súng máy; ăn xong bữa trưa thì thực hành bắn súng; ba giờ chiều, Triệu Vĩnh giảng dạy dã ngoại sinh tồn, bao gồm cả việc làm thế nào để tồn tại trong điều kiện hoang dã không có thực phẩm và thuốc men. Nhưng điều khổ sở nhất mà anh phải làm là học cách ăn thịt sống. Mùi vị của thức ăn sống nơi hoang dã đã khiến Đường Phong thực sự không dám nếm thử. Triệu Vĩnh từng bắt ép Đường Phong ăn nguyên cả một con rắn sống, và chính vì con rắn này mà Đường Phong đã nôn mửa cả ngày. Triệu Vĩnh đành phải bó tay từ bỏ ý định huấn luyện Đường Phong trở thành người nhái hải quân lục chiến.
Từng đấy vẫn chưa thấm vào đâu. Buổi sáng, Đường Phong còn phải theo giáo sư La học văn tự Tây Hạ. Đối mặt với những văn tự đã biến mất 700 năm nay, Đường Phong vốn cho rằng mình có chút tài năng ngôn ngữ bẩm sinh nhưng giờ đều không có tác dụng gì cả. Hai tháng dạy như nhồi vịt với cường độ cao, Đường Phong cũng chỉ nắm được một vài từ vựng thường dùng. Chính sau hai tháng huấn luyện đặc biệt này, Đường Phong và Hàn Giang đã cùng nhau đáp chuyến bay từ Bắc Kinh tới Thành Đô.
Trước khi lên máy bay, Đường Phong đã thắc mắc với Hàn Giang: “Sao lần này chỉ có hai chúng ta, khu vực rộng lớn như vậy thì phải tìm tới bao giờ. Chúng ta hoàn toàn có thể điều động cả một đội quân để cùng tìm kiếm kệ tranh ngọc mà? Tại sao chúng ta phải đi máy bay dân dụng, sử dụng máy bay quân đội không phải càng an toàn và tiện lợi hay sao?”
Hàn Giang lắc lắc đầu, than thở: “Tiểu tử, cậu dù sao cũng không hợp với cái ngành này, thiếu nhiệt lắm! Cậu nghĩ xem, từ hành động thời gian trước của chúng ta cho thấy, đối thủ của chúng ta thực lực không hề tầm thường, nên phần lớn hành động của chúng ta đều không lọt qua được mắt chúng. Bởi vậy, hai chúng ta sẽ giống như những khách thông thường đến du lịch, đó mới là cách tìm kiếm kệ tranh ngọc tốt nhất; vì động tĩnh càng ít chúng ta càng an toàn. Hơn nữa, thực tế có kệ tranh ngọc hay không thì vẫn chưa dám khẳng định, chỉ là suy đoán của giáo sư La, cấp trên sẽ không phê chuẩn điều động nhiều nhân lực như vậy đâu”.
“Bởi vậy lần này chúng ta đi, ngoài một vài trang bị cho du lịch lữ hành thì không mang theo thứ gì khác cả. Bắt tôi tập bắn súng mãi như thế, mà kết quả lần này cũng không cho tôi mang súng theo”.
Hàn Giang nhìn Đường Phong một cái, cười nói: “Đâu chỉ mỗi cậu không mang súng, tôi cũng có mang theo đâu”.
“Cái gì? Anh không mang súng theo!” - Đường Phong kinh ngạc, “Vậy ngộ nhỡ chúng ta gặp phải bọn tội phạm thì làm thế nào?”
“Đường Phong, cậu phải biết rằng, đặc công giỏi thật sự không cần phải mang theo bất cứ thứ vũ khí gì. Khi nào cần vũ khí, bất cứ thứ gì cũng có thể là vũ khí của chúng ta, kể cả một con dao gọt hoa quả. Hơn nữa cậu cũng có thể dùng vũ khí của kẻ địch. Bởi vậy nhân viên đặc công chúng tôi khi tập luyện không chỉ biết sử dụng mỗi loại súng máy chuyên dụng mà tất cả các loại súng của các quốc gia bọn tôi đều phải biết dùng”.
“Thảo nào anh và Triệu Vĩnh đều nắm rõ các loại súng như lòng bàn tay”.
“Thực tế lần này hành động cậu không cần phải quá lo lắng như vậy đâu, dù sao chúng ta cũng ở trong nước, đám tội phạm đó cũng không đến mức quá ngạo mạn. Hơn nữa, lúc nào ta cũng có thể yêu cầu sự chi viện của công an địa phương và Cơ quan an ninh quốc gia, bao gồm cả chi viện vũ khí. Bởi vậy lần này chúng ta sẽ đến đó giống như những người yêu thích du lịch lữ hành thực sự, nào cậu cứ thư giãn chút đi”.
“Mong là như thế, nếu như lần này quả thật là một chuyến du lịch vui vẻ thì tốt biết mấy!”
3
Đường Phong nhìn chằm chằm hồi lâu làm mây khói bên ngoài cửa sổ máy bay, đột nhiên anh quay mặt lại, khẽ ca thán: “Quả thực thời điểm này không phải là lúc thời tiết đẹp để đi du lịch, tháng mười mà lại tới vùng núi cao...”
Hàn Giang trợn mắt, nói nhỏ: “Đúng vậy, hiện giờ quả thực không phải là mùa đẹp nhất để đi du lịch, nhưng may mà lúc này vẫn chưa tới mùa đông, thế nên chúng ta phải đến đó trước khi mùa đông tới, hoàn thành…”
Hàn Giang vẫn chưa nói hết câu đã liền im bặt, Đường Phong ngạc nhiên quay lại nhìn Hàn Giang, chỉ thấy Hàn Giang đang nhìn chằm chằm về hàng ghế phía trước bên trái anh. “Sao thế?” - Đường Phong tò mò hỏi.
Đường Phong nhìn lên hàng ghế trước mặt, đó là hai người nước ngoài. Một ông già tóc bạc xám, nhìn tuổi tác cũng ngoài 60 tuổi, có lẽ cũng phải tới 70 tuổi, nhưng vai rộng lưng thẳng, thần thái vẫn rất trẻ trung. Người còn lại là một phụ nữ tóc ngắn màu nâu; người phụ nữ này khoảng ngoài 30 tuổi, phong thái duyên dáng, đang tập trung xem tạp chí.
“Sao thế? Anh phải lòng mỹ nữ đó rồi sao?” - Đường Phong nửa đùa nửa thật.
“Nói thật với cậu nhé, tôi thấy hai người nước ngoài đó không giống người bình thường?”
“Có gì đặc biệt? Không phải là hai người tới Trung Quốc du lịch sao?”
“Giống như ban nãy cậu nói, hiện tại không phải là mùa du lịch.”
“Có khi người ta không đến vùng núi cao như chúng ta, mà chỉ loanh quanh gần Tứ Xuyên, Thanh Thành Sơn, Lạc Sơn Đại Phật chẳng hạn!”
“Dù thế nào thì tôi cũng thấy hai người này không đơn giản, cậu phải tin vào trực giác của tôi”.
Hàn Giang và Đường Phong thì thầm to nhỏ, hình như đã đánh động tới mỹ nữ người nước ngoài ở hàng ghế trên. Người đẹp mặt vô cảm quay lại mắt đối mắt với Hàn Giang. Hàn Giang vừa nhìn thấy ánh mắt của người đẹp liền hấp tấp thu lại ánh nhìn. Anh không hiểu tại sao mình lại như vậy, ánh mắt luôn tự tin như chim ưng từng khiến anh tự hào, nhưng hôm nay lại… Hàn Giang quay đầu ra hướng khác, đột nhiên, một hình dáng quen thuộc xuất hiện trong mắt anh. “Lương Viện?!” - Hàn Giang giật mình kêu lên.
Nghe Hàn Giang thảng thốt, Đường Phong cũng nhảy dựng lên, nhìn theo ánh mắt của Hàn Giang. Quả nhiên, Lương Viện chậm rãi từ đầu lối đi tiến lại. Đường Phong rõ ràng không dám tin vào mắt mình, anh ra sức dụi mắt, không sai, chính là Lương Viện. Lúc này, Lương Viện ăn vận giống như một khách du lịch, khoác chiếc ba lô to màu xanh bước tới trước mặt Hàn Giang và Đường Phong, chưa kịp để hai người mở miệng, Lương Viện đã cười với Đường Phong: “Sao thế? Đường Phong, tôi nói rồi, trên thế giới này không ai có thể ngăn cản được bổn cô nương mà”.
“Cô… sao cô lại lên được đây?” - Đường Phong lắp ba lắp bắp hỏi.
“Tôi đã lên đây như thế này đây!” - Lương Viện đầy vẻ ngây thơ nói.
Đường Phong và Hàn Giang bốn mắt nhìn nhau, đối diện với cô tiểu thư Lương Viện này, hai người họ cũng hết cách. Hàn Giang nhìn Lương Viện gỡ ba lô xuống, hỏi: “Bên trong dày cồm cộm, đựng cái gì vậy?”
“Đều là những vật thiết yếu, còn có một vật quan trọng...” - Lương Viện đáp.
“Vật quan trọng?”
“Kệ tranh ngọc” - Lương Viện nói nhỏ.
“Cái gì? Sao cô lại đem kệ…” - Đường Phong ngạc nhiên tới nỗi hét thành tiếng, may mà bị Hàn Giang bịt ngay miệng lại mới không bật ra ngoài.
“Sao cô lại đem kệ tranh ngọc theo làm gì chứ?” - Đường Phong hạ giọng khẽ chất vấn Lương Viện.
“Ờ, kệ tranh ngọc là do ông nội tôi mua về, tôi thích thì mang theo, ảnh hưởng gì tới anh” - Lương Viện hùng hồn trả lời Đường Phong.
Đường Phong chán nản lắc lắc đầu, đáp: “Kệ tranh ngọc là của gia đình cô, nhưng hiện giờ nó đã không thuộc về riêng gia đình cô nữa, bởi vì nó còn mang những giá trị lớn hơn, giá trị thật sự của nó không chỉ có mười triệu tệ”.
“Được rồi! Được rồi! Đùa với anh thôi, xem anh căng thẳng chưa kìa, kệ tranh ngọc là tôi đem theo, nhưng đấy không phải là ý của tôi, tôi chẳng to gan thế đâu, tôi hiểu tầm quan trọng của kệ tranh ngọc. Là giáo sư La bảo tôi đem theo, giáo sư La nói rằng các anh trên đường thám hiểm, rất có khả năng cần tới kệ tranh ngọc. Cũng không phải tôi lén lút chạy tới đây mà là do giáo sư La bảo tôi đưa kệ tranh ngọc theo, không biết chừng lại thật sự có giá trị đấy!”
“Giáo sư La này, nhất định là trúng kế của cô nhóc lừa đảo này rồi!” - Hàn Giang cười, nói.
“Còn lâu ý! Giáo sư La chẳng ngăn cản gì tôi đến đây cả!” - Lương Viện vẫn muốn tranh cãi.
Đầu óc Đường Phong lúc này lại căng lên như dây đàn, chuyến đi này vẫn còn chưa biết sẽ gặp phải gian khó hiểm nguy gì, giờ lại thêm vướng chân, thật là… Đường Phong vừa nghĩ tới đây, trong lòng liền rối như tơ vò, nhưng khi anh nhìn thấy khuôn mặt ngây thơ đáng yêu của Lương Viện, lại không nỡ nói thêm điều gì.
Hàn Giang cũng trong bộ dạng bó tay, anh nhìn Đường Phong lắc lắc đầu, không nói thêm gì nữa, rồi từ từ, anh nhắm mắt lại. Cũng không biết là qua bao lâu sau, đột nhiên, máy bay bỗng lắc lư dữ dội, Hàn Giang lập tức mở trừng mắt, anh nhìn Đường Phong và Lương Viện bên cạnh đang hốt hoảng, rồi lại nhìn nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay: một động cơ bên trái máy bay đã không biết biến đâu mất, một động cơ khác cũng đã ngừng hoạt động, cánh trái máy bay rạch nát nền trời xanh, kéo theo vệt khói đen dài tít tắp…
4
“Chuyện gì thế này?” - Đường Phong hoảng hốt hỏi Hàn Giang.
“Máy bay xảy ra sự cố rồi!” - Hàn Giang lo lắng đáp.
“Xảy ra chuyện? Sự cố kỹ thuật? Hay là…?” - Đường Phong quá đỗi kinh ngạc.
“Không biết! Đừng hỏi tôi, tôi không phải là phi công!”
Trong khoang máy bay, tình hình bỗng trở nên hỗn loạn, cho dù là tiếp viên hàng không cố trấn tĩnh, duy trì nét mặt tươi cười đến thế nào đi chăng nữa, nhưng cũng không thể an ủi những hành khách đang hốt hoảng thất kinh, bởi tất cả mọi người đều cảm nhận được máy bay đang vù vù lao xuống. Hàn Giang di chuyển ánh mắt về phía cửa buồng lái, không biết phi công trong đó có thể ứng phó nổi với tình huống này hay không. Anh đột nhiên muốn manh động xông vào buồng lái. Anh tin rằng vào thời khắc này, trong số tất cả những người ở đây, mình chính là người có kinh nghiệm ứng phó với tình hình nguy hiểm này nhất.
“Chúng ta phải làm sao đây?” - Rõ ràng là Đường Phong chưa từng gặp phải tình huống này bao giờ.
“Không thể ngồi nhìn máy bay rơi xuống thế này được, tôi nghĩ chúng ta có thể làm điều gì đó.” - Hàn Giang vừa nói, vừa đứng dậy khỏi ghế, bước nhanh tới buồng lái. Đường Phong cũng lắc lắc lư lư đứng dậy, đi theo Hàn Giang vào trong đó.
Máy bay vẫn đang lao xuống với tốc độ chóng mặt, Hàn Giang đưa thẻ cho tiếp viên đứng ngoài cửa buồng lái, sau đó nói: “Để tôi thử xem sao, biết đâu lại hữu dụng”. Vậy là, tiếp viên dẫn Hàn Giang và Đường Phong vào buồng lái, trong buồng lái, cơ trưởng và phi công đang rối tung cả lên, thử mọi cách để khống chế máy bay.
…
Máy bay đã mất liên lạc với trung tâm chỉ huy, mặc cho cơ trưởng kêu gọi thế nào đi chăng nữa cũng không có bất cứ tín hiệu gì. Máy bay hiện giờ chỉ còn một bên động cơ đang hoạt động, nên không ngừng lao xuống vun vút. Vẻ mặt của cơ trưởng và phi công vô cùng lo lắng, Hàn Giang nói với cơ trưởng: “Tôi đã từng lái máy bay, có lẽ tôi có thể giúp các anh”.
Hàn Giang vẫn giữ được sự bình tĩnh trên nét mặt, nhưng sau khi anh ngồi lên vị trí cơ trưởng, chẳng mấy chốc anh đã hiểu ra rằng chút kinh nghiệm lái máy bay của mình cơ bản không đủ để ứng phó với tình huống đặc biệt này. Mấy phút sau, trên trán Hàn Giang đã đọng vệt mồ hôi…
“Để tôi thử xem sao!” - Sau lưng Hàn Giang bỗng vang lên một giọng nói lơ lớ, Hàn Giang, Đường Phong, cơ trưởng và phi công cùng nhau quay đầu lại nhìn: trước cửa buồng lái là ông lão người nước ngoài tóc bạc xám, phía sau ông lão còn có một phụ nữ tóc ngắn màu nâu. Hàn Giang và Đường Phong nhận ra ngay hai người nước ngoài ban nãy trong khoang máy bay. Hàn Giang và ông lão đó bốn mắt nhìn nhau, chỉ thấy ông lão trước mặt mũi cao mắt sâu, tóc bạc xám, xem ra tuổi tác không thể dưới 70, nhưng hai mắt lại rực lên như hai ngọn đuốc, cơ thể tráng kiện rắn rỏi. Một câu tiếng Trung lơ lớ, không giống thỉnh cầu, mà giống mệnh lệnh không dễ hoài nghi hơn. “Người này quả nhiên không hề tầm thường!” - Hàn Giang thêm bước nữa chứng thực cho phán đoán trước đây của bản thân.
Khi Hàn Giang vẫn còn đang chần chừ, ông lão người nước ngoài đó liền móc ra hộ chiếu của mình, giới thiệu với mọi người: “Trước đây khi phục vụ trong quân đội, tôi lái máy bay và cũng từng gặp phải sự cố này, các anh hãy để tôi thử xem sao”.
Đường Phong chú ý tới thông tin trên hộ chiếu của ông lão nước ngoài này: “Ivan Petrovich Makarov, người Nga…”
Hàn Giang quệt vệt mồ hôi trên trán, nhìn Makarov, anh đang khẩn trương phán đoán, giao máy bay cho một người nước ngoài khống chế?... Tuy bản thân từng được học qua kỹ năng lái máy bay, nhưng chưa từng gặp phải tình huống như thế này, anh quay lại nhìn cơ trưởng, vị cơ trưởng trẻ tuổi này e rằng cũng chưa từng gặp phải tình huống nào nguy hiểm như vậy, xem ra đành phải mạo hiểm thôi. Nghĩ tới đây, Hàn Giang hạ quyết tâm, nhường vị trí cơ trưởng và quay sang ông lão Makarov nước ngoài này, nói: “Tiếp theo phải trông cậy vào ngài rồi!”
Hàn Giang ngồi vào vị trí phụ lái, quay lại nói với mọi người: “Các anh hãy ra ngoài trấn an hành khách để yên tâm trước đã, chúng ta sẽ không sao cả”.
Đường Phong cùng mọi người lui hết ra khỏi buồng lái, trong buồng lái chỉ còn lại Makarov và Hàn Giang. Lúc này, chiếc máy bay trong trạng thái mất kiểm soát, đã hoàn toàn xa rời đường bay, rơi chếch xuống hướng tây bắc…
Makarov sau khi tìm hiểu độ cao và các loại tham số của máy bay, quả quyết nói: “Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, không có sân bay để có thể hạ cánh, đành phải tìm chỗ nào đó hạ cánh gấp vậy”.
“Tìm chỗ nào đó? Ông có biết chúng ta hiện đang ở đâu không?” - Hàn Giang cảm thấy ý kiến của Makarov hoàn toàn không ăn khớp với thực tế.
Makarov nhìn Hàn Giang một cái rồi đáp: “Đương nhiên là tôi biết, phía dưới chúng ta là núi non trùng điệp, ở đây núi non dựng đứng hiểm trở, vực sâu thăm thẳm, hang động ngang dọc, thực tế rất khó tìm thấy một vùng đất bằng phẳng thích hợp để hạ cánh, nhưng dùng một câu tục ngữ của người Trung Quốc các bạn là: Thế gian không có con đường cùng ”.
“Vậy ông có cách gì?”
“Phải khống chế được máy bay trước đã, bay về hướng tây bắc, ở đó chắc sẽ có chỗ thích hợp để hạ cánh”.
Hàn Giang lắc lắc đầu, cũng chỉ thế thôi, một phút, hai phút, ba phút… năm phút sau, cuối cùng Makarov và Hàn Giang đã lại khống chế chiếc máy bay như một kỳ tích, tốc độ rơi xuống của máy bay rõ ràng đang giảm, nhưng họ biết máy bay không thể chống cự được quá lâu, họ bắt buộc phải lập tức tìm thấy vùng đất thích hợp để hạ cánh.
5
Máy bay tiếp tục rơi xuống, 3800 mét, 3700 mét, 3600 mét, 3500 mét, 3400 mét… máy bay xuyên qua tầng mây, đột nhiên, Hàn Giang trợn trừng mắt, nói: “Trước mặt có một ngọn núi, mau, mau kéo lên, kéo lên!”
Makarov gần như cùng lúc cũng nhìn thấy đỉnh núi phía trước, ông kéo mạnh cần điều khiển, một bên cánh máy bay và quạt đuôi máy bay điều chỉnh phương hướng, thân máy bay lệch sang bên trái, gần như áp vào sườn núi, vụt qua mỏm núi.
Hàn Giang thở phào nhẹ nhõm, nói: “Ban nãy thật là nguy hiểm!”.
Makarov không nói gì, vẫn vô cùng bình tĩnh, nhưng, Hàn Giang đã nhìn thấy vệt mồ hôi ướt đẫm trên trán ông. Đột nhiên, Makarov cười khan hai tiếng kỳ dị, Hàn Giang không hiểu: “Ông cười gì vậy?”
“Tôi đã nói rồi, thế gian không có con đường cùng, cậu xem trước mặt là cái gì?”
Hàn Giang nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay – đồng cỏ trên núi cao! Anh lập tức hiểu ra ý của Makarov: “Ông chuẩn bị hạ cánh xuống đây?”
“Còn có chỗ nào thích hợp hơn chỗ này sao?” - Makarov vặn lại.
Hàn Giang gật đầu: “Đúng vậy, ở đây có thể hạ cánh, chỉ có điều…”
“Gì vậy?”
“Chỉ có điều… ông có để ý thấy không, từ góc độ của chúng ta nhìn ra, đồng cỏ trên núi cao này phía trước thì cao phía sau thì thấp, đằng sau lại toàn là bụi rậm, phía sau nữa lại là rừng rậm nguyên sơ. Nếu như chúng ta hạ cánh xuống đồng cỏ, rất có khả năng sẽ lao vào trong rừng rậm, nếu như không khống chế được, đâm vào cây to, hậu quả sẽ…”
“Hiện giờ không quan tâm được nhiều như thế đâu, nhiên liệu sắp hết rồi, đành phải mạo hiểm thôi, anh đi gọi cơ trưởng và mọi người giúp đỡ hành khách thực hiện phương án phòng hộ, ba phút sau, bắt đầu hạ cánh”.
Cơ trưởng dẫn tổ tiếp viên giúp đỡ hành khách chuẩn bị các phương pháp phòng hộ, mọi thứ chuẩn bị xong xuôi, Makarov dán mắt về đồng cỏ trên núi cao phía trước, ông quyết định không thả bánh xe máy bay xuống mà, trực tiếp hạ cánh bằng bụng máy bay. Làm như vậy, có hai nguyên nhân: một là bởi vì bánh xe bên trái đã bị hỏng, chỉ dùng hai bánh xe còn lại hạ cánh thì máy bay sẽ không vững; hai là để tăng độ ma sát, cố gắng hết sức khẩn cấp hạ cánh thành công trong cự ly ngắn, tránh cho máy bay lao vào rừng rậm.
Hàn Giang tính toán qua một chút, cự ly hạ cánh thích hợp của đồng cỏ chỉ chưa đầy 200 mét, tiếp theo đó là dãy bụi rậm hơn 100 mét, sau đó là đến rừng rậm rồi. Makarov điều khiển máy bay hạ cánh chuẩn xác trên đồng cỏ địa hình đổ dốc này, “Xẹt…..két… két!” bụng máy bay cọ sát mạnh vào đồng cỏ, may mà trên đồng cỏ có chút ẩm ướt , tránh khỏi ma sát kịch liệt dẫn đến khả năng tóe lửa.
Nhưng, đồng cỏ vẫn quá trơn, mà chỉ dài không tới 200 mét nên cơ bản không thể khiến máy bay dừng lại được. Máy bay lao thẳng vào bụi rậm, cát bụi, đất đá, củi khô, cành cây cùng lúc cuộn cả lại. Những bụi rậm thấp lè tè đã làm giảm tốc độ của máy bay, nhưng đồng thời cũng cọ vào bụng máy bay làm tóe lửa. Cánh bên trái máy bay nặng trình trịch, một tiếng nổ lớn phát ra, cánh bên trái đứt lìa, thân máy bay đột nhiên nghiêng hẳn sang bên trái, hành khách trong khoang máy bị lắc mạnh văng ra tứ phía, tiếng kêu thét thất thanh, tiếng gào khóc rền rĩ vang lên.
Trong buồng lái, Hàn Giang đã làm theo yêu cầu của Makarov bò rạp người xuống. Makarov ngồi trên ghế cơ trưởng vẫn ra sức khống chế máy bay, hy vọng máy bay không lao vào rừng rậm. Tốc độ của máy bay càng lúc càng chậm lại, nhưng cách rừng rậm cũng càng lúc càng gần rồi. Makarov trợn trừng mắt, con ngươi của ông đang mở to hết cỡ, ông đã có thể nhìn rõ cây đại thụ chọc trời ngay trước mặt…
“Rầm…!” - Lại thêm một tiếng nổ lớn, máy bay vẫn không tránh khỏi việc đâm sầm vào cây đại thụ đó, may mà tốc độ lúc này đã chậm lại rất nhiều, sau khi đâm vào thân cây đại thụ, cuối cùng máy bay đã dừng lại. Chính trong giây phút máy bay đâm vào cây đại thụ, một cành cây khô có đường kính to bằng miệng bát, đã đâm vỡ cửa kính máy bay, chọc thẳng vào Makarov, Makarov không kịp né người, bị cành cây khô rạch rách vai, máu chảy đầm đìa.
Mọi thứ đã yên tĩnh trở lại, tiếng động cơ máy, tiếng ma sát giữa bụng máy bay và mặt đất, tiếng gào thét thất kinh, lúc này đều đã biến mất, trong khu rừng rậm nguyên sơ hoang vu này, chỉ còn lại tiếng khóc lóc và tiếng rên rỉ vọng ra từ khoang máy bay.
Hàn Giang lảo đảo nhoài người dậy, cánh tay trái của anh bị một vết rách, nhưng anh không buồn để ý tới điều đó mà lao ngay tới bên cạnh Makarov, hô lên: “Ông không sao chứ?”.
Makarov khó nhọc mở to mắt, cố nở một nụ cười: “Tôi vẫn sống” - nói xong ông lại ngất lịm đi.
Hàn Giang thở phào một cái, nhưng ngay lập tức anh phát hiện ra máu vẫn đang tuôn xối xả trên vai của Makarov, anh nói: “Ông đừng cử động, để tôi ra ngoài tìm thuốc cho ông”.
Cú va đập mạnh khiến cho cửa khoang buồng lái đã hoàn toàn bị biến dạng, Hàn Giang mất rất nhiều sức lực, khó khăn lắm mới đạp được cửa ra ngoài. Mọi người trong khoang hành khách đổ nghiêng đổ ngả, người thì đang rên rỉ, người thì đang khóc lóc, chỉ có Đường Phong và tổ tiếp viên, và cả người đẹp cùng đi với Makarov là đã bò dậy. Hàn Giang tìm một chiếc rìu, bổ mạnh vào cửa máy bay, cửa bật ra, một luồng không khí tươi mới lạnh buốt xuyên thấu vào khoang máy bay, đem lại tia hy vọng mới cho tất cả mọi người đang tuyệt vọng trước cái chết.
Hàn Giang là người đầu tiên bò ra khỏi khoang máy bay, trước mắt anh là một vùng rừng rậm âm u. Đối diện với vùng rừng rậm tối đen này, Hàn Giang không biết điều gì đang chờ đợi họ phía trước. Hy vọng được sống sót trở về hay là lại tiếp diễn những ác mộng đáng sợ đây?
6
Tất cả hành khách đều được đưa ra khỏi máy bay, cơ trưởng đếm số người, cộng thêm cả tổ phi công và tiếp viên, tổng cộng có 48 người, không ai thiệt mạng. Đây cũng có thể coi là một kỳ tích không lớn cũng không nhỏ trong lịch sử ngành hàng không rồi, nhưng có mười mấy hành khách bị thương cũng nghiêm trọng, nếu không kịp thời cứu chữa khả năng sẽ nguy hiểm đến tính mạng.
Dưới sự giúp đỡ của Đường Phong, Hàn Giang và Lương Viện, người đẹp tóc nâu dìu Makarov đang hôn mê ra khỏi buồng máy, đặt ông dưới một gốc thông khuất gió. Makarov mở mắt, nhìn Hàn Giang và Đường Phong, rồi lại quay sang người đẹp tóc nâu, miệng lắp bắp: “Yelena, cha không sao đâu, con đừng quá đau buồn”.
Yelena nghe những lời Makarov nói, gật gật đầu, quệt lệ nơi khóe mắt, quay lại máy bay, lấy thuốc và băng gạc ra lau rửa vết thương cho Makarov, sau đó lại băng bó lại. Hàn Giang và Đường Phong cũng túc trực bên cạnh Makarov, nhặt nhạnh cành cây, nhóm một đống lửa, nhiệt độ trên núi chỉ khoảng 4 đến 5 độ, nên chỉ có đống lửa mới có thể đem lại chút hơi ấm cho ông ấy. Chờ Yelena băng bó vết thương cho Makarov xong, Hàn Giang thử hỏi cô ta bằng tiếng Anh: “Cô là bác sỹ à?”.
Yelena nhìn Hàn Giang, không trả lời, Hàn Giang tưởng rằng cô gái xinh đẹp lạnh lùng này không biết tiếng Anh, vậy là anh quay sang Đường Phong. Đường Phong hiểu ý, hỏi lại lần nữa bằng tiếng Pháp.
Đường Phong hỏi xong, vẫn chưa thấy Yelena đáp lại, đang định mở miệng hỏi thêm lần nữa thì Yelena liền trả lời bằng thứ tiếng Hán rất trôi chảy: “Đúng vậy, tôi là bác sỹ”.
Hàn Giang và Đường Phong vô cùng bất ngờ, gần như cùng lúc nói: “Cô nói tiếng Trung giỏi vậy sao?”
“Hai anh làm gì vậy?” - Yalena hỏi lại.
Hàn Giang cướp lời tự mình giới thiệu trước: “Tôi là Hàn Giang, nghề nghiệp cảnh sát”. Sau đó chỉ Đường Phong: “Anh ấy là Đường Phong, là giảng viên đại học, bạn của tôi, hai chúng tôi tới Tứ Xuyên du lịch”.
“Ồ? Cảnh sát biết lái máy bay? Cảnh sát Trung Quốc các anh đều giỏi vậy sao?” - Yelena có vẻ không hề tin vào lời giới thiệu của Hàn Giang.
Hàn Giang thầm tự trách mình, bình thường vốn đầu óc phản ứng nhanh nhạy, nhưng dường như trước người đẹp này anh lại bị mất hồn, sao lại nói làm cảnh sát chứ, ban nãy cứ nói là phi công của công ty hàng không thì có hơn không. Giờ đã đâm lao thì đành phải theo lao, anh cố gắng giải thích: “Trước đây tôi từng phục vụ trong quân đội”.
“Không quân?”
“Không! Hải quân.”
“Hải quân không chiến ư?”
“Ừm! đúng vậy.” - Hàn Giang càng giải thích càng không bình thường. Anh bắt đầu nghi ngờ đầu óc của mình, hay là lúc hạ cánh đập vào đâu nên có vấn đề nhỉ?
Hàn Giang ra sức che giấu thân phận của mình, anh đứng thẳng đơ trước mặt Yelena, giống như đứng trước kẻ địch, sợ rằng người đẹp ngoại quốc đứng trước mặt anh lại đặt ra câu hỏi moi móc gì đó, vạch trần thân phận thật sự của anh.
“Cởi áo ra đi” - Yelena đột nhiên ra lệnh.
“Cái gì?” - Hàn Giang giật mình không tin vào tai mình.
“Tôi bảo anh cởi áo khoác ra, để tôi băng lại vết thương cho”.
Hàn Giang lúc này mới tỉnh lại, anh cởi áo khoác, để lộ ra cơ bắp rắn chắc, rồi ngồi yên cho Yelena sát trùng, lau rửa, băng bó vết thương trên cánh tay trái. Đường Phong đứng bên cạnh cười đầy ẩn ý, Hàn Giang nghe vậy ngoái đầu, hậm hực lườm Đường Phong một cái.
7
“Cô Yelena, tôi mạo muội xin hỏi cô là người nước nào vậy?” - Hàn Giang mở lời.
Lúc này, Yelena đã băng bó vết thương cho Hàn Giang xong, nghe Hàn Giang hỏi, cô kiêu ngạo nhìn thẳng vào anh, hỏi ngược lại: “Ngài cảnh sát tiên sinh, ngài muốn kiểm tra hộ chiếu của tôi sao?”
“Không…” - không để Hàn Giang nói hết, Yelena liền lôi cuốn hộ chiếu trong chiếc túi nhỏ mang bên mình ra, “bộp” một cái, cuốn hộ chiếu đã nằm gọn trong tay Hàn Giang. Hàn Giang không ngờ Yelena lại dùng chiêu này, anh hơi sững sờ, nhưng vẫn mở cuốn hộ chiếu của Yelena ra – Yelena Yiluovanuna Makarov, người Nga, nhập cảnh ba ngày trước tại Bắc Kinh.
Nhìn họ tên và tuổi tác, Yelena có vẻ như là con gái của Makarov, Hàn Giang gập hộ chiếu lại, trả cho Yelena rồi hỏi: “Ông lão đó là gì của cô?”
Yelena tỏ ra rất khó chịu với câu hỏi này của Hàn Giang, vẫn với vẻ ngạo mạn, cô nhìn chằm chằm Hàn Giang một cái. Lúc này Makarov đang nằm dưới gốc cây kế bên đã tỉnh lại, thần thái của ông xem ra đã tốt hơn ban nãy rất nhiều. Makarov vươn vươn vai, nói với Hàn Giang và Đường Phong: “Các cậu cứ gọi tôi là Makarov, Ivan Petrovich Makarov, theo thói quen của người Trung Quốc, các cậu cũng có thể gọi tôi là ông Mã, đây là con gái út Yelena của tôi”.
“Makarov tiên sinh, lần này mắc nợ ngài nhiều quá, nếu như không có ngài, hậu quả thật sẽ không thể tưởng tượng nổi” - Hàn Giang cảm kích nói.
Makarov hất hất tay: “Tôi cả đời làm việc trong quân đội đã từng trải qua tình huống như thế này, không ngờ lần này về hưu rồi mà vẫn gặp phải.”
“Ngài cũng từng phục vụ trong quân đội sao?” - Hàn Giang hỏi.
“Đúng vậy, tôi phục vụ cho quốc gia 40 năm, cho tới khi về hưu.”
“Trong không quân?”
“Đúng vậy, không quân, phi công, phi công công huân.”
“Vậy thì ngài nhất định đã từng lái chiếc Su-27 rồi?” Đường Phong tò mò hỏi.
“Khà khà, chàng thanh niên, Su-27, Mi-29, hầu hết tất cả những máy bay của gia tộc Mi và gia tộc Sukhoi tôi đều đã lái qua, còn cả máy bay ném bom chiến lược Tu-160, cảm giác đó quả thật quá tuyệt”.
“Ngài cừ quá, từng lái nhiều máy bay như vậy! Thảo nào có thể hạ cánh thành công!” - Đường Phong ca ngợi.
“Thế vẫn chưa là gì đâu, tôi còn đã từng lái máy bay của Mỹ nữa!” - Makarov chìm đắm trong hồi ức về những ngày tháng huy hoàng đã qua.
“Vậy thì theo ngài, tại sao máy bay của chúng ta sao lại xảy ra sự cố?” - Hàn Giang thỉnh giáo, làm đứt quãng hồi ức của Makarov.
“Xem ra có vẻ như là sự cố máy móc dẫn đến động cơ ngừng hoạt động trên không trung, nhưng cũng không thể ngoại trừ khả năng khác” - Makarov phán đoán.
“Khả năng khác?” - Đường Phong kinh ngạc.
“Ý ngài là khả năng có người phá hoại?” - Hàn Giang hạ giọng nói.
“Không! Tôi chỉ nói không loại trừ bất cứ khả năng nào, nguyên nhân chính dẫn đến máy bay hạ cánh khẩn cấp thì chỉ có đợi ban ngành hữu quan sau khi kiểm tra mới biết được”.
“Nếu như có người phá hoại thì đáng sợ quá!” - Lương Viện hoảng hốt nhìn xung quanh.
Đường Phong cũng nhìn xung quanh, đột nhiên anh phát hiện ra cách chỗ họ không xa lắm có hai người đàn ông uể oải đang nằm bò dưới gốc cây thông, Đường Phong tiến lên phía trước hỏi: “Các anh không sao chứ?”
Người đàn ông trung niên đeo kính gọng vàng, xem ra thần sắc vẫn khá ổn, đang nhàn hạ hút thuốc bằng ống tẩu, nghe thấy vậy liền đứng dậy nói với Đường Phong: “Tôi vẫn ổn, chỉ có vị này là rơi từ trên ghế ngồi xuống lúc máy bay hạ cánh”.
“Hai anh đi cùng nhau sao?” - Hàn Giang cũng bước lên.
Người đàn ông trung niên lắc đầu: “Tôi quen anh ấy trên máy bay, ghế của chúng tôi cạnh nhau, anh ấy tên là Stephen, từ Mỹ tới, còn tôi, đây là danh thiếp của tôi, mong nhận được sự quan tâm!”
Nói xong, người đàn ông trung niên lấy từ trong túi ra một xấp danh thiếp, kính cẩn đưa cho Đường Phong và Hàn Giang. Đường Phong vừa nhìn thấy tấm danh thiếp này liền chau mày, chỉ thấy tấm danh thiếp to hơn hẳn những danh thiếp thông thường này có in: Tiến sỹ khoa học - Đại học Oxford, tiến sỹ công trình học - Học viện Imperial, tiến sỹ lịch sử học - Đại học Yale, tiến sỹ quản trị kinh doanh - Đại học Columbia, tiến sỹ giáo dục học - Đại học Mátxcơva…
8
Đường Phong cầm danh thiếp, đọc tới nỗi hoa cả mắt, lòng nhủ thầm: kỳ tài vậy sao, mà sao mình từ trước tới nay chưa từng nghe danh nhỉ? Anh đưa mắt chuyển tới dòng cuối cùng của loạt chữ này, “Từ Nhân Vũ? Tiến sỹ Từ?” Đường Phong lẩm bẩm đọc dòng họ tên sau dòng chức danh.
“Chính là tại hạ” - Từ Nhân Vũ tươi cười rạng rỡ nói. Nhưng anh ta lập tức phát hiện ra có chỗ nào đó không bình thường, nên vội vàng móc ra một tấm danh thiếp, đưa cho Đường Phong, bối rối giải thích: “Ồ! Tấm ban nãy là danh thiếp trước đây của tôi, khoe khoang quá, khoe khoang quá, bởi vì lúc đó tôi không hiểu một đạo lý rằng, làm người nên khiêm tốn, nhất định phải khiêm tốn”.
Đường Phong đón lấy tấm danh thiếp mới từ tay Từ Nhân Vũ, thấy trên danh thiếp chỉ còn lại dòng tiêu đề: Tổng giám đốc công ty quốc phòng Tần Bình – tiến sỹ Từ Nhân Vũ.
“Công ty quốc phòng Tần Bình? Chế tạo vũ khí sao?” Hàn Giang hỏi.
“Không! Không! Chỉ là mấy thứ cò con, vớ vẩn thôi, đạn cao su, đạn hơi cay, có lúc cũng sản xuất một ít súng máy các loại. Đối tượng phục vụ của chúng tôi chủ yếu là công ty bảo vệ và phía cảnh sát” - Từ Nhân Vũ giải thích.
“Nói như vậy thì tôi chính là đối tượng phục vụ của anh rồi. Biết chơi súng không?” - Hàn Giang cười hỏi Từ Nhân Vũ.
“Biết chút ít, chỉ có điều chơi không giỏi lắm, tôi chủ yếu phụ trách nghiên cứu chế tạo sản phẩm”.
“Tiến sỹ, hình như ở nước ta vẫn chưa có công ty nào như vậy thì phải?” - Đường Phong hỏi lại Từ Nhân Vũ.
“Bởi thế nên công ty chúng tôi mới đăng ký ở Mỹ, có văn phòng đại diện tại Singapore, khà khà!” - Từ Nhân Vũ giải thích.
“Thế lần này anh tới để…” - do tình huống bất ngờ lần này nên với bất kỳ ai Hàn Giang cũng đều đề cao cảnh giác.
“Lần này tôi đến Thành Đô chủ yếu để thăm vài người bạn, không ngờ đến đây… thì xảy ra chuyện! Anh xem, bây giờ điện thoại cũng không gọi được, mấy người bạn của tôi còn chuẩn bị đón tiếp tẩy rửa bụi trần cho tôi nữa đấy!” - Từ Nhân Vũ sốt sắng phân trần.
“Đón tiếp tẩy rửa bụi trần? Lùi lại vài ngày cũng không muộn, ít nhất anh cũng giữ được mạng sống của mình rồi!” - Hàn Giang nói xong, cúi người xuống xem tình hình vết thương của Stephen. Stephen cắn chặt răng, trán đổ mồ hôi hột, nhưng sau khi Hàn Giang kiểm tra thì kết luận vết thương của Stephen không quá nghiêm trọng, trừ một số vết thương ngoài da, thì có cánh tay trái bị trật khớp. Hàn Giang cười, nói với Stephen: “Tôi thấy anh giống người Trung Quốc, sao lại lấy tên người nước ngoài vậy?”
Vừa hỏi, Hàn Giang vừa thừa lúc Stephen không để ý liền dồn sức, “rắc” một cái, cánh tay trái trật khớp của Stephen đã trở lại bình thường. Hàn Giang đứng dậy, phủi phủi tay nói: “Không sao nữa rồi, đứng dậy đi đi. Nhìn anh là biết thiếu luyện tập thể thao, chút chấn thương này mà cũng đau đến thế sao?”
Stephen dường như không buồn ghi nhận sự giúp đỡ của Hàn Giang, anh ta nhìn chằm chằm Hàn Giang một lúc rồi mới chống cánh tay phải ngồi dậy, mở miệng nói: “Stephen Mã, người Mỹ gốc Hoa” - nói xong câu này, anh ta liền tựa vào gốc cây, nhắm mắt lại, không để ý đến mọi người nữa.
“Người Mỹ gốc Hoa, như vậy nghĩa là anh ta họ Mã?” Đường Phong rì rầm nói nhỏ với Hàn Giang.
Hàn Giang không nói gì cả, anh lại nhìn Stephen một cái rồi cùng Đường Phong quay lại bên cạnh Makarov và Yelena. Lúc này, Lương Viện khó khăn lắm mới tìm thấy ba lô và hành lý của mình trong bộ khung tàn của máy bay, Đường Phong nhìn bộ dạng kéo ba lô và hành lý lôi thôi lếch thếch của Lương Viện liền cười, nói: “Bảo cô đừng có đi, cô lại đòi đi cho bằng được, giờ thì hối hận rồi chứ?”
“Tôi thèm vào hối hận! Bổn cô nương không phải vẫn khỏe mạnh đây sao! Anh đúng là đồ xấu xa, đến mức này rồi mà còn nhiếc móc tôi…” - Tuy Lương Viện đã kìm nén, nhưng vừa nói cái đã bật khóc.
Đường Phong nhìn bộ dạng Lương Viện, bỗng nhớ tới lời dặn dò gửi gắm của Lương Dũng Tuyền, thấy có chút ái ngại, anh vội vàng giúp Lương Viện lau nước mắt trên má, và nói: “Đừng buồn nữa, ban nãy tôi chỉ định đùa cô chút thôi, chủ yếu là tôi lo lắng cho thứ trong túi cô kia”.
Đất cát và nước mắt trên mặt Lương Viện đã khiến khuôn mặt vốn xinh đẹp của cô trở nên nhem nhuốc. Sau khi cùng Đường Phong kiểm tra kệ tranh ngọc trong túi xong, cô mới yên tâm trở lại, vừa cười vừa quệt nước mũi.
Đường Phong, Hàn Giang, Lương Viện, Makarov và Yelena năm người chụm lại quanh đống lửa. Đường Phong gọi Từ Nhân Vũ và Stephen lại; Từ Nhân Vũ rất phấn khởi định lao tới nhưng Stephen lại không muốn đi, ngồi im lìm dưới gốc cây. Từ Nhân Vũ bước đi vài bước, quay đầu lại phát hiện ra Stephen vẫn chưa buồn nhúc nhích, đành phải bối rối hất hất tay về phía Đường Phong rồi quay lại bên cạnh Stephen. Stephen và Từ Nhân Vũ cũng nhóm một đống lửa nhỏ, đối diện nhưng cách nhóm của Đường Phong một khoảng xa xa.
“Đúng là đồ dị hợm” - Lương Viện khẽ oán thán.
“Mỗi người đều có cách nghĩ riêng của họ, không nên bắt ép” - Đường Phong nói.
“Chúng ta không thể cứ ngồi đây chờ chết được, phải nghĩ cách để nhanh chóng thoát ra ngoài thôi!” - Hàn Giang đột nhiên nói.
Lời của Hàn Giang khiến mọi người cùng chìm trong im lặng. Mọi người không ai bảo ai mà đều cùng lúc hướng mắt nhìn ra xung quanh, xung quanh ngoài rừng rậm thì chỉ có rừng rậm… Hàn Giang ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, trời sắp tối rồi, tầng mây rất thấp, xem ra đêm nay sẽ có mưa, anh bắt đầu hối hận về sự tự tin thái quá của mình. Quả thật, cho dù thế nào đi chăng nữa, cũng nên nghe lời Đường Phong mang theo vũ khí mới phải.
Đường Phong dùng đèn pin soi qua căn phòng quái dị này thêm một lần nữa, nói: “Tôi thấy hứng thú ở chỗ, tại sao căn phòng này sao lại xây trên một lỗ hầm sâu nhỉ?”
Sau khi Hàn Giang cẩn thận nhìn xuống hầm, anh suy đoán: “Không phải căn phòng này xây trên lỗ hang, mà là người ta đã cố ý xây một cái hầm dưới sàn nhà. Cái hầm này được nhân công xây bằng gạch, cũng nghĩa là khi kiến tạo nên tòa Khương Trại khổng lồ này, thì họ đã xây nên cái hầm này rồi”.
Lương Viện vẫn hồn xiêu phách lạc, lập cập nói: “Tòa Khương Trại này thật bí hiểm, tại sao phải xây một cái hầm sâu phía dưới căn phòng?”
“Đúng vậy! Các căn phòng khác không biết chừng cũng là cơ quan bí mật, tòa Khương Trại này còn giống một mê cung dày đặc những ngóc ngách hơn, phía dưới, cùng những tầng phía trên cũng không biết có những gì nữa?”
“Nếu nói như vậy, chúng ta ở trong này, không phải là cũng rất nguy hiểm sao?” - Lương Viện sợ hãi.
“Đường Phong, anh nói cũng hơi quá đấy, cứ coi là những ngóc ngách dày đặc đi chăng nữa, mấy trăm năm rồi, liệu vẫn còn phát huy tác dụng không? Còn nữa, coi như lúc đầu tòa Khương Trại này chỉ là nhà ở, xây bao nhiêu là ngóc ngách bí mật như vậy, ngộ nhỡ sát thương chính mình thì sao? Tôi nghĩ lỗ hang này chỉ là một con đường thoát hiểm.” - Hàn Giang phản bác lại Đường Phong.
Đường Phong cũng không tranh luận, anh quay lại phòng khách, rồi lần lượt kiểm tra các phòng khác trên tầng hai, nhưng không phát hiện ra có điều gì bất thường ở đó. Bốn người quay trở lại trung tâm phòng khách, Hàn Giang dùng đèn pin soi lên sàn gỗ ở tầng trên, đột nhiên hỏi: “Này? Thật là kỳ lạ, sao lại không thấy cầu thang thông lên gác nhỉ?”
Đường Phong nhìn một lượt, giải thích: “Điều này rất bình thường, thường thì trong Khương Trại không có cầu thang cố định, lên xuống lầu đều dùng thang gỗ rời”.
“Vậy tại sao trong hai cánh cửa bên trái trước đó lại có cầu thang xoắn ốc cố định?” - Hàn Giang hỏi lại.
“Hai chiếc cầu thang xoắn ốc đó quả thật rất kỳ lạ! Thông thường mà nói, tầng một của Khương Trại đều để quây nuôi gia súc, là nơi chất chứa những thứ linh tinh, không thể xây cầu thang tốt như vậy được. Tóm lại, trong tòa Khương Trại này đầy rẫy những bí ẩn” - Đường Phong cũng không sao giải thích được bao nhiêu những hiện tượng kỳ dị khó hiểu trong tòa Khương Trại này.
Đường Phong vừa dứt lời, đột nhiên phát hiện ra con mèo đen nhìn thấy trước đó không biết từ lúc nào lại xuất hiện cạnh cánh cửa thứ hai bên trái. Hàn Giang cũng chú ý tới con mèo đen đó, anh khẽ bước từng bước đi về phía con mèo đen, nhưng anh vừa mới sát lại gần, mèo đen liền quay người, chớp cái đã mất hút trong cánh cửa.
“Thật là một con mèo kỳ lạ!” - Hàn Giang khẽ lẩm bẩm trong miệng.
“Biết đâu con mèo này sẽ dẫn chúng ta hóa giải những bí ẩn” - Nói xong, Đường Phong lại xông lên trước, theo con mèo tiến vào trong cánh cửa đó. Hàn Giang không dám để Lương Viện và Từ Nhân Vũ ở lại, vậy là cả ba người cùng theo Đường Phong tiến vào cánh cửa này.
Cầu thang xoắn ốc uốn lượn xuống phía dưới, Đường Phong bật đèn pin đi đầu, Lương Viện và Từ Nhân Vũ bám sát phía sau, Hàn Giang cảnh giác quay lại nhìn cánh cửa gỗ rồi đi theo xuống dưới.
Cầu thang xoắn từng vòng, từng vòng một, Đường Phong cũng không nhớ rõ họ rút cuộc đã xoay bao nhiêu vòng, mỗi bước chân của anh đều khiến cầu thang xoắn ốc phát ra tiếng “cót két”, mỗi âm thanh này đều khiến từng sợi lông tóc trên người Đường Phong dựng đứng cả lên. Đường Phong dùng đèn pin soi xuống cầu thang trước mặt, con mèo đen đó lại bí ẩn mất tích rồi.
Cuối cùng thì cũng bước xuống khỏi cầu thang xoắn ốc, trước mặt cả nhóm là một địa đạo được lát bởi những tảng đá, vòm địa đạo hình cong cong, chỗ cao nhất không tới hai mét, trong địa đạo mạng nhện giăng kín, rõ ràng là đã nhiều năm qua không có người tới đây. Đường Phong tiến vài bước lên phía trước, đột nhiên cảm thấy trên đầu có ánh sáng. Đường Phong lập tức ngẩng đầu lên nhìn, phát hiện hóa ra mình lúc này đang ở dưới một vọng gác cao to, ánh sáng đó từ trên đỉnh lầu vọng gác chiếu xuống. Lương Viện, Từ Nhân Vũ và Hàn Giang tới bên cạnh Đường Phong, cùng nhau ngẩng đầu lên nhìn, Lương Viện tò mò hỏi: “Sao chúng ta lại đi xuống dưới đáy cái ống khói to thế này?”
Đường Phong chán nản nhìn nhìn Lương Viện, đáp: “Đây không phải là cái ống khói to, mà là vọng gác chúng ta nhìn thấy bên ngoài Khương Trại. Nếu như có thể leo lên vọng gác đó, từ cửa sổ nhỏ nhìn ra, chắc sẽ có thể nhìn thấy tình hình vùng lân cận trong vòng bán kính hàng chục ki lô mét”.
“Nhưng làm thế nào để leo lên đấy được? Trong vọng gác vốn không có thang mà!” - Từ Nhân Vũ quan sát một lượt bên trong vọng gác, nghi ngờ nói.
“Điều mà tôi còn quan tâm hơn là địa đạo này thông đến chỗ nào!” - Hàn Giang dùng đèn pin soi vào địa đạo tối om trước mặt, tự mình lẩm bẩm.
Mạng nhện kín mít bay lên từng lớp bụi dày đặc, rồi bất chợ có một ngã rẽ khiến ánh sáng chói lóa của chiếc đèn pin cũng đột ngột mất đi công dụng trong địa đạo đen đặc này. Đường Phong dẫn đầu nhưng cũng không đoán được sẽ có gì chờ đợi anh ở phía trước? Quái vật? Hay là cạm bẫy?
Lương Viện bám chặt phía sau Đường Phong, trên đầu đột nhiên rơi xuống rất nhiều bụi bặm khiến cô sợ hãi tới mức bám chặt lấy gấu áo Đường Phong. Phía trước lại có một bức tường, đây không phải là điểm cuối của địa đạo, chỉ là một ngã rẽ. Đường Phong và Lương Viện rẽ trước, Đường Phong đột nhiên phát hiện ra địa đạo trước mặt hình như rộng hơn một chút, đường đi dưới chân bắt đầu dốc xuống, vươn thẳng tới nơi thẳm sâu càng lúc càng ẩm ướt của đường hầm…
9
Lương Viện bước một bước lên phía trước, đột nhiên dưới chân phát ra tiếng “răng rắc” kì lạ khiến cô sợ hãi vội vàng lui lại nửa bước. Đường Phong cầm đèn pin soi xuống chân Lương Viện, hai người nhìn thấy một đoạn “gậy” màu đen. Lương Viện thò tay nhặt đoạn “gậy” đó lên cẩn thận xem xét, từ từ phủi đi bùn đất đen xì trên đoạn “gậy” đó… Đột nhiên mắt Lương Viện trợn trừng trừng rồi hét toáng lên, đoạn “gậy” trong tay cũng rơi xuống đất, bởi cô ấy đã nhìn thấy rõ, dưới bùn đất đen xì lộ ra màu trắng đáng sợ, đó chính là một đoạn xương... một đoạn xương người.
Tiếng hét thất thanh của Lương Viện khiến Hàn Giang và Từ Nhân Vũ cũng chạy tới, “Xảy ra chuyện gì vậy?” - Hàn Giang lo lắng hỏi.
Lương Viện hồn xiêu phách lạc, không thốt nên lời.Đường Phong không trả lời câu hỏi của Hàn Giang mà soi đèn pin xuống dưới chân. Địa đạo dưới chân dốc xuống nơi thẳm sâu xuất hiện từng đoạn hài cốt bị bùn đất che phủ, những hài cốt này gần như trải kín cả con dốc, không chỗ nào là không có, tất cả những hài cốt đều úp mặt xuống, bò trên đất, đầu hướng về cầu thang xoắn ốc ở cổng địa đạo, hình như, họ đều gặp phải nguy hiểm khủng khiếp cùng một lúc, để giữ lại mạng sống, họ đã bất chấp tất cả lao về phía cổng địa đạo, nhưng… nhưng có lẽ chỉ muộn một chút thôi, tất cả họ đều đã bị đóng kín trong địa đạo ẩm ướt tối đen này. Tại sao họ lại tới địa đạo này? Và điều gì đã khiến họ sợ hãi khủng khiếp đến như vậy?
Đường Phong nhớ tới lăng mộ trong địa cung của vua chúa. Truyền thuyết kể rằng, trước khi chôn cất hoàng đế, địa cung sẽ bị bịt lại, chôn sống những người thợ xây mộ trong địa cung. Trong giây phút cuối cùng của sinh mệnh, bản năng sinh tồn đã thôi thúc những người thợ gắng hết sức lao ra khỏi cửa địa cung, có lẽ chính là cảnh tượng họ đang nhìn thấy trước mắt!
“Thật đáng sợ, chúng ta quay lại đi!” - Lương Viện là người đầu tiên đề nghị “đánh bài chuồn”.
Từ Nhân Vũ quệt mồ hôi lấm tấm trên trán, nhìn Hàn Giang và Đường Phong, trong lòng anh ta rất sợ hãi, nhưng lại không muốn bỏ rơi Stephen. Hàn Giang và Đường Phong đều hiểu ý của Từ Nhân Vũ, họ cũng không muốn từ bỏ, nhưng… Hàn Giang lại nhìn con dốc địa đạo trước mặt, nói với mọi người: “Thời gian hôm nay không còn nhiều nữa, mọi người cũng mệt rồi, chúng ta tạm thời trở lại phòng khách trên tầng hai nghỉ ngơi, ngày mai lại xuống đây đi đến cùng xem sao”.
Từ Nhân Vũ tỏ ra đồng ý, Đường Phong không nói gì, bốn người chuẩn bị quay lại thì một vật đột nhiên rơi vào chùm ánh sáng phía trước đèn pin của Đường Phong, lại là con mèo đen đó! Mèo đen đang ngồi trên đống xương trắng trên con dốc địa đạo, lặng lẽ nhìn Đường Phong. “Không được! Chúng ta vẫn nên đi xuống dưới xem sao, có thể Stephen vẫn chưa chết…”
Nói xong, Đường Phong cũng không chờ nghe ý kiến của những người khác, anh đi thẳng xuống dốc địa đạo. Lương Viện thấy Đường Phong đi tiếp xuống dưới, cũng không biết lấy dũng khí từ đâu ra, bỗng nhiên tóm lấy Đường Phong, cùng đi xuống địa đạo. Đường Phong kéo Lương Viện, cẩn thận rón rén giẫm lên từng bộ hài cốt, đi xuống dốc, càng đi xuống dưới không khí càng ẩm ướt, hô hấp cũng khó khăn hơn, “rắc”, “rắc” từng tiếng xương vỡ vụn xuyên qua màng nhĩ vang tới tận óc, đâm chích vào thần kinh vốn đang suy yếu của hai người.
Hàn Giang và Từ Nhân Vũ cũng đi theo. Sau khi đi được khoảng hai mươi mét, mọi người đã tới chân dốc địa đạo, hóa ra địa đạo hình vòng cung, lúc trước đây lại trở thành không gian hình vuông mái vòm. Đường Phong ước lượng qua, không gian hình vuông này khoảng bảy tám chục mét, đây là đâu? Đúng lúc Đường Phong đang thắc mắc thì Hàn Giang đột nhiên kề sát tai anh, khẽ nhắc nhở: “Đường Phong, liệu đây có phải là cái Hắc Đầu Thạch Thất trong truyền thuyết không nhỉ?”
Đường Phong giật bắn mình, Hắc Đầu Thạch Thất? Lẽ nào đây chính là Hắc Đầu Thạch Thất? Ngay từ giây phút đặt chân vào địa đạo này, Đường Phong đã lập tức nghĩ tới Hắc Đầu Thạch Thất, nhưng anh đã nhanh chóng phủ định suy đoán này, anh không tin mình chưa cân nhắc kỹ trước khi hành động mà lại có thể dễ dàng tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất. Nhưng lúc này Hàn Giang hỏi như vậy khiến anh không thể không bắt đầu suy nghĩ lại vấn đề này. Không gian rộng lớn dưới lòng đất này lẽ nào chính là Hắc Đầu Thạch Thất trong truyền thuyết?
1010
Đường Phong nói nhỏ, trả lời Hàn Giang: “Phải tìm được chứng cứ thuyết phục mới có thể chứng minh điều suy đoán này”.
Đường Phong nói xong bước tới sát tường, mượn ánh sáng của đèn pin tỉ mẩn quan sát, một vệt nước màu trắng hơi ngả vàng xuất hiện xung quanh bốn bức tường. Đường Phong vỗ vào bức tường trước mặt một cái, nói với mọi người: “Mọi người xem, ở đây có vết tích đọng nước từ rất lâu rồi, cho thấy trước đây nó từng ngâm trong nước một thời gian dài”.
“Thảo nào dưới này ẩm ướt như vậy, trên dốc địa đạo có bao nhiêu là bùn đất.” - Lương Viện lầm rầm nói.
Hàn Giang đột nhiên nhớ ra điều gì đó: “Có khi nào nơi đây từng là thủy lao không nhỉ? Những hài cốt trên dốc địa đạo rất có khả năng là của phạm nhân đã từng bị nhốt ở đây, do ở đây phát sinh một biến cố nào đó, ví dụ như mực nước dâng cao, vậy là, họ gắng hết sức để thoát ra khỏi đây, nhưng cuối cùng vẫn bị đại thủy nhấn chìm”.
“Tôi thấy anh có thể viết tiểu thuyết được rồi đấy!” - Từ Nhân Vũ cười nhạt với Hàn Giang.
Đường Phong lại nói: “Hàn Giang nói có vẻ hợp tình hợp lý đấy, hoàn toàn có khả năng đó, chỉ có điều là sao mực nước ở đây lại đột nhiên dâng lên như vậy nhỉ?”
“Vậy thì anh phải vào đó xem xem” - vừa nói, Hàn Giang vừa chỉ chỉ vào một cửa động xuất hiện trên bức tường bên cạnh.
Đường Phong gật đầu, rồi thò đầu vào trong cửa động đó, bên trong vẫn là một địa đạo mái vòm. Khi Đường Phong đã dần dần thích ứng với ánh sáng và không khí trong địa đạo này thì lại một lần nữa thất kinh, bởi anh đã xâm nhập vào một địa đạo toàn xương người. Dưới chùm ánh sáng của đèn pin, từng bộ hài cốt trắng ởn kinh hoàng xếp ngay ngắn xuất hiện trước mặt mọi người.
Dưới chân hai bên tường địa đạo là một dãy đầu lâu xếp ngay ngắn, phía trên đầu lâu là từng tầng xương trắng được xếp gọn gàng chồng lên nhau sát cạnh tường, xương trắng càng chất càng cao, mãi tới tận khi chạm vào mái vòm mới dừng lại. Tại vị trí cao nhất của mái vòm địa đạo, cũng chính là trên đỉnh đầu mọi người, có treo một hàng đầu lâu. Đường Phong không hiểu những đầu lâu này làm thế nào mà cố định được trên đỉnh vòm, anh ngẩng đầu, quan sát thật kĩ, đúng lúc mắt anh gần như dán vào hố mắt trống rỗng của chiếc đầu lâu thẳng trên đỉnh đầu thì rút cuộc anh đã phát hiện ra: đầu lâu trên đỉnh vòm được một chiếc đinh sắt rất to đã rỉ vàng đóng chặt vào trong gạch của đỉnh vòm. Nhìn tới đây, Đường Phong đột nhiên thấy hoa mắt chóng mặt.
“Thật khủng khiếp! Bao nhiêu xương trắng, hơn nữa… hơn nữa còn bị người ta sắp xếp thành hình dạng này!” - Lương Viện hoảng hốt nói.
Từ Nhân Vũ nghi ngờ hỏi: “Trước đây ở châu Âu tôi đã từng nhìn thấy giáo đường xương người, không ngờ ở vùng núi nước ta hóa ra cũng có một địa đạo xương người như thế này!”
“Chuyện này rút cuộc là thế nào?” - Hàn Giang cũng rối tung cả lên.
Đường Phong ra sức kìm chế nhịp tim đang đập loạn xạ, đầu óc anh quay cuồng, mọi thứ trước mắt đã hoàn toàn vượt xa kiến thức anh được biết, nhưng Đường Phong vẫn đưa ra giải thích của cá nhân anh: “Có hai khả năng, một là, những bộ hài cốt này là hài cốt của chủ nhân Khương Trại, địa đạo này giống như kiểu một hầm mộ; hai là, những bộ hài cốt này là hài cốt của kẻ địch, chất đống ở đây, khuếch trương võ công của chủ nhân Khương Trại, cũng là để uy hiếp phạm nhân trong thủy lao. Bản thân tôi cũng nghiêng về giải thích thứ hai hơn”.
“Tại sao?” - Hàn Giang thắc mắc.
Đường Phong hạ giọng nói nhỏ: “Theo như tôi biết, bất luận là người Khương hay là người Đảng Hạng, đều không có tập tục mai táng này, còn suy đoán về thủy lao của anh ban nãy, và cả hài cốt trên dốc địa đạo đều rất phù hợp với suy đoán thứ hai”.
Hàn Giang khẽ gật gù, một mình tiến lên phía trước, đi trước mọi người, Đường Phong theo sau Hàn Giang, chậm rãi bước vào địa đạo tối đen sâu hun hút. Sau khi đi được khoảng 80 bước, Hàn Giang cuối cùng cũng dừng lại, Đường Phong tiến lên cùng, kinh ngạc phát hiện, đường đi phía trước mặt đã bị chặn lại, và vật chặn đường này chính là một đống xương trắng chất cao ngất ngưởng!
Bốn người vô cùng thất kinh trước cảnh tượng trước mắt, mãi một lúc lâu sau, Đường Phong mới chậm rãi nói: “Xương cốt nhiều quá chừng! Xem ra chúng ta phải quay lại thôi”.
Hàn Giang hình như không cam tâm, anh tiến lên phía trước dùng đèn pin quan sát tỉ mỉ đống xương trắng chất cao như núi này, đường đi trước mặt quả thực đã bị chặn đứng. Hàn Giang bó tay, lùi lại, nhưng khi đèn pin trong tay anh vô tình chiếu xuống đất, đột nhiên phát hiện ra trên đống xương trắng có mấy tảng đá to nhỏ khác nhau. Mọi người đổ dồn sự tập trung về phía đống xương nên không ai để ý tới mấy hòn đá dưới chân, Hàn Giang chỉ vào những hòn đá đó, hỏi Đường Phong: “Đây là gì nhỉ?”
Đường Phong cúi người xuống chăm chú quan sát xem mấy hòn đá đang bị vùi lấp trong đống xương cốt này là gì. Anh chầm chậm, nhìn từng góc một, cuối cùng bỗng phát hiện ra những văn tự vừa quen vừa lạ trên mấy hòn đá này…
CHƯƠNG 9
Khương Trại chết chóc
1
Đ
ường Phong cẩn thận xem kĩ từng văn tự trên hòn đá, năm phút sau, anh không giấu được sự hưng phấn quay lại, nói với mọi người: “Đây là văn tự Tây Hạ, thật không thể ngờ, trong vùng núi tây bắc Tứ Xuyên này lại xuất hiện bia đá văn tự Tây Hạ!”
“Văn tự Tây Hạ? Ở đây cũng có văn tự Tây Hạ sao?” - Hàn Giang vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nhưng lại không dám tin vào điều đó.
“Đúng vậy, tôi không thể nhầm được, đây là một tấm bia tàn đã nứt gãy có văn tự Tây Hạ” - Đường Phong khẳng định.
“Bia tàn? Tấm bia tàn không có chữ mà chúng ta nhìn thấy ngoài Khương Trại có phải cũng là trên tấm bia này không nhỉ?” - Lương Viện hỏi.
Đường Phong gật đầu nói: “Chắc là vậy, chỉ có điều… có điều tôi không hiểu tại sao tấm bia tàn đó lại di chuyển được ra tận bên ngoài Khương Trại nhỉ?”
“Cũng có thể hỏi rằng sao tấm bia tàn này lại ở trong địa đạo âm u sâu thẳm này!” - Hàn Giang đột nhiên nói chêm vào.
Đường Phong nghe thấy vậy, hơi sững sờ, sau đó nói: “Đúng vậy, cũng có khả năng như vậy, cũng có thể bia đá vốn dĩ đã ở bên ngoài!”
“Đừng quan tâm bia đá ở đâu nữa? Mau nói xem, trên tấm bia đá này khắc gì vậy?” - Lương Viện giục.
Đường Phong gom vài hòn đá vụn lại với nhau, tỉ mẩn xem xét tỉ mỉ, anh lục lại tất cả những văn tự Tây Hạ mà mình nhớ được trong đầu, từng chữ từng chữ một đối chiếu với văn tự Tây Hạ xuất hiện trên tấm bia tàn, lúc thì ánh mắt lộ ra sự hưng phấn, lúc lại lắc đầu than thở: “Tuy ở đây có tới tận vài miếng bia tàn, nhưng số bia đá này vẫn thiếu sót chưa đầy đủ, bởi vậy tôi không thể nhìn thấy toàn bộ văn bia, còn có cả một vài văn tự tôi không dám xác định, nhưng chỉ với những văn tự mà tôi nhận biết được thì đã có thể phát hiện ra một vài tin tức quan trọng”.
“Ồ! Nói xem sao!”
“Văn tự trên tấm bia được khắc lần lượt từ trái sang phải, theo hàng dọc, hàng thứ nhất tuy dấu tích của chữ không còn đủ, nhưng tôi đại khái nhìn ra ý nghĩa của câu này, dịch ra như sau: ‘Vương triều lật đổ, Đảng Hạng suy vi, người dân tộc ta… ông trời phù hộ, quay lại cố thủ, từ Hạ Lan Sơn xuất phát…’ đại khái là ý như vậy; hàng thứ hai thiếu rất nhiều, tôi chỉ nhận ra mấy chữ ‘vượt qua tuyết sơn’, hai chữ cuối dòng thứ ba là ‘khe sâu lớn’, còn hai chữ phía trước ‘khe sâu lớn’ tôi không dám khẳng định, khả năng là tên của cái khe sâu này, tên là Nạp Ma, hai chữ phía trước nữa nghĩa là ‘vượt qua’ hoặc là ‘xuyên qua’; ý nghĩa của dòng thứ tư đến dòng thứ sáu đại khái là ‘ông trời phù hộ, phải quay về cố hương, trại trú chân thành thành quách…’ sau đó là ghi chép tường thuật về chủ nhân tòa Khương Trại này cùng một vài tình hình chiến đấu tiếp cận quân địch, tiếp sau đó là một chuỗi tên họ quan chức thổ ty mà hoàng đế triều Minh sắc phong, còn lại thì không nhìn thấy” - Đường Phong giải thích tỉ mỉ về nội dung văn bia.
“Chúng nói lên điều gì?” - Từ Nhân Vũ đột nhiên hỏi.
Đường Phong nhìn Từ Nhân Vũ, không biết có nên nói ra phán đoán của mình trước mặt anh ta hay không. Hàn Giang dùng mắt ám hiệu cho Đường Phong, Đường Phong hiểu ý, nói với Từ Nhân Vũ: “Tấm bia này ghi chép về chủ nhân xây dựng lên tòa Khương Trại cùng một số tình hình hoạt động sau khi định cư tại đây, vẫn còn rất giá trị”.
Từ Nhân Vũ nghe xong những lời giải thích của Đường Phong, suy tư gật gật đầu. Lúc này, Lương Viện đề nghị: “Đằng nào thì cũng không thể đi tiếp được nữa, hay là chúng ta khẩn trương quay lại thôi!”
“Nói như vậy thì Stephen chết chắc rồi!” - Từ Nhân Vũ nhìn đống xương cốt trắng toát chất như núi trước mặt thất vọng nói.
Hàn Giang lắc đầu, chán nản: “Không còn cách nào khác, cái hang mà Stephen rơi xuống rất có khả năng thông với địa đạo này, thậm chí rất gần với vị trí của chúng ta hiện giờ, nhưng đường đi trước mặt đã bị chặn hoàn toàn rồi, tôi thấy quả thực Stephen lành ít dữ nhiều”.
Hàn Giang nói xong, chẳng còn ai lên tiếng nữa, bốn người mở to đôi mắt tò mò và hoảng loạn nhìn đống xương cốt chất đống ngay ngắn chỉnh tề, sau đó từ từ lùi lại phía sau.
2
Cuối cùng, cả nhóm rút lui khỏi địa đạo xương người đáng sợ, lại leo lên con dốc trải kín những hài cốt, quay trở lại đường cũ. Đường Phong đi đầu tiên, rẽ qua một ngã rẽ, anh dựa vào trí nhớ phán đoán, đây chắc là ngã rẽ cuối cùng trong địa đạo. Nhưng khi anh rẽ qua ngã rẽ này, mặt đất dưới chân đột nhiên khẽ rung chuyển, một chút bụi từ trên mái vòm rơi xuống, vương trên tóc Đường Phong. Đường Phong kinh ngạc phủi phủi bụi trên đầu rồi ngẩng lên nhìn mái vòm, không phát hiện thấy điều gì bất thường, anh lại bước nhanh vài bước về phía trước, nhìn thấy thấp thoáng tia sáng lộ ra trên vọng gác. Nhưng đúng lúc này, Đường Phong cảm nhận được hình như cả tòa Khương Trại đều đang khẽ rung động, gần như cùng một lúc, anh nghe thấy một âm thanh như tiếng sấm rền nặng nề, Đường Phong không hiểu đây rút cuộc là chuyện gì, nhưng bản năng mách bảo anh rằng – chỗ này không nên ở lại lâu!
Vậy là, Đường Phong quay lại gọi Hàn Giang và Từ Nhân Vũ: “Vừa nãy Khương Trại lắc lư đấy, mau rời khỏi đây thôi!”
Hàn Giang và Từ Nhân Vũ chạy lên, bốn người đứng dưới vọng gác, Đường Phong theo bản năng ngẩng đầu nhìn lên phía trên vọng gác. Lúc này mới thấy, Khương Trại lại khẽ rung chuyển trong tiếng sấm kinh hoàng, ngay sau đó, từ trên đỉnh vọng gác, mấy chục viên đá khổng lồ kích cỡ khác nhau đang rơi xuống, rơi thẳng đứng chực đè vào Đường Phong và mọi người trong vọng gác.
Đường Phong hét toáng lên: “Nguy hiểm!” - rồi xô ngã Lương Viện vẫn đang đứng ngây người ở chỗ cũ. Hai người theo đà đổ nhào về phía trước, né được tảng đá khổng lồ từ trên đỉnh vọng gác rơi xuống, nhưng vẫn bị bụi đá phủ kín người. Mãi một lúc sau, Lương Viện mới tỉnh táo lại, lắc lắc đầu, quay lại nhìn, Đường Phong đang ôm lấy cô nhưng vẫn bất tỉnh nhân sự. Lương Viện kinh ngạc thất sắc, quay người lồm cồm bò dậy, nhoài lên người Đường Phong, ra sức lay anh dậy. Đường Phong vẫn hôn mê, Lương Viện vô cùng sợ hãi, cô bắt đầu ra sức đập vào ngực Đường Phong, miệng hét lên: “Đường Phong… anh đừng có dọa tôi chứ!”
Giọng Lương Viện nghẹn ngào, nước mắt sắp rơi lã chã, Hàn Giang và Từ Nhân Vũ ở cạnh bên vừa mới lồm cồm bò dậy cũng chạy đến, Hàn Giang kiểm tra thân thể của Đường Phong nhưng không thấy thương tích bên ngoài, lúc đó anh mới yên tâm hơn. Hàn Giang cõng Đường Phong trên lưng, sau đó hét lên với Lương Viện và Từ Nhân Vũ: “Lên trên đã rồi tính tiếp!”. Khi bốn người trở lại bên giá bếp trong phòng khách trên tầng hai thì mới phát hiện ra bên ngoài Khương Trại mây đen kín trời, mưa như trút nước.
Khoảng mười phút sau, Đường Phong rút cuộc cũng từ từ tỉnh lại. Lương Viện thấy Đường Phong tỉnh lại vội vàng quệt nước mắt, hờn trách: “Anh cũng ác thật đấy, giờ mới chịu tỉnh”.
Đường Phong cố gắng nhớ lại mọi chuyện ban nãy, thấy mình đang nằm trong lòng Lương Viện anh bỗng bật ngay dậy: “Đại tiểu thư, ban nãy hình như là tôi cứu cô đấy, cô vẫn hung tợn với tôi như vậy sao!”
“Đúng là anh đã cứu tôi, nhưng vừa nãy anh cũng dọa tôi sợ chết đi được đấy!”
Lương Viện nói vậy khiến Đường Phong nghẹn họng, còn Hàn Giang và Từ Nhân Vũ không thể nhịn cười. Đường Phong lườm Lương Viện một cái, đến ngồi cạnh giá bếp, hỏi Lương Viện: “Ban nãy mọi người đã nhìn thấy những tảng đá to từ trên vọng gác rơi xuống rồi chứ?”
“Nhìn thấy rồi, may mà cậu hét lên nên mọi người mới thoát chết!” - Hàn Giang nói.
“Anh nói xem ban nãy là thế nào?”
“Ban nãy tôi chỉ nghe thấy một tiếng sấm nặng nề, sau đó những tảng đó khổng lồ kia từ trên đỉnh vọng gác rơi xuống, tôi cho rằng đỉnh vọng gác bị sét đánh trúng khiến cho những tảng đá đó rơi xuống” - Hàn Giang phân tích.
“Như vậy thì trùng hợp quá, đúng lúc chúng ta ở đây thì bị sét đánh?”
“Thôi đi, giờ nên cảm ơn vận may thì hơn, sau đó tôi nhìn lại địa đạo thì nó đã hoàn toàn bị bịt kín bởi những tảng đá khổng lồ, nếu như chúng ta chạy chậm một bước thì chắc là đã bị nhốt trong đó rồi cũng nên, một bên là đá tảng khổng lồ, một bên là xương trắng chất đống, giờ nghĩ lại tôi vẫn còn rùng mình đây này!” - Hàn Giang đầy vẻ sợ sệt.
Trời đã hoàn toàn tối sẫm, bên ngoài Khương Trại mưa càng lúc càng to, Hàn Giang muốn nhóm một đống lửa nhưng khổ nỗi trong đây không có củi, bốn người đành phải chia nhau hết số thức ăn trong túi của Từ Nhân Vũ, coi đó là bữa tối, còn Từ Nhân Vũ thì châm tẩu thuốc thân yêu của anh ta lên, ngất ngây chìm đắm trong đó.
3
Từng cơn gió lạnh buốt từ khe cửa luồn vào, để tiết kiệm, không ai bật đèn pin lên cả, bốn người lặng lẽ ngồi quây quanh giá bếp trong Khương Trại tối om. Từ Nhân Vũ thở dài, nói: “Chẳng làm được cái gì cả, làm thế nào để vượt qua được đêm đông đằng đẵng này đây?”
“Ngủ!” - Hàn Giang cười nhạt.
“Ngủ ở cái nơi quái quỷ này ư? Tôi không ngủ được!” Từ Nhân Vũ nói.
“Đúng vậy, đêm nay tôi không dám ngủ đâu!” - Lương Viện cũng phụ họa theo.
“Cũng không biết Stephen sao rồi nhỉ? Lẽ nào anh ấy đã rơi xuống và chết thật rồi! Đến cả tiếng kêu cứu cũng không có nữa” - Đường Phong rì rầm.
“Đừng nghĩ nữa! Tôi thấy cái động đó sâu hoắm, không thấy đáy, nhưng chưa chắc rơi xuống địa đạo lại sâu như vậy, đáy động vẫn còn chưa biết là chỗ nào nữa là? Cứ coi như là cái động mà Stephen rơi xuống đó thông với địa đạo, vậy thì trong đó có thể có gì? Quái vật? Những cái bẫy bí hiểm? Sợ rằng chỉ có một vũng nước, anh ta cũng toi rồi! Ôi! Thoát được nạn máy bay thì lại chết trong cái Khương Trại cổ nhân xây dựng nên này!” - Từ Nhân Vũ than thở nói.
“Còn cả Makarov và Yelena nữa, nếu như hai người họ cũng xuống núi rồi, sợ rằng…” - Lương Viện mở to đôi mắt hoảng hốt, không dám nói tiếp nữa.
Đường Phong nhìn Hàn Giang trầm ngâm im lặng bên cạnh, hỏi: “Anh đang nghĩ gì vậy? Sao lại không nói gì?”
Hàn Giang đáp: “Tôi đang nghĩ, cái cầu thang xoắn ốc trong cánh cửa thứ hai dẫn xuống thủy lao dưới địa đạo, vậy thì, cầu thang trong cánh cửa thứ nhất sẽ dẫn đến đâu nhỉ?”
“Sao? Anh vẫn muốn vào đó xem thế nào ư?” - Từ Nhân Vũ ngạc nhiên.
“Còn nữa, con mèo đen đó đâu? Sau khi chúng ta đi theo nó vào đoạn địa đạo xương người cuối cùng đó thì đã không nhìn thấy nó đâu nữa?” - Hàn Giang không trả lời câu hỏi của Từ Nhân Vũ, mà tiếp tục nói lên những nghi vấn trong lòng.
“Con mèo đó chắc chắn đã bị kẹt trong địa đạo rồi!” - Từ Nhân Vũ khẳng định.
“Biết đâu… biết đâu mèo đen có thể lách qua những kẽ hở giữa những hài cốt, tiếp tục đi vào trong địa đạo” - Đường Phong đột nhiên bẩm lẩm.
Hàn Giang gật đầu đáp: “Tôi nghiêng về giả thuyết của Đường Phong, cơ thể của mèo rất dẻo dai nên rất có khả năng nó sẽ lách qua được những khe hở hài cốt đó, tiếp tục đi vào địa đạo”.
“Đi tiếp vào thì sẽ là gì nhỉ?” - Lương Viện hỏi.
“Khả năng là cái động sâu mà Stephen rơi xuống đó, cũng có khả năng chẳng có gì cả, chỉ là một bức tường, ai mà biết được?” - Hàn Giang ngập ngừng một lúc, nói tiếp: “Tóm lại, việc ở đây xuất hiện một con mèo là vô cùng kỳ lạ”.
“Có gì là lạ? Chẳng qua chỉ là một con mèo hoang thôi mà?” - Lương Viện không hiểu.
“Mèo hoang cũng không thể xuất hiện ở vùng núi không một bóng người thế này được!” - Hàn Giang nói.
Lời của Hàn Giang khiến Đường Phong giật thót trong lòng: “Ý anh là... ở đây vẫn còn có người ở?”
“Á!... Ở đây vẫn còn có người khác!” - Lương Viện sợ hãi đến nỗi nhảy dựng lên khỏi sàn nhà, hoảng hốt nhìn xung quanh, như thể xung quanh đang có vô số những con mắt nhìn chằm chằm vào mình.
Hàn Giang hất hất tay, ra hiệu cho Lương Viện ngồi xuống. Đợi Lương Viện bình tĩnh trở lại, Hàn Giang mới chậm rãi nói: “Ở đây không có lấy một vết tích của sự sống con người, hơn nữa ở vùng núi cách biệt với thế giới bên ngoài này, con người không thể sinh tồn được.” - Hàn Giang vươn vươn vai, nói tiếp: “Mọi người không cần phải đoán mò nữa, ngày mai chúng ta sẽ đi xuống cầu thang xoắn ốc trong cánh cửa thứ nhất xem thử, nếu như không phát hiện ra điều gì, mưa tạnh, chúng ta sẽ tiếp tục lên đường. Mục tiêu của chúng ta vốn không phải là giải đáp những bí ẩn ở đây, mà là nhanh chóng thoát ra khỏi vùng núi này, ứng cứu hành khách gặp nạn. Còn về chỗ này và cả Stephen nữa, đợi nhân viên cứu viện đến, dọn đống xương cốt đó đi thì sẽ nhìn rõ mọi thứ. Hiện tại thời gian của chúng ta rất quý báu, mọi người hãy tranh thủ nghỉ ngơi, đừng nói sợ không ngủ được, không ngủ được cũng phải ngủ, ngày mai còn phải lên đường”.
Nói xong, Hàn Giang kiểm tra lại lần nữa cửa chính của Khương Trại và từng cánh cửa trong phòng khách. Sau khi đóng chặt tất cả các cửa Hàn Giang mới yên tâm nằm xuống. Đường Phong, Lương Viện và Từ Nhân Vũ cũng nằm xuống, miệng thì nói không ngủ được, không dám ngủ, kết quả Lương Viện và Từ Nhân Vũ vừa nằm xuống một cái đã ngủ say không biết gì. Đường Phong thì vẫn hồi tưởng lại những việc gặp phải ban sáng, nhưng anh không nghĩ ra được điều gì, đầu óc cứ rối tung cả lên…
4
“Pai” một tiếng, trong địa đạo ẩm ướt tối đen bỗng lóe lên một luồng ánh sáng. Đường Phong không cần tới đèn pin, một mình đi trong địa đạo tối đen, bên cạnh anh là những đống hài cốt được chất ngay ngắn chỉnh tề, địa đạo xương người! Đường Phong lại tới điểm cuối cùng của địa đạo xương người, ở đây, xương trắng chất cao như núi, chặn đứng đường đi của anh.
Đường Phong lặng lẽ nhìn đống xương cốt trước mặt, hình như quên cả sự hoảng sợ. Những hài cốt này là những ai? Họ từ đâu tới? Sao lại bị chất đống ở đây? Nghĩ tới đây, anh bất giác thò tay ra, khẽ chạm vào đỉnh một chiếc xương sọ, lại thêm một cái, thêm một cái nữa, một cái lại một cái, Đường Phong đang chạm vào những linh hồn xa xăm… Khi tay Đường Phong chạm vào một trong những chiếc xương sọ đó, đống hài cốt chất như núi trước mặt anh, không biết do sức mạnh từ đâu, bỗng tách ra làm đôi, sức mạnh đó đưa Đường Phong tiến thẳng lên phía trước, đi vào địa đạo sâu thẳm hơn. Vành tai, bên má, bên cạnh người anh đều là xương cốt trắng toát, chỉ có một đường đi nhỏ hẹp lóe lên phía trước. Sức mạnh thần bí đẩy Đường Phong đi càng lúc càng nhanh, Đường Phong cảm thấy khó thở, không mở được mắt, nhưng anh vẫn cố gắng hết sức để mở mắt ra, anh bắt buộc phải nhìn rõ phía trước, trước mặt sẽ là gì? Sẽ có thứ gì đáng sợ hơn xuất hiện?
Bỗng sức mạnh thần bí đó biến mất, Đường Phong đến tới cuối địa đạo, anh nghiêng ngả lao về phía trước, khó mà đứng vững được, anh nhìn thấy một người đứng trong bóng tối phía trước mặt. Anh là ai? Đường Phong bất giác bước một bước lên phía trước, người đó cũng bước lên một bước, giờ thì Đường Phong đã nhìn thấy quần áo trên người người đó, là… là Stephen.
“Stephen!” - Đường Phong kinh ngạc vui mừng hét lên, nhưng, khi đầu người đó hoàn toàn lộ ra khỏi bóng tối, Đường Phong ngạc nhiên thẫn thờ, đó… đó không phải là mặt của Stephen, mà là một cái đầu lâu trắng toát đáng sợ!
Đường Phong lùi lại phía sau, bộ xương trắng đó tiến lên phía trước, Đường Phong từng bước từng bước lùi lại phía sau, bỗng nhiên cảm giác lưng mình tựa vào một vật nào đó, Đường Phong quay ngoắt đầu lại, phát hiện địa đạo sau lưng mình đã bị bịt kín, sau lưng… lại là từng hàng xương cốt chỉnh tề! Đường Phong không còn đường nào rút lui, anh quay đầu lại, nhìn bộ hài cốt trước mặt đang tiến lại gần, bộ xương đưa cánh tay phải khủng khiếp ra, một tay tóm chặt cổ họng Đường Phong, Đường Phong mở to đôi mắt hoảng hốt, con ngươi của anh cũng tức tốc giãn căng ra, anh cảm thấy tức thở, anh muốn hô hấp, nhưng không sao hét lên được…
“Buông tôi ra!” - Đường Phong hét toáng lên, rồi bừng tỉnh cơn mộng mị. Tiếng hét của anh khiến Lương Viện và Từ Nhân Vũ tỉnh dậy. Từ Nhân Vũ vội vàng hỏi Đường Phong: “Anh sao thế?”
Đường Phong quệt quệt mồ hôi lấm tấm trên trán, đáp: “Mơ thấy ác mộng!”
“Anh đúng thật là chưa lớn! Còn nằm mơ thấy ác mộng nữa!” - Lương Viện trách móc.
Đường Phong không đáp lại Lương Viện, anh đột nhiên phát hiện ra: “Hàn Giang… Hàn Giang đi đâu rồi?”
Lương Viện và Từ Nhân Vũ cũng trở nên hốt hoảng, đúng lúc ba người đang không biết phải làm thế nào thì đột nhiên, họ lại nghe thấy âm thanh kỳ lạ: “Pai!... Pai!... Pai!” - Âm thanh đó có giai điệu và tiết tấu. Đường Phong chăm chú lắng nghe, anh đã nhận ra, đó là âm thanh của gỗ đập vào nhau, hình như phát ra từ phía cửa chính. Anh ngồi dậy, bật đèn pin, bước về phía cửa chính, chỉ thấy cửa chính đang khép lại, chốc chốc lại bị thứ gì đó bên ngoài chọc vào, rồi lại đập trở lại, “pai!... pai!... pai!” - Đây là âm thanh cánh cửa đập vào khung cửa phát ra.
“Chuyện gì vậy?” - Từ Nhân Vũ sợ hãi hỏi khẽ.
“Tôi đi xem sao” - Đường Phong đứng dậy, đi về phía cửa chính của Khương Trại, nhưng kỳ lạ ở chỗ, khi Đường Phong vừa mới cất bước, cánh cửa đang đập bùm bụp vào khung cửa bỗng không động đậy nữa, âm thanh kỳ lạ đó cũng biến mất theo. Đường Phong đứng im sau cánh cửa. Đúng lúc này, Đường Phong đột nhiên cảm thấy có một sức mạnh khủng khiếp không thể khống chế ở phía bên ngoài cửa chính đẩy tung cánh cửa, lao thẳng vào người mình. Anh cảm thấy cơ thể mình trở nên vô cùng yếu đuối trước luồng sức mạnh này, anh liên tiếp lùi lại sáu bảy bước, rồi ngồi bệt xuống đất, đèn pin trong tay cũng rơi xuống lăn lông lốc ra xa.
Gió! Sức mạnh khổng lồ đó chính là một trận cuồng phong. Cửa chính của Khương Trại đã bị mở tung, Đường Phong ngồi trên sàn nhà cảm nhận được một làn gió lạnh toát sộc thẳng vào ống quần mình. Anh mở trừng mắt hoảng hốt, nhìn chằm chằm ra phía ngoài cửa, bỗng hành lang gỗ ngoài cửa vang lên tiếng bước chân rắn rỏi mà nhịp nhàng “Cộc! cộc! cộc…”.
5
Đường Phong cảm thấy lạnh giá thấu tận xương tủy, anh gồng mình lùi lại phía sau, Lương Viện và Từ Nhân Vũ ở sau lưng anh còn run rẩy lập cập hơn, sự sợ hãi đã lên đến đỉnh điểm. Một cái bóng vừa cao vừa dài in lên sàn nhà trước cửa chính, ngay sau đó, cùng với tiếng bước chân khủng khiếp đó, một bóng đen cao to xuất hiện trước cửa. Cánh tay phải của Đường Phong cuống cuồng mò mẫm trên sàn nhà, cuối cùng, anh cũng vớ được chiếc đèn pin bị rơi xuống, run rẩy bật đèn pin lên, soi về phía cửa, lắp bắp hỏi: “Ai…?”
“Đừng chiếu nữa, là tôi!” - Khi giọng nói đó vừa cất lên cũng là lúc Đường Phong cũng nhìn thấy rõ bóng đen ngoài cửa, hóa ra là Hàn Giang.
“Sao nửa đêm anh lại không ngủ, định dọa người ta à?” - Đường Phong bực bội.
Hàn Giang đi vào, đóng cửa, nói: “Tôi đang canh cho các người. Ở cái nơi quỷ quái như thế này, nếu cả bốn chúng ta đều ngủ, ngộ nhỡ gặp phải nguy hiểm gì thì có phải toi rồi không?”
“Canh ư? Thế anh chạy ra ngoài đó làm cái gì?”
“Bên ngoài đang có mưa nhỏ, tôi đi loanh loanh ngoài cửa, chỉ nghe thấy mấy tiếng chim hót quái dị, ngoài ra chẳng phát hiện ra thứ gì lạ cả!” - Hàn Giang giải thích.
Lúc này Lương Viện và Từ Nhân Vũ mới định thần lại, cùng nhau oán thán Hàn Giang. Cuối cùng, Hàn Giang không chịu được nữa, hất hất tay, nói: “Được rồi, được rồi, đều tại tôi, các anh các chị khẩn trương đi ngủ đi!”.
Lương Viện, Đường Phong và Từ Nhân Vũ lại nằm xuống, một phút sau, Lương Viện và Từ Nhân Vũ đã lại thiếp đi, còn Đường Phong vẫn đang nghĩ tới giấc mơ ban nãy, một cơn ác mộng kỳ lạ! Nửa tiếng sau, Đường Phong vẫn chưa ngủ được, anh vừa mới trở mình thì đã bị Hàn Giang ở bên cạnh khẽ đá cho một cái, Hàn Giang kề vào tai anh, nói nhỏ: “Vẫn chưa ngủ à? Không ngủ được thì tới nói chuyện với tôi!”
Nói xong, Hàn Giang đứng dậy rón rén đi ra phía cửa chính, Đường Phong không hiểu gì, theo Hàn Giang ra cửa. Ra tới bên ngoài, Hàn Giang vỗ vỗ vai Đường Phong nói: “Ban nãy tôi định tìm cậu nói chuyện riêng, ai ngờ cậu ngủ say thế!”
“Phí lời, đi cả ngày rồi, đêm qua cũng chẳng ngủ mấy, ai mà không buồn ngủ cơ chứ!”
“Được rồi, đừng ca thán nữa, tôi tìm cậu để muốn hỏi cậu vấn đề quan trọng nhất đây”.
“Vấn đề quan trọng nhất? Vấn đề gì?”
“Đây có phải là Hắc Đầu Thạch Thất mà chúng ta muốn tìm kiếm không?”
Đường Phong trầm ngâm hồi lâu, trả lời: “Theo như tôi thấy thì không giống, tuy ở đây chúng ta đã phát hiện ra bia đá của văn tự Tây Hạ, nhưng căn cứ theo mấy câu thơ trên kệ tranh ngọc, Hắc Đầu Thạch Thất phải là một tập hợp kiến trúc có tính chất sùng bái thần linh mà người Khương Đảng Hạng thời kỳ đầu xây dựng tại dải tây bắc Tứ Xuyên, mà cũng có khả năng là một hang núi. Chắc nó phải cổ kính hơn nhiều, vì phải được làm từ trước khi người Khương Đảng Hạng di cư về phương bắc, vào thời Tùy - Đường; còn Khương Trại ở đây, niên đại kiến trúc của nó chúng ta đã xác định rõ ràng rồi, sớm nhất cũng từ những năm đầu triều Minh thôi, nên xét về niên đại thì cách nhau mấy trăm năm, bởi vậy tôi cho rằng ở đây chắc không phải là Hắc Đầu Thạch Thất”.
“Lẽ nào đây chỉ là một Khương Trại?”
“Đương nhiên đây không phải là một Khương Trại thông thường, bởi chỉ dựa vào tấm bia tàn văn tự Tây Hạ đó là đủ để nói rõ mối quan hệ giữa Khương Trại này và di dân Đảng Hạng, những người kiến tạo ra nơi này chính là di dân Đảng Hạng quay trở lại Tây Bắc Tứ Xuyên sau khi Tây Hạ bị diệt vong”.
“Cũng có nghĩa là, ở đây tuy không phải là Hắc Đầu Thạch Thất, nhưng cũng đã rất gần với mục tiêu của chúng ta rồi?”
“Tôi đoán là vậy, nhưng tôi nghĩ chúng ta không dễ dàng tìm ra Hắc Đầu Thạch Thất như vậy đâu.” - Đường Phong nói tới đây, ngừng lại một lúc, rồi nói tiếp: “Đúng rồi, nếu anh không nhắc đến Hắc Đầu Thạch Thất, thì suýt nữa tôi cũng quên nói với anh, trên tấm bia tàn chúng ta nhìn thấy ở cuối địa đạo, dòng thứ nhất có mấy chữ Hắc Đầu Thạch Thất, sau đó nó cũng xuất hiện thêm lần nữa”.
“Ồ! Sao lúc đó cậu không nói?”
“Vì tiến sỹ Từ, anh ta vẫn chưa phải là người của chúng ta mà đúng không?”
“Đúng! Cậu làm rất đúng, có những việc anh ta không được phép biết, nhưng bây giờ thì anh ta cũng biết được một chút rồi đấy, dù sao, chúng ta cũng không thể bỏ anh ta ở đây. Đây cũng là một việc khó xử, không biết tiếp theo đây sẽ gặp phải những gì nữa” - Hàn Giang lại thở dài.
“Được rồi, đừng nghĩ nhiều nữa, mai ta sẽ làm theo lời anh, việc khẩn cấp trước mắt không phải là Hắc Đầu Thạch Thất, mà là nhanh chóng thoát ra khỏi đây.” - Đường Phong quay lại an ủi Hàn Giang.
Khi hai người nói chuyện, trời lại đổ mưa to, Hàn Giang và Đường Phong trở lại phòng khách, cả nửa đêm sau đó, hai người thay nhau thức canh, mãi cho tới tận khi phía đông hửng sáng.
Sáng sớm hôm sau, lúc mọi người tỉnh dậy, bên ngoài Khương Trại đã tạnh mưa. Đường Phong ra ngoài cửa Khương Trại, phát hiện dòng suối trong khe núi, chỉ trong vòng một đêm, mực nước đã dâng cao, thác nước hôm qua xém chút nữa lấy mất mạng của Đường Phong, giờ đã hình thành một quần thể thác hùng vĩ, từ trên cao dội xuống, tạo ra những âm thanh ầm ầm.
Đường Phong quay vào trong Khương Trại, Hàn Giang và mọi người đã chuẩn bị xong xuôi. “Sao rồi? Theo kế hoạch của anh, vào cánh cửa thứ nhất xem sao chứ?” - Đường Phong hỏi Hàn Giang.
“Tôi đã lên kế hoạch, thường thì sẽ không thay đổi” - Hàn Giang kiên định nói.
“Anh có nhìn thấy con mèo không?” - Đường Phong đột nhiên hỏi Hàn Giang.
Hàn Giang ngạc nhiên trước câu hỏi kỳ lạ này của Đường Phong, anh hơi sững người một chút, hỏi lại: “Lần cuối cùng là nhìn thấy nó trong địa đạo xương người, rồi sau chẳng biết nó biến đâu, sao, anh phát hiện ra điều gì à?”.
Đường Phong lắc lắc đầu: “Không, tôi chỉ tiện thể hỏi thôi.” - Nói xong, Đường Phong đeo ba lô, tư thế sẵn sàng.
Lần này, Hàn Giang đi đầu, mở cánh cửa gỗ đầu tiên bên trái ra, giống như những gì hôm qua anh nhìn thấy, một chiếc cầu thang xoắn ốc bằng gỗ cũ kĩ thông xuống phía dưới. Hàn Giang bật đèn pin, vòng ba bốn vòng của cầu thang xoắn ốc thì tới một căn phòng nhỏ kín mít. Hàn Giang dùng đèn pin quét một lượt khắp phòng, trong phòng có hai cánh cửa nhỏ giống hệt nhau, Hàn Giang nghi ngờ hỏi: “Cầu thang xoắn ốc này xem ra chỉ tới đây thôi”.
Đường Phong cũng rất ngạc nhiên: “Đây là tầng một của Khương Trại, xem ra cầu thang xoắn ốc này chỉ dẫn tới đây, nhưng cầu thang xoắn ốc hôm qua chúng ta đi xoáy rất nhiều vòng, chắc là thông thẳng xuống dưới lòng đất Khương Trại, đây chắc là sự khác biệt của hai cầu thang”.
“Bởi thế nên người của Khương Trại năm đó đã xây hai cầu thang xoắn ốc này”. - Từ Nhân Vũ nói.
“Còn có một cái động nữa mà, hoặc gọi là giếng cũng được!” - Câu này của Lương Viện khiến mọi người lại nhớ tới Stephen.
“Để chúng tôi thử xem hai cánh cửa gỗ này thông với đâu?” - Hàn Giang nói xong, bước tới trước một cánh cửa, lấy tay đẩy đẩy, cánh cửa không nhúc nhích, có vẻ đã bị khóa rồi. Hàn Giang lại chuyển sang cánh cửa gỗ còn lại, dồn sức đẩy một cái, cửa mở, Hàn Giang cảnh giác bước vào, Đường Phong và hai người kia cũng bám sát theo sau. Sau cánh cửa là một không gian không lớn lắm, bốn người ngẩng đầu nhìn lên, Đường Phong bất giác kêu lên: “Chúng ta đã vào một vọng gác khác trong Khương Trại rồi”.
Đúng vậy, họ đã vào trong một vọng gác khác của Khương Trại, bởi trong vọng gác cao to này, họ nhìn thấy một cầu thang gỗ xoắn ốc còn to lớn hơn, cầu thang gỗ uốn lượn lên trên, thông thẳng lên phía trên vọng gác”.
Hàn Giang kinh ngạc nói: “Thật không ngờ bao năm qua rồi mà chiếc cầu thang này vẫn còn tồn tại”.
“Đúng thế, như vậy là chúng ta có thể lên trên rồi.” - Nói xong, Đường Phong vội vàng hấp tấp bước lên cầu thang gỗ xoắn ốc trong vọng gác. Sau khi đã đi vòng bốn vòng cầu thang, họ đã lên tới bậc trên cùng của cầu thang xoắn ốc. Đường Phong tỉ mẩn quan sát rồi chỉ vào sàn gỗ trên đỉnh đầu, nói với mọi người: “Cầu thang xoắn ốc thông tới đây, nhưng bên trên chắc là vẫn còn có không gian, vọng gác này rất cao, nhưng xem ra chúng ta không thể leo tiếp lên trên được nữa rồi”.
Hàn Giang nói: “Có vẻ là như vậy, nhưng mọi người xem này”. Vừa nói, Hàn Giang vừa chỉ vào một cánh cửa gỗ xuất hiện trên tường: “Ở đây vẫn còn một cánh cửa nữa”.
Hàn Giang bước lên phía trước, ra sức đẩy cánh cửa này, một tia nắng chói mắt chiếu thẳng tới. Hàn Giang thận trọng, bước qua cửa. Bên ngoài là một ban công lộ thiên, Đường Phong tới bên ban công, nói với mọi người: “Đây chính là ban công trên đỉnh tầng bốn mà hôm qua tôi nói với mọi người đấy, có vẻ như là chúng ta đã không qua tầng ba, mà lên thẳng tầng trên cùng rồi”.
Đường Phong chăm chú quan sát ban công, ở đây có một dãy năm phòng thông nhau, được xây dựa vào tường phía sau, sát cạnh tường bên trái và bên phải là hai phòng có xây tường đá, trên mỗi bức tường đá đều có một cánh cửa sổ hình sừng dê, ba phòng ở giữa không có cửa sổ, hoàn toàn mở ra, chỉ dựa vào hai chiếc trụ để chống lên, đối diện với ban công lộ thiên. Đường Phong đứng trên ban công, hít thở làn không khí tươi mới, mắt nhìn xung quanh, núi xanh quanh co, nước biếc róc rách, anh không kìm chế được niềm vui trong lòng: “Nơi đây chỉ cần sửa chữa thêm một chút thì sẽ thành một biệt thự nghỉ ngơi thư giãn rất tuyệt đấy!”
“Hừm! Vậy thì sau này anh dọn đến đây ở đi!” - Hàn Giang quan sát xung quanh một lượt, nhưng không phát hiện ra điều gì khác thường. Khi anh đứng thẳng chính giữa ban công, ngẩng đầu lên, đột nhiên nhìn thấy một tảng đá màu trắng cao cao nhô ra trên trần bức tường phía sau, nó hiện lên vô cùng bắt mắt dưới ánh nắng chiếu thẳng.
7
“Đó là cái gì nhỉ?” - Hàn Giang chỉ vào tảng đá trắng trên bức tường phía sau hỏi.
“Tảng đá đó gọi là bạch thạch, là thiên thần của người Khương, cũng gọi là thần Bạch Thạch. Người Khương tôn sùng màu trắng, sùng bái bạch thạch từ lâu đời rồi. Truyền thuyết kể rằng từ cổ xưa, khi người Khương chiến đấu với kẻ địch, trận nào thua trận đấy, sau này, vào một đêm lạnh giá, thủ lĩnh Mâu Tân của dân tộc Khương vô tình đã có được lời căn dặn của thần Bạch Thạch. Thần nói với ông, ngày thứ hai quyết chiến, dùng đá bạch vân rắn chắc và gậy gỗ làm vũ khí thì sẽ đánh bại được kẻ địch. Người Khương làm theo lời dặn dò của thần Bạch Thạch, quả nhiên đã đánh bại được kẻ địch. Kể từ đó, người Khương liền tôn thần Bạch Thạch làm thiên thần, và trên tất cả các kiến trúc của Khương tộc đều đặt một tảng đá trắng để cầu cho thiên thần phù hộ. Mọi người xem, trên hai vọng gác đều có phiến đá trắng” - Đường Phong giải thích một chút về nguồn gốc của phiến đá trắng.
Hàn Giang nhìn lại lần nữa ban công này, anh nhíu mắt, nhìn nhìn vọng gác bên phải, một phần đỉnh vọng gác bên phải đã sụp đổ, xem ra đây chính là phần vọng gác mà hôm qua suýt nữa rơi xuống người họ. Hàn Giang lại chuyển sang nhìn vọng gác bên trái, vọng gác bên trái hoàn toàn nguyên vẹn, trên đỉnh vọng gác cũng có một tảng đá trắng, nó cao sừng sững tới tận tầng mây, trời xanh, mây trắng, nên sự bí hiểm kỳ lạ của thần Bạch Thạch có sức mạnh không thể ngờ tới… Đột nhiên, tảng đá trắng trên đỉnh vọng gác đó lắc lư, là gió? Hay là?... ? Hàn Giang đột nhiên trợn trừng mắt, hét lên: “Trên vọng gác có người!”.
Đường Phong và mọi người vẫn chưa kịp phản ứng gì thì Hàn Giang đã kéo ngay họ nhoài ra đất, ngay sau đó, là những tiếng “Đoàng, đoàng, đoàng!” vang lên - một loạt tiếng súng vang lên trong hoảng loạn. Hàn Giang đã yểm hộ để mọi người vào trong dãy phòng phía sát tường, tiếng súng lúc này mới dừng lại.
Không khí dường như ngưng đọng, người trên vọng gác không tiếp tục bắn nữa, Hàn Giang và Đường Phong đều hiểu rằng, họ đang đợi “con mồi” xuất hiện lại. Lúc này, trên ban công tầng bốn, chỉ còn lại tiếng gió đang gào thét giữa đại ngàn.
Một phút, hai phút, ba phút… mười phút sau, Hàn Giang nghe thấy tiếng bước chân dồn dập từ vọng gác vọng lại, anh lộ ra nụ cười tự tin, nói nhỏ: “Một tên, hai tên, ba tên, bốn tên, năm tên, sáu tên, được! Tổng cộng có sáu tên. Đường Phong, Lương Viện, tiến sỹ, mọi người mau trốn vào góc khuất trong góc phòng đi, lúc nữa đánh nhau tôi không để ý được mọi người, mọi người tự lo cho mình nhé”.
“Có lẽ tôi có thể giúp được anh” - Đường Phong nói.
“Đúng vậy! Không biết chừng chúng tôi có thể giúp được anh!” - Từ Nhân Vũ tuy hoảng hốt, nhưng chẳng mấy chốc đã trấn tĩnh trở lại.
“Không cần đâu, sáu gã, một mình tôi đối phó được, khi nào cần mọi người, tôi sẽ gọi” - Hàn Giang nói như đinh đóng cột.
“Nhưng súng của anh chỉ còn có sáu phát đạn” - Đường Phong bồn chồn lo lắng.
“Kể cả không có súng, tôi cũng có thể đối phó với mấy tên tép riu này! Dĩ nhiên, có súng thì vẫn dùng súng, sáu phát đạn, vừa vặn mỗi tên một phát.” - Đường Phong vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng Hàn Giang đã ngắt lời anh: “Kể từ bây giờ, chúng ta không được nói chuyện nữa, dùng ngôn ngữ bằng tay, mọi người nhất định phải trông chừng Lương Viện, đừng để cô ta lên tiếng”.
Lương Viện nghe thấy Hàn Giang nói vậy thì không hài lòng, đang định mở miệng tranh luận liền bị Đường Phong bịt ngay miệng lại, lôi vào một góc khuất phòng, bên cạnh vừa hay lại có một đống đồ linh tinh phủ đầy bụi, có thể sau đó nấp, Hàn Giang thì nấp sau một chiếc cột, anh đã chuẩn bị sẵn sàng…
Sáu tên cướp nhảy vào vọng gác, rơi xuống ban công trên tầng bốn, sáu tên phân thành hai nhóm, tay cầm súng tiểu liên MP510A3 do Đức sản xuất, từng bước tiến lại gần. Tên cướp đi đầu giơ súng ra đằng sau, tất cả đám cướp đều dừng bước, tên cướp đó giương súng về phía dãy phòng sát tường, một loạt tiếng súng vang lên... Vào giây phút đó, gạch đá trong phòng văng ngang dọc, bụi bay mù mịt.
Đường Phong nấp sau cột, vài viên đạn từ cột bay sượt qua, anh vẫn không động đậy, anh biết, đám cướp này đang thăm dò. Hàn Giang nghe thấy tiếng bọn cướp thay băng đạn, tiếp đó, đám cướp tiến lên phía trước, càng lúc càng tiến lại gần vị trí chỗ anh đứng. Hàn Giang đã có thể nhìn thấy vài cái bóng của chúng. Anh nhìn nhanh Đường Phong đang nấp trong góc tường, Đường Phong cũng đang nhìn anh, ánh mắt đó hình như nói rằng có thể ra tay rồi, Hàn Giang nhẹ nhàng động ngón tay cái, ý là… đợi chút nữa!
Rút cuộc, thủ lĩnh của nhóm cướp đã đi tới cạnh chiếc cột mà Hàn Giang ẩn nấp, Hàn Giang quyết định, chỉ cần tên tiểu tử đó bước thêm nửa bước… hắn vẫn chưa phát giác ra điều gì, lại tiến lên phía trước nửa bước, chân vẫn chưa đặt xuống thì đột nhiên hắn phát hiện có vấn đề. Nhưng đã muộn rồi, khi hắn đang định quay người, giương súng bắn về phía Hàn Giang, tiếc rằng cự ly lại quá gần nên hắn đã mất hết cơ hội, chỉ thấy Hàn Giang đưa cánh tay cứng như thép ra kẹp lấy yết hầu tên tiểu tử, quật ngay hắn vào lòng, tay phải tức tốc giương súng, nhằm thẳng vào thái dương hắn, bóp cò, “pằng” một tiếng. Giải quyết xong tên tiểu tử này, cả quá trình nhanh gọn sạch sẽ, không quá năm giây.
Năm tên cướp còn lại vẫn chưa kịp phản ứng thì Hàn Giang đã nghiêng người xuất hiện trước mặt chúng, “Pằng! Pằng! Pằng! Pằng! Pằng!” - năm tiếng súng nổ, toán cướp vẫn chưa bắn phát nào thì đã bốn tên chết một tên bị thương, tên bị thương thấy tình hình không ổn, quay đầu chạy về phía ban công. Lúc này, khẩu súng 84 của Hàn Giang đã hết đạn, anh vứt khẩu súng đi, nhặt khẩu tiểu liên của một tên cướp, xông tới bên tên cướp đã chạy tới ban công và chỉ bắn một phát đạn... “A!...” - tên cướp trúng đạn, đứng không vững, lao đầu rơi xuống khỏi ban công.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip