Chính tinh
Luận về 14 chính tinh
Bài này dịch và chú bởi anh tuetvnb tại diễn đàn Lý số Việt Nam.
Trong Tử vi, 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn lá số. Nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh là mấu chốt của việc luận đoán. Xưa nay các sách đều viết rất nhiều, tuy nhiên cũng rất cần tham khảo thêm nhiều quan điểm. Tôi dịch phần "thập tứ chủ tinh tính chất" của nhà nghiên cứu nổi tiếng Vương Đình Chi để cùng tham khảo.
Vương Đình Chi là nhà nghiên cứu Lý Học nổi tiếng ở Hồng kông, nhưng sở trường nhất là Tử Vi, ông theo quan điểm của Trung Châu phái. Đọc Tử vi của Vương ĐÌnh Chi, về cơ bản cũng không ngoài nguyên lý chung của Tử vi, tuy nhiên cách nhìn nhận, lập luận và đánh giá có đôi chút khác biệt, vì thế tôi có thêm vào đôi lời bàn luận sau mỗi phần dịch để sáng tỏ thêm.
Vì kém về ngôn ngữ nên chắc sẽ có nhiều lỗi dịch thuật, mong được chỉ giáo.
Mười bốn chính tinh
Các đặc tính của tinh diệu dưới đây bao gồm các tình chất cơ bản của tất cả 14 chính tinh. Chỉ nêu những nét chính yếu, cần cái gì, kỵ cái gì. Bên trong cũng chỉ ra một ít cách cục đặc biệt như Nhật nguyệt phản bối, Mã đầu đới tiễn v.v.. Mặc dù không nhiều lắm nhưng nếu cẩn thận hiểu được thì cũng biết được đôi chút phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số.
TỬ VI
Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh ắt sẽ cần "Quần thần củng chiếu". Chính vì thế mà Tử vi nhất định phải được Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục bình thường.
Quần thần ở đây là: Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội hợp được Phủ Tướng ắt sẽ mạnh mẽ, có tài, có thế. Là tượng của Đề Hoàng nên cần sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng rộng rãi.
Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có học thức, có trí tài, cũng có khả năng làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì cá nhân gặp nhiều cơ hôi, có khả năng gia tăng địa vị.
Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người.
Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục.
Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, đối với Chủ tinh có sự trợ giúp rất lớn.
Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.
Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp.
Lời bàn: Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, cho nên nếu được Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ bình thường. Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới có tác dụng, nếu đơn lẻ một mình thì tác dụng giảm sút, coi như không có.
Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì như Tử vi, các sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều bất cập.
THIÊN CƠ
Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành chính đạo. Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.
Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa gia tăng khả năng thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ. Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là kẻ chỉ thích kiếm tiền.
Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.
Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn.
Thiên Cơ vốn được gọi là sao "Thiện Biến" cho nên tình cảm thường thay đổi mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.
Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ thể là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung.
THÁI DƯƠNG
Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan Lộc.
Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng.
Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh ban đêm nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng bình thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại phải xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương.
Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm tính chất quý hiển của Thái Dương, nhưng cần lưu ý là tại xã hội hiện đại thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, cho nên cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý vậy.
Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ mà rất thịnh, có khả năng danh lớn hơn lợi, cũng chưa hẳn là kết cấu đẹp. Trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương, người ta rất thoải mái. Cho nên cần xem xét kỹ tất cả các đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy.
Thái dương ở trên trời vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên các lời bàn về Thái Dương xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ "Quý", trước phải có "Quý" (danh tiếng) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có bản chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ bản chất này.
Lời bàn: Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng chỉ thực sự Quý đối với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét các phụ tinh hội hợp thì việc đặt ra vấn đề đồi với người sinh ban ngày hay ban đêm cũng được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có ý kiến rất thực tế khi gắn với xã hội hiện đại, cổ nhân thì cho rằng Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không đánh giá cao cái Quan Quý mà lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có tinh thần quảng bác "cho mà không nhận", trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy đồng tình với Vương tiên sinh, bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc lấn át, chuyên quyền không phải là không có.
VŨ KHÚC
Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành động kiếm tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán.Rất tốt nếu cư Quan lộc, Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục thân thì không tốt, ngại vì tính cương khắc thái quá.Người Vũ khúc tính cứng rắn, cho nên rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng.
Sao Vũ Khúc đối với Tứ Hóa cũng đặc biệt nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên tài khí càng vượng, cũng có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ gia tăng tính chất cương liệt của Vũ khúc cho nên đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa kỵ, cứng quá ắt gãy, vì thế Vũ Khúc – Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó.
Người Vũ khúc tính cô khắc, cho nên cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố (kho tiền), hai tài tinh gặp nhau là một sự kết hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp.Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổ hợp khó hoàn mỹ, chủ yếu là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng. Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là tính chất nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi khi cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc (đương nhiên Văn Khúc – Hóa kỵ thì càng tệ) "song khúc hội" nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần lưu ý trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục.Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, vì thế không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt.Nhưng Vũ khúc lại có hành động tương đối cao thượng, cho nên rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp.
Lời bàn: Vương tiên sinh thật chí lý khi luận rằng "Vũ khúc tuy là tài tinh nhưng có quá nhiều khuyết điểm, vì thế chớ thấy TÀI mà cho là tốt", chẳng thế mà cái cách Linh Xương Đà Vũ vốn dĩ xưa này là Bại cách, tối hung. Vương tiên sinh cho rằng Vũ Khúc có một đặc tính cố hữu là Cô Khắc, nhưng bản chất của cái việc Cô Khắc này là do tính cương cường mà ra, từ đó có thể suy ra rằng nếu Vũ Khúc được các phụ tinh là văn tinh, quý tinh trợ giúp thì có thể chế ngự được cái tính cô khắc cương cường của Vũ Khúc. Luận Tử vi như thế, xưa nay quả là hiếm có. Qua lời luận của Vương tiên sinh, cũng có thể thấy rằng cái sự phối hợp với nhau mới là quan trọng, một tinh tú đơn lẽ không làm nên được điều gì, mà cái sự cát hung phần nhiều làm nên ở các phụ tinh, tá tinh vậy.
THIÊN ĐỒNG
Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc tinh, chủ hưởng thụ và ý chí.
Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được hoàn cảnh tốt một số ít sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên người ta cũng thêm khó khăn vất vả. Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là không tốt đối với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì có thể tăng cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phú quý song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục xấu.Thiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách cục đặc biệt tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn gian khổ, có lúc rất vất vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là "vãn vận" (vận muộn), cho dù Thiên Đồng được đánh giá là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn.
Lời bàn: Xem ra quan điểm của Vương tiên sinh chú trọng nhiều vào vấn đề tài lộc, chính vì thế mà rất đề cao các Lộc tinh, tuy nhiên đối với Thiên Đồng thì ngoài cái đặc tính cố hữu, còn cần phải xem xét thêm cái vị trí miếu vượng của nó. Ở đây, một đặc tính quan trọng của Thiên Đồng mà Vương tiên sinh chỉ nhắc đến một cách mơ hồ, đó là tính canh cải thất thường. Vương tiên sinh cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được cái tính canh cái hay thay đổi của Thiên Đồng. Phần phân tích về việc Thiên ĐỒng hội Lộc tinh, lập luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cho rằng không phải là điều tốt, hé lộ quan điểm về việc kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan điểm của cổ nhân thì có lẽ tình chất cảu Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh nêu rõ ràng lắm.
LIÊM TRINH
Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh, chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì thành thiện, gặp ác sẽ thành ác.Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu khá lớn, nhất định phải chú ý cẩn thận.
Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp, tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng có thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó tránh. Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc (văn xương, văn khúc) và Lộc tinh, có khả năng phát huy cái mặt tốt lành của Liêm trinh, đó là cách cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn tốt lành, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì rất đẹp. Các tổ hợp trên đây gọi là "Gặp thiện thì theo thiện". Liêm trinh chủ về tâm tư tình cảm, nếu tốt thì tình cảm phong phú, là người cao nhã vui tính, Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí không thể khống chế được tình cảm của chính mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh sâu sắc tinh thần, khi suy đoán cần phải hết sức cân nhắc, đặc biệt là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm.
Lời bàn: Đoạn này không thấy Vương tiên sinh nhắc đến sự tương tác của Liêm trinh với Hóa Quyền, Hóa Kỵ, bởi một trong những đặc tính quan trọng của Liêm trinh là Tù tinh, vì thế mà khi gặp Quyền Kỵ tính chất sẽ thay đổi rất mạnh mẽ. Vương tiên sinh có lẽ đã quá chú trọng vào đặc tính Đào Hoa của Liêm, cho rằng đấy là sự ảnh hưởng mạnh mẽ, quan điểm này cũng cần phải suy ngẫm thêm.
THIÊN PHỦ
Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, cho nên cũng cần "quần thần đồng hội", so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng, cũng không có cái mạnh mẽ quyết liệt chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về khả năng vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, thì là người hành sự cẩn trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không có Lộc tinh mà lại gặp được các cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà biểu hiện của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài. Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì hoàn hảo, bởi vì xã hội ngày nay người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh cung thì dễ phát triển thành gian trá, phù thịnh.Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên phủ gặp cách xấu đặc biệt (gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp bất lương) còn không dù có gặp "gian" cũng chẳng lộ ra là "gian".
Lời bàn: Tính của Phủ vốn ôn lương hòa hoãn, tuy sức khai sáng không bằng Tử vi, nhưng cũng là chủ tinh. Cho nên lập luận rằng rất cần Quần thần hội hợp là rất sắc bén. Qua quan điểm của Vương tiên sinh thì thấy rằng vai trò của Phụ tinh vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trong đoạn này, cái lập luận về tính "gian" của Phủ là hoàn toàn mới mẻ. Bởi cổ nhân xưa nay vẫn cho rằng Thiên Phủ ôn lương, do vậy nếu nói rằng "nhược cư vu mệnh cung, tắc khả năng phát triển vi gian trá, xu viêm phụ thế" thì có vẻ như hơi khiên cưỡng. Đành rằng Thiên Phủ "phù thịnh bất phù suy" nhưng chưa hẳn đã đến nỗi phát triển thành gian trá. Điều này nên xem xét cẩn trọng.
THÁI ÂM
Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh ban đêm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh ban đêm, nếu người sinh ban ngày mà lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.
Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, cho nên Thái Âm cũng bao gồm ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành động cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang tính chất phụ tá. Có lúc lại có khả năng nắm giữ quyền lực tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa.Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.Nhưng tổ hợp của Thái Âm không ổn định, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm lãnh đạo. Nếu lại gặp Sát tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực.So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất khác biệt so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực.Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự khác biệt giữa Thiên phủ "thâm trầm", khác với Thái Âm là "Âm Sâm" (Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm).
Lời bàn: Trong đoạn này Vương tiên sinh đã căn cứ vào tính chất Âm-Dương của 2 sao Thái Âm – Thái Dương để lập luận. Thái Âm vốn dĩ xưa nay vẫn được coi là Tài tinh, theo Vương tiên sinh thì tính Tài của Thái Âm chính là do đặc tính "Thu liễm" mà ra, bởi vậy về mặt tư tưởng, Thái Âm tham lam hơn, không quảng bác như Thái Dương. Đặc biệt, trong đoạn này Vương tiên sinh đã thể hiện hai quan điểm. Thứ nhất, Vương cho rằng Thái Âm cần phải có ảnh sáng của Thái Dương mới huy hoàng được, bởi vậy nếu được đắc cách Nhật Nguyệt thì mới thự sự hoàn mỹ. Thứ hai, Vương cho rằng "Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ không làm gì được", đây chính là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Điều này xưa nay vẫn tranh cãi, tuy nhiên ta có thể rút ra một điều rằng, cho dù An Hóa Kỵ với Thái Âm, hay Hóa Khoa với Thái Âm, thì tuổi canh gặp cách này vẫn là đẹp.
THAM LANG
Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn có thể tốt. Nếu được chế hóa, tình dục vật dục đặt được cân bằng, mà lại được cát tinh hội hợp thì là cao cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm.
Hóa Lộc gia tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng. Tử Tham mà được Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa, nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, có thể làm đại tướng, uy chấn biên cương.Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có khả năng tình dục mạnh, thơ rượu phong lưu mà biến thành văn nghệ, nghệ thuật.Nếu không được chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa.
Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là "đổi thang mà không đổi thuốc" (chỉ thay đổi cái vỏ bề ngoài mà bản chất thì không đổi), mượn màu son phấn để che giấu toan tính.Tham Lang cũng là một tay giao tiếp đối đáp thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần nhiều là ở tửu sắc phong lưu. Cũng đôi khi thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở thích của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu chuyên sâu.Cũng dựa trên tính chất tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, ngộ Không, cũng với Thiên Hình có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật của Tham Lang.
Lời bàn: Vương tiên sinh có đưa ra quan điểm về các cách chế hóa đối với sao Tham Lang trong từng trường hợp. Tuy nhiên dường như Vương tiên sinh không coi trọng các tính chất về tài khí của Tham Lang, ngay cả khi gặp Hỏa linh, điều này có khác so với các quan điểm xưa nay. Có một điều mới ở đây là Vương tiên sinh cho rằng Thiên Hình có thể chế giải được tính dâm của Tham Lang, cũng cần phải xem xét.
CỰ MÔN
Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu.
Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị phi, nghi kỵ.
Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu thiệt, thậm chí kiện cáo. Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, cho nên tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền, cải hóa được Cự Môn, không chỉ ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn có thể trở thành nghề nghiệp, có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có đẳng cấp, lại có khả năng truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp thì phú quý không thiếu.
Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp tất cả mọi thứ. Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng ngôn từ che giấu người khác, biểu hiện là người thao thao bất tuyệt, thích tranh luận. Nếu như cách cục tốt (Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc), có học thức lại có sức biểu đạt tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường nói hão.Kỳ thực, tại hiện đại, Cự môn được đánh giá cao hơn so với cổ đại nhiều lắm, bởi vì hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh hoạt (bất kể là nói thật hay không thật). Tóm lại là những người ăn nói rất tốt, tuyệt không thể thiếu Cự môn.
Lời bàn: Vương tiên sinh đánh giá rất cao khả năng ăn nói của Cự Môn vì nó hợp với xã hội hiện đại, tuy nhiên cần phải nhớ rằng chỉ thực sự tốt khi Cự Môn đắc cách hội Quyền Lộc, Xương Khúc. Đoạn Vương tiên sinh luận rằng "Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ" thật là sắc bén. Duy chỉ có điều, chưa thấy Vương tiên sinh phân tích về tính Tài khí của Cự Môn.
THIÊN TƯỚNG
Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh, được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, cho nên nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính – giúp cho phường hung bạo. Bởi vậy, bản chất của Thiên tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng hoàn toàn chịu hoàn cảnh của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải hết sức cẩn thận.
Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên có thuyết nói rằng "Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng" – (Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật), có khả năng có cố tật, hoặc thân thể yếu đuối nhiều bệnh tật.
Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung (hai cung bên cạnh bản cung), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách "Hình Kỵ giáp Ấn" (do Thiên Lương là Hình) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách "Tài Ấm giáp Tướng" (Thiên Lương là Ấm), là một kết cấu đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn chủ yếu là xem sự phân bố của Lục Cát, Lục sát mà đoán định.
Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là "không có tính cách" (đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh không có tính cách).
Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp.
Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt ... đều có ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, đôi khi lại biểu hiện tính cách không thể làm chủ bản thân, như vẫn nói là "hình thể giống người mạnh" (thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh).
Thiên Tướng cũng có tính chất tương tự như Thiên Cơ. Đều dựa phần nhiều vào phụ tá.
Lời bàn: đoạn luận về Thiên tướng này của Vương tiên sinh chưa thật sắc xảo lắm. Có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng cái sự ảnh hưởng của Lân cung đến Thiên Tướng. Gần như các quan điểm của Vương tiên sinh đều trái ngược với những nhận xét của cổ nhân về Thiên tướng. Theo "đẩu số toàn thư" thì bản chất của Thiên Tướng vốn là Ấn tinh (ấn là con dấu, con triện), biểu thị cho uy quyền, tài lộc hơn thế nữa với nhận xét về tính tình của Thiên Tướng "kiến nhân nan hữu trắc ẩn chi tâm, kiến nhân ác hữu bất bình chi khí" (gặp người khó thì động lòng trắc ẩn, gặp kẻ ác thì nổi sự bất bình), thì càng không thể nhận xét rằng "thiên tướng là sao không có tính cách". Tính cách "gặp thiện theo thiện, gặp ác theo ác" của Thiên tướng không thể hiện rõ ràng lắm. Với các nhận xét về cách cục của Thiên tướng như ở trên chưa được thuyết phục lắm, ví như cách Hình Kỵ giáp Ấn mà bảo rằng Thiên Lương là Hình thì thật là chưa chính xác vậy, hơn thế nữa, bản chất của Hình Kỵ khi giáp Ấn không phải do Ấn tinh tạo nên, mà bất cứ sao nào khi gặp các cách GIÁP như Giáp hình kỵ, Giáp Dương Đà, Giáp Không Kiếp cũng đều xấu vậy, không hẳn chỉ có Thiên tướng. Dịch đoạn này cảm thấy nghi ngờ, không chắc có phải là quan điểm của Vương tiên sinh hay chỉ là do người sau thêm thắt vào? Người đọc cũng cần tham khảo và chắt lọc thêm vậy. Ngoài ra, một đặc tính về Tài của Thiên tướng chưa thấy được nhắc đến, vì Tướng và Phủ luôn trong tam hợp cho nên mới có câu "Phủ Tướng triều viên, nãi vi y lộc chi thần", là thần của y lộc. Có lẽ đây cũng là một thiếu sót chăng?
THIÊN LƯƠNG
Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có tính chất "cương khắc cô kỵ", nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên cách này là không tốt.
Nhưng Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM (hán việt: Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu). Ấm (tính chất) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là "tiên phá hậu lập" (trước phá đi rồi sau mới lập thành), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của Thiên Lương. Tuy nhiên, cuối cùng thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt.
Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình chất "ẤM" của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự "tiêu tai" là bởi Thiên Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh.
Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ: Cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng?
Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng (đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm (thâu nhận vào bên trong). Nếu như những điều ở trên hoàn toàn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.
Lời bàn: Dịch đến đây, mới thấy được Vương tiên sinh giải thích vì sao Thiên Lương lại hóa khí là Hình Tinh. Cũng là một ý kiến mới, khi ông cho rằng Thiên Lương có thêm tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ. Nhưng trên thực tế, và theo các tài liệu, quan điểm khác thì dường như tính chất này không rõ ràng lắm, có phần mờ nhạt. Nhưng ở đây, Vương tiên sinh rất coi trọng cái cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, có lẽ đây là quan điểm riêng của ông, cũng là một điều cần chiêm nghiệm. Tất nhiên, là tính chất của Thiên Lương cũng như bất kể một sao nào, đều phụ thuộc vào cái sự miếu hãm của nó, chứ không hẳn chỉ có đắc cách như Vương tiên sinh nhận xét. Cái điều Vương tiên sinh luận rằng "tiên phá hậu lập" rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân để lại, ở đời mấy ai giữ được, nếu không phải là nội lực tự cường. Việc Lương gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, chưa hắn chỉ có thế, có lẽ cần xem xét thêm các điều kiện khác nữa chăng.
THẤT SÁT
Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời.Là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên chiến trường, vì thế Thất sát mang theo tính chất cương khắc.
Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm sát tinh nữa, thì đời người càng thêm gian khổ.
Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ (1), hội Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ, trong cái sự phân công rất tinh tế của xã hội hiện đại, người chuyên nghiệp cũng tương đương với khái niệm giầu có.
Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là "hóa sát vi quyền" (biết SÁT thành QUYỀN). Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phú quý khỏi phải bàn. Nếu có sát tinh trùng phá, thì khả năng là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp.
Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của hoàng đế xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện quân lương mà thành sự, vì thế mà Thất sát rất cần gặp Lộc (rất tốt nếu gặp cả song Lộc). Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, vì thế mà Tả Hữu Xương Khúc đối với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng đối với Thất sát.
Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang vậy.
(1) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là " Hóa Thất Sát đích cương khắc, duy Lộc tinh tỵ" – Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi, nhưng như thế không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC.
Lời bàn: Đối với Thất Sát, điểm quan trọng là cái tính CƯƠNG KHẮC, Vương tiên sinh đã phân tích rằng "không nên gặp Hình Kỵ vì sợ quá cô khắc, nếu gặp thêm sát tinh thì đời người là càng thêm gian khổ", lý luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cổ nhân đã có câu "Thất Sát – Thiên Hình, cương táo nhi cô", trở nên cứng rắn, khô khan mà lại cô độc. Đương nhiên là cuộc đời sẽ vì thế mà kinh lịch gian tân. Tuy nhiên, cái sự lập luận ấy cần phải dựa trên tính lý của Sát mà luận, chứ chỉ căn cứ vào cái chuyện ví von Sát là chiến tướng mà phân tích, thì e rằng sẽ rơi vào chuyện suy diễn thường tình. Và cũng cần phải xem xét thêm luận điểm cho rằng Lộc tinh có thể giải trừ được cái tính cương khắc của Sát, điều này chưa hẳn đúng lắm, bởi Lộc tinh tuy có thể biến cái sự sát phạt của Thất sát thành tài phú, nhưng cái tính cương cường thì khó lòng vì thế mà mất đi được. Có thể trong xã hội hiện đại tiền bạc có thể đánh bóng con người, nhưng cái tính cương khắc của tinh diệu thì khó lòng cải biến được, cũng là điều cần suy ngẫm.
PHÁ QUÂN
Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất "chiến tướng" tương tự như Thất sát nhưng khác làở chỗ: Thất sát là tướng mà Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao.
Bởi Phá quân "năng công bất năng thủ"– hợp với thế tiến công hơn phòng thủ, nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính "động" nhiều hơi. Dù cho hội được tử vi thì cũng không thể vì thế mà "hóa phá vi quyền"– Tử vi dụng Phá quân thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng đến tính ổn định của Tử vi.
Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, có thể bị hình thương trên thân thể.
Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải thiện bản tính động. Với Hóa quyền cũng có thể tương tự như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc.
Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổ hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân có thể vừa "công", vừa "thủ", gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ.
Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ Thất Sát có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, vì thế tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi tính chất ổn định của Tử Vi được duy trì.
Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc "chiến tướng bị hao tổn" thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không thể là người nhàn nhã, lắm ý niệm.
Lời bàn: Về Phá Quân thì cũng có nhiều quan điểm trái chiều nhau. Ở đây, có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng hình ảnh "chiến tướng" khi đem so sáng với Thất sát, nhưng có lẽ về bản chất thì Phá Quân khổng hẳn thê. Sở dĩ Tử vi không làm cho Phá hóa Quyền được là chính vì cái tính phản nghịch của nó. Khác với Thất Sát chỉ là "thừa hành chính lệnh". Trong quan điểm của Vương tiên sinh thì cho rằng Phá Quân cần hội nhiều cát tinh mới quý, tuy nhiên cần phải xem xét trong trường hợp Văn tinh, vì Phú nói "Phá quân hội văn tinh nhất sinh bần sĩ". Phá quân vốn là "nghi loạn bất nghi trị" hợp với thời loạn hơn là lúc yên ổn, có lẽ vì thế mà một số quan điểm cho rằng phải được sát tinh đắc cách phò trợ mới tốt, như Phá đắc Không Kiếp vậy. Tuy nhiên, theo quan điểm của một số nghiên cức thì thấy rằng, Phá đắc sát tinh, tuy có thể phấn phát nhất thời nhưng chắc chắn sẽ phải trả giá, cũng không phải là điều tốt. Như thế, có nghĩa là Phá thể hiện tính cô độc cực cao, chẳng hợp với nhóm nào. Cũng nên chiêm nghiệm.
Tham lang tinh quyết
Tham lang độc tọa ở Tý Ngọ
Tham lang độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có Tử vi độc tọa, cung tam phương là Phá quân độc tọa và Thất sát độc tọa.
Muốn đánh giá bản chất của Tham lang trong trường hợp này, cần phân biệt dục vọng của nó mạnh hay yếu. Lúc dục vọng mạnh, lại cần phân biệt, là mạnh về "ham muốn vật chất" hay mạnh về "ham muốn dục tình".
Tham lang ở cung vượng, nếu là người sinh năm Thân Tý Thìn có Tham lang ở Tý; người sinh năm Dần Ngọ Tuất có Tham lang ở Ngọ, là kết cấu sao có dục vọng mạnh. Ngược lại, người sinh năm Thân Tý Thìn có Tham lang ở Ngọ; người sinh năm Dần Ngọ Tuất có Tham lang ở Tý, là kết cấu sao có dục vọng yếu.
Tham lang Hóa Quyền, làm tăng dục vọng, có thiên hướng ham muốn vật chất.
Tham lang Hóa Lộc, gặp Phụ diệu sẽ làm tăng "ham muốn vật chất", gặp các Tạp diệu như Phi liêm, Lực sỹ, Tướng tinh, Trưởng sinh, Đế vượng, cũng làm tăng "ham muốn vật chất"; gặp Tá diệu sẽ làm tăng "ham muốn dục tình" (lúc này Lộc Mã giao trì cũng chủ về "ham muốn dục tình"), gặp các sao đào hoa tụ tập sẽ kích thích "ham muốn dục tình" tăng nặng.
Tham lang Hóa Kị, làm giảm dục vọng, lúc gặp Linh tinh, Đà la, và sao Không trong Tạp diệu, cùng với các Tạp diệu khác như Thiên khốc, Thiên hư, Cô thần, Quả tú, Âm sát, Hoa cái, Đại hao, Tức thần, Nguyệt sát, Quán sách, thì dục vọng càng giảm thấp, thậm chí có thể biến thành "sợ cạnh tranh", một khi gặp phải trở lực liền rút lui.
Cung đối diện có Tử vi được cách "bách quan triều củng", chủ về làm tăng dục vọng của Tham lang, trường hợp Tử vi thuộc loại "tại dã cô quân" chủ về làm giảm dục vọng của Tham lang.
Thất sát ở cung tam phương có Cát hóa hội hợp, chủ về làm mạnh thêm dục vọng của Tham lang, Gặp các sao Sát Kị Hình Hao đến hội hợp, chủ về làm giảm dục vọng của Tham lang.
Đời người không nên có dục vọng quá cao, cũng không nên có dục vọng quá thấp. Vì vậy, lúc Tham lang ở Tý hoặc ở Ngọ, cần phải chú ý, ưa được Tham lang có tính chất trung hòa, cần chú ý tính chất "trung hòa" đó là gì?
Ví dụ Tham lang có dục vọng thấp đối nhau với Tử vi thuộc loại "bách quan triều củng", có thể thấy về cơ bản là "trung hòa", nhưng giả dụ có Kình dương đồng độ cung Tham lang, lại hội thêm các sao đào hoa, thì loại "trung hòa" này có biểu hiện ham muốn dục tình nặng và ham muốn vật chất yếu, cho nên cuộc đời chủ về tự tìm lấy buồn phiền, vì tình mà khổ, về sự nghiệp thì một việc cũng không thành.
Tham lang thuộc loại "phiếm thủy đào hoa" là kết cấu có "ham muốn dục tình" mạnh. Lúc này không nên gặp các sao chủ về dục tình (như Văn xương, Văn khúc, hay các sao đào hoa) đến hội hợp, cũng không nên đến các đại hạn hoặc lưu niên có các đào hoa trung trùng.
Tham lang thuộc loại "mộc hỏa thông minh" là kết cấu sao "ham muốn vật chất" mạnh, lại gặp thêm các sao ham muốn vật chất, có thể sự nghiệp tài lộc hanh thông, nhưng sẽ cảm thấy tinh thần "trống rỗng".
Tham lang thuộc loại "tâm chí bạc nhược" chưa chắc không cát tường, nếu không chìm đắm trong thú vui không lành mạnh, khi đến đại vận tích cực, vẫn có thể phấn khởi làm việc. Cho nên Tham lang thuộc loại "tâm chí bạc nhược" ưa đến các đại vận hoặc lưu niên có hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thuộc cách "Tài ấm giáp ấn" (1), gặp cung "Thái dương Thiên lương" có Hóa Khoa (2), đến cung có Thất sát Hóa Lộc Hóa Quyền (3), đến cung có Phá quân Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền (4), đến cung "Liêm trinh Thiên phủ" được cát hóa (5), thảy đều chủ về gặp cảnh ngộ tốt, khiến cho cách nhìn đời người biến thành tích cực, nhờ vậy mà có thành tựu.
Tham lang thuộc loại "ham muốn vật chất" nặng, tuy nhân sinh quan tích cực, nhưng lại biến thành người bất chấp thủ đoạn, hoặc chìm đắm trong việc đầu cơ mạo hiểm, cờ bạc. Vì vậy, không ưa vào các vận hạn có sắc thái ham muốn vật chất quá nặng, như gặp hệ "Thiên đồng Cự môn" mà Cự môn Hóa Lộc (1), đến cung "Thái dương Thiên lương" có Thái dương Hóa Quyền (2), đến cung Thiên cơ Hóa Lộc, không ưa Thiên cơ có Thái âm Hóa Kị xung hội (3), nếu không, đời người tuy tích cực, nhưng cảnh ngộ chưa chắc đã như ý, hơn nữa, dễ khiến tinh thần trở nên "trống rỗng".
Tóm lại, dục vọng quý ở chỗ vừa phải, quá yếu mà gặp hạn yếu, chủ về cô độc nghèo hèn hoặc tàn tật; quá mạnh mà lại gặp hạn mạnh, chủ về chìm đắm trong thú vui không lành mạnh, dẫn đến phạm sai lầm suốt đời.
Đàm luận về Tử Vi Đẩu Số, luận thật tính chất của tinh hệ và sự ưa ghét của các tổ hợp tính hệ giao nhau, đều lấy cung Mệnh làm chủ, bởi vì cung Mệnh là đầu mối thể hiện tính chất của tinh hệ. Thực ra, mang các tính chất cơ bản đó suy rộng ra, thì có thể luận đoán tính chất đủ 12 cung.
Ví dụ như trong cung Huynh đệ, Tham lang nhập vào cung này, thuộc loại ham muốn dục vọng quá nặng, thì dễ giao du với bạn bè tửu sắc, bạn bè nhiều nhưng không có ai tri kỷ, hơn nữa dễ xảy ra chuyện tranh quyền đoạt lợi. Nếu tâm chí của Tham lang quá lạnh nhạt ham muốn, thậm chí hèn yếu, chủ về duyên phận với anh em hay bạn bè đều mỏng, về sự nghiệp cũng không đủ duyên với người. Lúc đến 12 cung hạn, xem từng tinh hệ ở cung Huynh đệ của đại vận hoặc lưu niên, liền biết có sự cạnh tranh ngoài dự liệu hay không, hoặc nhờ cung hạn có tính chất "điều hòa" mà cải thiện được quan hệ giao tế.
Lại ví dụ như, xét cung Phu thê, ở cung này Tham lang thuộc loại ham muốn vật chất quá nặng, tất người bạn đời nặng ham muốn vật chất. Nếu thuộc loại ham muốn dục tình thì tình yêu, hôn nhân đều có điềm tráo trở. Nếu Tham lang thủ cung thuộc loại "tâm chí bạc nhược" thờ ơ tiêu cực, thì cảnh ngộ người bạn đời không được tốt, hoặc vì hoàn cảnh khách quan sinh lý bệnh tật ... làm ảnh hưởng đến sinh hoạt hôn nhân, khiến không hòa hợp hạnh phúc.
Lại ví dụ, xét cung Tật ách, Tham lang thuộc loại ham muốn dục vọng nặng, chủ về mắc các bệnh thuộc thực chứng, tức cơ quan có bệnh mang tính thực tế, như viêm tử cung, viêm gan, viêm dạ dày... Nếu Tham lang thủ cung thuộc loại "tâm chí bạc nhược" biểu hiện lãnh đạm thờ ơ tiêu cực, chủ về mắc bệnh thuộc hư chứng, như tử cung rối loạn nội tiết tố, lạnh tử cung, gan rối loạn nhiễm sắc thể, dạ dày hư hàn, chứng viêm đau dây thần kinh (như đau bụng kinh, bạch đới...).
Trên là đơn cử những ví dụ thuộc nguyên tắc thông thường, chỉ cần nắm vững bản chất của các tinh hệ, vận dụng vào thực tiễn luận đoán vận hạn, có thể suy ra những tình huống hoặc sự cố, có nguyên nhân xảy ra từ bản chất biến hóa của các sao và ảnh hưởng của các tinh hệ ở các cung hạn. Kinh nghiệm dần dần sẽ được tích lũy, luận đoán càng thêm chính xác.
Đơn cử ví dụ: nữ mệnh có Tham lang ở cung Phê (thê).
Nữ mệnh tuổi Kỷ, có Tham lang Hóa Quyền tọa thủ cung Phu ở Ngọ, đây là kết cấu sao thiên nặng về "ham muốn dục tình" mà ít "ham muốn vật chất".
Vào đại vận Nhâm Tuất, cung Phu có hệ "Vũ khúc Thiên tướng" ở Thân địa, đại vận là Nhâm nên Vũ khúc Hóa Kị, chủ về vợ chồng gặp sự cố không may. Cung Phúc đức của đại vận ở Tý, có Tử vi độc tọa đối diện với Tham lang thuộc loại thiên nặng về "ham muốn dục tình", Tử vi lại đồng độ với Kình dương của đại vận, thêm vào đó cung tam phương còn có Vũ khúc Hóa Kị. Nếu ở Tý hoặc ở Ngọ có các sao đào hoa như Thiên diêu, Mộc dục, Hàm trì, Đại hao, thì chủ về sinh hoạt hôn nhân không như ý mà dẫn đến ngoại tình.
Đến lưu niên Đinh Dậu, cung Phu gặp hệ "Thiên đồng Cự môn" ở Mùi, niên hạn là Đinh nên Cự môn Hóa Kị đồng độ với Kình dương của lưu niên, nên về phương diện tình cảm xảy ra tình cảnh u ám, trở thành nguy cơ cho tình cảm vợ chồng trong lưu niên này, rất khó tránh mắc phải sai lầm.
Chú ý, luận đoán này hoàn toàn đặt trên nền tảng bản chất của Tham lang ở cung Phu thê, nếu không có tính chất này, thì khó vào đại vận và lưu niên cùng một dạng, cũng không xảy ra chuyện "thay lòng đổi dạ". Do đó có thể biết, phép luận đoán của phái Trung Châu chú trọng việc nhận thức bản chất các sao trong 12 cung, lấy đó làm cơ sở quan trọng của việc luận đoán.
Tham lang và Vũ khúc đồng độ ở Sửu Mùi
Tham lang và Vũ khúc đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện Vô chính diệu, cung tam phương có hệ "Liêm trinh Phá quân" và hệ "Tử vi Thất sát" hội hợp.
Nhóm tinh hệ này có tính chất cực kỳ mạnh mẽ, ham muốn dục vọng quyền lực rất nặng, hệ "Vũ khúc Tham lang" chỉ không mạnh bằng "Tử vi Thất sát" và "Liêm trinh Phá quân" ở hai cung tam phương.
Muốn luận đoán đặc tính của hệ "Vũ khúc Tham lang" ở hai cung Sửu hoặc Mùi, cần phân biệt chúng thuộc loại "dục vọng" hay "tham vọng".
Hệ "Vũ khúc Tham lang" là tinh hệ có nhân sinh quan rất tích cực mà có tiết chế. "Dục vọng" thì ai cũng có, vì không gây tổn thương, họa hại cho người khác, nên có thể nói "dục vọng" trở thành lực đốc thúc cơ bản của người đời, có khác với "tham vọng". "Tham vọng" thì thường "tổn nhân lợi kỷ" (bớt của người để lợi cho mình). Ví dụ như mẫu người chính khách khi có "tham vọng", nhiều lúc có thể hy sinh lợi ích của xã hội, còn đối với thương nhân khi có "tham vọng", thì có thể lũng loạn thị trường, khiến cho người tiêu dùng bị thiệt hại.
Hệ "Vũ khúc Tham lang" có Hỏa tinh, đây là chính cách "Hỏa Tham". Tổ hợp này không đại biểu cho "tham vọng", mà chỉ thuộc loại "dục vọng". Bởi với cái mà chúng có được chỉ là "tiền bất ngờ", "tiền bất ngờ" khác với "hoạch tài", "hoạch tài" là lợi ích có được một cách bất ngờ vốn hợp với quy phạm đạo đức, nên căn bản không dính dáng gì tới "tham vọng".
Hệ "Vũ khúc Tham lang" cần phải có sao Lộc mới thành kết cấu tốt, cách "Hỏa Tham, "Linh Tham" cũng cần Tham lang Hóa Lộc, chủ về có tiền của bất ngờ và dồi dào, do đó ưa Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Tham lang Hóa Lộc, trong đó trường hợp Tham lang Hóa Lộc là "dục vọng" khá mạnh.
Nếu hội Liêm trinh Hóa Lộc, chủ về kiếm được tiền một cách thuận lợi, không liên quan đến "dục vọng", nhưng khi Phá quân Hóa Lộc thì không những mệnh cách thuộc loại "dục vọng", mà còn biến thành "tham vọng".
Phá quân Hóa Lộc không ưa gặp Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp. Nếu gặp bốn sát tinh này, đồng thời có Hóa Lộc đồng độ với hệ "Liêm trinh Phá quân", hoặc đồng độ với hệ "Vũ khúc Tham lang" của cung mệnh, thì đều biến thành tính chất "tham vọng", mà không đơn thuần chỉ là tính chất "dục vọng".
Hệ "Vũ khúc Tham lang" không ưa Hóa Kị hội hợp, cho nên khi Tham lang Hóa Kị, Vũ khúc Hóa Kị, Liêm trinh Hóa Kị, đều là nhân tố chủ yếu cấu tạo mệnh cách thành tính "tham vọng".
Tham lang Hóa Kị không ưa có Hỏa tinh Linh tinh, nếu gặp thì có tính "tham vọng". Tham lang Hóa Kị đồng độ với Kình dương cũng chủ về tính "tham vọng". Nếu Kình dương lại có Linh tinh cùng bay đến, thì tính "tham vọng" càng lớn (phép phối sao "Hỏa tinh Kình dương" hợp lực thành tính rất thích cạnh tranh).
Khi Vũ khúc Hóa Kị thì Tử vi đồng thời Hóa Quyền, nếu Vũ khúc không có Phụ diệu cát và Tá diệu cát nâng đỡ, mà có sao Không đồng độ, thì đây thuộc loại "chí lớn mà tài không đủ", "ưa lộng quyền mà không có thực tài", "giả uy không có thực quyền", thảy đều là tính chất "tham vọng" mà thôi.
Hệ "Liêm trinh Phá quân" khi Liêm trinh Hóa Kị, nếu có Kình dương đồng độ, lại gặp Thiên hư, Âm sát, đây là mô hình loại người "khuất chí để cầu tài", nhưng nội tâm thường mặc cảm tự ti, hay buồn rầu lo lắng, thường vì vậy mà tính chất "tham vọng" càng lớn.
Hệ "Vũ khúc Tham lang" có Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc, cũng là kết cấu cơ bản của tính chất "tham vọng". Khi Tham lang Hóa Quyền thì Vũ khúc ắt Hóa Lộc, do đó trở thành tính chất "dục vọng". Nếu Vũ khúc Hóa Quyền là tính chất "tham vọng", gặp Sát tinh cùng bay đến thì càng đúng. Cho nên hệ "Vũ khúc Tham lang" mà thành cách "Hỏa Tham" có Vũ khúc Hóa Quyền, tuy có thể được tiền bất ngờ mà chưa chắc thỏa mãn được nguyện vọng. Đây là điều cổ nhân thường nói "lòng tham vô đáy".
Hệ "Vũ khúc Tham lang" có tính chất "tham vọng", nên gặp Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Long trì, Phượng các, thì mới tương xứng, tính chất "tham vọng" của chúng sẽ có cơ sở bắt nguồn từ thực tế, nếu không, chỉ làm tăng tham vọng thêm hư ảo, không thiết thực mà gây buồn phiền.
Cung hạn "Thái dương Cự môn" đồng độ, hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "dục vọng" ưa đến, khi Thái dương Hóa Kị gây bất lợi cho cha nhưng vẫn chủ về vận hưng thịnh, được hưng thịnh là do được cha hoặc người trên trọng dụng, dừu dắt từng bước đi đến thành tựu. Cho nên vận hạn này rất ưa có Thiên khôi, Thiên việt, hoặc lưu Khôi lưu Việt bay đến.
Hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "tham vọng" đến cung hạn "Thái dương Cự môn", ắt có nhiều "biến động thay đổi", nhưng biến động thay đổi này thường mất công vô ích, chỉ làm tăng gian khổ, là niên hạn gặp tranh giành tranh chấp. Nếu Cự môn nguyên cục Hóa Quyền hay Hóa Lộc, vận trình này càng nhiều bất ổn.
Ở lưu niên, bất kể hệ "Vũ khúc Tham lang" có tính "tham vọng" hay có tính "dục vọng", cũng đều ưa được Cát hóa và có Cát tinh hội hợp, mà không ưa các gặp các sao Sát Kị Hình Hao tụ tập. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "dục vọng" không ưa đến. Trừ trường hợp đặc biệt có lực của Cát hóa và các Cát tinh hội hợp nâng đỡ, nếu không sẽ là vận trình bị đình trệ. Khi Thiên tướng thuộc cách "Hình kị giáp ấn", mệnh cách "dục vọng" mà đến, chủ về tính tình chuyển hóa thành "thờ ơ và tiêu cực", kiểu "thờ ơ và tiêu cực" này lại thường là cơ sở để hậu vận được phát đạt, cho dù Thiên tướng thuộc loại "Tài ấm giáp ấn", thì loại mệnh cách "dục vọng" này đến, cũng chỉ lợi về phòng thủ mà thôi. Trong đại vận hay niên hạn này, những ý niệm bất mãn về hiện trạng, cũng như có ý mưu toan thay đổi cảnh ngộ, chỉ mang lại kết quả thêm rắc rối thị phi.
Hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "tham vọng" cũng không ưa đến cung hạn Thiên tướng bị cách "Hình kị giáp ấn", chủ về chuốc tai họa. Nếu lại có các sao đào hoa trùng trùng, lại chủ về cờ bạc, đầu cơ hoặc nữ sắc mà gây ra họa. Cung hạn Thiên tướng được cách "Tài ấm giáp ấn", thì mệnh cách "tham vọng" cũng không nên sinh lòng thay đổi, nếu thay đổi, sẽ phụ lòng người quan tâm ủng hộ và đề bạt mình.
Cung hạn "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ, hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "dục vọng" đến, chủ về gặp nhiều cơ hội, ắt có được thuận lợi, thừa thời cơ mà hưng phát. Còn hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "tham vọng" đến, thì lại chủ về gặp nhiều bất ổn. Cung hạn này rất ưa Thiên cơ Hóa Lộc hay Hóa Quyền, mà không ưa Thiên lương Hóa Lộc hay Hóa Khoa, khi Thiên lương được Cát hóa, phần nhiều chỉ mang lại sự quấy rối, trắc trở, khiến ảnh hưởng đến hậu vận. Hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "tham vọng" cũng không ưa Thiên lương Hóa Lộc hay Hóa Khoa, chủ về vất vả, trắc trở càng lớn, lại thêm cái sở đắc thường thường chỉ là hư danh. Đối với lưu niên thì không có những tính chất như đã thuật này, nhưng cũng không nên nghe theo lời khuyên của người, mà thay đổi hay cải cách sự nghiệp. Nếu cung hạn có sao Sát Hình tụ tập, mà Thiên lương Hóa Lộc, mệnh cách "tham vọng" đến, thường sẽ vì tiền mà phải trải qua nhiều cơn sóng gió.
Cung hạn "Tử vi Thất sát" đồng độ, nếu sao quyền lực quá nặng, hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "tham vọng" không nên đến, chủ về bị trắc trở nghiêm trọng. Nhưng hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "dục vọng" thì ưa đến, chủ về vận hạn đạt được sở nguyện. Cung hạn này ưa có Lộc tồn đồng độ hoặc hội chiếu, nếu không gặp Sát tinh, dù là loại mệnh cách "tham vọng" có đến, cũng là vận thế đột nhiên hưng phát. Ở lưu niên cũng vậy.
Nếu cung hạn "Tử vi Thất sat" có các sao Sát Kị Hình tụ tập, hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "tham vọng" đến, nhất thiết không được lộng quyền, vì lộng quyền sẽ không làm tròn chức trách, mà dẫn đến thị phi cực lớn. Hệ "Tử vi Thất sát" ở Tị, thường ứng vào năm Dậu hay năm Sửu, còn hệ "Tử vi Thất sát" ở Hợi, thường ứng vào năm Mão hay năm Mùi.
Cung hạn "Liêm trinh Phá quân" đồng độ, là đại vận hoặc lưu niên, mà hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "dục vọng" ưa đến, nếu cung hạn lại có thêm Cát tinh, thì càng thêm có lợi cho dù là lưu niên cũng không có hại, sự nghiệp thăng tiến đột ngột. Đối với mệnh cách "tham vọng" đến, trừ khi tam phương tứ chính toàn là Cát tinh và được Cát hóa, không có các sao Sát Kị xung phá, mới chủ về thuận lợi như ý, nếu không, ắt chủ về sự việc đang cầu toàn thì nảy sinh khiếm khuyết, muốn tiến thì thành lùi, đang vui lại hóa ra buồn.
Cung hạn "Liêm trinh Phá quân" đối với hệ "Vũ khúc Tham lang" mà nói, thường là năm quan hệ nhân tế thay đổi rất nhanh, cho nên nhất thiết không được vì "tham vọng" mà hy sinh lợi ích của bạn bè hay người khác, nếu không, sẽ vì vậy mà phá tán, thất bại. Cần xem các tổ hợp sao hậu vận để định phương cách vận dụng đạo "xu cát tị hung".
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, chỉ cần không phải là "kho lộ", "kho trống", hệ "Vũ khúc Tham lang" có tính chất "tham vọng" hay "dục vọng" cũng đều ưa đến, bất kể là lưu niên hay đại vận, đều chủ về thuận lợi toại ý, nhưng không phát lên một cách đột ngột. Vì vậy mà mệnh cách "tham vọng" thường dễ bất mãn với hiện trạng, muốn tìm cách đột phá. Lúc này cần xem tới cung an Thiên tướng, nếu có Sát tinh đồng độ với Thiên tướng, thì không nên vọng động, gặp Hung tinh thì thiếu trợ lực, vì vậy mà phạm sai lầm.
Thiên phủ là "kho lộ", "kho trống", là vận trình thất bại lớn của hệ "Vũ khúc Tham lang" thuộc loại "tham vọng", bất kể là đại vận hay lưu niên đều như vậy. Lúc này cần phải phòng thủ, mà không thể mưu toan tạo dựng cái mới, rất cần thái độ sống chân thành đối với mọi người, mới có thể tránh được thất bại. Không ai chết vì pháp luật, mà thường chết vì "đường ăn lẽ ở".
Cung hạn "Thiên đồng Thái âm" đồng độ, ở lưu niên thường ưu hơn ở đại vận. Nếu cung hạn này có Cát tinh và được Cát hóa, là năm hệ "Vũ khúc Tham lang" ưa đến. Nếu cung hạn gặp sao hóa thành sao Kị, mệnh cách "dục vọng" đến sẽ chủ về trắc trở, mọi việc đều trái với nguyện vọng. Loại mệnh cách "tham vọng" đến, thì càng dễ bị xu thế biến động thay đổi của xã hội dẫn dụ, khiến đầu tư bị tổn thất.
Ở đại vận, tính chất còn nghiêm trọng hơn nhiều. Dù cung hạn có Cát tinh, cũng không nên quá ham muốn an nhàn. Loại mệnh cách "tham vọng" đến, càng phải đề phòng vì thú vui, những sở thích cá nhân, mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Khi cung hạn có các sao Sát Kị, còn chủ về tổn thất nghiêm trọng, rất cần hành sự cẩn thận, ở vào tình cảnh này, nên trợ giúp người khác hoặc lùi một bước làm thuê cho người khác, hoặc làm "phó" giúp việc cho "trưởng", không nên tự sáng lập sự nghiệp để bảo tồn thực lực.
Đơn cử ví dụ: hệ "Vũ khúc Tham lang" ở cung Sự nghiệp.
Cung mệnh là hệ "Liêm trinh Phá quân" ở Dậu, người sinh năm Đinh, có Thiên việt ở Hợi gặp Đà la hội chiếu; cung Sự nghiệp là "Vũ khúc Tham lang" ở Sửu, bị Kình dương Đà la cùng chiếu xạ, không có Cát hóa, cũng không có sao Cát hữu lực, cho nên "quan cách" thuộc loại "tham vọng".
Lúc này, cung Sự nghiệp của đại vận là Thiên tướng được cách "Tài ấm giáp ấn", lại được lưu Lộc ở cung đối diện, nên có thể giữ ổn định. Nguyên cục "Liêm trinh Phá quân" có "mệnh cách" thuộc loại "tư lợi", trong khi "quan cách" thuộc loại "tham vọng", thế là mệnh tạo đã lợi dụng quan hệ của Cty để làm ăn riêng, lúc đầu coi như thuận lợi (ứng nghiệm của cách "Tài ấm giáp ấn").
Đến năm Giáp Tý, cung mệnh của lưu niên là hệ "Thiên đồng Thái âm", hội Thái dương Hóa Kị và Cự môn Hóa Kị, cung Sự nghiệp là hệ "Thiên cơ Thiên lương" cũng hội Thái dương Hóa Kị và Cự môn Hóa Kị, mà Hóa Kị bị lưu Kình lưu Đà của lưu niên giáp cung, thêm vào đó là Thiên hình ở cung Sự nghiệp, gây bất mãn ở nơi làm việc, bị đuổi việc mà còn bị kiện cáo, cảnh ngộ thật là khốn khổ (Chú: Thái dương ở đại vận Hóa Quyền, ở lưu niên thì Thái dương Hóa Kị. Đây là ứng nghiệm lạm quyền mà chuốc kị).
Tham lang độc tọa ở Dần Thân
Tham lang độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện có Liêm trinh độc tọa, cung tam hợp là Phá quân độc tọa và Thất sát độc tọa.
Tính chất của Tham lang ở Dần hoặc ở Thân trái ngược nhau, thông thường Tham lang ở Dần chủ về hưng phát lúc còn trẻ, đến trung niên hay vãn niên thường chủ về phá tán, thất bại. Tham lang ở Thân thì gặp bất lợi khi còn trẻ, nhưng đến trung niên thì phát đạt, nhưng sau khi phát đạt cũng cần phải đề phòng phá tán, thất bại. Tức là nói, Tham lang ở Dần chủ về phát sớm phá sớm, Tham lang ở Thân chủ về phát chậm phá chậm.
Tuy nói "phát" và "phá", nhưng có thể vận dụng đạo "xu cát tị hung", bản thân chúng cũng có mức độ khác nhau. Vì vậy cần nghiên cứu và thảo luận kỹ lương thêm về tính chất của Tham lang ở Dần và ở Thân.
Tham lang ở Dần hoặc ở Thân thuần túy chủ về "dục vọng", nhưng ở Dần thì có khuynh hướng "sắc dục" (hay tình cảm), còn ở Thân có khuynh hướng "vật dục" (ham muốn vật chất), đây thuộc về tính chất cơ bản.
Tham lang thuộc loại "vật dục" mạnh, đời người có lực đốc thúc đấu chí rất mạnh. Tham lang thuộc loại "sắc dục" mạnh, chủ về nhuyễn hóa thành giao tế thù tạc trong sự nghiệp, hoặc theo những ngành nghề có tính chất "thanh sắc", nên cũng không phải là xấu.
Khi Tham lang Hóa Lộc, chưa thể kết luận trực tiếp thuộc về "tình cảm" hay thuộc về "vật chất", xem các sao hội hợp để định. Có Đà la đồng cung sẽ tăng khuynh hướng "tình cảm", nên mới có cách "Phong lưu thái trượng". Có Hỏa tinh đồng cung, sẽ làm tăng khuynh hướng "vật chất", nên mới có cách "Hỏa Tham".
Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, và các sao đào hoa đều làm tăng khuynh hướng "tình cảm"; Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật và Hóa Quyền, thì có khuynh hướng làm tăng "vật chất" cũng như "vật dục". Tổ hợp tinh hệ này, Tham lang không có Hóa Khoa, là do cổ nhân có thâm ý. Cho nên, Tham lang cũng không nên đến các cung hạn có sao Hóa Khoa, nếu đến, chủ về vì xuất đầu lộ diện mà chuốc lấy thất bại, hoặc xảy ra sự kiện mất danh sự mà thành "nổi tiếng". Đây cũng là nguyên tắc thông thường khi luận đoán mà thôi. Nói một cách cụ thể hơn, nếu Tham lang đến cung hạn có Văn khúc Hóa Khoa, chủ về vì sắc mà bị tổn thất, đến cung hạn "Tử vi Thiên tướng" mà Tử vi Hóa Khoa lại có lưu Hóa Khoa xung khởi, thì càng không nên xuất đầu lộ diện, nếu không, ắt sẽ chuốc thất bại, danh dự phải chịu nhục không đúng với bản chất của mệnh tạo.
Tham lang đồng độ với sao Không hoặc Hóa Kị, thông thường chủ về giảm bớt "dục vọng" của nó, hoặc lợi về nhuyễn hóa "dục vọng", để biết nhu cầu nào là cần thiết trước mắt, mà hình thành kế hoạch trình tự trước sau. Có điều, cần phải có Cát tinh hội hợp, thì mới đủ lực để nhuyễn hóa.
Phá quân hóa làm sao Quyền chủ về làm tăng khuynh hướng "vật dục". Lúc Phá quân Hóa Quyền thì Tham lang cũng sẽ Hóa Kị, đây là điềm tượng đời người cố gắng phấn đấu, nên khuynh hướng "vật dục" thường mạnh hơn khuynh hướng "sắc dục".
Cung hạn "Thiên cơ Cự môn" đồng độ, thông thường Tham lang không nên đến. Chỉ khi nào Cự môn Hóa Lộc, gặp Cát tinh thì mới có lợi, nhưng họa phúc vẫn khó lường, vận tuy thấy cát nhưng vẫn tiềm ẩn hung họa, phải xem xét kỹ hậu vận để nắm bắt được tiên cơ mà vận dụng đạo "xu cát tị hung".
Tham lang thiên nặng về "vật dục", khi đi đến niên hạn "Thiên cơ Cự môn", cần phải thận trọng thủ thành. Nếu gặp các sao Sát Kị, đặc biệt không được rơi vào lưới tình, nếu không sự nghiệp sẽ lung lay nền tảng.
Cung hạn "Tử vi Thiên tướng" đồng độ, lợi cho Tham lang thiên nặng về "tình cảm" đến, mà bất lợi cho Tham lang thiên nặng về "vật dục" đến. Thông thường, trường hợp mệnh cách "tình cảm" chủ về hưng phát, còn trường hợp mệnh cách "vật dục" thường tự mình chủ động gây ra trở ngại xui xẻo.
Hệ "Tử vi Thiên tướng" đồng độ, nếu Thiên tướng bị cách "Hình kị giáp ấn", lại không có cách "Bách quan triều củng", hoặc còn có lưu Sát, Hóa Kị xung hội, loại Tham lang thiên nặng về "tình cảm" đến cung hạn này, nếu quyến luyến chuyện trăng gió, ắt sự nghiệp sẽ bị phá tán, thất bại. Còn loại Tham lang thiên nặng về "vật dục" đến cung hạn này, nếu không cân nhắc xem xét kỹ tình thế khách quan, mà cứ mưu toan phát triển, sẽ gây ra thị phi oán trách.
Thông thường, Tham lang đến cung hạn "Tử vi Thiên tướng", không nên mưu toan tiến thủ quá đáng, và cũng không nên chìm đắm trong thú vui sở thích cá nhân.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, khá bất lợi đối với loại Tham lang thiên nặng về "tình cảm' đến, ngoại trừ trường hợp có thể dùng hành động hậu thiên để nhuyễn hóa tính chất (tính chất gì? kiểm!), nếu không sẽ gặp tai nạn hoặc bị trở ngại xui xẻo. Nhất là lúc Thái âm Hóa Kị, hoặc Thiên cơ Hóa Kị hội chiếu, còn cần phải đề phòng sự cố trong các mối quan hệ công việc (lúc này cần phải xem xét kỹ cung Huynh đệ và cung Giao hữu, có lúc cũng cần phải xem thêm cung Tử nữ).
Tham lang thiên nặng về "vật dục" mà đến cung hạn Thiên lương độc tọa, nếu gặp Sát tinh, chủ về đường đời gặp nhiều hiểm trở, gập gềnh, phải đợi đến lưu niên cát lợi mới có thể mưu toan tiến thủ.
Cung hạn Thất sát độc tọa, là vận hạn mang tính tiến thủ mà Tham lang thiên nặng "vật dục" ưa đến. Nếu Thất sát còn được Cát hóa và có Cát tinh, chủ về trong 10 năm cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn theo hướng tốt.
Tham lang thiên nặng "tình cảm" mà đến cung hạn Thất sát độc tọa, thì không phải là vận tốt, nếu được Cát hóa và có Cát tinh, cũng chỉ chủ về thuận lợi toạn ý, không được đùng đùng sửa đổi loạn xạ một cách đột ngột. Dù ở lưu niên, tam phương tứ chính cũng phải thuần Cát tinh, thì mới có thể mưu toan thay đổi.
Cung hạn Liêm trinh độc tọa, có tính chất đào hoa, Tham lang thiên nặng "sắc dục" đến, đại vận hoặc lưu niên này là cực kỳ bất lợi, thường vì theo đuổi sắc tình mà dẫn đến bại hoại thất bại. Dù ở lưu niên cũng không thích hợp với Tham lang thiên nặng "tình cảm", nhưng tính chất khuynh bại sẽ nhẹ hơn.
Ở lưu niên ưa Liêm trinh Hóa Lộc, xung hội Tham lang Hóa Lộc, hoặc Liêm trinh có sao Lộc trùng điệp, hay Tham lang có sao Lộc trùng điệp, đây là vận thế tiền tài và chuyện vui đến liên tiếp. Nếu trong thời kỳ này có thể nỗ lực, thì không những chỉ giới hạn trong năm đó. Tham lang thiên nặng về "vật dục" mà đến cung hạn này thì càng đúng.
Cung hạn Phá quân độc tọa, là đại vận hoặc lưu niên Tham lang thiên nặng "vật dục" ưa đến, dù không được Cát hóa và có các Cát tinh, cũng vẫn có thể thay đổi hoàn cảnh. Nhưng Tham lang thiên nặng "tình cảm" mà đến thì gặp bất lợi, thường vì ỷ vào người khác mà bị tổn thất hay gặp trắc trở. Cung hạn Phá quân độc tọa mà gặp các sao Sát Kị, ở lưu niên lại chủ về có quan hệ yêu đương với người đã có gia thất, nếu không cuộc đời sẽ có biến động, thay đổi quan trọng.
Phá quân Hóa Lộc ở đại vận, chủ về sự nghiệp có chuyển biến quan trọng theo hướng tốt, cho nên Tham lang thiên nặng "vật dục" ưa đến.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thiên đồng hóa Cát lại gặp Cát tinh, là vận thế đắc ý của Tham lang thiên nặng "vật dục", thường tạo dựng sự nghiệp trong vận thế này. Dù ở lưu niên cũng là vận tốt. Tham lang thiên nặng "tình cảm" đến, dù gặp Cát tinh cũng không được thuần cát lợi, cần đề phòng vì say sưa đắc ý mà phá tán thất bại, ở lưu niên thì tính chất này nhẹ hơn.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, nếu có các sao Sát Kị Hình tụ tập, nhất là không có lưu Đà đồng độ với Thiên đồng, thì Tham lang thiên nặng "vật dục" phải trải qua phá tán thất bại trước, rồi mới hưng phát. Đối với Tham lang thiên nặng "tình cảm" dễ vì thích sống an nhàn, ngại va chạm mà chuốc phá tán thất bại.
Cung hạn "Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ, nếu có sao Lộc, là vận thế cát lợi của Tham lang thiên nặng "vật dục", đối với Tham lang thiên nặng "tình cảm" lại chủ về xảy ra sóng gió trắc trở trong hôn nhân, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Nếu cung hạn "Vũ khúc Thiên phủ" có các sao Sát Kị Hình đồng cung, đối với Tham lang thiên nặng "vật dục", chủ về vì tiền tài gây ra thị phi. Tham lang thiên nặng "tình cảm", chủ về tình mà chuốc họa. Ở lưu niên cũng có tính chất này, không thể không cẩn thận đề phòng.
Cung hạn "Thái âm Thái dương" đồng độ, bản thân tính chất hai sao này đã không hợp nhau (không hợp ở góc độ nào?). Tham lang thiên nặng "vật dục" đến đại vận hoặc lưu niên này, chủ về gặp trắc trở, đối với Tham lang thiên nặng "tình cảm" mà đến thì có lợi hơn, vì không gặp sóng gió trắc trở xảy ra.
Cung hạn "Thái âm Thái dương" khi Thái âm Hóa Kị, hoặc Thái dương Hóa Kị, đối với Tham lang thiên nặng "tình cảm" mà đến thì lại bất lợi, ắt sẽ bị đả kích nghiêm trọng. Nhất là đối với nữ mệnh phải đề phòng thất thân với người xấu ở vận hạn này. Cung hạn "Thái âm Thái dương" nếu có Cát hóa và các Cát tinh hội hợp, Tham lang thuộc tính chất nào cũng là vận tốt, riêng đối với Tham lang thiên nặng "tình cảm" thì có nhiều lợi thế hơn, chủ về hưởng thụ an nhàn, còn Tham lang thiên nặng "vật dục" chủ về bôn ba.
Đơn cử ví dụ: Tham lang ở cung Phu thê.
Cung mệnh là hệ "Tử vi Thiên tướng" ở Tuất, người sinh năm Bính có Kình Đà hội chiếu mệnh viên. Phu thê ở Thân địa, cung đối diện có Liêm trinh Hóa Kị, hơi có tính chất dào hoa nhưng không nặng.
Căn cứ vào tính chất của tinh hệ Tham lang ở cung Phu thê của đại vận là Thiên lương ở Hợi, có Cự môn hóa thành sao Lộc (cát hóa), Thái dương Hóa Quyền, lại hội với Thiên đồng nguyên cục Hóa Lộc. Hơn nữa, cát hóa ở cung Thê này lại tương đồng với ở cung Mệnh.
Cho nên, vào đại vận thì kết hôn, sau khi kết hôn vợ chồng cùng làm ăn lập nên sự nghiệp. Giai đoạn kết hợp này, sắc thái "vật dục" nặng hơn sắc thái "tình cảm". Cảnh ngộ này có liên quan với tính chất "Tử vi Thiên tướng" ở cung mệnh nguyên cục.
Tử vi và Tham lang đồng độ ở Mão Dậu
Tham lang và Tử vi đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu, cung đối diện không có chủ tinh, cung tam phương là hệ "Liêm trinh Thất sát" và hệ "Vũ khúc Phá quân" hội hợp. Cung đối diện không có chủ tinh là cấu tạo ở ngoài không có cái làm chủ.
Hệ "Tử vi Tham lang" là tinh hệ thuần "dục vọng". Bởi vì không những bản thân "Tử vi Tham lang" có tính chất "dục vọng", mà các hệ sao hội hợp như "Vũ khúc Phá quân" cũng mang sắc thái ham muốn vật chất nặng, còn hệ "Liêm trinh Thất sát" trong một số tình hình thì thiên về "tình cảm" hơn.
Do đó, muốn luận đoán bản chất của tinh hệ này, cần phải phân biệt xem nó thuộc loại "ham muốn vật chất" hay "ham muốn dục tình". Cổ nhân nói "Đào hoa phạm chủ là rất dâm" (Đào hoa phạm chủ vi chí dâm) tức nhấn mạnh đặc tính "ham muốn dục tình" của chúng. Đây là cơ sở để căn cứ và nhận biết một cách cụ thể sự ảnh hưởng của cung tam phương đến hệ "Tử vi Tham lang", theo xu thế thuận hay xu thế nghịch. Nếu đại vận đi thuận mà theo xu thế nghịch, hoặc đại vận đi nghịch mà theo xu thế thuận, thì có thể biết là bại vận.
Tronh tình hình hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ với Thiên hình hoặc sao Không, chủ về có thể tự kềm chế, nhưng người tự kềm chế thường chỉ kềm chế "ham muốn dục tình", còn người có tính chất "ham muốn vật chất" mạnh mẽ vẫn không thay đổi.
Bản chất của nhóm tinh hệ "Tử vi Tham lang" khác với hệ Tử vi độc tọa ở Tý Ngọ, khi Tử vi độc tọa thì đối diện với Tham lang, các sao hội hợp dùng Thiên tướng thay cho Phá quân, dùng Thiên phủ thay cho Thất sát, vì vậy tinh hệ có tính chất nhu hòa hơn, đồng thời sắc thái của Tử vi độc tọa được biểu hiện đầy đủ. Ví dụ như nói Tử vi độc tọa không ưa thích trang điểm cho bản thân, cho nên tính cách nhiều độc đoán, nhưng hệ "Tử vi Tham lang" lại có ý vị của phấn son, thiên nặng trang điểm hình thức bề ngoài, có ham muốn lãnh đạo mà lại khéo ăn khéo ở theo lề nếp cũ. Hơn nữa, đặc tính của cung đối diện vô chủ thường đối lập mâu thuẫn với cái ở trong, ở trong cũng khó định hướng làm chủ thì nói gì đến cái ở ngoài.
Lấy "ham muốn dục tình" mà nói, người Tử vi độc tọa có lòng tự tôn rất mạnh, trừ trường hợp người khác giới biểu lộ ám thị (mỹ nhân kế) chứ không bao giờ theo đuổi mục tiêu một cách mù quáng. Còn hệ "Tử vi Tham lang" thì lại khá chủ động, thậm chí không sợ cạnh tranh.
Do đó, Tử vi độc tọa và "Tử vi tham lang" đồng độ khác nhau rất nhiều. Trường hợp Tử vi độc tọa thì tài lãnh đạo và lực quyết đoán rất mạnh; trường hợp "Tử vi Tham lang" đồng độ thì tính chủ động khá mạnh. Có thể nói, nhìn từ góc độ khác, nhân sinh quan của hệ "Tử vi Tham lang" thông thường là khá tích cực, nếu mệnh có Sát tinh, thậm chí có thể vì mục đích mà không từ thủ đoạn nào.
Hệ "Tử vi Tham lang" ưa được "bách quan triều củng". Như trường hợp Tử vi, vì không thể cấu tạo thành cách "Phủ Tướng triều viên", cho nên "khí tượng" quý phái sang trọng có phần thấp nhỏ. Nếu có các Phụ diệu, Tá diệu, Tạp diệu, những Cát tinh này chầu về, đương nhiên cũng có "khí tượng" không tầm thường.
Hệ "Tử vi Tham lang" có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, cũng cấu tạo thành cách "Hỏa Tham", Linh Tham", nhưng lực phát huy tác dụng không bằng hệ "Vũ khúc Tham lang" đồng độ với Hỏa tinh, Linh tinh. Đây là do hành động và sự quyết đoán trong thực tế không nhạy bén mau lẹ bằng Vũ khúc. Có thể nói, hệ "Tử vi Tham lang" phải nhờ ở quyết sách, thì mới kiếm được tiền một cách bột phát, bất ngờ.
Hệ "Tử vi Tham lang" không có Cát tinh vậy chiếu, cũng có ý vị của một "cô quân", nhưng lại khác với "tại dã cô quân" cô lập của Tử vi độc tọa.
Lúc hệ "Tử vi Tham lang" có các sao đào hoa hội hợp, đặc biệt là Thiên diêu đồng độ, đây là tổ hợp sao rất nặng nề về tình dục, thêm Văn xương Văn khúc thì càng làm mạnh thêm sắc thái "ham muốn dục tình". Nếu Sát tinh lại đồng thời hội hợp, thì mệnh tạo ắt là người phong lưu, tự đánh giá mình quá cao.
Tham lang Hóa Lộc làm tăng "ham muốn vật chất", có Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Phá quân Hóa Lộc hội hợp, tính "ham muốn vật chất" cũng mạnh, mà lại được thế chủ động hơn. Có điều, lúc Liêm trinh Hóa Lộc, thì mệnh tạo thiên nặng sang sắc thái "tình cảm", xem trọng tình cảm nam nữ, và xem trọng tình cảm bạn bè.
Khi Liêm trinh Hóa Kị, thì mệnh tạo có một nửa khuynh hướng thiên về sự nghiệp, hơn nữa lại phải giao tế thù tạc nhiều. Lúc này ảnh hưởng tới hệ "Tử vi Tham lang" mang theo sắc thái "ham muốn vật chất".
Cung hạn Cự môn độc tọa, hệ "Tử vi Tham lang" đến, tâm trạng dễ bị trồi sụt thất thường. Hệ "Tử vi Tham lang" thiên nặng về "ham muốn dục tình" ở trong đại vận hoặc lưu niên này, thường thường xuất hiện tình huống bị quấy nhiễu, bị gây khó khăn về tình cảm, nhất là lúc Cự môn Hóa Kị, hoặc lúc Thiên đồng của cung đối diện Hóa Kị, mức độ bị quấy nhiễu, gây khó khăn sẽ nghiêm trọng hơn.
Khi Cự môn Hóa Lộc, hệ "Tử vi Tham lang" thiên nặng "ham muốn vật chất" đến, thì đây là vận tốt có tính khai triển, nhưng cần phải có Thái dương của lưu niên Hóa Lộc xung khởi vận thế (năm Giáp), thì mới mạng lại hiệu quả khi khai triển, thực thi kế hoạch. Thông thường, cung hạn Cự môn độc tọa gây bất lợi đối với hệ "Tử vi Tham lang", chủ về gặp cảnh ngộ khốn khó, chỉ nên xem là cơ sở của phát triển mà thôi.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu có Phá quân Hóa Lộc ở cung đối diện, thì đây là đại vận hoặc lưu niên tốt, mang tính triển khai kế hoạch dự định mới, nhưng không nên một mình "đơn phương độc mã" tự triển khai sáng lập sự nghiệp, chỉ nên đống vai trò trợ giúp người khác. Nếu ở địa vị "thủ lĩnh" hay "lãnh đạo", cũng không nên quá lộ sự sắc xảo, càng xuất đầu lộ diện sự sắc xảo, thì càng gặp nhiều sóng gió trắc trở.
Thiên tướng thuộc loại "Tài ấm giáp ấn", đối với mệnh cách "ham muốn vật chất" là vận thế tốt, nhưng không thể bộc lộ lòng ham muốn lãnh đạo, ham muốn chỉ huy. Nếu lại gặp Sát tinh hội hợp, vì lòng ham muốn chỉ huy, lãnh đạo này, mà xảy ra trắc trở rất lớn. Thiên Tướng thuộc cách "Hình kị giáp ấn", mệnh cách "ham muốn vật chất" đến, sẽ bị nhiều áp lực liên quan tới người khác giới, sự việc thường trì trệ. Còn mệnh cách "ham muốn dục tình" thường vì sắc mà gây họa, hoặc phải đau khổ vì tình.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, nói chung là bất lợi cho hệ "Tử vi Tham lang". Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình Hao trùng trùng tụ tập, thậm chí bị họa về kiện tụng liên quan đến pháp luật. Dù được Cát hóa và có Cát tinh, cũng không phải là vận thế mở lòng mở dạ, sinh ra tâm trạng trì trệ, lười biếng, ảnh hưởng đến tiến độ công việc.
Nếu hệ "Tử vi Tham lang" nguyên cục hội hợp với Liêm trinh Hóa Kị, ở cung hạn Thiên lương độc tọa lại gặp các sao Tài sao Lộc, thì nên dùng nghề nghiệp chuyên môn để kiếp tiền. Nếu gặp thêm Sát tinh, thêm Thiên hình, Đại hao thì trái lại, sẽ chủ về phá tài thất bại, nặng thì tranh chấp kiện tụng.
Cung hạn "Liêm trinh Thất sát" đồng độ, có Lộc Quyền Khoa hội hợp, hoặc nguyên cục là cách "Hỏa Tham", "Linh Tham", chỉ cần Sát tinh không nhiều mà không có lưu Sát tinh xung hội, thì đây là vận thế phát một cách đột ngột, nhất là đối với hệ "Tử vi Tham lang" mang sắc thái "ham muốn vật chất"; người mang sắc thái "ham muốn dục tình" tuy cũng có lợi thế về tiền bạc sự nghiệp, nhưng lại bị dục tình gây lụy, dẫn đến vận thế chao đảo.
Hệ "Tử vi Tham lang" tối kị đại vận hoặc lưu niên "Liêm trinh Thất sát" mà có Liêm trinh Hóa Kị, chủ về thất bại vô cớ. Nếu hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, thì nên kềm chế ham muốn dục vọng để đề phòng sai lầm mà sinh ra thị phi.
Hệ "Tử vi Tham lang" thiên nặng "ham muốn vật chất" gặp lưu niên Liêm trinh Hóa Kị bị Vũ khúc Hóa Kị xung hội, nếu cung hạn còn bị các sao Sát Kị Hình xung hội, chỉ nên lui về phòng thủ, và cần chú ý sức khỏe, người thiên nặng "ham muốn dục tình" sẽ dễ vì sắc mà gây họa.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, hệ "Tử vi Tham lang" thiên nặng "ham muốn dục tình" mà đến, thường thường cũng là năm bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Đối với hệ "Tử vi Tham lang" thiên nặng "ham muốn vật chất", thì đây là năm hưởng thụ mang sắc thái đào hoa.
Chỉ trong tình hình cung hạn Thiên đồng có Lộc Quyền Khoa hội hợp, mà còn gặp Cát tinh, hệ "Tử vi Tham lang" bất kể là "ham muốn dục tình" hay "ham muốn vật chất", đến cung hạn này mới là vận hạn thu hoạch.
Cung hạn "Vũ khúc Phá quân" đồng độ, trong tình hình thông thường, chỉ có lợi đối với hệ "Tử vi Tham lang" thiên nặng về "ham muốn vật chất", khi hệ "Vũ khúc Phá quân" có Hóa Lộc Hóa Quyền thì càng đúng. Người thiên nặng "ham muốn dục tình", dù cung hạn "Vũ khúc Phá quân" có các sao Sát Hao tụ tập, thường chủ về "đào hoa kiếp" gặp rắc rối về tình cảm, còn quan vận và tài vận đều bình thường, thiên về xu hướng lấy an toàn làm trọng. Nhưng khi Vũ khúc Hóa Kị, đây là năm thất bại về sự nghiệp và tiền bạc đối với mệnh cách "ham muốn vật chất", phép "xu cát tị hung" là cần phải giữ cho thật vững, thuận theo hoàn cảnh, thì mới có thể tránh được thất bại. Mệnh cách "ham muốn dục tình" thì phải biết kềm chế tình cảm. Cả hai loại mệnh cách này, nguyên nhân đều từ dục vọng bị trở ngại mà xảy ra tranh chấp lớn. Nếu Tham lang đồng thời Hóa Kị, sẽ thất bại trong cuộc tranh chấp.
Cung hạn Thái dương độc tọa, trừ trường hợp được Cát hóa và có các Cát tinh tụ tập, nếu không, đối với hệ "Tử vi Tham lang" thì đây là vận xấu, đặc biệt dễ vì dục tình mà gây ra thị phi, bị quấy nhiễu, bị gây khó khăn cản trở, thêm các sao Sát Kị thì càng nặng, khi Thái dương lạc hãm thì càng nặng thêm nữa.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, thông thường có lợi cho hệ "Tử vi Tham lang" đến. Trừ trường hợp cung hạn có các sao Sát Kị Hình hội hợp, phần nhiều đây là vận trình mang tính phát triển. Thiên phủ ở Mùi, được Thái dương Thái âm thừa vượng nhập miếu giáp cung, vào năm Tân thì Thái dương Hóa Quyền giáp mệnh, đồng thời Cự môn Hóa Lộc giáp Thiên tướng của cung Sự nghiệp, bất kể hệ "Tử vi Tham lang" thuộc tính chất nào, cũng đều xem đây là vận trình có thu hoạch.
Cung hạn "Thiên cơ Thái âm" đồng độ, xét về khí chất là bất lợi cho hệ "Tử vi Tham lang", nếu các sao ở cung hạn này gặp Cát tinh hay được Cát hóa thì còn được, nếu không, đây là vận trình gặp nhiều tai nạn bệnh tật, hoặc tinh thần bị quấy nhiễu, gây nhiều áp lực khó khăn.
Đơn cử ví dụ: hệ "Tử vi Tham lang" ở cung Phúc đức.
Cung Mệnh là Thiên phủ độc tọa, cung Phúc đức là hệ "Tử vi Tham lang" có Thiên diêu đồng độ. Người sinh năm Đinh, sinh giờ Mão có Xương Khúc ở Mùi, nên cung Phúc đức hội hợp với Xương khúc của cung Mùi, còn hội với Thiên khôi Thiên việt. Do vậy, hệ "Tử vi Tham lang" này mang tính chất "ham muốn dục tình".
Đến đại vận Quý Mão, cung mệnh của đại hạn là hệ "Tử vi Tham lang", cung Phúc đức của đại hạn là Thiên tướng, bị "Hình kị giáp ấn", nhưng lại được Phá quân Hóa Lộc xung hội, vận trình này dễ bị dẫn dụ mà vọng động.
Cho nên, vào năm Giáp Tý, sáng lập sự nghiệp thất bại, nguyên nhân chính dẫn đến thất bại, đều vì bị ảnh hưởng của tình cảm. Biết rằng, cung Phúc đức hiển thị trạng thái tinh thần của mệnh tạo, có thể lấy đó để dự báo xu thế cát hung của vận mệnh.
Tham lang độc tọa ở Thìn Tuất
Tham lang độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện là Vũ khúc độc tọa, cung tam phương là Thất sát độc tọa và Phá quân độc tọa.
Tổ hợp sao toàn chính diệu, mang sắc thái thuần túy, muốn luận đoán bản chất của nó, cần chú ý xem Tham lang thuộc loại "kiên nhẫn chờ thời" hay thuộc loại "hành động hấp tấp" (dục tốc bất đạt).
Tham lang ở Thìn hoặc ở Tuất, là rơi vào "Thiên la Địa võng", rất ưa có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ để thành cách, ắt sẽ có cơ hội phát đột ngột. Có điều, lúc cơ hội chưa đến mà "hành động hấp tấp", dục tốc bất đạt, phần nhiều là thất bại, làm ảnh hưởng đến cơ sở để phát đột ngột, sau khi phát đột ngột cũng khá dễ suy sụp một cách nhanh chóng.
Tham lang ở Thìn hoặc ở Tuất, dù hưng phát cũng chỉ là vận lúc trẻ. Vì vậy, Tham lang Hóa Lộc khi chưa tới thời hưng phát, sẽ khiến mệnh tạo bị dục vọng thôi thúc, dẫn đến tâm chí không ổn định mà hay vọng động, thường bộc lộ "hành động hấp tấp" trong mọi việc, khi Tham lang Hóa Quyền thì có hành động thiết thực hơn.
Tham lang rất ưa Phá quân Hóa Quyền Hóa Lộc đến hội hợp, làm tăng tính "kiên nhẫn chờ thời" của người Tham lang. Vũ khúc Hóa Quyền, tuy bất lợi cho vận lúc trẻ, nhưng cũng làm tăng tính "kiên nhẫn chờ thời" của Tham lang.
Tham lang Hóa Kị, dễ vì việc không như ý mà dẫn đến "hành động hấp tấp", khác cơ bản với Tham lang Hóa Lộc.
Vũ khúc Hóa Kị bất lợi cho vận trình lúc trẻ và vận trình tráng niên, cần phải đến cung hạn thứ tư mới chủ về chuyển biến hanh thông. Nếu Vũ khúc ở cung đối diện lại thêm Sát tinh, sẽ khiến cho Tham lang trở thành mệnh cách "hành động hấp tấp". Khi cung đối diện Vũ khúc độc tọa không có Sát tinh, mà gặp Cát tinh, sẽ khiến Tham lang thành mệnh cách "kiên nhẫn chờ thời".
Nếu không gặp các sao Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Kị, mà gặp Sát tinh nặng, đặc biệt có Linh tinh và Kình dương cùng hội hợp, thì khiến Tham lang thành loại "hành động hấp tấp", gặp Hỏa tinh và Đà la cùng hội hợp, cũng chủ về loại mệnh cách "hành động hấp tấp", dục tốc bất đạt. Gặp Hỏa tinh và Kình dương hoặc Linh tinh và Đà la thì tốt hơn. Nhưng khi Linh tinh Đà la cùng hội hợp, lại chủ về bề ngoài ung dung mà nội tâm lại nóng ruột, lo lắng.
Tham lang lại đến cung hạn Tham lang, ưa hội hợp với Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa ở tam phương tứ chính, cũng ưa bản thân Tham lang Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền.
Tính chất tổ hợp các sao ở cung mệnh của đại vận và lưu niên chỉ đại biểu cho hoàn cảnh buộc phải trải qua, mà không đại biểu cho bản chất của mệnh tạo, do đó ưa đến vận trình Tham lang Hóa Lộc, không chủ về mệnh tạo là người có "hành động hấp tấp".
Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" không nên đến cung hạn Phá quân độc tọa, dù Phá quân Hóa Lộc thì cũng phải đề phòng, vì "hành động hấp tấp" mà phạm sai lầm. Nếu có Thiên khôi Thiên việt hội hợp thì lại trở thành cát lợi, cơ hội không tìm mà tự đến, cho dù "hành động hấp tấp" cũng không sao.
Tham lang thuộc loại "kiên nhẫn chờ thời" thích hợp đến cung hạn Phá quân Hóa Quyền, chủ về phải gánh vác trách nhiệm quá mức, hoặc làm kiêm thêm nghề mới, nhờ vậy mà phát đạt. Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" thì trái lại, dễ đánh mất cơ hội. Nếu Phá quân Hóa Quyền đồng thời gặp Sát tinh, mệnh cách "hành đồng hấp tấp" đến cung hạn này, phần nhiều khó chịu đựng nỗi gian khổ chướng ngại ban đầu.
Cung hạn Thất sát độc tọa, mệnh cách "hành động hấp tấp" khá thích hợp đến cung hạn này. Nếu cung hạn Thất sát độc tọa có các sao Sát Hình nặng, thì phải đề phòng vì lộng quyền mà gây ra tai họa. Lúc Phá quân Hóa Lộc đến hội hợp, Tham lang ắt cũng đồng thời Hóa Kị đến hội hợp; lúc này Thất sát thủ cung mệnh của lưu niên, rất kị có Vũ khúc Hóa Kị của lưu niên đến xung đại vận hay xung Tham lang Hóa Kị nguyên cục, hoặc Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên đến xung đại vận hoặc xung Phá quân Hóa Quyền (hay hóa Lộc) nguyên cục. Trường hợp trước là chủ về đột ngột phát sinh trở ngại, cạnh tranh, dẫn đến phá tài, trường hợp sau là chủ về vì gặp may mà dẫn đến trở ngại lớn, quan hệ giao tế thay đổi, tình cảm đổ vỡ, thu nhập tăng thì đồng thời chi tiêu cũng lớn. Nếu lại gặp các sao đào hoa và các sao Sát Hình, thì vì hoàn cảnh thuận lợi mà dẫn đến "đào hoa kiếp".
Trên là tình hình đại khái khi Tham lang thủ mệnh đến các vận hạn Thất sát, Phá quân, Tham lang.
Cung hạn Cự môn độc tọa, Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" không nên đến, cho dù Cự môn Hóa Quyền hay Hóa Lộc, thường dễ xảy ra nhiều sự cố, kị nhất là rơi vào tình trạng đau khổ vì tình, gây ảnh hưởng đến sự tiến thủ. Khi Cự môn Hóa Kị, lại chủ về tự chuốc lấy buồn phiền về tình cảm, mà không thể dứt ra được.
Tham lang thuộc loại "kiên nhẫn chờ thời" ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, sau khi trải qua một khoảng thời gian khốn khó thì có thể biến thành hanh thông. Có điều, nếu ở lưu niên có Thái dương hay Thái âm đồng thời Hóa Kị đến hội hợp, ắt sẽ có trở ngại nghiêm trọng, nhiều chuyện thị phi đột ngột xảy ra, gây nên phá tài.
Cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ, Tham lang thuộc loại "kiên nhẫn chờ thời" đến, chủ về rất nên hợp tác với người khác để sáng lập sự nghiệp. Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" thì không nên đến, cho dù gặp Liêm trinh Hóa Lộc ở cung mệnh của lưu niên, cũng chỉ là vẻ vang nhất thời, say sưa đắc ý sẽ sinh thất bại. Nếu Liêm trinh Hóa Kị, thì bất kể Tham lang thuộc tính chất nào đến cung hạn này, cũng đều nên xem là trải nghiệm của đời người, qua giai đoạn này sẽ được ngươi ta trọng dụng, có thể dẫn đến hanh thông. Cho nên, Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" càng nên nhẫn nại.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, rất ngại Thái dương Hóa Kị đến hội hợp, Tham lang đến cung hạn này, chủ về bị áp lực hoặc uy hiếp về tâm lý, Thái âm Hóa Kị mà đến hội hợp thì chủ về, vì kế hoạch sai lầm mà phá tán.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, nếu có Cát tinh, thường thường là vận trình thu hoạch và mở rộng, Tham lang thuộc loại "kiên nhẫn chờ thời" rất thích hợp đến. Nếu Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" thì cần phải xem tổ hợp các sao của hai năm trước, xem có phá tán thất bại hay không mà định. Cung hạn Thiên đồng gặp Thái âm Hóa Kị hoặc Thiên cơ Hóa Kị thì không nên đầu cơ.
Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường Tham lang ưa đến, lưu niên mà gặp nó, dù không được Cát hóa và gặp Cát tinh, cũng chủ về hành động. Chỉ ngại Vũ khúc Hóa Kị, dù Tham lang thuộc loại "kiên nhẫn chờ thời" có đến, cũng không nên có những hành động quá đáng. Nếu Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" đến, thì chớ nên hành động mà nên phòng thủ là tốt nhất.
Cung hạn Vũ khúc độc tọa hội hợp với các sao Sát Kị Hình, bất kể Tham lang thuộc tính chất nào đến cung hạn này, đều chủ về bị tai họa bất ngờ hoặc sự cố liên quan đến chảy máu.
Năm Kỷ, lưu niên Vũ khúc Hóa Lộc, Tham lang có thể xem đây là Tài vận. Vào đại vận Vũ khúc Hóa Lộc, do vì Tham lang có đặc tính lúc vãn niên không ưa gặp sao Lộc, cho nên cần phải đề phòng sức khỏe có vấn đề.
Thái dương độc tọa thủ cung mệnh của lưu niên, thừa vượng nhập miếu, Tham lang ưa đến cung hạn này, chỉ khi Thái dương Hóa Kị thì không nên. Nếu Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" đến, thì sẽ gặp nhiều sự đổ vỡ, thị phi, còn Tham lang thuộc loại "kiên nhẫn chờ thời" thì nên tạo danh tiếng trong thời điểm này.
Thái dương độc tọa thủ cung mệnh của lưu niên lại lạc hãm, Tham lang đến cung hạn này sẽ mạnh thêm tính chất thị phi, oán trách. Nhưng mệnh cách "hành động hấp tấp" lúc này nên rút lui, chủ về vài năm sau sẽ dẫn đến vận thế phát đột ngột.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, đối với Tham lang là một lần trải nghiệm, Tham lang thuộc loại "kiễn nhẫn chờ thời" cũng sẽ gặp cạnh tranh một cách đột ngột. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, áp lực càng nặng. Thiên cơ nguyên cục Hóa Kị, lại xung hội Cự môn Hóa Kị của đại vận hoặc lưu niên, Sát tinh nặng thì nên đề phòng bệnh gan, Sát tinh nhẹ thì cũng chủ về uất chí.
Cung hạn "Tử vi Thiên phủ" đồng độ, đối với Tham lang thuộc loại "kiễn nhẫn chờ thời", đây là đại vận mang tính sáng tạo; được Thiên phủ Hóa Khoa, hoặc Vũ khúc Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ hay vây chiếu, đều là vận thế hưng phát hanh thông, Liêm trinh Hóa Lộc đến hội hợp cũng thêm cát lợi, nhưng chỉ nên làm việc hưởng lương hoặc hợp tác với người khác, không nên phát triển một mình. Tham lang thuộc loại "hành động hấp tấp" gặp cung hạn này cũng cát, nhưng rất kị bộc lộ tính cách lộng quyền, nếu không, sẽ phải nhận hậu quả xấu nghiêm trọng.
Đơn cử ví dụ: Tham lang ở cung Tài bạch.
Thất sát thủ mệnh ở Thân địa, cung Tài bạch có Tham lang ở Thìn gặp Linh tinh đồng độ.
Người sinh năm Giáp, lúc vào đại vận Kỷ Tị có Cự môn thủ Mệnh của đại vận, có Thiên cơ thủ Tài bạch của đại vận, bị lưu Dương lưu Đà của đại vận chiếu xạ. Đây là vận trình mang tính trải nghiệp của mệnh tạo.
Năm Ất Sửu, Thiên đồng thủ cung Tài của lưu niên gặp Thái âm Hóa Kị, vì vậy năm Ất Sửu đầu tư thất bại, rõ ràng thấy thế của thị trường đúng, nhưng vì thời gian phối hợp không tốt, dẫn đến đầu tư không đúng thời cơ.
Kết cấu "Linh Tham" thủ cung Tài vốn có lợi về đầu cơ, nhưng đại vận hoặc lưu niên không phối hợp với nhau, thì bản chất của hệ "Linh Tham" cũng không thể phát huy. Đây là ví dụ đáng được chú ý.
Tham lang và Liêm trinh đồng độ ở Tị Hợi
Tham lang và Liêm trinh đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện vô chính diệu, cung tam phương có "Vũ khúc Thất sát" và "Tử vi Phá quân" hội hợp.
Muốn luận đoán đặc tính của hệ "Liêm trinh Tham lang" đồng độ, cần chú ý phân biệt khuynh hướng "chú trọng tình cảm" và khuynh hướng "ham muốn vật chất". Liêm trinh chủ về "chú trọng tình cảm". Tham lang chủ về "ham muốn vật chất".
Nếu Liêm trinh mạnh (như Liêm trinh Hóa Lộc, hoặc gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Đại hao, Mộc dục, Thiên diêu, Tam thai, Bát tọa, Đài phụ, Phong cáo), thì hệ "Liêm trinh Tham lang" thuộc vào loại có bản chất "chú trọng tình cảm".
Nếu Tham lang mạnh (như Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền; hoặc gặp các sao Tả phụ, Hữu bật, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các, Thiên quan, Thiên phúc), thì hệ "Liêm trinh Tham lang" thuộc vào loại có bản chất "ham muốn vật chất".
Khi Liêm trinh Hóa Kị, hoặc gặp Âm sát, Kiếp sát, Cô thần, Quả tú, sẽ làm yếu đi tính chất "chú trọng tình cảm" của hệ "Liêm trinh Tham lang". Khi Tham lang Hóa Kị, gặp Thiên khốc, Thiên hư, Tức thần, Hoa cái, cũng làm cho đặc tính "chú trọng tình cảm" của hệ "Liêm trinh Tham lang" bị yếu đi, phong độ tình cảm thoái hóa, suy giảm.
Khi Tham lang Hóa Kị, gặp Địa không, Địa kiếp, Phá toái, Vong Thần, thì sẽ làm yếu đi tính "ham muốn vật chất" của hệ "Liêm trinh Tham lang".
Tính "ham muốn vật chất" của hệ "Vũ khúc Thất sát" ở cung tam phương rất mạnh. Vũ khúc là sao chủ về tiền tài, gặp Thất sát đồng độ thì chủ về quyền tài chính. Nếu Vũ khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền, làm mạnh thêm tính "ham muốn vật chất" của Liêm trinh. Nếu có Văn xương, Văn khúc đồng độ, thì hệ "Vũ khúc Thất sát" lại mang sắc thái "chú trọng tình cảm".
Hệ "Tử vi Phá quân" ở cung tam phương không "chú trọng tình cảm", nhưng lúc hệ "Tử vi Phá quân" thuộc vào loại "phản kháng" thì được coi là tinh hệ mang sắc thái "chú trọng tình cảm". Cho nên, cần xem hệ "Tử vi Phá quân" thuộc vào tính chất cụ thể nào, để biết được sự ảnh hưởng đến "tình cảm" của hệ "Vũ khúc Phá quân". Đây theo nguyên tắc của tam phương hội hợp, hệ "Tử vi Phá quân" tác động ảnh hưởng đến hệ "Vũ khúc Thất sát", rồi hệ "Vũ khúc Thất sát" tiếp tục truyền ảnh hưởng dồn về hệ "Liêm trinh Tham lang".
Hệ "Liêm trinh Tham lang" hội hợp với tam phương tứ chính, khiến chúng mang nặng tính "chú trọng tình cảm", tính "ham muốn vật chất" cũng nặng, còn mang sắc thái theo đuổi dục vọng, do đó thành tinh hệ đào hoa. Lúc này cung Phúc đức nên kiên cường, hữu lực, thì còn có thể có chủ trương, không đến nỗi bị cuốn theo dòng nước, đời sống tình dục buông thả.
Cung Phúc đức ắt là Thiên tướng độc tọa. Lúc này không nên gặp cách "Hình kị giáp ấn", nếu không sẽ chủ về ý chí không ổn định (thất chí), hoặc bị người ta uy hiếm tinh thần, thành ẩu dâm bừa bãi. Cũng không nên bị "Tài ấm giáp ấn", nếu không sẽ chủ về là người nhu nhược mềm yếu, hay ỷ lại người khác, cũng dễ bị người ta lợi dụng sai bảo. Rất ưa hệ "Tử vi Phá quân" ở cung đối diện được "bách quan triều củng", hoặc có kèm Thiên hình vây chiếu, được cách như vậy, có thể khiến hệ "Liêm trinh Tham lang" thiên nặng chất đào hoa quy về chính đạo.
Hệ "Liêm trinh Tham lang" đồng cung với sao Không, chỉ ở trong trường hợp mệnh cách "chú trọng tình cảm" nặng hơn mệnh cách "ham muốn vật chất", thì mới có thể cải hóa đào hoa thành nghệ thuật, hoặc thành nghề nghiệp có tính giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Nếu tính "ham muốn vật chất" nặng hơn tính "chú trọng tình cảm", có sao Không đồng cung, thì trái lại, dễ có khuynh hướng theo đuổi cảm giác mạnh, khó kiểm soát động lực kích thích nhục dục, nên khả năng duy trì khí chất nghệ thuật sẽ mờ nhạt.
Hệ "Liêm trinh Tham lang" đến các cung hạn Thất sát, Phá quân, Tham lang, cần chú ý xem có biến động thay đổi tính chất của "Liêm trinh Tham lang" ở nguyên cục hay không. Đây là điều cần thiết để có thể luận đoán chính xác.
Ví dụ hệ "Tử vi Phá quân", nguyên cục Tử vi Hóa Khoa, do đó khiến tính chất không lành của hệ "Liêm trinh Tham lang" sẽ vì danh dự mà tự biết kềm chế, nhuyễn hóa thành sức mạnh theo đuổi sự nghiệp giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Nếu hệ "Liêm trinh Tham lang" đến cung hạn "Tử vi Phá quân", có Kình dương Đà la hội chiếu, lại gặp Văn khúc Hóa Kị và hệ "Tử vi Phá quân" cùng bay đến, lúc này khuynh hướng "chú trọng tình cảm" và khuynh hướng "ham muốn vật chất" sẽ nảy sinh xung đột, vì tâm trạng mất quân bình, nên mệnh cách theo đuổi cảm giác kích thích, dẫn đến danh dự bị tổn hại.
Lại như hệ "Vũ khúc Thất sát", nguyên cục Vũ khúc Hóa Kị, đã bất lợi cho tính "ham muốn vật chất", nay lại đến cung hạn "Vũ khúc Thất sát", có Tham lang Hóa Kị đến hội hợp, tính "ham muốn vật chất" càng khó thỏa mãn. Lúc này, đối với hệ "Liêm trinh Tham lang" vốn thiên về "chú trọng tình cảm" dễ vì tâm trạng mất quân bình mà xảy ra sự cố, hoặc lãng phí phá bỏ tình cảm để theo đuổi "ham muốn vật chất".
Cần phải phân tích rõ như vậy, xem tính chất nguyên cục hệ "Liêm trinh Tham lang" sau khi cộng thêm Lưu diệu sẽ diễn biến ra sao. Xem có phải từ quân bình biến thành mất quân bình, hoặc ngược lại, từ mất quân bình trở thành quân bình. Lại xét phương diện "chú trọng tình cảm" xảy ra như thế nào, khuynh hướng thay đổi là tốt hay xấu, mới có thể xác định đúng tính chất của hệ "Liêm trinh Tham lang" nguyên cục, khi vận trình đến ba cung đại hạn hoặc ba lưu niên "Liêm trinh Tham lang", "Vũ khúc Thất sát" và "Tử vi Phá quân".
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, phải xác định rõ có bị "kho trống" hay "kho lộ" hay không. Nếu Thiên phủ là "kho trống", "kho lộ" sẽ khiến cho hệ "Liêm trinh Tham lang" đau khổ vì sự theo đuổi "ham muốn vật chất" không được toại nguyện. Nếu hệ "Liêm trinh Tham lang" nguyên cục thiên về "chú trọng tình cảm", thì nên đề phòng thất chí, sa chân lỡ bước.
Cung hạn Thiên phủ là "kho đầy", thì hệ "Liêm trinh Tham lang" nặng tính "ham muốn vật chất" sẽ là vận hạn đắc ý, ít nhất thì sinh hoạt vật chất cũng dồi dào. Người thiên về "chú trọng tình cảm" mà đến cung hạn này, sẽ cảm thấy tinh thần trống rỗng, nếu Liêm trinh nguyên cục vốn nặng tính đào hoa, sẽ vì nguyên nhân tinh thần trống rỗng mà quyết yêu người đã có gia đình. Hành động phạm luật này là cát hay hung, xem xét tổ hợp Phụ, Tá, Tạp diệu như thế nào mà định.
Cung hạn Thái âm độc tọa, nếu bản chất của Thái âm là "hành đồng mù quáng", cũng như hệ "Liêm trinh Tham lang" thiên nặng về "ham muốn vật chất" đều không nên gặp nhau. Thái âm thuộc loại bản chất "hành động mù quáng" sẽ khiến cho hệ "Liêm trinh Tham lang" có sự nghiệp bị đình trệ, trở ngại. Còn bản thân hệ "Liêm trinh Tham lang" tự gây nên rắc rối về tình cảm, khiến tình cảm u uất này cùng tác động đến sự nghiệp. "Chú trọng tình cảm" và "ham muốn vật chất", hai khuynh hướng này khắc chế lẫn nhau, nếu mệnh cách kiểm soát được sự quân bình, thì đường sự nghiệp sẽ không bị tổn hại, thất bại.
Nếu bản chất của Thái âm thuộc vào loại "lý tưởng có mục tiêu" mà không phải thuộc loại "hành động mù quáng", hệ "Liêm trinh Tham lang" thiên về "chú trọng tình cảm", có thể vì quá chuyên tâm chú trọng vào chuyện tình cảm phong phú mà phương hại đến quan vận. Đối với hệ "Liêm trinh Tham lang" thuộc loại "ham muốn vật chất" quá nặng, sẽ tập chung chuyên tâm vào học hành, sự nghiệp chuyên nhất, mà dễn đến hy sinh tình cảm. Cho nên, gặp cung hạn Thái âm độc tọa này, chỉ có lợi khi hệ "Liêm trinh Tham lang" ở trong giới hạn quân bình, trung hòa. Cần xem thêm vận thế ở hậu vận để luận đoán thêm tinh xác.
Cung hạn Cự môn độc tọa, sẽ bất lợi đối với hệ "Liêm trinh Tham lang". Dù có hội với Cát tinh cũng phải bôn ba vất vả, cảm thấy có phúc mà không được hưởng, hoặc vì tình cảm xảy ra sóng gió trắc trở, khiến tinh thần bị khốn khổ. Nếu lại gặp các sao Sát Kị, chủ về gặp nhiều rắc rối thị phi, hoặc tinh thần đau khổ mất ăn mất ngủ khiến sức khỏe giảm sút nghiêm trọng.
Khi nguyên cục Liêm trinh Hóa Kị, đến cung hạn Cự môn, nữ mệnh rất cần đề phòng sa chân lỡ bước, bị tình cảm gây khổ lụy.
Khi nguyên cục Tham lang Hóa Kị, đến cung hạn Cự môn, nam mệnh rất cần đề phòng phạm pháp, bị "ham muốn vật chất" gây khổ lụy.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, khi Thiên tướng bị "Hình kị giáp ấn", sẽ gây bất lợi cho hệ "Liêm trinh Tham lang" thiên nặng về "ham muốn vật chất". Khi Thiên tướng thuộc cách "Tài ấm giáp ấn", sẽ gây bất lợi cho hệ "Liêm trinh Tham lang" thiên về "chú trọng tình cảm".
Nếu hệ "Liêm trinh Tham lang" có bản chất "trung hòa", "quân bình" đến cung hạn Thiên tướng, cung hạn lại có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, hội hợp, thì đây là thời điểm khai vận, là cơ hội để sáng lập sự nghiệp mới.
Cung hạn "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, mệnh cách "chú trọng tình cảm" rất ưa gặp Thiên đồng Hóa Lộc mà không ưa Hóa Kị. Đối với mệnh cách "ham muốn vật chất" đến cung hạn này mà gặp thêm Cát tinh, các tình huống rắc rối, áp lực mờ ám tự nhiên được tháo gỡ, khiến tâm trạng được giải thoát.
Cung hạn Thái dương độc tọa, hệ "Liêm trinh Tham lang" rất kị đến khi Thái dương lạc hãm, hoặc Thái dương hóa làm sao Kị. Nếu Thái dương thừa vượng nhập miếu, hoặc hóa làm sao Quyền hay hóa thành sao Lộc, là điềm "danh thành công toại" của hệ "Liêm trinh Tham lang" có bản chất quân bình. Dù ở lưu niên, cũng được người quan tâm đề bạt, giới thiệu.
Thái dương chủ về hướng ngoại, hệ "Liêm trinh Tham lang" vốn cũng không có tính hướng nội. Cho nên lúc Thái dương hội hợp với các sao cát tường, thông thường là lưu niên đắc ý. Lúc Thái dương hội hợp với các sao không cát tường, thì đây là lưu niên vì tình cảm bộc lộ mà phạm sai lầm, hoặc vì ham muốn vật chất mà phạm sai lầm. Lúc hội hợp với các sao Sát Kị Hình Hao thì càng chủ về hung họa sẽ lớn mà còn bị ảnh hưởng lâu dài.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, sau khi thêm các Lưu diệu, xét xem Thiên cơ thuộc loại tính chất nào, là người có tính "nguyên tắc" hay là người "bị tâm trạng hóa", thì mới có thể biết rõ cát hung khi hệ "Liêm trinh Tham lang" đến cung hạn này. Đại khái là, hệ "Liêm trinh Tham lang" thiên nặng về "ham muốn vật chất" sẽ ưa Thiên cơ mạng tính "nguyên tắc", mà không ưa gặp Thiên cơ "bị tâm trạng hóa", trong lưu niên này rất nên vạch kế sách mang tính ổn định, vạch kế hoạch mang tính chiến lược lâu dài. Hệ "Liêm trinh Tham lang" thiên về "chú trọng tình cảm" cũng ưa gặp Thiên cơ mang tính "nguyên tắc", trong lưu niên này có thể quyết định nên giữ hay nên bỏ về chuyện tình cảm. Nếu đến lưu niên, mà Thiên cơ "bị tâm trạng hóa", thì cả hai loại mệnh cách "chú trọng tình cảm" và mệnh cách "ham muốn vật chất" đều chủ về đưa ra quyết định sai lầm, nếu tổ hợp các sao lại nhiều Sát tinh, thì vì quyết định sai lầm mà diễn biến càng thêm nguy hiểm.
Đơn cử ví dụ: hệ "Liêm trinh Tham lang" ở cung Mệnh.
Hệ "Liêm trinh Tham lang" tọa mệnh ở Tị, người sinh năm Quý có Tham lang nguyên cục Hóa Kị, nhưng không có các sao đào hoa đồng độ, hội hợp với hệ "Tử vi Phá quân" có Phá quân nguyên cục Hóa Lộc, như vậy Tài cách không có sắc thái rắc rối về tình cảm.
Đến đại hạn Bính Thìn là cung hạn có Thái âm độc tọa, đồng độ với Đà la của đại vận; cung Phúc đức của đại vận gặp Cự môn nguyên cục Hóa Quyền, đồng độ với lưu niên, cung đối diện là Thiên cơ Hóa Quyền do can Bính của đại vận. Hơn nữa cung Phụ mẫu của nguyên cục (tức cung Phúc đức của đại vận) có các sao đào hoa tụ tập, đây là điềm gặp rắc rối về tình cảm.
Đến năm Kỷ Mùi, có Thiên tướng thủ cung Mệnh của lưu niên, đồng độ với Kình dương của lưu niên (chú ý: cung Mệnh của đại vận và cung Mệnh của lưu niên đều có lưu Dương lưu Đà), nguyên cục Tham lang Hóa Kị, ở lưu niên thì Tham lang Hóa Quyền lại gặp Đà la, hơn nữa cung Thê của lưu niên có Văn khúc Hóa Kị gây ảnh hưởng đến hệ "Liêm trinh Tham lang" ở cung Thê của lưu niên. Cho nên, trong niên hạn này, đột nhiên phát sinh tình yêu không bình thường với chị dâu của vị hôn thê. Mệnh tạo lúc này mới chỉ 17 tuổi (chú ý: cung Thê của lưu niên và cung Thê của nguyên cục đều gặp Vũ khúc và Thiên phủ).
Nếu Tham lang ở cung Mệnh nguyên cục không Hóa Kị, hơn nữa vận trình không đến cung hạn Cự môn thủ cung Phúc đức của đại vận, thì không đến nỗi xảy ra sự cố này. Do đó có thể thấy, hệ "Liêm trinh Tham lang" không ưa gặp Cự môn. Nếu trong cung viên Cự môn không có các sao đào hoa tụ tập nhiều, thì cũng không đến nỗi xuất hiện vấn đề tình cảm mạo phạm luân thường.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Thất sát tinh quyếtTổng luận
Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là "tướng tinh". Trong Đẩu Số có hai "tướng tinh" là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.
Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về "lao tâm", Phá quân chủ về "lao lực". Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái.
Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ "Tử vi Phá quân" lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ "Tử vi Thất sát", lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, "hóa sát làm quyền" liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.
Thất sát có tính "cứng rắn và hình khắc", là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính "cứng rắn và hình khắc", nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi "Tử vi Thất sát" đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu "triều củng" sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.
Cổ nhân có thuyết "Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng" (Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết "Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người" (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).
Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính "cứng rắn và hình khắc" của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh ngộ gian nan. Cổ nhân nói "Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh" (Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), "Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền" (Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).
Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói "Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương" (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói "Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương" (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); "Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương" (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là "Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung" (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu "Kình dương Đà la trùng điệp".
Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không, Địa kiếp.
Thất sát được cách nổi tiếng nhất là "Hùng tú kiền nguyên", tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao "dương cương" gây rối loạn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của "Liêm trinh Thất sát" là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.
Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có "Tử vi Thiên phủ", gọi là "Thất sát ngưỡng đẩu". Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có "Tử vi Thiên phủ" gọi là "Thất sát triều đẩu". "Triều đẩu" và "ngưỡng đẩu" đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp "tam cát hóa" có thêm Cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.
Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải "hành động thiết thực" để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.
Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính "cứng rắn và hình khắc" của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá "cứng rắn và hình khắc" ắt sẽ "hình phu khắc tử", đời người khó tránh cô tịch.
Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói "Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi" (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), "Tuyệt địa" ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong "Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần", thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.
Cổ nhân nói "Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh" (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có "sát khí", tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói "Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể" (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.
"Thất sát Liêm trinh" đồng độ ở cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng "Sát củng Liêm trinh cách", chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết "Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường" (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.
Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với "Vũ khúc Thiên phủ". Ở Mão hoặc ở Dậu thì "Thất sát Vũ khúc" đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ".
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với "Liêm trinh Thiên phủ"; ở Sửu hoặc ở Mùi có "Thất sát Liêm trinh", cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp "Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ".
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với "Tử vi Thiên phủ", ở Tị hoặc ở Hợi có "Tử vi Thất sát" đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp "Tử vi, Thất sát, Thiên phủ".
Biệt cách
Các sao có liên quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổ hợp "Sát Phá Tham".
Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:
- Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là "Vũ khúc Thiên phủ"
- Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh
- Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là "Tử vi Thiên phủ"
- Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc
- Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là "Liêm trinh Thiên phủ"
- Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi
Từ các tổ hợp này có thể thấy, các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc.
Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên khi thủ mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ "hợp cục nhập cách", mà trở thành cát tường. Tổ hợp "Tử vi Thất sát" hóa làm "quyền lực". Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về làm tăng "sức khai sáng" của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo dễ rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn dục vọng quyền lực.
Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính nhu của Liêm trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với "Liêm trinh Thiên phủ", là có thêm phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không đẹp như "hoa trong gương" hay như "trăng dưới nước", thường khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc nơi xa trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn.
"Thất sát Vũ khúc" đồng độ, là một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có Thiên phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc tài, cho nên có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp.
Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực
Trong Đẩu Số, Thất sát là sao "cương mãnh", phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong vô hình, còn tính phá hoại của Thất sát thường là cơ mưu tính toán phối hợp hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái "cương nhu tương tế". Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực, không nịnh bợ, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như gặp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít hợp quần.
Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ "độn thế và nhập thế" được gọi là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói "Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề khéo mà mưu sinh", "Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ". Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực, như cổ thư nói "Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải qua gian khổ", đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham lang dễ khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tất cả, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên "trải qua gian khổ" sau mới có thành tựu.
Người có Thất sát thủ mệnh, phần nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh Suyễn khí. Ngày nay Y học đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm.
Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức
Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn có người nệ cổ cho rằng "Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn". Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ "Tử vi Thiên tướng", cổ nhân cho rằng tinh hệ này có tính chất "vô tình vô nghĩa", thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính "hiếu động trôi nổi", và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại, chủ về không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.
Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là "Liêm trinh Thiên tướng" ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc, với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh "xướng kĩ, tỳ thiếp", bởi vì thời cổ đại, "xướng kĩ, tỳ thiếp" thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Thìn hoặc ở Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là "Vũ khúc Thiên tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng "Vũ khúc là sao cô quả" nên bất lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là "cơ trí". Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm sóc gia đình, luôn ở trong nhà, "cơ trí" không có đất dụng võ, mà thường phát triển biến thái thành tính "ngầm hại nhau bằng kế mọn", đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại, chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền, không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất định. Làm sao nói là "mệnh thấp hèn"?
Thất sát độc tọa Tý Ngọ
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có "Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ, các cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.
Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách "Hùng tú kiền nguyên", chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có thuyết "nhảy sông trầm mình", khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.
Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại "quyền uy" hay thuộc loại "khắc kị".
Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải "khắc kị". Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những tính chất của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách "Hùng tú kiền nguyên".
Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách, có tính chất "quyền uy".
Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham lang Hóa Kị, ảnh hưởng tới tính chất của Liêm trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến tính "quyền uy", nhưng đời người gian khổ hơn.
Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính "khắc kị". Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm "trống không".
Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính "khắc kị" rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có "Hỏa tinh Kình dương" đồng thời bay đến, thì tính "khắc kị" của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có vấn đề.
Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về "quyền uy".
Cung hạn "Thái âm Thái dương" đồng độ, Thất sát thuộc loại "khắc kị" ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại "quyền uy" thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính "khắc kị" của Thất sát, tính "khắc kị" được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí "quyền uy" của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại "khắc kị" rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người gây lụy.
Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn "Thái âm Thái dương" để an cung, thì ngoài những tính chất kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi).
Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát "quyền uy", chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp.
Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát "khắc kị" thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.
Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát "khắc kị" càng là bất lợi. Đạo "xu cát tị hung" là làm những nghề có liên quan đến "máu", như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể... để giảm thiểu tính "khắc kị".
Thông thường, Thất sát "quyền uy" ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát "khắc kị" thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát "khắc kị" đến cung hạn này là vận hung hiểm.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát "khắc kị" cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát "quyền uy" mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.
Xét lưu niên, Thất sát "khắc kị" phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát "quyền uy" lại là năm định hình sự nghiệp.
Cung hạn "Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát "quyền uy" đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát "khắc kị", thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với "Vũ khúc Thiên phủ" thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung tinh bị "hóa", thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính "khắc kị" của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.
Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính "khắc kị" cũng chủ về một năm thuận lợi toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát "quyền uy" cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch.
Tham lang Hóa Kị thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như ý, nhưng không chủ về nạn tai.
Cung hạn "Thiên cơ Cự môn" đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát "khắc kị" chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát "khắc kị" mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát "quyền uy" gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.
Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, đối với Thất sát "khắc kị" chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát "quyền uy", thì đây là thời kỳ ổn định.
Cung hạn "Tử vi Thiên tướng" đồng độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát "quyền uy" ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh không lành mạnh. Loại Thất sát "khắc kị" đến cung hạn này, lại gặp các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra trắc trở.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát "khắc kị" bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát "khắc kị" nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát "quyền uy" thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình bất ổn.
Thất sát và Liêm trinh đồng cung
Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là "Tử vi Tham lang" và "Vũ khúc Phá quân", tính chất cấu tạo của tổ hợp sao khá phức tạp.
Muốn luận đoán bản chất của tinh hệ "Liêm trinh Thất sát" ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại "phấn chấn" hoặc thuộc loại "cương bạo".
"Liêm trinh Thất sát" thuộc cách "Hùng tú kiền nguyên" ở Mùi, gặp các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại "phấn chấn", thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp, khác với "Liêm trinh Thất sát" có tính "cương bạo".
Gọi là "cương bạo", là nói tính chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải bôn ba vất vả rất nhiều.
"Liêm trinh Thất sát" ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách "phấn chấn". Đây là điều kiện cơ bản.
Nếu mệnh cách "Liêm trinh Thất sát" không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách "phấn chấn". Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.
Nếu mệnh cách "Liêm trinh Thất sát" không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính "cương bạo", mức độ "cương bạo" nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.
"Liêm trinh Thất sát" rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính "cương bạo" của chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất "phấn chấn", chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại "phấn chấn".
Lộc tồn không nên đồng độ với "Vũ khúc Phá quân", mà nên đồng độ với "Tử vi Tham lang". Trường hợp Lộc tồn đồng độ với "Vũ khúc Phá quân", dù khiến "Liêm trinh Thất sát" có bản chất "phấn chấn", những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh hưởng rất lớn đối với bản chất của "Liêm trinh Thất sát". Nếu Thiên phủ là "kho trống", "kho lộ" sẽ gây ảnh hưởng khiến "Liêm trinh Thất sát" biến thành "cương bạo"; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến "Liêm trinh Thất sát" thành mệnh cách "phấn chấn".
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, "Liêm trinh Thất sát" loại "phấn chấn" rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. "Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.
Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, "Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.
Cung hạn "Vũ khúc Phá quân" đồng độ, "Liêm trinh Thất sát" loại "phấn phát" thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn "Vũ khúc Phá quân" thì thuần túy về nhục dục.
"Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" nhập vào cung hạn "Vũ khúc Phá quân" thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là "lập công ở biên cương", vì vậy tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao Sát Kị, mà "Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất trắc.
"Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. "Liêm trinh Thất sát" loại "phấn chấn" đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của "Liêm trinh Thất sát", bất kể thuộc loại bản chất "phấn chấn" hay "cương bạo" cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của "Liêm trinh Thất sát" cực kỳ đơn giản, "cương bạo" thì bất lợi, thất bại; "phấn chấn" thì cát lợi, có thu hoạch.
Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.
Cung hạn "Thiên cơ Thái âm" đồng độ, "Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất ổn định là không tốt.
Cung hạn "Tử vi Tham lang" rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc "Liêm trinh Thất sát" đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang bản chất "phấn chấn", cũng chủ về xảy ra áp lực rất lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu "Tử vi Tham lang" ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi, buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.
Thông thường "Liêm trinh Thất sát" ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với "Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền bạc không có trở ngại. "Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục "phản bối" ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.
"Liêm trinh Thất sát" loại "phấn chấn" gặp Cự môn của cục "phản bối", tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho "Liêm trinh Thất sát". Bản chất "cương bạo" thì nền tảng của sự nghiệp mỏng yếu, còn bản chất "phấn chấn" thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có địa vị cao.
Ở lưu niên, nếu "Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" gặp cung hạn thuộc loại "Hình kị giáp ấn" chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính chất của cung hạn này.
"Liêm trinh Thất sát" loại "cương bạo" đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).
"Liêm trinh Thất sát" loại "phấn chấn" ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực.
Nữ mệnh "Liêm trinh Thất sát" không nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang bản chất "phấn chấn" hay bản chất "cương bạo", đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.
Thất sát độc tọa Dần Thân
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với "Tử vi Thiên phủ", tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.
Muốn luận giải bản chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại "cô độc, cao ngạo", hay thuộc loại "uy quyền".
Thất sát thuộc loại "cô độc cao ngạo" bề ngoài cũng giống như loại Thất sát "uy quyền", nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát "uy quyền" tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử.
Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới có thể giải được tính "cô độc cao ngạo" của nó, khi Tham lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.
Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổ hợp "uy quyền", nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính "cô độc cao ngạo".
Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổ hợp sao "uy quyền", tính "cô độc cao ngạo" tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất "chọn bạn rất nghiêm khắc".
Nếu Thất sát có các sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là thuộc loại "cô độc cao ngạo".
Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc tính "cô độc cao ngạo".
Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính "cô độc cao ngạo" tuy có giảm, nhưng không thành tính "quyền uy".
"Tử vi Thiên phủ" ở cung đối diện, rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính "uy quyền", nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính "cô độc cao ngạo".
Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất thuộc loại "uy quyền", nếu mệnh cách thuộc loại "cô độc cao ngạo" chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân bất lợi.
Thất sát đến 12 cung, tính chất rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản:
Thất sát nặng tính "uy quyền" mà nhẹ tính "cô độc cao ngạo", thì nên đến những cung hạn sau:
- Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.
- Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.
- Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc.
- Vũ khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối diện.
- Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.
- Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.
- "Tử vi Thiên phủ" hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.
- Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.
- Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.
- Thiên lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.
Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các sao hội hợp để định.
Nếu bản chất Thất sát thuộc loại "cô độc cao ngạo", đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.
Thất sát có bản chất "uy quyền" không nên đến những cung hạn sau đây:
- Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị
- Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.
- Thái dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.
- Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la.
- Thiên cơ Hóa Kị
- Thiên cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị
- Thái âm lạc hãm Hóa Kị
- Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị
- Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu
- Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao.
- "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "Hình kị giáp ấn".
- Thiên lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.
Lúc đến các vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại "uy quyền" cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu.
Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem tính chất của các tổ hợp sao để định.
Thất sát thuộc loại "cô độc cao ngạo", mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cảnh ngộ thực tế.
Thất sát và Vũ khúc đồng cung
Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có "Tử vi Phá quân" và "Liêm trinh Tham lang".
Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại "quyết đoán" hay thuộc loại "nông cạn".
Thực ra, "quyết đoán" sáng suốt và suy nghĩ "nông cạn" chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì "Vũ khúc Thất sát" thuộc loại suy nghĩ "nông cạn", bề ngoài vẫn giống như người "quyết đoán" sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được.
"Vũ khúc Thất sát" thuộc loại "quyết đoán" sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui, còn loại người suy nghĩ "nông cạn", thì phần nhiều là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này.
Luận giải tính chất của "Vũ khúc Thất sát", chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại "quyết đoán sáng suốt". Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại "suy nghĩ nông cạn".
Lấy các sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ "Tử vi Phá quân" có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm bản chất "suy nghĩ nông cạn" của hệ "Vũ khúc Thất sát"; nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể gây ảnh hưởng cho hệ "Vũ khúc Thất sát" thành bản chất "quyết đoán sáng suốt".
Hệ "Liêm trinh Tham lang" cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ "Vũ khúc Thất sát" càng thêm quan trọng.
Văn xương, Văn khúc có khả năng điều hòa tính chất "suy nghĩ nông cạn" của hệ "Vũ khúc Thất sát", điều kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ "Liêm trinh Tham lang". Nguyên nhân chủ yếu là vì hệ "Liêm trinh Tham lang" không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực "quyết đoán sáng suốt" của hệ "Vũ khúc Thất sát".
Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ "Vũ khúc Thất sát". Nhưng, trường hợp mệnh cách "suy nghĩ nông cạn" nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ "Vũ khúc Thất sát" thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ "Vũ khúc Thất sát" thuộc loại "quyết đoán sáng suốt" cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ "Vũ khúc Thất sát" thuộc loại "suy nghĩ nông cạn", nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, đối với hệ "Vũ khúc Thất sát" thuộc loại "suy nghĩ nông cạn", đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại "quyết đoán sáng suốt" chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được tổn thất.
Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau.
Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ "Vũ khúc Thất sát" thuộc loại "suy nghĩ nông cạn" không nên đến, nếu Thiên phủ lại là "kho lộ", "kho trống", thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ "Vũ khúc Thất sát" thuộc loại "quyết đoán sáng suốt" mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp.
Cung hạn Thiên phủ thông thường bất lợi cho mệnh cách "Vũ khúc Thất sát", nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.
Hệ "Vũ khúc Thất sát" ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại "suy nghĩ nông cạn" chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo "xu cát tị hung" là biết có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn thất càng lớn.
Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ "Vũ khúc Thất sát" thuộc loại "quyết đoán sáng suốt", chủ về vì một quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách "suy nghĩ nông cạn" thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên "tĩnh" không nên "động", "động" thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.
Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách "Thạch trung ẩn ngọc", thì loại mệnh cách "quyết đoán sáng suốt" rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.
Mệnh cách thuộc loại "suy nghĩ nông cạn" đến cung hạn Cự môn thuộc cách "Thạch trung ẩn ngọc", vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán trách.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách "Hình kị giáp ấn", thì hệ "Vũ khúc Thất sát" sẽ cảm thấy bị áp lực, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại "quyết đoán sáng suốt" thì khá dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại "suy nghĩ nông cạn" mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.
Cung hạn Thiên tướng thuộc cách "Tài ấm giáp ấn", thì bất kể mệnh cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về "mọi toan tính chỉ phí sức". Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình sự nghiệp một đời.
Cung hạn hệ "Thiên đồng Thiên lương" tọa thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ "Vũ khúc Thất sát" mà gặp cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ "Thiên đồng Thiên lương" hội hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.
Ba cung hạn "Vũ khúc Thất sát", Liêm trinh Tham lang" và "Tử vi Phá quân", là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ "Vũ khúc Thất sát" tọa mệnh.
Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách "quyết đoán sáng suốt", còn mệnh cách "suy nghĩ nông cạn" thì bất lợi.
Thất sát độc tọa Thìn Tuất
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện sẽ là hệ "Liêm trinh Thiên phủ", tam phương có Tham lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.
Muốn luận giải tính chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất tính lý của Thất sát là "lý tưởng" hay "ảo tưởng".
Trong thực tế, "lý tưởng" không nhất định sẽ tốt hơn "ảo tưởng". Bởi vì "lý tưởng" quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào "ảo tưởng", tuy những suy nghĩ của họ không thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có "lý tưởng" nhưng không thực hiện được mà thôi.
Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung đối diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng "lý tưởng", trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ cực vẫn không từ nan.
Nếu hệ "Liêm trinh Thiên phủ" hội hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy khuyết điểm của bản thân.
Ngoại trừ hệ "Liêm trinh Thiên phủ", hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng, nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.
Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không tưởng.
Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ "Liêm trinh Thiên phủ" ở Thìn chủ về nhiều không tưởng, hệ "Liêm trinh Thiên phủ" ở Tuất chủ về nhiều "lý tưởng". Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách "lý tưởng", còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách "ảo tưởng". Hai tính chất này không có liên quan với tình trạng "miếu, vượng, lợi, hãm" của các sao.
Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là "bách quan triều củng" mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách "lý tưởng". Nếu gặp các sao Sát Kị Hình,, thì "lý tưởng" khá tầm thường, đời người phần nhiều phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là "tại dã cô quân", thì bản chất của Thất sát là không tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều "ảo tưởng" không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những "ảo tưởng" không thể thực hiện này, giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.
Thất sát thuộc loại "lý tưởng", ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi "lý tưởng", dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến "ảo tưởng" va chạm với hiện thực, mà biến thành "lý tưởng".
Mệnh cách Thất sát "ảo tưởng", không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận.
Hệ "Liêm trinh Thiên phủ" ở Thìn bất lợi đối với Thất sát, hệ "Liêm trinh Thiên phủ" ở Tuất thì có lợi hơn.
Nếu hệ "Liêm trinh Thiên phủ" gặp các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại "ảo tưởng" mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại "lý tưởng' thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.
Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối với Thất sát. Nếu Thiên phủ là "kho trống", hay "kho lộ", khiến Thất sát thuộc loại "ảo tưởng" càng tăng nặng "ảo tưởng", dễ lâm vào tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc loại "lý tưởng" thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.
Hệ "Thiên đồng Cự môn" bất kể là cát hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại "ảo tưởng", khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ "Thiên đồng Cự môn" có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào "ảo tưởng" rất nặng.
Thất sát thuộc loại "ảo tưởng" ưa đến cung hạn "Thái dương Thiên lương", gặp Cát tinh, là vận tốt để thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn "Thái dương Thiên lương" lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại "ảo tưởng" đến cung hạn "Thái dương Thiên lương" lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn "Thái dương Thiên lương" mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là cơ hội để thực hiện những "ảo tưởng", nếu thực hiện những "ảo tưởng", sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản thân.
Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối với Thất sát thuộc loại "lý tưởng", bất lợi đối với Thất sát loại "ảo tưởng". Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào "ảo tưởng". Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh cách loại "ảo tưởng" vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất sát, dù là loại mệnh cách "lý tưởng", cũng dễ vì sai lầm nhất thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của mình.
Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi!
Khi luận giải không nên ngộ nhận đối với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt tiêu cực của sao Thất sát.
Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất "lý tưởng" và "ảo tưởng" của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Bởi vì, khi "lý tưởng" có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Lúc "ảo tưởng" mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái tiêu cực.
Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực, thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát tọa mệnh.
Thất sát thuộc loại tiêu cực, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng tính tiêu cực của nó. Sự "trung hòa" đối với mẫu người này là rất quan trọng.
Tử vi và Thất sát đồng cung
Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên phủ, cung tam phương là "Vũ khúc Tham lang" và "Liêm trinh Phá quân" hội hợp.
Mệnh bàn loại này cấu tạo thuần tính vật chất, các sao hội hợp mạnh mẽ, do đó cát hung thường thường chỉ cách nhau một đường ranh.
Muốn luận giải bản chất của hệ "Tử vi Thất sát" ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt tính chất cực đoan của chúng, là thuộc vào loại "quyền uy" hay thuộc vào loại "hoành hành bá đạo".
Mệnh cách thuộc loại "quyền uy", phần nhiều phát triển theo xu hướng chính đạo, chính giới, chính tắc. Trường hợp mệnh cách "hoành hành bá đạo" dễ đi vào con đường lầm lạc. Thông thường, người có hệ "Tử vi Thất sát" thủ mệnh, không có tính cực đoan mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại khuynh hướng trong tính chất mà thôi.
Bản thân hệ "Tử vi Thất sát" đã có tính chất quyền lực, vì vậy không nên làm mạnh thêm tính chất quyền lực của nó, nếu không sẽ dễ biến thành "hoành hành bá đạo". Lúc Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới có thể tiêu trừ khí "hoành hành bá đạo", lại không có các sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách "Tử vi Thất sát" thuộc vào loại "quyền uy".
Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng không trở thành tính chất "hoành hành bá đạo", mà mệnh cách chủ về "quyền uy".
Nhưng nếu không có các sao Phụ Tá hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ "Hỏa tinh Đà la", hoặc gặp hệ "Kình dương Linh tinh" đồng độ hoặc hội chiếu, thì hệ "Tử vi Thất sát" biến thành "hoành hành bá đạo", đời người sẽ gặp nhiều trắc trở.
Cung đối diện là Thiên phủ rất nên là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì có thể giải được tính chất "hoành hành bá đạo" của hệ "Tử vi Thất sát". Dù không thể nhuyễn hóa thành mệnh cách loại "quyền uy", nhưng ít nhiều cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều thuận lợi hơn.
Cung tam phương tương hội là hệ "Vũ khúc Tham lang", trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ "Tử vi Thất sát" nhiều vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về được hưởng thụ.
Cùng một lý, hệ "Liêm trinh Phá quân" cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa Lộc còn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc.
Bản thân hệ "Tử vi Thất sát" dù không có tính chất "hoành hành bá đạo", cũng không nên hội với sao Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng ít hơn Phá quân Hóa Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh sẽ ảnh hưởng khiến hệ "Tử vi Thất sát" thành "hoành hành bá đạo", cho dù Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa.
Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại "quyền uy", mà không phải thuộc loại mệnh cách "hoành hành bá đạo". Khi có các sao hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí "tương hòa", khiến mệnh cách "Hỏa Tham", "Linh Tham" mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ rất dễ hoạch phá.
Hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" chủ về dễ thành công, đời người có nhiều thuận lợi toại ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm; nếu thành mệnh cách "hoành hành bá đạo", chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng nhiều.
Cung hạn "Liêm trinh Phá quân", thích hợp với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" mà không thích hợp với hệ "Tử vi Thát sát" loại "hoành hành bá đạo", mệnh cách thuộc loại "quyền uy" đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự nghiệp, con mệnh cách lọa "hoành hành bá đạo" mà đến cung hạn này, dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội "Hỏa Tham", "Linh Tham", thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại vận 10 năm có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập.
Nếu gặp các sao Sát Kị Hình tụ hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại "Hình kị giáp ấn" xung chiếu, mệnh cách thuộc loại "quyền uy" đến cung hạn này, chủ về bị áp lực cạnh tranh, lúc này, nên xem xét hậu vận để định thời cơ tiến thoái; mệnh cách thuộc loại "hoành hành bá đạo" mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn.
Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào hoa nặng, thì đây là năm có nhiều nguy cơ, thường thường vì thất bại mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là "kho lộ", "kho trống", thì bất kể hệ "Tử vi Thất sát" thuộc vào loại nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên phần nhiều đều bị phá tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại "hoành hành bá đạo" mà đến cung hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh chóng.
Thiên phủ là "kho đầy", lại không có Sát tinh tụ hội, hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" đến cung hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận lợi toại ý; Còn hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo" mà đến cung hạn này, thì cần phải giữ mình.
Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp các sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" mà đến cung hạn này, chủ về sẽ có vinh dự đặc biệt.
Do tính chất không tương thích, vì vậy khi hệ "Tử vi Thất sát" đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên hạn, nguyên tắc thông thường không được tiến thủ.
Cung hạn "Thiên đồng Thái âm" đồng độ, thông thường hệ "Tử vi Thất sát" ưa đến. Do hệ "Tử vi Thất sát" chủ về vất vả, khi đến cung hạn "Thiên đồng Thái âm" thì có thể được yên tĩnh, vì vậy được xem là vận trình hưởng thụ của hệ "Tử vi Thất sát" thuoock loại "quyền uy". Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị, sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng sức khỏe không tốt, nhất là cần lưu ý bệnh tim mạch.
Hệ "tử vi Thất sát" đến cung đại vận "Thiên đồng Thái âm", chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh.
Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ "Tử vi Thất sát" không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không thể hành động. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật.
Cung hạn "Vũ khúc Tham lang" đồng độ, thích hợp với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy", mà không thích hợp với loại "hoành hành bá đạo". Hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" đến cung hạn này, thường thường là vận thế hưng thịnh, được cát hóa và có các Cát tinh tụ hội thì càng tốt, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn bình thường. Hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo" mà đến cung hạn này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh, rắc rối, thị phi, nếu thành cách "Hỏa Tham" cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía mới kiếm được tiền.
Nếu được cát hóa và có Cát tinh tụ hội, hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" đến cung hạn này sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo" thì lại không được dài lâu.
Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình tụ hội, đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy", chủ về bị cạnh tranh, thu hoạch không được như lý tưởng; Còn đôi với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo" thì phần nhiều là thất bại, nếu gặp Đà la đồng độ, còn chủ về hành động của bản thân gây ra thị phi, phải chịu nghịch cảnh.
Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt chú ý họa vì tửu sắc mà gây ra thị phi.
Cung hạn "Thái dương Cự môn" đồng độ, hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo" không ưa Thái dương quá vượng, cho nên khi đến cung hạn ở Dần có hệ "Thái dương Cự môn" tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung hạn ở Thân, mệnh cách "quyền uy" nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát tốt hơn.
Nếu cung hạn "Thái dương Cự môn" có các sao Sát Kị Hình tụ tập, đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người khác rất bất lợi; Còn đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo" thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên chú ý.
Đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy", thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là "hiệu lệnh", mang lại giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc; Còn đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo", thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp cách "Hình kị giáp ấn", đây là vận trình bị áp lực và trắc trở của hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo", lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân Hóa Lộc đến xung, chủ về có cơ hội nhiều và trắc trở cũng nhiều, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" mà gặp hạn "Hình kị giáp ấn" thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận trình có tính đột phá, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải gặp oán trách nhiều mà thôi.
Gặp hạn "Tài ấn giáp ấn", hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "hoành hành bá đạo" cần phải an phận giữ mình thì sẽ tiến bộ, nếu vận dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là nhân tố khiến cho hậu vận xảy ra phá tán, thất bại.
Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ "Tử vi Thất sát" đến cung hạn này, đều nên "tĩnh" mà không nên "động", nếu "động" sẽ gây tồn thất.
Cung hạn "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ, cũng có lợi đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy", mà bất lợi đối với hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "bá đạo", thường thường là bất lợi đối với lục thân, gặp hạn đời cô lập.
Cung hạn "Thiên cơ Thiên lương" được cát hóa và có Cát tinh, hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "quyền uy" đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ "Tử vi Thất sát" thuộc loại "bá đạo" đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách "bá đạo" càng dễ vì cuộc đời chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa người thân, bạn bè.
Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi đối với người có mệnh cách "bá đạo", chủ về loại người dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, đối với người có mệnh cách "quyền uy" thì rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi.
Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại người mệnh cách "quyền uy" hay loại người mệnh cách "bá đạo", đều không nên đến cung hạn này, đối với người có mệnh cách "quyền uy", có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân; còn đối với người có mệnh cách "bá đạo", vì biến thái tâm lý, dẫn đến làm càn mà gây ra họa.
Phá quân tinh quyếtBIỆT CÁCH
Phá quân quan hệ với các tinh hệ, bố trí của Phá quân trong tinh bàn có sáu loại như sau:
- Ở Tý hoặc ở Ngọ, Phá quân độc tọa.
- Ở Sửu hoặc ở Mùi, Phá quân đồng độ với Tử vi.
- Ở Dần hoặc ở Thân, Phá quân độc tọa.
- Ở Mão hoặc ở Dậu, Phá quân đồng độ với Liêm trinh.
- Ở Thìn hoặc ở Tuất, Phá quân độc tọa.
- Ở Tị hoặc ở Hợi, Phá quân đồng độ với Vũ khúc.
Phá quân cũng như Thất sát và Tham lang bài bố tại 12 cung trong tinh bàn, khi nhập các cung thuộc Dương (Tý Dần Thìn ngọ Thân Tuất) thì độc tọa, khi nhập các cung thuộc Âm (Sửu Mão Tị Mùi Dậu Hợi) thì đồng độ với một tinh diệu khác. Đặc tính quan trọng này, là cơ sở để luận giải sự phối hợp giữa "mệnh nạp âm", nguyên tắc "hợp Cục nhập Cách" và "tính lý" của các tổ hợp tinh hệ trong mệnh bàn.
Phá quân độc tọa Tý Ngọ
Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện là hệ "Liêm trinh Thiên tướng", cung tam phương là Thất sát độc tọa và Tham lang độc tọa hội hợp.
Phá quân ở hai cung này, có thể trở thành cách "Anh tinh nhập miếu". Hoặc có thể thành cách "Phá quân ám tinh".
Muốn luận giải tính chất của Phá quân độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cần phải phân biệt rõ bản chất của Phá quân thuộc loại "quả cảm" hay thuộc vào loại "làm càn". Nắm vững những đặc điểm này, mới có thể nhận biết được bản chất của Phá quân.
Phá quân thuộc loại "làm càn" có lực phá hoại lớn, nhưng sức sáng tạo kém, do đó thường là chủ động phá hoại, mà sự phá hoại của nó lại không có mục đích. Phá quân thuộc loại "quả cảm" thì lại khác, không chủ động tìm sự thay đổi, nhưng khi phải ứng phó với tình huống khách quan, thì không thay đổi không được, lại "quả cảm" hành động, có mục tiêu rõ ràng cho sự thay đổi.
Phá quân đối nhau với Liêm trinh Hóa Kị (năm Bính, Phá quân ở Tý ắt cùng lúc bị Kình dương Đà la chiếu xạ, Phá quân ở Ngọ thì đồng độ cùng Kình dương), về cơ bản đã thành mệnh cách "làm càn". Nếu gặp Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Lộc tồn, có thể hóa giải tính "làm càn" này, lúc này Phá quân rất ngại đồng độ với Văn khúc mà không gặp Văn xương, càng chủ về tăng thêm mức độ "làm càn" mà thôi.
Có Văn khúc Hóa Kị đồng độ hoặc ở cung đối diện xung chiếu, tuy gọi là "Phá quân ám tinh", thực ra cũng chỉ là mệnh cách Phá quân thuộc loại "làm càn" mà thôi.
Phá quân và hệ "Liêm trinh Thiên tướng" ở xung cung, bị Hỏa tinh Linh tinh xung phá, thì Phá quân cũng có tính "làm càn". Trường hợp Hỏa Linh đồng cung được xem là nặng, ở cung đối diện được xem là nhẹ hơn. Nếu Liêm trinh Hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh hoặc Linh tinh xung chiếu Phá quân, thì mệnh cách Phá quân thuộc loại "làm càn" càng nặng.
Phá quân Hóa Lộc hay Hóa quyền, chủ về người có mệnh cách "quả cảm". Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp (rất ưa gặp Lộc tồn), là thuộc về mệnh cách "quả cảm", cách "Anh tinh nhập miếu" cũng như vậy.
Phá quân không có cát hóa, nhưng gặp Tham lang Hóa Lộc, hoặc hệ "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung đối diện thuộc vào cách "Tài ấm giáp ấn", cũng chi phối gây ảnh hưởng, khiến Phá quân thuộc vào loại "quả cảm".
Vận hạn Phá quân, Thất sát, Tham lang độc tọa, cần phải gặp các Cát tinh. Nhất là Thiên khôi, Thiên việt, mới là cung hạn Phá quân thuộc loại "làm càn" thích hợp đến, lúc này lợi dụng tính "tường hòa" (cát tường và hòa giải) của Cát tinh để hóa giải tính "làm càn" của Phá quân, khiến cho tính chủ động phá hoại và lực phá hoại không mục đích của Phá quân không có đột biến. Lúc này được gọi là "nỗ lực hậu thiên có tu dưỡng để bổ cứu", chủ về hễ gặp việc, thì suy nghĩ kỹ lưỡng, sau đó mới hành động - nếu là vận xấu có tránh được không? Chưa chắc tránh được vận xấu, cần phải thêm điều kiện hội hợp với sao cát, thì mới có thể kết luận. Đối với Phá quân thuộc loại "quả cảm" đến cung hạn này, thì có nhiều cơ hội thay đổi, dù không được cát hóa, cũng có thể cải thiện hoàn cảnh khách quan.
Đối với người có Phá quân tọa mệnh, khi đến các đại vận hoặc lưu niên có Thất sát, Phá quân, hay Tham lang độc tọa, người mệnh cách "quả cảm" đến cung độ vận hạn có Thất sát tọa thủ thì tốt; người mệnh cách "làm càn" đến cung độ Thất sát độc tọa thì dễ đánh mất cơ hội, mà còn chưa chắc lợi dụng được vận thế, trong hạn này chỉ chủ về thay đổi vẻ bề ngoài.
Nếu cung độ Tham lang cùng lúc gặp cả Lộc tồn lẫn Hóa Lộc, hơn nữa còn có Cát tinh hội hợp, đối với Phá quân thuộc loại "làm càn" có thể nhuyễn hóa bản chất "thay đổi không có mục đích" trở thành "kiến thiết có mục đích". Đây hoàn toàn vì hoàn cảnh khách quan quá tốt đem lại một cách ngẫu nhiên.
Cung độ vận hạn Thất sát có Sát tinh, người có bản chất "làm càn" mà đến cung hạn này, chủ về chỉ biết phá bỏ cái cũ, mà không biết tạo nên cái mới. Vì vậy cần phải vận dụng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, đối với Phá quân thuộc loại "làm càn" không kị gặp cung hạn này, nhưng trong vận hạn này, có thể vì đặt ra mục tiêu sai lầm mà phải chịu tổn thất tới hậu vận. Xã hội ngày nay, đại vận thứ hai của mọi người, là thời gian Trung học phổ thông, vì vậy trong vận hạn này, cần có cha mẹ tư vấn lựa chọn mục tiêu một cách thận trọng, để phù hợp với đường sự nghiệp sau này được phát triển tối ưu. Đây được xem là "nỗ lực hậu thiên có bổ cứu".
Thiên cơ Hóa Kị ở nguyên cục, có thể nói là vận tốt của Phá quân thuộc loại "làm càn", có thể lợi dụng được vận thế này hay không? Sẽ trở thành then chốt để phát triển hậu vận.
Thiên cơ được cát hóa, đương nhiên là vận tốt, bất kể là Phá quân thuộc loại "quả cảm" hay thuộc loại "làm càn", tính chất nào cũng thích hợp đến cung hạn này. Nếu là lưu niên, cũng là vận trình dễ gặp được cơ hội tốt.
Cung hạn "Tử vi Thiên phủ" đồng cung, thường là cung hạn khiến người có bản chất "làm càn" phá tán, thất bại, đã thiếu mục tiêu còn vì nhất thời đắc ý, nên dẫn đến thất bại. Nhưng Phá quân thuộc loại "quả cảm" thì trái lại, có thể xoay chuyển tình thế xấu trong vận hạn này, về sự nghiệp là có thành tích.
Khi hệ "Tử vi Thiên phủ" thiên nặng về tinh thần mà nhẹ về vật chất, Phá quân thuộc loại "làm càn" lại không thích hợp đến cung hạn này. Cần phải đề phòng vì đắc ý mãn nguyện, mà dưỡng thành tính cách phá hoại, hoặc vì thất bại mà phẫn thế ghét đời.
Cung hạn Thái âm độc tọa, nếu được cát hóa, lại gặp Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, Phá quân có bản chất nào cũng ưa đến. Đối với mệnh cách "quả cảm" thì lại không nên mưu toan thay đổi lớn, nếu không, sẽ ảnh hưởng đến vận thế. Đối với mệnh cách "làm càn" đương nhiên càng không nên thay đổi (cần phân biệt Phá quân khi thay đổi có cục đích hoặc Phá quân khi thay đổi không có mục đích).
Nếu Thái âm Hóa Kị (Thái âm Hóa Kị xung hội Thái dương Hóa Kị thì càng nặng) là vận hạn xấu của Phá quân. Người có mệnh cách "làm càn" thì phạm sai lầm mà gây họa, người có mệnh cách "quả cảm" thì bị dẫn dụ mà phạm sai lầm, dẫn đến tổn thất. Hai tình huống này tuy giống nhau, nhưng trường hợp mệnh cách "làm càn" là do tự phát, trường hợp mệnh cách "quả cảm" là do bị xúi giục.
Cung hạn Cự môn không có Cát tinh hội chiếu, cũng ít Sát tinh bay đến, cần phải có Thái dương ở cung đối diện nhập miếu, mới là vận vận tốt của Phá quân. Tuy vậy, người mệnh cách "làm càn" nhập cung hạn này, thì vẫn dễ chuốc thị phi. Nếu Thái dương ở cung đối diện Hóa Kị, thì Phá quân đến cung hạn Cự môn tọa thủ, không nên có bất cứ hành động tích cực nào, bất kể là Phá quân thuộc loại "quả cảm" hay Phá quân thuộc loại "làm càn".
Cung hạn Cự môn được cát hóa, gặp Cát tinh, đây là vận trình nên "tiến" hay nên "thủ", khi Phá quân gặp cung hạn này. Nếu Cự môn không cát hóa mà lại bị Hóa Kị, hoặc lại gặp Thiên đồng Hóa Kị, thì đây là vận thế dễ sinh phá tán, thất bại, vì vậy vận trình này nên thủ mà không nên tiến.
Phá quân thuộc loại "làm càn" không ưa đến cung hạn Cự môn Hóa Kị, gặp lưu niên Thái dương Hóa Kị và Thiên đồng Hóa Kị, sợ rằng vì phạm pháp mà phá tán thất bại, nếu cung Tật ách cũng không tốt, thì còn là niên hạn bệnh tật, nạn tai.
Cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ, nếu Liêm trinh Hóa Kị mà không có cát hóa hội hợp, niên vận của Phá quân thuộc loại "làm càn" đến, chủ về tâm trạng bị áp chế. Nếu tam phương tứ chính cung hạn có Sát Kị Hình tụ hội, Liêm trinh biến thành Hóa Kị mà còn gặp Vũ khúc Hóa Kị, thì thậm chí có thể tự sát, tâm ý nảy sinh ý niệm coi thường mạng sống.
Hệ "Liêm trinh Thiên tướng" có cát hóa, gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên nên thay đổi hoàn cảnh khách quan. Người Phá quân có bản chất "làm càn" cũng không kị đến cung hạn này.
Cung hạn Thiên lương độc tọa, bất kể là nưu niên hay đại hạn, dù Phá quân thuộc loại "quả cảm", cũng nên lui lại để suy tính kế sách. Người Phá quân thuộc loại "làm càn", thì bị buộc phải thoái lui; dù có Cát tinh, được cát hóa, mức độ gian nan khốn khó vẫn không giảm, chẳng thay đổi được tính chất này.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, tuy rằng gặp Lộc Quyền Khoa hội, dù Phá quân thuộc loại "quả cảm" cũng không nên cải cách quá nhanh. Nếu không, thường thường sẽ chuốc lấy những phiền phức không cần thiết, lúc cơ hội thực sự đến thì lại buồn rầu, lo lắng, không còn sức lực để nắm bắt theo kịp thời cơ.
Nếu Thiên đồng Hóa Kị (còn gặp Cự môn Hóa Kị thì càng nặng), khi lợi dụng cơ hội để thay đổi tình thế, cần phải thận trọng và cẩn thận, xem xét kỹ thiên can nhập cung hạn theo lưu niên hóa nhập hay hóa xuất, để quyết định nên "công" hay nên "thủ". Thông thường, chỉ cần Thiên đồng không hóa thành sát tinh (Thiên đồng Hóa Kị), thì đây là vận tốt của Phá quân thuộc loại "quả cảm", có thể khai sáng, sáng lập sự nghiệp mới.
Cung hạn Vũ khúc độc tọa, nếu được cát hóa thành Hóa Lộc hay Hóa Quyền, là cung hạn Phá quân ưa đến, được xem là cơ hội để đặt cơ sở cho việc lập nghiệp. Nếu Phá quân thuộc loại "làm càn" mà đến cung hạn này, thường sẽ tự phá hoại vận thế của chính mình, rồi lại mất thời gian chắp vá những chỗ đã quyết định sai lầm. Nếu không nghĩ tới việc thay đổi, vẫn giữ vận thế cũ mà không xác lập mục tiêu phát triển, thì vận thế về sau sẽ phụ lòng một cách oan uổng.
Nếu Vũ khúc Hóa Kị xung khởi Tham lang Hóa Kị, thì chẳng phải là vận tốt, bất kể là Phá quân thuộc loại "quả cảm" hay Phá quân thuộc loại "làm càn", đều không nên chủ trương tích cực khai sáng hoặc thay đổi.
Cung hạn Thái dương độc tọa, thông thường Thái dương nên nhập miếu mà không nên lạc hãm. Tình hình xấu nhất là khi Thái dương lạc hãm lại Hóa Kị, hoặc có Cự môn Hóa Kị vây chiếu, người có Phá quân thủ mệnh ắt sẽ gặp nhiều gian khổ khốn khó, đối với người Phá quân thuộc loại "làm càn", lực phá hoại cũng do đó mà nảy sinh, ảnh hưởng rất lớn đến hậu vận.
Người thuộc cách "Phá quân ám tinh", gặp phải tình hình trên, nếu không dựa vào nỗ lực tu dưỡng của hậu thiên để bổ cứu, thì sau khi trải qua nhiều gian khổ, tính "u ám" và tính "làm càn" của loại mệnh cách này sẽ trở thành thâm niên cố đế, tương lai thường tự hủy hoại chính bản thân mình.
Phá quân và Tử vi đồng độ ở Sửu Mùi
Phá quân đồng độ với Tử vi ở Sửu hoặc ở Mùi, cung tam phương là hệ "Liêm trinh Tham lang" và hệ "Vũ khúc Thất sát" hội hợp, cung đối diện là Thiên tướng độc tọa. Tổ hợp tinh hệ này, do liên quan đến ba sao Thất sát, Phá quân, Tham lang, là các sao có tính chất mạnh mẽ, cho nên rất mẫn cảm với "tứ hóa".
Muốn luận giải bản chất của tinh hệ này, cần chú ý phân biệt tính chất "ổn định" và "không ổn định" của hệ "Tử vi Phá quân" đồng độ.
Hai sao Tử vi và Phá quân đồng độ, bản thân đã có tính trái nghịch rất mạnh, không giống như Phá quân độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, phân biệt với tính chất "phản kháng" hay "thuận tòng".
Nhìn từ góc độ khác, tính "phản kháng" thực ra cũng là lực khai sáng, bởi vì trước tiên phải phá bỏ cái cũ rồi mới bắt đầu làm lại cái mới. Cho nên, đối với hiện thực, "phản kháng" thực ra cũng là "khai sáng". Có điều, bất kể là "phản kháng" hay là "khai sáng", cũng đều có sự phân biệt giữa "ổn định" và "không ổn định". "Không ổn định" thì liên quan đến sự thay đổi cực lớn trong các mối quan hệ giao tế. Vì vậy, cổ nhân có thuyết "Tử vi và Phá quân, làm tôi thần thì bất trung, làm con thì bất hiếu" (Tử vi Phá quân, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu). "Ổn định", thì có thể tránh được điều, mà cổ nhân đã lập thuyết, mà còn đổi mới trong vô tình, thậm chí mặt mũi còn trở thành sáng sủa, phơi phới bề ngoài, dù có gặp hoạn nạn cũng không kinh hãi.
Hệ "Tử vi Phá quân" gặp các sao Sát Kị Hình, là có tính chất "không ổn định", nếu có Tả phụ Hữu bật giáp cung, hoặc hội Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, ưa nhất là có Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc về tính chất có "ổn định".
Hai sao Tử vi và Phá quân, khi Tử vi Hóa Quyền hoặc khi Phá quân Hóa Lộc hay Hóa Quyền, về cơ bản vẫn thuộc vào loại "không ổn định". Đến lúc gặp Tử vi Hóa Khoa mới bắt đầu cảm thấy ổn định, nhất là Tử vi thuộc vào cách "bách quan triều củng", một khi Hóa Khoa, đương nhiên lãnh đạo quần hùng, dù có cách tân thế nào, cũng đều không hao phí khí lực, do đó cũng thuộc vào tính chất "ổn định".
Thiên tướng ở cung đối diện bị cách "hình, kị" giáp cung, gây tăng mạnh tính phản kháng của hệ "Tử vi Phá quân", cho nên thuộc vào loại "không ổn định". Lúc được cách "tài, ấm" giáp cung, thì có thể làm yếu đi tính phản kháng của hệ "Tử vi Phá quân", bản chất cũng khá "ổn định".
Hệ "Vũ khúc Thất sát" đồng độ ở cung tạm phương, là các sao có tính chất nhạy bén mà còn hữu lực. Nếu Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền hay Hóa Khoa, khiến cho hệ "Tử vi Phá quân" giảm bớt sức lực khi cách tân, thì tính chất cũng khá ổn định.
Một nhóm tinh hệ khác ở cung tam phương là "Liêm trinh Tham lang", gây ảnh hưởng về mặt tinh thần đối với hệ "Tử vi Phá quân", còn hệ "Vũ khúc Thất sát" gây ảnh hưởng về mặt vật chất đối với hệ "Tử vi Phá quân". Nếu hệ "Liêm trinh Tham lang" có Hóa Kị, khiến cho tinh thần của "Tử vi Phá quân" trống rỗng, càng làm tăng tính "không ổn định", nhưng khi hệ "Liêm trinh Tham lang" có Hóa Lộc, lại khiến cho hệ "Tử vi Phá quân" có khuynh hướng nhục dục, dẫn đến rắc rối về tình cảm, tuy bề ngoài có vẻ ổn định, nhưng thực ra là "không ổn định", cần phải có Cát tinh hội hợp với hệ "Liêm trinh Tham lang" mang tính chất trung hòa, thì mới có thể khiến cho hệ "Tử vi Phá quân" trở về trạng thái cân bằng "ổn định".
Lúc hệ "Tử vi Phá quân" đến 12 cung hạn, cần phải gặp các tinh hệ giao nhau có "động" và "tĩnh" thật thích hợp, thì mới là vận tốt. Nếu tính chất "không ổn định" thái quá, thì sẽ bộc lộ rõ tính phản kháng, quan hệ giao tế sẽ xấu đi, đời người cũng nhiều khốn khó. Nếu hệ "Tử vi Phá quân" có tính chất "không ổn định" đến cung hạn quá ổn định; hoặc hệ "Tử vi Phá quân" có tính chất "ổn định" đến cung hạn có tính "không ổn định", là điềm báo không thích ứng được với hoàn cảnh khách quan.
Hệ "Tử vi Phá quân" ở nguyên cục thuộc loại "không ổn định", không ưa đến ba cung hạn "Tử vi Phá quân", "Vũ khúc Thất sát" và "Liêm trinh Tham lang". Bởi vì ba cung này vốn đã có tính chất "không ổn định", không nên làm mạnh thêm tính chất "không ổn định" của "Tử vi Phá quân" ở nguyên cục. Tính chất "không ổn định" cũng có phân biệt tình cảm và vật chất, cần chú ý kết cấu "Vũ khúc Thất sát" chủ về vật chất, và "Liêm trinh Tham lang" chủ về tinh thần ở nguyên cục mà định. Đại khái là, thà sinh hoạt tình cảm "không ổn định" còn hơn là sinh hoạt vật chất "không ổn định". Nếu hệ "Liêm trinh Tham lang" có các sao đào hoa tụ tập, lại gặp thêm các sao "hư hao", là điềm ứng bị nhiễm những thú vui không lành mạnh, chìm đắm trong tửu sắc, lúc này sẽ ảnh hưởng đến sinh hoạt vật chất, mà trở thành "không ổn định".
Hệ "Tử vi Phá quân" của nguyên cục thuộc loại "ổn định", ưa đến ba cung hạn "Tử vi Phá quân", Vũ khúc Thất sát", và "Liêm trinh Tham lang"; ngoại trừ trường hợp phi tinh của đại vận hoặc lưu niên khiến tính chất của các cung hạn này biến thành tính "không ổn định", như hóa thành sao Kị, hay có lưu Sát tinh bay tới.
Thiên phủ chủ về ổn định, bất kể bản chất của hệ "Tử vi Phá quân" như thế nào, cũng đều ưa đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ có sao Lộc, hoặc cung hạn hội với Thiên tướng được cách "Tài ấm giáp ấn". Nếu so sánh hệ "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại "ổn định" và hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại "không ổn định", thì hệ có bản chất "ổn định" đến cung hạn này sẽ tốt hơn.
Nếu Thiên phủ là "kho lộ", "kho trống", hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại "không ổn định" đến cung hạn này, bất kể là lưu niên hay đại vận, đều chủ về thất bại, nguyên nhân là do không gìn giữ sự nghiệp đang có, mà vọng động cải cách. Hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại "ổn định" đến cung hạn này, chỉ xảy ra tình huống túng thiếu, mà không đến nỗi thất bại.
Cung hạn Thái âm độc tọa, bất kể là miếu hay hãm, cung hạn này đều mang tính không ổn định, tuy rằng Thái âm nhập miếu ở Tuất đương nhiên là tốt hơn Thái âm ở Thìn. Hai trường hợp "ổn định" và "không ổn định", đều xét khi cung hạn có cát hóa Lộc Quyền Khoa là có tính chất "ổn định", còn khi cung hạn bị Hóa Kị mà gặp Sát tinh, thì được xem là "không ổn định". Nếu trường hợp hội đủ cát hóa và Sát tinh, hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại "ổn định" rất nên gặp cung hạn này, chủ về vì hoàn cảnh mà xảy ra thay đổi, thoát khỏi cảnh khốn khó. Hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại "không ổn định" gặp cung hạn Thái âm Hóa Lộc là rất thích hợp, ban đầu sẽ cảm thấy khó khăn, nhưng cuối cùng có thể phát triển mang tính đột phá.
Cung hạn Cự môn độc tọa, gặp Sát tinh, là có lực kích phát đối với hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại "ổn định"; không gặp Sát tinh mà còn được cát hóa, có thể nhờ vào tính chất "không ổn định" của "Tử vi Phá quân" mà thay đổi theo hướng đắc lợi. Nếu Cự môn hóa làm sao Kị, thì hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại nào cũng không nên gặp, rất dễ xảy ra rối loạn (khi hệ "Liêm trinh Tham lang" của nguyên cục không cát tường, sẽ khiến tình cảm rối bời, hệ "Vũ khúc Thất sát không cát tường thì xảy ra xung đột lợi ích).
Hệ "Tử vi Phá quân" không ưa đến cung hạn "Thiên đồng Thiên lương" tọa thủ, bởi vì cung hạn này ắt sẽ mang lại cảnh khốn khó, sau khi khắc phục được mới có thu hoạch. Nhưng đời người ngắn ngủi, hà tất phải gây nên cảnh khốn khó, cho nên khi đến cung hạn này, chỉ nên yên tĩnh để phòng thủ là tốt nhất.
Thái dương cũng có tính chất không ổn định, chỉ lúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, khiến cho hệ "Tử vi Phá quân" thuộc tính "ổn định" khi động khi tĩnh đều đúng thời, thủ hay công đều thỏa đáng với hoàn cảnh; có cát hóa thì có lợi cho hệ "Tử vi Phá quân" thuộc loại "không ổn định", khiến tăng danh vọng, có thể thay đổi biên độ lớn hơn. Khi Thái dương hóa làm sao Kị, hệ "Tử vi Phá quân" động hay tĩnh đều dễ phạm sai lầm, nhất là nữ mệnh, gặp trắc trở lớn về tình cảm.
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, được cát hóa, thích hợp với loại "ổn định"; Thiên cơ không được cát hóa, gặp Cát tinh, thì thích hợp với loại "không ổn định". Trường hợp trước là sản sinh nguồn động lực để phát huy những trải nghiệm, trường hợp sau được người giúp sức lúc thay đổi. Nếu Thiên cơ hóa làm sao Kị, đối với hệ "Tử vi Phá quân" có tính chất "không ổn định", nếu càng thay đổi thì càng khốn khổ.
Phá quân độc tọa ở Dần Thân
Phá quân độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện là hệ "Vũ khúc Thiên tướng", cung tam phương là Thất sát độc tọa và Tham lang độc tọa.
Muốn phán đoán tính chất Phá quân ở Dần hoặc ở Thân, cần phải chú ý phân biệt đặc điểm, đó chính là tính "phản kháng" và tính "thuận tòng" của Phá quân.
Trong các tình huống thông thường, tính "phản kháng" của Phá quân mà càng mạnh, thì sự biến động thay đổi trong đời người càng có biên độ lớn. Còn tính "thuận tòng" của Phá quân càng mạnh, thì biến động thay đổi trong đời người, có biên độ càng nhỏ.
Phàm người có Phá quân thủ cung Mệnh, vận thế lên xuống như hình yên ngựa, tức là phải trải qua chìm nổi nhiều lần. Lúc vận thế bốc lên, bỗng nhiên sẽ gặp trở ngại, chuyển thành hướng đi xuống, sau đó lại bốc lên lần nữa. Cho nên, luận giải và phán đoán được tính "phản kháng" và tính "thuận tòng" của Phá quân, thì có thể nhận biết được sự chìm nổi của vận thế.
Điểm này quan trọng khi luận giải và đưa ra luận đoán. Bởi vì cùng là người Phá quân độc tọa thủ mệnh ở Dần hoặc ở Thân, có một số người liên tiếp thay đổi công việc, nhưng lại có một số người làm việc trong một cơ cấu nào đó suốt đời; đây là do biên độ chìm nổi cao thấp có sự phân biệt lớn nhỏ của vận thế.
Lấy bản thân sao Phá quân để nói, khi Phá quân có sao Lộc, không gặp các sao Sát Kị Hình, thì tính "thuận tòng" khá lớn; ngược lại, nếu Phá quân không có sao Lộc, hoặc gặp các sao Sát Kị Hình nặng, thì tính "phản kháng" khá lớn.
Gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, sẽ không làm thay đổi đặc tính của Phá quân, mà chỉ làm mạnh thêm, tức đã "thuận tòng" thì càng "thuận tòng" hơn, đã "phản kháng" thì càng "phản kháng" hơn.
Hai sao Văn xương Văn khúc đồng thời hội hợp với Phá quân, có thể làm tăng tính "thuận tòng", nếu chỉ gặp một "sao lẻ" thì không phải vậy. Nếu chỉ gặp một mình "sao lẻ" là Văn Xương Hóa Kị, hoặc một mình Văn khúc Hóa Kị, trái lại, sẽ làm tăng tính "phản kháng".
Hệ "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung đối diện, phàm Vũ khúc Hóa Lộc, hoặc Thiên tướng thuộc cách "Tài ấm giáp ấn", đều làm mạnh thêm tính "thuận tòng" của Phá quân. Nếu Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Thiên tướng thuộc cách "Hình kị giáp ấn", thì làm tăng tính "phản kháng" của Phá quân.
Sao Tham lang ở cung tam phương mà Hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng độ, sẽ làm tăng tính "thuận tòng" của Phá quân. Nếu Tham lang Hóa Quyền, thì cần phải xem có các sao Sát Kị Hình đồng thời hội hợp hay không, nếu có, sẽ làm tăng tính "phản kháng"; nếu không có, sẽ làm tăng tính "thuận tòng". Trường hợp Tham lang Hóa Kị cũng làm tăng tính "thuận tòng".
Sao Thất sát ở cung tam phương đồng độ và hội hợp với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, sẽ làm tăng tính "phản kháng" của Phá quân, có thêm Tả phụ Hữu bật cùng đồng độ, chỉ làm mạnh thêm bản tính của Phá quân. Đồng độ với các sao khoa Văn (như đồng độ với Văn xương Hóa Khoa, hoặc cặp sao đôi Long trì Phượng các), sẽ làm mạnh thêm tính "thuận tòng" của Phá quân.
Phá quân nặng tính "thuận tòng" ưa đến các cung hạn sau:
- "Liêm trinh Thiên phủ" gặp Tả Hữu Khôi Việt.
- Tham lang độc tọa được Hóa Lộc Hóa Khoa.
- "Vũ khúc Thiên tướng" có tam cát hóa Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa và Thiên tướng thuộc cách "Tài ấm giáp ấn".
- "Thái dương Thiên lương" có Hóa Khoa.
- Tử vi độc tọa có Hóa Khoa.
Phá quân nặng tính "thuận tòng" đến các cung hạn thích hợp, tuy có biến động thay đổi trong cuộc đời, nhưng sẽ không thay đổi bản chất (như thay đổi nghề nghiệp), hơn nữa, biến động thay đổi sẽ theo chiều hướng thuận lợi, hoặc vì lợi thế mà phải thay đổi, hay có được lợi thế mà thuận tòng thay đổi. Nếu đến các cung hạn không thích hợp, biến động thay đổi sẽ trở thành lớn, mà còn chuyển biến theo chiều hướng xấu, gian khổ.
Phá quân nặng tính "phản kháng" ưa đến các cung hạn:
- "Liêm trinh Thiên phủ" gặp Tả Hữu Khôi Việt
- Tham lang độc tọa có Hỏa tinh đồng độ hay Linh tinh đồng độ.
- "Thiên đồng Cự môn" có Hóa Lộc.
- "Vũ khúc Thiên tướng" khi Thiên tướng thuộc cách "Hình kị giáp ấn"
- "Thái dương Thiên lương" có Hóa Lộc Hóa Quyền.
- Thất sát độc tọa hội với Hóa Lộc hoặc hội với Lộc tồn.
- Tử vi độc tọa Hóa Quyền.
Phá quân nặng tính "phản kháng" đến các cung hạn thích hợp, tất sẽ ở vào thế: không thể không biến động thay đổi, hơn nữa, phần nhiều thuộc về thay đổi có tính chất căn bản, những lúc có biến động thay đổi này đều phải trải qua sự gian khổ. Nếu đến các cung hạn không thích hợp, sẽ có biểu hiện là phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, hoặc đánh mất cơ hội tốt.
Về đại thể, những cung thích hợp với Phá quân nặng tính "phản kháng" sẽ không thích hợp với Phá quân nặng tính "thuận tòng". Ngược lại, những cung thích hợp với Phá quân nặng tính "thuận tòng" sẽ không thích hợp với Phá quân nặng tính "phản kháng".
Phá quân nặng tính "thuận tòng" đến các cung hạn không có sao Sát Kị Hình Hao (hoặc chỉ gặp một đến hai sao), nhưng có các sao Phụ Tá, Hóa Lộc, Hóa Quyền, tất chủ về phát triển thiếu tính đột phá, tuy giảm bớt tính chìm nổi thất thường trong đời, kể cả khi đang hàn vi mà gặp cung hạn này, thì khó mà đột phá để đạt mục đích một cách nhanh chóng.
Phá quân nặng tính "phản kháng" mà đến cung hạn ít Lộc, Quyền, Khoa, lại chỉ gặp một hai sao Phụ Tá, tất xảy ra biến động thay đổi có tính đột ngột, nếu đã giầu có thì không nên, nhưng đang hàn vi mà gặp cung hạn này, thì có thể nhờ biến động mà đắc lợi, hoặc sẽ thay đổi vận trình thành khá hơn (như đến các cung hạn "Vũ khúc Thiên tướng", hay Thiên tướng thuộc cách "Hình kị giáp cung"). Nếu có quá nhiều sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì cũng không tốt, là điềm ứng gian khổ mà vẫn thất bại.
Hiểu được nguyên tắc này, là biết được phép "xu cát tị hung", "biến động thay đổi" hay không "biến động thay đổi"; giữa "Hành động" và không hành động mà nên "Dừng lại". Đây là điều quan trọng.
Phá quân nặng tính "thuận tòng" mà gặp nhiều sao Sát Hình, chủ về bắt đầu chớm có thành tựu thì lơ là, thỏa mãn, vì vậy rất kị gặp hệ "Linh tinh Đà la", gặp hệ sao này thì sẽ đình trệ, không tiến bộ, khó thành đạt cao; rất nên gặp hệ "Hỏa tinh Kình dương", sẽ được hệ sao này kích thích để thăng tiến.
Phá quân nặng tính "phản kháng" mà gặp nhiều sao Sát Hình, trái lại, chủ về vì đời người gập gềnh, gặp quá nhiều chuyện bất đắc chí, mà mất hết chí khí. Lúc này phải xem xét tới cung Phúc đức và cung Thiên di của mệnh cách. Nếu cung Phúc đức tốt, thì nên có nhiều trải nghiệm cuộc đời để tìm cơ hội thay đổi vận mệnh (lưu ý đến đại vận hay lưu niên tốt), vận dụng sức mạnh tinh thần để thay đổi cảnh ngộ. Nếu cung Thiên di tốt, thì nên tìm cơ hội xuất ngoại để phát triển (chú ý đến cung Thiên di của đại vận hay cung Thiên di của lưu niên), vận dụng sự thay đổi của hoàn cảnh để cải thiện vận mệnh của bản thân.
Phá quân và Liêm trinh đồng độ ở Mão Dậu
Phá quân và Liêm trinh đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu, cung đối diện có Thiên tướng độc tọa, cung tam phương là hệ "Tử vi Thất sát" và hệ "Vũ khúc Tham lang". Đây là tổ hợp sao cực kỳ mạnh mẽ.
Muốn luận giải bản chất của hệ "Liêm trinh Phá quân" này, cần chú ý phân biệt tính chất "tư lợi" hay tính chất "công lợi" (việc công) của hệ "Liêm trinh Phá quân" đồng độ.
Hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ mệnh rất thích hợp theo chính giới, như công nhân viên chức nhà nước, lấy làm việc cho người khác làm tính chất, lấy khai sáng làm chức trách (chức vụ và trách nhiệm). Để phân biệt tính chất hai trạng thái này, cần phải biết hệ "Liêm trinh Phá quân" thuộc về tính "tư lợi" hay thuộc về tính "công lợi".
Khi Liêm trinh Hóa Lộc thì có lý tưởng cao, có chính kiến. Liêm trinh Hóa Kị thì thuần về "tư lợi". Cho nên khi hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ mệnh mà Liêm trinh Hóa Kị, phần nhiều chủ về hoạch phát hoạch phá, tức vì tính "tư lợi" gây ra.
Phá quân Hóa Lộc không bằng Liêm trinh Hóa Lộc, bởi vì khi Phá quân Hóa Lộc chủ về bận rộn vất vả, người có chức quyền càng vào sinh ra tử. Liêm trinh Hóa Lộc sẽ khiến cho hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về công việc mang tính "công lợi", chủ về vất vả khổ lụy hơn người.
Liêm trinh Hóa Kị thì có tính "tư lợi", nếu không có các sao Sát Hình hội hợp, cũng chủ về tư tâm không nặng, nếu lại các sao Phụ Tá cát hội hợp, chưa chắc không thể phát đạt, nhưng chủ về ứng xử xuôi theo dòng nước, chỉ biết xu phụ quyền thế, nên đây là vận hạn không cát tường, phá tán, thất bại cũng theo đó mà đến.
Vũ khúc Hóa Kị là hệ có cấu tạo không lành, theo võ nghiệp thì phù hợp với mệnh cách, nên chủ về cát tuy cũng dễ xảy ra bất trắc; lúc Liêm trinh vào đại hạn hoặc lưu niên Hóa Kị cần đặc biệt chú ý. Do Vũ khúc Hóa Kị chủ về dựa thế dựa quyền thì mới được tiền, nên thiên về "tư lợi"
Liêm trinh có Sát tinh đồng cung, là thiên về việc "tư lợi", rất ghét gặp Hỏa tinh Linh tinh, chủ về dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, nhưng cũng dễ thất bại, dù có Văn xương, Văn khúc đồng độ cũng không thể thay đổi được tình hình trên.
Liêm trinh có Kình dương hội hợp, chủ về thị phi kiện tụng, lại hội Hỏa tinh Linh tinh, có Thiên hình đồng độ, thì cuộc đời ắt trải qua một lần kiện tụng hoặc tai nạn chảy máu. Nữ mệnh thì có phần đỡ hơn, mức độ nguy hiểm nhẹ hơn.
Hệ "Vũ khúc Tham lang" đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh, chủ về hiển hách, trừ trường hợp hệ "Liêm trinh Phá quân" hóa cát, hoặc có sao Phụ Tá tụ tập, nếu không mệnh cách "Liêm trinh Phá quân" vẫn thiên về "tư lợi"
Hệ "Tử vi Thất sát" không ưa Hóa Quyền, chủ về dựa vào quyền dựa thế để tranh đoạt, là kết cấu hệ sao chuyên về việc "tư lợi". Có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp thì tăng tính chất thiên về việc "công lợi".
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, thông thường là vận trình ổn định của hệ "Liêm trinh Phá quân". Nếu Thiên phủ là "kho lộ", "kho trống", chỉ thích hợp cho hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" đến, xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân. Nếu hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" đến cung hạn này, thì vận trình này sẽ gây ảnh hưởng đến hậu vận. Tử Vi Đẩu Số truyền thừa phái Trung Châu nhấn mạnh đạo "xu cát tị hung", xem trọng sự tác động của hành động hậu thiên đối với vận trình.
Thiên phủ có sao Lộc, hoặc Hóa Lộc ở cung hạn đại vận hay Hóa Lộc ở cung hạn lưu niên, hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" đến cung hạn này, cần phải xác định rõ hướng đi cho bản thân. Hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" đến cung hạn này, chủ về vì kết bè kết phái, lợi ích cá nhân, mà gây ảnh hưởng không tốt cho hậu vận. Cần chú ý thời điểm tác động của cung hạn này, tác động vào cung hạn nào của hậu vận, để có phán đoán sát gần thực tiễn.
Cung hạn "Thiên đồng Thái âm" tọa thủ, hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" đến cung hạn này, thường phát triển đột ngột. Có cát hóa và hội Cát tinh, sau khi phát lên một cách đột ngột, có thể duy trì giữ được thời gian khá dài. Nếu cung hạn này có Hóa Kị, hoặc hội hợp với các sao Sát Hình Hao, thì sau khi phát lên một cách đột ngột, tức thì suy sụp nhanh chóng. Nếu ở cung hạn của lưu niên, chủ về đột ngột phát lên mà bên trong tiềm ẩn tai họa tiềm tàng.
Hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" mà đến cung hạn này, dù được cát hóa và có Cát tinh, mức độ phát lên rồi biến thành hanh thông, vẫn không bằng hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi", nhưng không có hậu họa, thời gian duy trì vận tốt cũng lâu dài hơn. Nếu gặp Hóa Kị và các sao Sát Hình hội hợp, nữ mệnh cần đề phòng hôn nhân có sự thay đổi, đối với nam mệnh là vận hạn gian khổ.
Hệ "Liêm trinh Phá quân" nguyên cục, hội các sao Sát Kị Hình Hao khá nặng, gặp Thái dương Hóa Kị xung hội Thái âm Hóa Kị, thì đây là năm xảy ra tai họa nghiêm trọng, Thái dương Hóa Kị xung hội Cự môn Hóa Kị thì đây là năm xảy ra kiện tụng nghiêm trọng.
Cung hạn "Vũ khúc Tham lang" có lợi đối với hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi", mà bất lợi đối với hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi". Trong vận hạn này, hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" lập được thành tích, thì tài lộc và danh tiếng đều có đủ. Hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" đến, dù có Vũ khúc Hóa Lộc cũng không chủ về "tài khí", chỉ cần có "Thiên hình hội Hỏa tinh" hay "Thiên hình hội Linh tinh" hội chiếu hoặc xung chiếu, thì gây ra thị phi cực lớn, hoặc vì tiền mà bất trắc rất lớn (ví như vì đi nước ngoài, hoặc vì đi xa để bàn chuyện làm ăn mà xảy ra sự cố giao thông). Đây là nguy cơ "cát xứ tàng hung" của niên hạn hay đại vận này.
Cung hạn "Vũ khúc Tham lang" có Hỏa tinh Linh tinh hội hợp, không có Thiên hình, cũng không có các sao Sát Kị khác ở tam phương tứ chính xâm phạm, đều chủ về phát một cách đột ngột. Hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" mà đến cung hạn này, thì sự phát lên một cách đột ngột không được lâu dài, bắt đầu tiềm phục hung họa, cần phải xem ngay vận kế tiếp, để biết nhân tố nào, gây phá tán thất bại, mà đề phòng ngay từ cung hạn này.
Cung hạn "Thái dương Cự môn" đồng độ, mà Thái dương nhập miếu, có lợi cho hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" đến. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" đến cung hạn này có lợi hơn, thích hợp khai sáng phát triển kinh doanh.
Hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" gặp cung hạn Thái dương được cát hóa, còn gặp thêm Cát tinh, chủ về phát đạt, nhưng nên biết ăn non thì dừng, bởi vì sự phát đạt của cung hạn này không được lâu bền với cách "tư lợi". Nếu Thái dương Hóa Kị, hội Thiên hình, còn gặp Sát tinh bị lưu Sát xung khởi, sẽ xẩy ra thị phi phiền phức, hoặc bị cấp trên, bậc trên gây lụy (ví như khuynh đảo hậu trường ...)
Hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi", hặp cung hạn Thái dương được cát hóa, còn gặp thêm Cát tinh, chủ về phát đạt, phú quý đều giữ được lâu bền. Khi Thái dương Hóa Kị, còn gặp thêm Sát tinh, thì nên giữ mình trong sạch, không được sinh lòng cạnh tranh.
Trong các tinh huống thông thường, đối với hệ "Liêm trinh Phá quân", thì cung hạn "Thái dương Cự môn" đã có tính chất thị phi, cho nên bất kể hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về tính chất nào, đều không nên lộ diện sự sắc xảo, không thể khoe tài, không nên xuất đầu lộ diện.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa (ngồi một mình), là tượng thiếu năng lực đảm đương trách nhiệm cá nhân. Bởi vì Thiên tướng là ngọc tỷ, ấn ngọc của vua, là thành, là bại, là cát, là hung, cần phải xem ở người nắm giữ ấn. Nói cách khác, Thiên tướng gặp Cát tinh thì cát, gặp Hung tinh thì hung.
Nếu cung hạn Thiên tướng bị cách "Hình kị giáp ấn", đây là vận xấu nghiêm trọng của hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi". Hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" cũng nên "minh triết bảo thân", lùi một bước để giữ mình. Cung hạn lưu niên cũng có tính chất này. Nếu cung hạn Thiên tướng được cách "Tài ấm giáp ấn", thì hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" sẽ được hưởng bổng lộc cao, hoặc suốt đời được ưu đãi; còn đối với hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "tư lợi" chỉ cần không vọng động làm càn, không cố xuất đầu lộ diện, được vậy thì cũng có được ngày tháng thanh nhàn.
Sao Thiên tướng có điểm đặc biệt, đó là bị giáp cung, thì sự ảnh hưởng cũng lớn như là bị tam phương tứ chính gây ảnh hưởng. Cho nên, cung hạn Thiên tướng bị lưỡng trùng Kình dương, Đà la giáp cung, lại có lưu Sát đến xung, bất kể hệ "Liêm trinh Phá quân" thuộc tính chất nào, cũng đều chủ về bị bệnh phải phẫu thuật, ở cung lệnh lưu niên cũng vậy.
Cung hạn "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ, nếu có cát hóa và có Cát tinh, hệ "Liêm trinh Phá quân" thiên về "công lợi" đến cung hạn này, không tốt bằng hệ "Liêm trinh Phá quân" thuộc về "tư lợi" đến, mệnh cách "công lợi" chỉ nên đảm trách việc tham mưu hay cố vấn kế hoạch, vì không có thu hoạch gì nhiều. Mệnh cách "tư lợi" chủ về đắc tài khí, có thu hoạch. Nếu có các sao Sát Kị Hình Hao cùng bay đến, mệnh cách "tư lợi" sẽ gặp hung hiểm bất trắc lớn hơn mệnh cách "công lợi", trường hợp mệnh cách "công lợi" mà đến cung hạn này, chủ về kế hoạch bị trắc trở, hoặc vì hoàn cảnh khách quan biến thiên mà người quen biết không có cách nào đề bạt, nâng đỡ. Ở cung hạn của lưu niên cũng có tính chất như vậy.
Cung hạn "Tử vi Thất sát" đồng độ, chỉ lợi cho loại mệnh cách "công lợi", mà bất lợi đối với mệnh cách "tư lợi". Nếu cung hạn được cát hóa, có Cát tinh, loại mệnh cách "công lợi" đến cung hạn này chủ về nắm quyền bính, còn mệnh cách "tư lợi" đến cung hạn này chủ về lạm quyền. Nếu có Sát tinh đồng độ thì dễ vì lạm quyền mà chuốc họa.
Khi Tử vi nguyên cục Hóa Quyền (Vũ khúc ắt sẽ Hóa Kị), bị Phá quân ở cung hạn của đại vận xung hội, Tham lang ắt sẽ đồng thời Hóa Kị. Mệnh cách "tư lợi" đến cung hạn này, chủ về tham ô, lộng quyền, không làm tròn chức trách, mà vẫn trở nên giầu có, thì cần phải quan sát hậu vận xem sự ảnh hưởng có xấu hay không để định.
Trong các tình hình thông thường, cung hạn "Tử vi Thất sát" chỉ có lợi đối với loại mệnh cách "công lợi", gặp cung hạn lưu niên, tính có lợi càng thêm phát triển.
Phá quân độc tọa ở Thìn Tuất
Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện là hệ "Tử vi Thiên tướng", cung tam phương có Tham lang độc tọa và Thất sát độc tọa.
Sao Phá quân bay đến cung Thiên la Địa võng, trong các tình hình thông thường đều chủ về không cát lợi. Muốn luận giải bản chất của Phá quân độc tọa ở hai cung này, cần chú ý phân biệt tính chất "thiên lệch" (lệch lạc, khô kiệt) và tính chất "điều hòa". Nắm vững đặc điểm của mệnh cách "thiên lệch" và mệnh cách "điều hòa", là sơ sở để luận giải và luận đoán bản chất của Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất.
Phá quân có bản chất "thiên lệch", phần nhiều biểu hiện chí lớn mà tài không đủ, các mối quan hệ xã giao nhân tế phần nhiều không được hài hòa, tình hình quan hệ thường có xu hướng xấu đi, bản thân có những khiếm khuyết đáng tiếc làm ảnh hưởng đến tâm lý. Phá quân có bản chất "điều hòa" mới chủ về có phúc trạch, nhưng cũng khó tránh vài ba lần gặp phải sóng gió.
Phá quân phải có sao Lộc mới chủ về mệnh cách "điều hòa", trong đó Phá quân Hóa Lộc hay Tham lang Hóa Lộc đều được, kế đến là hội Lộc tồn (cung Phúc đức có sao Lộc, có lúc cũng khiến Phá quân có tính chất "điều hòa").
Nếu không có sao Lộc, Phá quân Hóa Quyền cũng không chủ về mệnh cách "điều hòa", chỉ làm tăng thanh thế trong một số cảnh ngộ của đời người.
Phá quân không có sao Lộc, mệnh cách đã thành tính chất "thiên lệch", dù có "Tả phụ Hữu bật", "Văn xương Văn khúc", "Thiên khôi Thiên việt" giáp cung, cũng không hoàn toàn là cát lợi, lục thân lạnh nhạt, khó tránh sóng gió, trắc trở đời người. Nếu không có Cát tinh hội hợp, mà có Sát tinh đồng độ hoặc hội hợp, không những sự dễ phá tán, thất bại, mà bản thân cũng dễ gặp tai nạn, bệnh tật. Kị nhất là gặp hệ "Đà la Hỏa tinh" đồng độ. Cho nên Phá quân ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải có sao Lộc thì mới có thể luận đoán theo chiều hướng cát.
Mệnh cách Phá quân "thiên lệch" đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, nam mệnh chủ về xa người thân, lưu lạc, nữ mệnh chủ về sa chân lỡ bước. Tam phương tứ chính cần phải có Cát tinh và có cát hóa, mới tránh được vận rủi; nếu có các sao Sát Kị Hình hội hợp, còn chủ về phá sạch tổ nghiệp, tuy có thể tự lập, nhưng hồi tâm nghĩ lại thì đã muộn, không còn thay đổi được gì.
Nguyên cục Phá quân hội các sao Sát Kị Hình trùng trùng, đến cung hạn Thiên đồng độc tọa thì có Cát tinh tụ tập, là chủ về xảy ra thay đổi nghiêm trọng trong cuộc đời, tuy có kết quả cát lợi, nhưng trong quá trình thay đổi vẫn khó tránh thống khổ. Mệnh cách Phá quân "điều hòa" cũng chủ về đời người gặp thay đổi nghiêm trọng, xem các tổ hợp sao để xác định cảnh ngộ.
Cung hạn "Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ, tối kị Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Thiên phủ là "kho lộ" hay "kho trống". Mệnh cách "thiên lệch" đến cung hạn này là vận thế chủ về tai ách, bệnh nghiêm trọng. Mệnh cách "điều hòa" đến cung hạn này, dù có Vũ khúc Hóa Kị ở lưu niên, chỉ cần bảo thủ, thì giảm được ý vị nạn tai, bệnh tật. Mệnh cách "điều hòa" đến cung hạn của đại vận, gặp Vũ khúc Hóa Lộc, hoặc Thiên phủ có sao Lộc, đều chủ về hưng phát, tuy khó tránh sóng gió, trắc trở, nhưng vận dụng có hiệu quả đạo "xu cát tị hung", cần xem thêm các cung hạn lưu niên trong đại hạn để quyết định luận đoán.
Trong các tình hình thông thường, các sao Cát và sao Hung không mạnh, thì thích hợp với mệnh cách "điều hòa", mà bất lợi đối với mệnh cách "thiên lệch". Mệnh cách "thiên lệch" mà đến cung hạn này, nhẹ nhất thì cũng chủ về quan hệ nhân tế không tốt, khó đạt tới lý tưởng.
Cung hạn "Thái dương Thái âm" đồng độ, ưa Thái dương nhập miếu, nếu Thái dương lạc hãm, thì không đủ sức hóa giải tính chất "cô độc và hình khắc" của Thiên lương và tính chất "âm ám" của Cự môn. Phá quân mà đến cung hạn này, không cần có Hóa Kị và Sát tinh, loại mệnh cách "thiên lệch" vẫn chủ về trắc trở, vất vả, khổ sở, còn loại mệnh cách "điều hòa" thì cảm nhận thấy cuộc sống bị cô lập, trợ lực bị giảm thiểu vô cớ, cảnh sống biến cố liên tục.
Thái dương nguyên cục Hóa Lộc, bị Cự môn của vận hạn xung khởi, Phá quân thuộc loại mệnh cách "điều hòa" rất ưa đến, dù ở lưu niên, cũng chủ về được người ta trọng vọng đề bạt. Nếu có các sao Sát Kị Hình tụ tập, Phá quân thuộc loại mệnh cách "thiên lệch" đến cung hạn này, chủ về gặp thị phi, kiện tụng, phá tài.
Cung hạn Tham lang độc tọa, là cung hạn loại mệnh cách "điều hòa" ưa đến, chủ về muốn thay đổi hoàn cảnh, nếu muốn thay đổi hoàn cảnh, thì lưu niên cần có lưu cát hóa đồng độ hoặc hội hợp, nếu không, trong quá trình thay đổi sẽ xảy ra trắc trở, hoặc thay đổi mà dẫn đến kết quả không tốt. Cần xem kỹ các sao ở cung lưu niên để định.
Loại mệnh cách "thiên lệch" đến cung hạn được cát hóa thì có thể hưng phát, ưa nhất là Tham lang Hóa Lộc có Hỏa tinh hoặc Linh tinh đồng độ, nhưng cần xem xét đại vận kế tiếp là đại vận tốt hay đại vận xấu, nếu đại vận kế tiếp là xấu, chủ về phá tán thất bại, thì loại mệnh cách "thiên lệch" được hưng phát này, cũng không nên ăn già mà nên ăn non, không thể đòi hỏi thu hoạch một cách mỹ mãn.
Nếu cung đại hạn, hoặc lưu niên, là Tham lang Hóa Kị, sẽ chủ về phá tán, thất bại, tai nạn, bệnh tật, xem các sao ở 12 cung để định cảnh ngộ.
Phá quân thuộc loại "thiên lệch" không ưa đến cung hạn "Thiên cơ Cự môn" đồng độ. Dù không gặp các sao Sát Kị Hình, thì vẫn nên cẩn thận dùng kế sách bảo thủ, mới có thể giảm nhẹ hung hiểm. Về sức khỏe, cần đề phòng bệnh tim mạch, trúng phong.
Cự môn phải Hóa Lộc, hoặc Thiên cơ Hóa Lộc, thì mới có lợi cho loại mệnh cách "điều hòa" đến cung hạn này, nhưng vẫn phải đề phòng dấu hiệu bệnh tật khởi phát nghiêm trọng. Cần xét thêm cung Tật ách để định.
Cung hạn "Tử vi Thiên tướng" đồng độ, không thích hợp cho Phá quân đến, loại mệnh cách "điều hòa" đến cung hạn này, chủ về sức khỏe bất lợi, đặc biệt lưu ý bệnh tim mạch và bệnh thần kinh, như trúng phong, bại liệt, đột quỵ... Mệnh cách "thiên lệch" đến cung hạn này, chủ về không có duyên với lục thân, hoặc bản thân bị tai nạn, bệnh tật.
Phá quân vận hành tới cung hạn lưu niên có "Tử vi Thiên tướng" tọa thủ, được cát hóa và có Cát tinh hội hợp, tính bất lợi có thể giảm nhẹ, nếu cung hạn lại có thêm các Sát tinh đồng thời tụ hội, thì hoàn cảnh khách quan trở nên trì trệ, đột ngột nảy sinh nhiều bất trắc, nhất là quan hệ nhân tế sẽ xảy ra biến cố nghiêm trọng.
Phá quân gặp cung hạn Thiên lương độc tọa ở Tị thì nhiều tai nạn, vì Thái dương lạc hãm hội hợp, mệnh cách "thiên lệch" càng không nên đến cung hạn này, đương nhiên vận trình vẫn cứ phải đến, cho nên cần chú ý đề phòng tai nạn bất ngờ. Chỉ có loại mệnh cách "điều hòa" mới có thể làm chủ gìn giữ được vận thế không bị chao đảo, tránh được tai họa, nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.
Lưu niên gặp Thiên lương cát hóa, còn gặp thêm Cát tinh, mệnh cách Phá quân loại "thiên lệnh" đến cung hạn này, vẫn không nên vọng động làm càn, nếu không hậu vận ắt sẽ phá tán, thất bại. Loại mệch cách "điều hòa" đến cung hạn này, cũng không được tham lợi trước mắt, mà hy sinh lợi ích của người có liên quan.
Thiên lương ở Hợi được Thái dương nhập miếu hội chiếu, tính chất khá tốt, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị Hình Hao, mà còn có Tả Hữu Khôi Việt hội hợp, loại mệnh cách "điều hòa" đến cung hạn này, đời người được hưởng thụ, chỉ cần duy trì những thành tựu đã đạt được, là vận tốt. Mệnh cách "thiên lệch" mà đến cung hạn này, cũng không mất ổn định nhiều, là vận thế cát lợi. Có điều, bất kể tình hình thế nào, cũng cần chú ý sức khỏe. Khi đến cung hạn Thiên lương, bất lợi về sức khỏe là đặc tính của Phá quân độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất.
Cung hạn Thất sát độc tọa, là lưu niên hoặc đại vận thay đổi nghiêm trọng của Phá quân, cần phải xem xét kỹ tổ hợp sao thực tế để định cát hung. Phá quân thuộc loại "điều hòa" thì đơn giản, gặp Cát tinh và có cát hóa là vận tốt. Đối với mệnh cách "thiên lệch" thì phức tạp hơn, gặp Hung tinh đương nhiên bất lợi, gặp Cát tinh cũng chưa phải là tốt hoàn toàn, chủ về phải trải qua nhiều trắc trở, khốn khó mới có thể thành sự. Nếu là cung hạn của đại vận, cần phải xem xét kỹ các lưu niên, để định phương kế tiến thoái.
Phá quân và Vũ khúc đồng độ ở Tị Hợi
Vũ khúc và Phá quân đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên tướng độc tọa, cung tam phương là hệ "Tử vi Tham lang" và "Liêm trinh Thất sát".
Muốn luận đoán đặc tính của hệ "Vũ khúc Phá quân" ở hai cung này, cần phải xem bản chất của chúng là "giỏi thích ứng" hay là "ngoan cố" để định.
Vũ khúc là sao có sức quyết đoán, không do dự. Nhưng, nếu thấy Văn xương, Văn khúc, thì lại chủ về do dự, thiếu quyết đoán.
Vũ khúc có bản chất "giỏi thích ứng", không những có khả năng khai sáng trong hoàn cảnh khách quan thuận lợi, mà dù hoàn cảnh có bất lợi, vẫn có thể lợi dụng thao túng được hoàn cảnh mà "xu cát tị hung".
Vũ khúc bản chất "ngoan cố", khi ở hoàn cảnh khách quan thuận lợi, tinh thần an vui dục tính quá cao, luôn cho rằng chưa đủ thỏa mãn, nên vẫn ưa vọng động làm càn, để mưu cầu đạt tới mục đích lý tưởng cao hơn, kết quả chuốc lấy thất bại; Vũ khúc với bản chất "ngoan cố", trong hoàn cảnh khách quan bất lợi, thì đặt lợi ích trước mắt quá ích kỷ, dẫn đến quan hệ giao tế xấu đi, kết quả cũng chuốc lấy thất bại.
Khi Vũ khúc đồng độ cùng với Phá quân, thành hệ "Vũ khúc Phá quân", cần phải gặp sao Lộc, mới có tính thích ứng. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền, tính chất sao quá mạnh mẽ, tuy bản thân có thể thích ứng với hoàn cảnh, nhưng nếu không có sự trợ lực phối hợp thì cũng không tốt, cần phải có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, mới có thể cài thiện tình hình.
Hệ "Vũ khúc Phá quân" không được cát hóa, nhưng không có sao Sát Kị đồng độ, mà có sao Phụ Tá hội hợp, cũng có tính chất thích ứng, nhưng thành tựu không lớn bằng trường hợp được cát hóa.
Nếu hệ "Vũ khúc Phá quân" có Hóa Kị (chủ về sự nghiệp không như lý tưởng, phần nhiều đều bị cạnh tranh, tranh chấp), bất kể là Vũ khúc Hóa Kị hay Liêm trinh Hóa Kị, đều có tính "ngoan cố", Liêm trinh Hóa Kị thì càng nặng.
Nếu không có Cát tinh đồng độ, lại không được cát hóa, nhưng gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp hội hợp (kị nhất có hai sao Địa không, Địa kiếp đồng độ ở cung mệnh), cũng có tính "ngoan cố", thường vì tự tung tự tác, đi ngược với xu thế thay đổi của xã hội, trái nghịch với trào lưu, vì vậy mà bị đả kích.
Hệ "Vũ khúc Phá quân" rất ngại Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, không những có tính "ngoan cố", mà còn hay bị tình thế khách quan bức bách tính "ngoan cố" càng thêm tăng nặng (như công việc buộc phải có sự mạo hiểm, hay nơi làm việc cũ tuy ổn định, nhưng lại được cơ hội làm việc ở nơi khác có sự đãi ngộ rất hấp dẫn, mà nơi này lại là đối thủ cạnh tranh chủ yếu của nơi làm việc cũ ...), đây thường là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại.
Cung hạn Thái dương độc tọa, chỉ cần không Hóa Kị, thì hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "gỏi thích ứng" ưa đến, thường thường dễ được cơ duyên tốt đặt cơ sở cho sự nghiệp. Còn đối với hệ "Vũ phúc Phá quân" có bản chất "ngoan cố", trong lúc bị nhiều thị phi oán trách, không được rắp tâm đáp trả, thì cũng có thể thay đổi hoàn cảnh một cách thuận lợi. Nếu muốn thay đổi hoàn cảnh, để thực hiện mưu đồ rắp tâm đáp trả những oán trách thị phi, thì sự thay đổi này sẽ không lành.
Nếu Thái dương Hóa Kị, lại bị Kình dương Đà la giáp cung, (Cự môn Hóa Kị thì nặng), ở đại vận hoặc lưu niên này, tuyệt đối không nên tạo ra thay đổi nào, cũng không nên hợp tác với người khác, nếu không ắt sẽ sinh thị phi.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "giỏi thích ứng" ưa đến, thường đây là vận trình sáng lập sự nghiệp, nhưng khi Thiên phủ là "kho lộ", kho trống" thì nên trọn phương kế bảo thủ. Đối với hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "ngoan cố" khi gặp cung hạn này, thường ở trong cảnh vốn không tệ, nhưng lại gắng sức cố thay đổi, thế là bị trắc trở. Nếu lại gặp Thiên phủ là "kho lộ", "kho trống", bất kể là lưu niên hay đại vận, đều là vận trình bất lợi đối với hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "ngoan cố", hễ có hành động, thì mức độ sai lầm sẽ nhiều và biên độ sai lầm tăng nặng.
Cung hạn "Thiên cơ Thái âm" đồng độ, đối với hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "giỏi thích ứng", thông thường đều là lưu niên hay đại vận chậm phát triển, chậm đạt được thành quả, chậm đạt được lợi ích. Chỉ cần có Cát tinh và có Cát hóa, phần nhiều mục đích sự nghiệp chuyển hướng về gia nghiệp, khai sáng điền viên. Đối với hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "ngoan cố", thì đây thường là vận trình bị đả kích, thậm chí nhiều thị phi, nói xấu, gièm pha, nếu muốn xoay chuyển cục diện, càng hành động thì biên độ thị phi càng lớn, nhiều khả năng dẫn tới phạm pháp, lại gặp thêm Hóa Kị chủ về ra quyết sách để xoay chuyển cục diện mắc phải sai lầm cơ bản.
Cung hạn "Tử vi Tham lang" đồng độ, đối với hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "giỏi thích ứng" chắc chắn là vận tốt. Đối với hệ "Vũ khúc Phá quân" có bản chất "ngoan cố", thì đây là vận hạn, vì thân cận với tiểu nhân mà bị tiểu nhân gây lụy, đây là nguyên nhân không khéo chọn người giao du giao tế, nên mục đích hợp tác bị sao nhãng, thường lưu luyến sa đà nơi tửu sắc. Cần xét cung Giao hữu để định cảnh ngộ, chọn bạn trung tín có đúng người đúng việc hay không, thì có thể tránh được vận xấu.
Hệ "Vũ khúc Phá quân" rất ưa Tử vi Hóa Khoa ở đại vận hoặc lưu niên, bất kể mệch cách thuộc loại nào, "giỏi thích ứng" hay "ngoan cố", đều chủ về vận trình danh lợi song thu, chỉ là mức độ nhiều ít khác nhau mà thôi.
Cung hạn Cự môn độc tọa, bất kể là lưu niên hay đại vận, đều là vận trình hệ "Vũ phúc Phá quân" không thích hợp đến, dù là mệnh cách "giỏi thích ứng" cũng bị người dưới quyền gây rắc rối khó xử (nhất là người do chính tay mệnh tạo lựa chọn), đồng lòng đồng thuận mưu đồ vụng trộm cùng người dưới quyền, đem lại hậu quả thân bại danh liệt. Mệnh cách "ngoan cố" mà đến cung hạn này thì tình hình xấu càng nặng.
Cự môn được Cát hóa, mệnh cách "giỏi thích ứng" đến, tuy hình hình thuật ở trên không thay đổi, nhưng được người ở hậu trường ủng hộ, nên vẫn được tiếp tục hợp tác làm việc, nhưng về danh dự phải chịu tổn thất.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu là đại vận, gặp cách "Tài ấm giáp ấn", mệnh cách "ngoan cố" mà đến, thì nên giữ nguyên hiện trạng, chẳng nên tác động thay đổi, cũng nên lui về phòng thủ. Nếu gặp cách "Hình kị giáp ấn", sẽ chủ về tai họa, xem xét kết hợp cung hạn lưu niên từng năm để định cảnh ngộ tai họa trong đại vận này. Mệnh cách "giỏi thích ứng" đến cung hạn này, biến động thay đổi tương đối thuận, chủ về bình thường.
Thiên tướng bị tứ Sát chiếu xạ (không luận về Địa không Địa kiếp), đối với mệnh cách "giỏi thích ứng", là vận trình có biến động về sức khỏe, nên đề phòng bệnh tiểu đường, bệnh thận. Đối với mệnh cách "ngoan cố" mà đến cung hạn này, nên đề phòng bệnh tim mạch. Thiên tướng hội đủ các sao Sát Kị Hình Hao, còn gặp thêm Tạp diệu như Thiên hư, Âm sát, Hàm trì, Kiếp sát, thì nguy cơ bị ung thư rất cao, các loại về rối loạn như rối loạn nhiễm sắc thể, rối loạn nội tiết tố ...
Cung hạn Thiên lương độc tọa, hệ "Vũ khúc Phá quân" đến, có lợi về lưu niên mà bất lợi về đại vận. Ở đại vận, chủ về nạn tai, bệnh tật, thường dễ mắc bệnh suy tim. Ở lưu niên, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị Hình Hao, mệch cách "giỏi thích ứng" đến cung hạn này, có thể đột phá hoàn cảnh mà được lợi ích; mệnh cách "ngoan cố" mà đến cung hạn này, thì không nên dùng giải pháp đột phá, trong tình hình như vậy mà đột phá, kết quả sẽ thất bại, ngoài ra còn liên quan đến hôn nhân bị ảnh hưởng.
Cung hạn "Liêm trinh Thất sát" đồng độ, đối với mệnh cách "giỏi thích ứng" đến cung hạn này, thông thường đều là vận tốt, bất kể là đại vận hay lưu niên, đều có dấu hiệu thăng phát đột ngột. Đối với mệnh cách "ngoan cố" mà đến cung hạn này, thông thường bị hoàn cảnh khách quan chi phối, khiến mệnh cách có phản ứng sai lầm. Nếu Liêm trinh nguyên cục Hóa Kị, thì mệnh cách "ngoan cố" cần phải đề phòng xảy ra tổn thương, họa hại, tình cảm bị đả kích như quan hệ hợp tác bị đổ vỡ ...
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, bất kể là lưu niên hay đại vận, hệ "Vũ khúc Phá quân" đều không ưa đến, mệnh cách "giỏi thích ứng" mà gặp cung hạn này, dù được Cát hóa và có Cát tinh, cũng xảy ra tình trạng phải chịu áp lực tâm lý, gặp cảnh ngộ bị đả kích, nếu có Sát Kị Hình, thì đây là hoàn cảnh xui xẻo.
Mệnh cách "ngoan cố" mà gặp cung hạn Thiên đồng độc tọa, có thể là vận tốt, nhưng vì là vận tốt nên kích thích mệnh cách sinh ra lý tưởng quá cao, tâm lực và tâm trí không đủ, thế là đưa ra những phán đoán sai lầm, dẫn đến trắc trở thất bại.
Tử vi tinhKHÂM THIÊN GIÁM
Tử vi miếu ở ba cung Sửu, Ngọ, Mùi, không ưa hai cung Thìn Tuất.
Tử vi thuộc âm thổ, là Bắc Đẩu chủ tinh. Trong 14 chính diệu của Đẩu Số, nó là lãnh đạo của các sao, cho nên Cổ nhân gọi là "đế diệu", ví với hoàng đế. Do ví với hoàng đế, nên Tử vi có đặc tính như sau:
1. Có khí quý phái, có tài lãnh đạo, có phong thái của người ra lệnh. Tài năng lãnh đạo có hoàn mĩ hay không? Mệnh lệnh có chính xác hay không? thì cần phải xem Tử vi ở cung vị nào, và hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính cát hung ra sao mới định được.
2. Có lực điều giải, tức là giỏi khống chế và làm thay đổi. Cho nên, Tử vi có thể kềm chế các sao hung hãn như Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, Hóa Kị. Nhưng lại không tránh được ảnh hưởng của ám tinh Cự môn. Bởi vì, hoàng đế tuy có thể nhiếp phục được quần thần, nhưng lại dễ thích nghe lời sàm tấu, Cự môn giống như nịnh thần hay sàm tấu, có thể gây ảnh hưởng đến sự biểu hiện thanh thế của Tử vi.
3. Có lực khắc chế, là nói đối với hai sao Thất sát và Phá quân. Phá quân giống như tướng soái ở ngoài trận địa, không nhận mệnh lệnh của quân vương, nhưng không có Thất sát thì làm sao tâu báo với Tử vi. Nhưng, "Tử vi Phá quân" đồng cung, cũng có thể biến lực phá hoại của Phá quân thành lực khai sáng.
4. Có lực cạnh tranh, đặc biệt đối thủ càng mạnh thì đấu trí của Tử vi càng mạnh. Nếu như hội hợp với các sao có sự trợ giúp cho lực cạnh tranh như Thiên phủ, Thiên tướng, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì Tử vi càng không dễ nhượng bộ, giống như bậc quân vương lấy xã tắc làm trọng.
5. Có lòng tự tôn, mà còn có tính cách mạnh mẽ, giống như hoàng đế nhất định phải giữ sự tôn nghiêm của bản thân. Cho nên, về tính cách thường có biểu hiện tự cao tự đại, thiện ác tùy tâm. Nếu Tử vi hội chiếu với sát tinh mà không có sao cát, thì dễ kích động theo kiểu: thương thì cho sống, ghét thì cho chết. Nhưng khi ở trong nghịch cảnh, Tử vi lại có thể giấu nỗi khổ trong lòng, không chịu biểu lộ.
Vì Tử vi là "đế diệu", cho nên rất ưa trăm quan đứng chầu (bách quan triều củng), rất kị quân thần xa lánh (tại dã cô quân). Bách quan và quần thần, là chỉ các sao Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quan, Thiên quý, Lộc tồn, Thiên mã, Thiên khôi, Thiên việt. Tuy Tử vi cũng ưa Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, nhưng vẫn không bằng cách "Bách quan triều củng". Cho nên Tử vi đóng ở cung Mệnh, được "Bách quan triều củng" thì có thể đại phú đại quý. Còn được cách "Phủ Tướng triều viên" thì chỉ là cách cục không thấp, nếu chỉ mang đặc tính của Tử vi để phát huy mà thôi, thì chưa chắc có thể phú quý.
Nếu không có "trăm quan đứng chầu", mà là "quần thần xa lánh", giả dụ như ngay cả "Phủ Tướng triều viên" cũng không có được cách này, thế thì, giống như vị vua cô độc nơi hoang dã (tại dã cô quân). Lúc này Tử vi sẽ có biểu hiện xử sự thiếu hòa hợp, đây là do sự tôn quý của hoàng đế, vì vậy khác với tư tưởng của người thường.
Sao Tử vi ở trong tình cảnh "Tại dã cô quân", lại gặp Địa không, Địa Kiếp và tứ sát, thì chỉ thích hợp phát huy tư tưởng siêu thoát. Cho nên cổ nhân cho rằng trường hợp này thích hợp làm tăng nhân, đạo sĩ. Nhưng ở thời hiện đại, có thể phát triển thành nhân vật có tư tưởng đặc biệt. Nếu gặp được Tham lang, Thiên tài, hoặc Liêm trinh, thì có khả năng là nghệ thuật gia hoặc nhà thiết kế.
Nhưng nếu Tử vi trong hoàn cảnh "tại dã cô quân" lại gặp các sao Sát, sao Không, còn tương hội với Thái âm, thì trái lại, tư tưởng siêu thoát sẽ không phát huy. Do ảnh hưởng của Thái âm, sẽ biến thành người hý lộng thủ đoạn, thích giở mánh khóe.
Ngoại trừ tam phương tứ chính, Tử vi còn chịu ảnh hưởng của hai cung ở bên trái và bên phải, Tử vi rất ưa Tả phụ Hữu bật giáp cung, kế đến là Văn xương và Văn khúc giáp cung.
Nếu gặp phải Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, hoặc Kình dương và Đà la giáp cung, thì Tử vi có khả năng trở thành bạo chúa, tức là phát huy toàn bộ tính chất xấu của Tử vi.
TỬ VI TINH BÍ CẤP
Tử vi độc tọa
Tử vi độc tọa, ở Tý không bằng ở Ngọ, bởi vì khi Tử vi ở Ngọ là nhập miếu, tài lãnh đạo và lực điều hòa chế hóa đều lớn hơn khi độc tọa ở Tý, vì vậy tài địa và tài phú cũng đều hơn hẳn.
Tử vi độc tọa, ngoài việc ưa "bách quan triều củng" ra, còn ưa Tả phụ, Hữu bật giáp cung mệnh, Văn xương, Văn khúc giáp cung mệnh, Lòng trì, Phượng các giáp cung mệnh, thảy đều làm tăng khí thế và giảm bớt vất vả cho Tử vi.
Nếu là "tại dã cô quân", còn gặp các sao "Không", như Thiên không, Địa không, thì thích hợp làm người truy tìm chân lý, thành nhân vật tôn giáo, cũng có thể trở thành nhân vật lãnh đạo. Gặp Hóa cái, tín ngưỡng tôn giáo càng sâu, hơn nữa còn thích tìm hiểu sự việc thần bí.
Tử vi độc tọa mà gặp đủ các sao Phụ, Tá, Sát, Hóa, thì cần phải xét xem các sao cát hung nhiều hay ít thế nào, sức mạnh của chúng ra sao, để định tốt xấu. Thông thường, phần lớn trường hợp đều chủ về có lý tưởng cao nhưng sức mạnh hành động không đủ, cần phải dùng Hậu thiên để bổ cứu cho những nỗ lực thực hiện lý tưởng của sao Tử vi.
Nếu như không có Cát tinh hội hợp mà chỉ gặp Sát tinh, thì dễ cảm thấy "có tài mà không gặp thời", nên làm việc ở lĩnh vực kinh doanh thương mại. Chỉ cần Sát tinh nhập miếu, mà Sát tinh không nhiều, thì vẫn có thể hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại mà trở nên giầu có. Tốt nhất là được Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội hợp, dễ giầu có mà còn có địa vị trong xã hội, nhất là, càng dễ phát triển trong giới thương nghiệp. Nếu theo lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục, thì trái lại, sẽ gặp nhiều trắc trở bất đắc chí.
Sát tinh nặng, thông thường đều chủ về bất hòa, tranh chấp thị phi. Nhất là gặp phải Kình dương lạc hãm, càng chủ về kiện tụng, hoặc phải phẫu thuật ngoại khoa.
Tử vi độc tọa, cũng ưa Hóa Quyền và Hóa Khoa. Khi Hóa Quyền có thể làm tăng năng lực lãnh đạo và sức cạnh tranh, khi Hóa Khoa thì có danh tiếng, hơn nữa, theo ngành nghiên cứu học thuật để dung hợp các thuyết mà sáng tạo ra cái mới; nhưng đều khiến cho mệnh tạo tăng mạnh tính chủ quan, khó tiếp thu ý kiến của người khác.
Trường hợp Tử vi chỉ gặp một hai sao Sát Kị, thì lại chủ về dễ nghe lời nói xấu, dèm pha, thị phi.
Phàm Tử vi độc tọa, cung đối diện ắt sẽ gặp Tham lang chủ về hiếu sắc, có thêm các sao đào hoa hội hợp thì càng nặng, nếu chỉ hội hợp với Thiên hình thì chủ về tự biết kềm chế, gặp Đà la cũng có thể tự kềm chế.
Trong đại hạn hoặc lưu niên, gặp Tử vi độc tọa tại cung Hạn, cần phải xét kỹ các sao hội hợp để định cát hung. Gặp Cát tinh thì chức vị thăng tiến, thương vụ phát triển, phúc lộc đều hậu hỷ; nếu gặp Hung tinh Địa không, Địa kiếp, sao Hao (Đại hao), thì chủ về kinh tế khó khăn hoặc phá tài; có Sát tinh tương hội chủ về bất hòa, tranh chấp, trong làm ăn dẫn tới đình trệ, trong chức vụ bị giáng chức hoặc bị truất phế.
Tử vi và Phá quân đồng cung
Tử vi ở Sửu hoặc Mùi luôn luôn có Phá quân đồng độ. Đây là kết cấu tinh hệ rất có lực khai sáng. Phá quân vốn là chiến tướng tiên phong, được Tử vi cầm cương điều khiển, lực phá hoại của Phá quân nhờ vậy mà được giảm thiểu, sức sáng tạo trái lại sẽ tăng. Tuy đời người không tránh được vất vả gian khổ, nhưng nhờ có tài lãnh đạo, có tính quyết đoán, nên cũng chủ về trải qua vất vả mà có thành tựu.
Nhưng, lúc Phá quân Hóa Quyền sẽ làm tăng tính chất biến động của Phá quân, vì vậy mà đời người càng thêm biến động thay đổi. Nếu có Tả phụ Hữu bật hội hợp, có thể giảm thiểu vất vả; nếu gặp tứ Sát, thì chỉ thích hợp làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, và cần phải chú ý tính chất sáng tạo cái mới trong kinh doanh.
Nếu Phá quân Hóa Lộc, đồng thời với sự khai sáng là cơ hội kiếm tiền, khiến cho sinh hoạt vật chất được sung túc, để bù đắp những vất vả đã trải qua. Nhưng như vậy, đồng thời tình cảm cũng gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử, hơn nữa, sẽ khiến cho mệnh tạo thiên về hưởng thụ nhục dục. Bởi vì lúc này sẽ gặp Liêm trinh và Tham lang đồng độ ở Tị (hoặc ở Hợi), do hội với Phá quân Hóa Lộc mà phát huy tác dụng.
Bất kể Phá quân Hóa Quyền hay Hóa Lộc, cũng chủ về khiến cho mệnh tạo trở thành phú quý, nhưng nếu đồng thời hội hợp với các sao Sát Hình Kị, thì tuy giầu có sung túc, nhưng lại dễ chuốc điều tiếng thị phi. Gặp Kình dương, Thiên Hình, Hóa Kị, còn dễ vướng vào tranh chấp kiện tụng, thích hợp theo binh nghiệp hoặc ngành pháp luật.
Tinh hệ "Tử vi Phá quân" chủ về biến động, bởi vậy trong kinh doanh làm ăn, cần phải chú ý khi cơ hội đến bất ngờ, hơn nữa, có khả năng sẽ đồng thời kinh doanh hai ba lãnh vực có liên quan với nhau, hoặc cùng một thời điểm phải giải quyết hai ba việc. Nếu là nhân viên làm thuê, thì chủ về kiêm ngành, kiêm chức, hoặc làm tăng ca, nhưng nhất định sẽ một mình đảm trách công việc.
"Tử vi Phá quân" đóng ở cung mệnh, là người thẳng thắn, nhưng nếu gặp Hoa cái, thì thích hợp nghiên cứu tôn giáo hoặc triết học.
Có điều, do mệnh tạo hay lo toan nghĩ ngợi vì nhiều biến động thay đổi, lại xét thấy Thiên phủ ở cung Phúc đức chủ về lo toan chu đáo, nên khi gặp các sao Sát, sao Không, sẽ biểu hiện tính tự tư ích kỷ. Cổ nhân nói: "Tử vi Phá quân, làm tôi thần bất trung, làm con bất hiếu" (Tử vi Phá quân, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu), còn nói: "Tử vi Phá quân mà không có Tả Hữu đồng cung, là phường quan lại hung ác" (Tử Phá đồng cung vô Tả Hữu, vô cát diệu, hung ác tư lại chi đồ), tức là đã chỉ ra bản tính tự tư ích kỷ và khuynh hướng hay lo toan nghĩ ngợi của mệnh tạo. Nhưng chỉ cần có Cát tinh hội hợp, thì những tính cách không lành này sẽ giảm nhẹ, thậm chí tiêu trừ.
Đại hạn hoặc Lưu niên mà gặp "Tử vi Phá quân" đồng độ, chủ về "khứ cựu canh tân" (bỏ cũ để đổi mới). Được Cát tinh hội hợp, đương nhiên biến động sẽ cát lợi. Nếu gặp Sát tinh, thì nên suy nghĩ kỹ, không được vội vã thay đổi. Nếu Sát tinh và Cát tinh đều có, thì phải xem đến vận hạn sau có cát hay không để quyết định làm hay dừng.
Tử vi và Thiên phủ đồng cung
Hai sao Tử vi và Thiên phủ đồng độ ở Dần hoặc ở Thân. Sao Tử vi là chủ tinh của Bắc Đẩu, tính thích hợp khai sáng. Thiên phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, tính lợi về bảo thủ. Cho nên khi hai chủ tinh gặp nhau, không những xung đột "một núi không thể có hai cọp", mà tính chất còn kềm chế lẫn nhau, như vậy sẽ khó mà phát huy tác dụng. Thông thường, chỉ chủ về thanh cao, thậm chí có khả năng phát triển thành tự sùng bái mình. Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên theo sự nghiệp giáo dục, làm công chức cũng được, không nên theo nghiệp kinh doanh, nếu không, sẽ có phản ứng sai lầm, hành động không mạng lại hiệu quả tốt cho bản thân, thường đánh mất cơ hội, hoặc khéo quá mà thành vụng.
Khi "Tử vi Thiên phủ" đồng cung, nếu Tử vi Hóa Quyền hoặc Hóa Khoa, thì vầng hào quang của Tử vi càng lớn, khí quý phái càng lớn. Nếu Thiên phủ Hóa Khoa thì chỉ có khuynh hướng giữ uy tín, xem trọng lời hứa, nhưng sẽ quá khiêm cung hiền lành, thiếu năng lực lãnh đạo và khai sáng mọi thứ từ thực tế.
Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên gặp cách "Lộc Mã giao trì" đến hội hợp, chủ về phú quý song toàn; kế đến là cách "Lộc văn củng mệnh", tức có Lộc tồn hoặc Hóa lộc và Văn xương, Văn khúc hội hợp, cũng chủ về phú quý; kế đó nữa là các phụ diệu – tá diệu hội hợp và hội chiếu, chủ về quý mà không chủ về giầu có.
Nếu các sao Phụ diệu, Tá diệu không hội hợp, mà có tứ Sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, trái lại, sẽ chủ về bên ngoài thì tỏ ra trung thành mà bên trong thì gian trá, phần nhiều hay tráo trở thị phi. Nếu gặp sao Không, hoặc Không vong, là người tầm thường, cô độc, kiếm sống qua ngày.
Nữ mệnh có "Tử vi Thiên phủ", nếu Tham lang của cung Phúc đức hội hợp với các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Thiên diêu, Hàm trì, thì rất nên xem trọng sinh hoạt tình cảm. Nếu cung Mệnh có các sao Sát Hình tụ tập, thì có thể làm kế thất, hoặc do quá tự sùng bái mình mà suốt đời không kết hôn.
Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên gặp "Tử vi Thiên phủ" thì cát lợi hơn so với gặp ở cung mệnh nguyên cục, chủ về được quý nhân trợ lực, dễ phát đột ngột. Nếu gặp Thiên khôi, Thiên việt, hoặc lưu Khôi, lưu Việt thì nhờ có thay đổi mệnh lệnh, hoặc nơi làm việc thay đổi chính sách cũng phất lên đột ngột. Trong làm ăn phần nhiều không cầu mà bỗng nhiên gặp may.
Tử vi và Tham lang đồng cung
"Tử vi Tham lang" đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu, cổ nhân gọi cách này là ""Đào hoa phạm chủ", cho rằng chủ về dâm loạn. Cho nên gặp tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng cung, rất kỵ gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Đại hao, Thiên diêu, Mộc dục, nếu không, chủ về bản thân dễ mất kềm chế không tự chủ được trước sức hấp dẫn của người khác giới. Nếu gặp thêm Sát tinh sẽ gặp họa vì sắc đẹp. Cho dù không gặp Sát tinh cũng vẫn bị ảnh hưởng đến con đường sự nghiệp.
Nếu Tử vi Hóa Quyền, được "bách quan triều củng", giống như thiên tử phong lưu ở thời thái bình, chủ về phú quý đa tình. Tử vi Hóa Khoa gặp Cát tinh tuy có danh tiếng, nhưng vẫn thiên nặng về nhục dục và ham muốn vật chất.
Nếu Tham lang Hóa Lộc, chủ về giao tế thù tạc nhiều, thiên nặng về ham muốn vật chất, nhưng lại có tài vận hanh thông. Tham lang Hóa Quyền, ham muốn vật chất cũng nặng, nhưng phải trải qua cạnh tranh mới có được thành tựu. Tham lang Hóa Kị, tuy giảm sắc thái đào hoa, nhưng tài năng và tài nghệ lại rất khó phát huy và phát triển, những ham muốn vật chất khó toại nguyện.
Tử vi đồng độ với Tham lang, ưa gặp Tả phụ, Hữu bật đồng cung, mà không ưa Văn xương, Văn khúc. Nếu gặp Văn xương Văn khúc đồng cung, thì khuynh hướng hấp dẫn người khác giới càng lớn, đồng thời còn chú trọng trang điểm trải chuốt về biểu hiện hình thức bề ngoài hoàn mỹ, cho nên hành sự "giả nhiều mà thực ít". Nếu gặp Tả phụ và Văn xương, hoặc Hữu bật và Văn khúc giáp cung Mệnh, thì trái lại, sẽ dễ phát huy tài chí, sự nghiệp có thành tựu. Cổ nhân nói: "Tả Hữu Xương Khúc giáp chế", theo bí truyền của Trung Châu phái, đây là cách nói "giao thoa nhau mà giáp cung mệnh", bởi vì tinh hệ "Tử vi Tham lang" vĩnh viễn không có khả năng "Tả Hữu giáp mệnh".
"Tử vi Tham lang" mà gặp Sát tinh, chỉ nên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng Sát tinh nặng cũng có thị phi, tranh chấp. Nếu lại gặp sao Không và Hoa cái, trái lại, sẽ sinh nhai bằng nghiệp hoạt động tôn giáo.
Nữ mệnh có "Tử vi Tham lang", gặp đào hoa và Sát tinh, dễ rơi vào chốn phong trần. Kị nhất là gặp sao Kình dương, khi các sao đào hoa tụ tập, thì nguy cơ rơi vào chốn phong trần càng lớn, đồng thời cũng vì vậy mà ham muốn vật chất có khuynh hướng trụy lạc. Khi cung mệnh an tại Dậu, phải mượn tinh hệ "Tử vi Tham lang" ở Mão để an cung, thì càng cần phải chú ý.
Cung mệnh của lưu niên, hoặc cung mệnh của đại hạn mà gặp tinh hệ Tử vi Tham lang, tính chất đào hoa sẽ nhẹ hơn khi gặp ở cung mệnh nguyên cục. Thông thường, nếu hội hợp với các Cát tinh chủ về ít có sự biến động thay đổi nhưng lại khó tiến bộ, nếu hội hợp với các Sát tinh mà không gặp các sao Hình Kị thì lại có thể tiến bộ. Còn khi các Sát tinh hội tụ lại gặp thêm các sao Hình Kị, chủ về vì sắc mà phá tài, chuốc họa, hoặc vì thù tạc mà chuốc điều tiếng thị phi.
Tử vi và Thiên tướng đồng cung
"Tử vi Thiên tướng" đồng độ ở Thìn hoặc ở Tuất, biết rằng Tử vi là đế diệu, Thiên tướng là sao "ấn", thoạt nhìn có vẻ là một kết cấu rất lý tưởng, nhưng khi hai sao này đồng cung, thì lại vì Phá quân ở cung đối diện xung chiếu mà thay đổi tính chất. Đây là một ví dụ, mà Trung Châu phái xem trọng đặc tính của toàn bộ kết cấu các tinh hệ trong mệnh bàn.
Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" rất ưa được Lộc tồn hội chiếu, có thể giầu có, nhưng thành kiến chủ quan cực nặng, mà còn thích tranh quyền, nên dễ bị nhiều người không chấp nhận mà gây áp lực chèn ép, nặng hơn còn bị loại bỏ. Nếu không có Lộc tồn và Tử vi Hóa Quyền, thì tính thích tranh quyền càng diễn biến kịch liệt; nếu không có Lộc tồn mà Tử vi Hóa Khoa, tính thích tranh quyền tuy có giảm, nhưng lòng tự tôn và trọng danh dự càng nặng nề, dễ bị người ta úy kị.
Nếu tinh hệ "Tử vi Tham lang" không gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì tinh hệ này ưa được "bách quan triều củng", không ưa các sao Sát Kị hội hợp. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, thì sự nghiệp có thể thành tựu, tính tình ôn hòa nhân hậu chủ về kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo. Nhưng vì ảnh hưởng của Phá quân ở cung đối diện xung chiếu, nên trong đời người ắt phải trải qua một lần sóng gió, trắc trở.
Nếu không gặp Cát tinh, mà có tứ Sát hội hợp, thì lấy trường hợp Kình dương, Đà la là khá tốt, thích hợp hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Nếu gặp Hỏa tinh Linh tinh, do Tử vi phải hao phí sức lực hóa giải nên tăng thêm vất vả, gian khổ. Giả dụ như gặp Hỏa tinh, Linh tinh, mà còn gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên Hình, chủ về gặp bất hạnh, tinh thần bị kích thích mạnh, hoặc mắc bệnh tim. Phàm tinh hệ Tử vi Thiên tướng thủ mệnh, dù không gặp Sát tinh, cũng nên chú ý sức khỏe tim mạch, nên chăm sóc sức khỏe tinh thần.
Nếu có nhiều Sát tinh hội hợp, chủ về phát triển một cách nhanh chóng rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng, có những ứng xử biểu hiện vô tình vô nghĩa. Nếu có thêm Cát tinh tương hội, chủ về đời người trải qua nhiều sóng gió trắc trở, cuộc đời có bước ngoặt đặc biệt, hoặc gặp bất hạnh bất ngờ. Nhưng trong ngẫu nhiên vô tình vẫn có biểu hiện vô tình lạnh nhạt.
Nữ mệnh gặp tinh hệ "Tử vi Thiên tướng", cần chú ý quan tâm đến sinh hoạt tình cảm, đồng thời phải lưu ý đến đặc tính "vô tình vô nghĩa" của tinh hệ này mà biết tự mình kềm chế bản thân, thì mới được hưởng cuộc sống an lành, tuy nhiên trong tình yêu ắt khó tránh được cảnh sóng to gió lớn.
Cung mệnh của lưu niên, hoặc cung mệnh của đại hạn có tinh hệ Tử vi Thiên thướng, nếu gặp các sao Sát Kị, ắt sẽ bị nhiều trở ngại rồi sinh lòng thay đổi, như mong muốn thay đổi việc làm nhưng lại không được. Gặp Cát tinh thì vận hạn thuận lợi toại ý, sự nghiệp có thành tựu.
Tử vi và Thất sát đồng cung
Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung, có uy thế không ai so bì được. Cho nên chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa, còn có tư tưởng độc đáo.
Thông thường, tinh hệ "Tử vi Thất sát" có thể xem là tượng trưng cho quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa Quyền, vì khi Tử vi Hóa Quyền chủ về có lòng ham muốn quyền lực quá cao, có biểu hiện "khí bá đạo", khiến cho cộng đồng làm việc xa gần rất khó chấp nhận.
Tinh hệ "Tử vi Thất sát" rất cần các Cát tinh hội chiếu. Như có Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, khi được những Cát tinh này hội hợp, thì tính cương dũng của Thất sát có đất dụng võ, đây là cái gọi là "hóa sát làm quyền" của cách cục này. Nhưng, giả dụ không có những Cát tinh hội chiếu, thì cách cục này giống như "anh hùng thảo dã biến thành giặc cướp", khó tránh khỏi có những biểu hiện "tàn nhẫn bá đạo", chủ về phát triển lên một cách nhanh chóng, rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng.
Nếu như không có những Cát tinh, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh được "hình thương, khắc hại".
Nữ mệnh gặp tinh hệ "Tử vi Thất sát", nếu gặp Sát tinh, tuy có cơ hội thay đổi nhưng lại khó được như ý nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội thì phải chấp nhận trải qua sự biến động thay đổi, thì mới có được ích lợi.
Sao Tử vi - Toàn thư
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Tử vi là âm thổ, là Bắc Đẩu Đế tọa, trung tâm của các vì sao, hóa khí là tôn quý chủ cung Quan lộc. Tại số chuyên quản về chức tước và bổng lộc, có khả năng giải ách (tiêu trừ tai ách, biến hung thành cát), kéo dài tuổi thọ (nếu vận hạn gặp được Tử vi thì có thể duy trì được bình an, tăng thêm độ tốt lành), có khả năng chế hóa (có khả năng chế phục và hóa giải hung tính của các sát tinh), có sức mạnh bao dung che chở, xuất hiện tại cung nào cũng có khả năng tạo phúc trừ tai, tiêu trừ mọi hung hại.
Tử vi tuy là sao Đế Tọa địa vị tôn quý, nhưng lại không nên đứng một mình chẳng khác gì vị vua cô độc trên ngai vàng, thiếu tôi hiền trợ giúp dễ trở nên độc đoán chuyên quyền, khiến gian thần tiểu nhân thừa cơ, kẻ dưới phạm thượng, nên khó phát huy được uy lực mà dễ suy yếu, có tài năng nhưng không có đất dụng võ, hay dùng kiến giải nghiệp dư để chỉ đạo người chuyên nghiệp.
Tử vi ưa Tả phụ Hữu bật phò tá, gặp Thiên tướng, Văn xương, Vũ khúc tùy tùng, gặp Thiên khôi Thiên việt truyền lệnh, gặp Thái dương Thái âm phân chức, gặp Lộc tồn Thiên mã để quản tước vị, gặp Thiên phủ cai quản kho tàng. Nếu được những Cát tinh trên đồng cung, hoặc nằm tại cung tam phương tứ chính ứng chiếu lẫn nhau, sẽ tạo thành cách Quần thần khánh hội là cách rất tốt. Uy lực của Tử vi có thể khắc chế Hỏa tinh Linh tinh thành thiện, có thể giáng Thất sát làm quyền. Khi Tử vi gặp hung tinh, tuy hóa cát nhưng vô đạo.
Sao Tử vi (cực) nằm tại cung Ly (ngọ), không bị sát tinh xung phá là cách Cực hướng Ly minh địa vị phú quý đến hàng công khanh. Hai sao đế là Tử vi và Thiên phủ nếu đồng cung, hoặc tại cung đối nhau chầu về cung Mệnh là cách Tử Phủ đồng cung chủ về một đời giầu có. Nếu Tử vi hoặc Thiên phủ miếu vượng nằm tại cung Mệnh, tam phương tứ chính lại gặp cát tinh là cách Tử Phủ triều viên tước lộc dồi dào.
Ca quyết:
Tử vi nguyên thuộc thổ, Quan lộc cung chủ tinh
Hữu tướng vi hữu dụng, vô tướng vi cô quân
Chư cung giai giáng phúc, ngộ hung phúc tự thân
Văn xương phát khoa giáp, Văn khúc thụ hoàng ân
Tăng đạo hữu sư hiệu, khoái lạc độ xuân thu
Chúng tinh giai củng chiếu, vi lai hiệp công bình
Nữ nhân hội Đế tọa, ngộ cát sự quý nhân
Nhược dữ đào hoa hội, phiêu lãng lạc phong trần
Kình dương Hỏa Linh tụ, thử thiết cẩu thâu quân
Tam phương hữu cát củng, phương tác quý nhân bình
Nhược hoàn vô Phụ Bật, chư ác cộng khí lăng
Đế vi vô đạo chủ, khảo cứu yếu chi nhân.
SAO TỬ VI TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Tử vi tọa thủ tại cung Mệnh, thường có sắc mặt mầu vàng tía, người to béo, tướng mại hiền hậu điềm đạm, ánh mắt trong và sáng. Mệnh nam thì vai rộng lưng dày, rắn rỏi uy nghiêm; mệnh nữ thì đôn hậu thanh tú, phúng phính đãy đà, khoan thai quý phái.
Tính cách liêm chính ngay thẳng, trung hậu thật thà, bên ngoài cứng rắn bên trong yếu mềm, có lòng tự trọng tự ái, tâm địa lương thiện, có lòng nhân hậu hay nghĩ cho người khác, có khí chất tôn quý, có tính kiêu ngạo, thích phân minh rõ ràng. Có tinh thần trách nhiệm, thích hư vinh, đa nghi, thiếu chủ kiến, tự tin giỏi biện luận lại thường hiếu thắng, tâm địa khá hẹp hòi, thích chiếm hữu, dễ làm việc theo cảm tính tùy thuộc vào mong muốn bản thân. thường tự cảm thấy tủi thân mà dễ tự tìm đến phiền muộn. Thông minh học rộng, năng lực quản lý tài chính giỏi, có khả năng lãnh đạo. Làm việc chăm chỉ, nhiệt tình thích cầu toàn.
Nữ giới có sao Tử vi nhập vào cung Mệnh, ngoài có tiền đồ còn có dung mạo xinh đẹp, da dẻ mịn màng, khí thái đoan trang, được giáo dục tốt, là mẫu người phụ nữ vợ đảm mẹ hiền điển hình. Đa phần có được người bạn đời có địa vị cao trong xã hội, hưởng cuộc sống hành phúc về cả vật chất lẫn tinh thần. Nếu gặp thêm cát tinh là người vợ giúp chồng, nuôi con giỏi.
Suy đoán mệnh lý
Tử vi + 3
Thất sát = 0
Tử vi + 4
Tử vi + 4
Phá quân + 3
Tử vi + 3
Thiên phủ + 2
Tử vi + 2
Thiên tướng + 2
Tử vi + 3
Tham lang + 1
Tử vi + 3
Tham lang + 1
Tử vi + 2
Thiên tướng + 2
Tử vi + 3
Thiên phủ + 4
Tử vi + 4
Phá quân + 3
Tử vi = 0
Tử vi + 3
Thất sát = 0
Độ sáng của sao Tử vi tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên phủ.
Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Tử vi tuy là Đế tọa phú quý, có khí thể độc tôn, quyền uy cao ngất, là chúa tể của các sao, nhưng khi tọa thủ tại cung Mệnh thì không nhất định là thể hiện phú quý vinh hoa, còn phải xem xét cát - hung của các sao trong cung và các cung bên cạnh, cung đối diện, và cung tam phương hội hợp với cung này.
Sao Tử vi không thích hợp tọa thủ một mình. Khi Tử vi đơn thủ độc tọa một mình, thì cũng giống như vị vua đơn độc không có hiền thần phò tá, lại làm việc không có chủ kiến, thường bó buộc trong vỏ bọc tôn quý, dễ bị gian thần tiểu nhân làm hại, dễ độc đoán chuyên quyền, về tinh thần không tránh khỏi cô độc, nếu không biết biến thông thì khó tránh khỏi gặp trở ngại tai ương.
Người có sao Tử vi tọa thủ ở cung Mệnh, thích người khác tiếp thu ý kiến của bản thân, thích ra lệnh, thường đưa ra kiến nghị cho người khác, dễ có hiềm khích. Do sao Tử vi có khuynh hướng duy trì địa vị tôn quý của mình, luôn hy vọng được người khác tôn trọng và thừa nhận, vì vậy tính tình thường kiên định, đòi hỏi cái "tôi" khá cao, làm bất cứ việc gì đều rất nghiêm túc, có khả năng cải tiến đi lên, đồng thời có tính cầu toàn, thích thể hiện phô diễn mặt tốt đẹp của bản thân ra ngoài, luôn hy vọng vào khả năng nỗ lực trong tương lai của những người xung quanh, để thể hiện vai trò vị chúa tể, nên thường tự độc tôn quyền uy ở một phương diện nào đó. Sau khi thành danh, tất tiếp tục khẳng định cái "tôi", nếu chuyên về tri thức hoặc kỹ thuật đặc thù, lấy hiện trạng đột phá, đồng thời biết tiếp thu ý kiến của bạn bè, duy trì bản năng có lòng hiếu kỳ với bất kỳ sự việc nào, tất có vận may được hiển đạt lớn, nếu không, sẽ dễ đi theo khuynh hướng hư danh.
Sao Tử vi hợp nhất khi có thêm 6 cát tinh phò tá, cũng hợp với cát tinh như Thiên phủ, Thiên tướng, Thái dương, Thái âm, Lộc tồn, Thiên mã, hoặc gặp được sự hỗ trợ trong cùng một cung, như vậy mới có thể phát huy được uy lực chân chính của Đế tinh.
Suy đoán cát - hung của sao Tử vi tọa thủ cung Mệnh, cũng phải đồng thời xem xét Tam thai, nếu cung vị của sao Tử vi là "trung thai", thì trước nó một cung là "thượng thai", sau nó một cung là "hạ thai". Các sao Tham thai đều là Cát tinh của miếu, vượng, thì mọi việc hanh thông. Nếu các sao của Tam thai đều là Hung tinh rơi vào thế hãm địa thì mọi việc không như ý.
Sao Vũ KhúcSao Vũ khúc - Toàn thư
Thuộc tính ngũ hành của sao Vũ khúc là âm kim, là ngôi sao thứ sáu trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là tài chủ cung Tài bạch. Sao chính tài Vũ khúc nếu nhập đất tài (tức cung Tài bạch), chủ về vượng tiền tài, có tài quản lý tiền của. Nếu nằm đồng cung với Thiên đồng chủ về sống thọ.
Sao Vũ khúc đồng thời cũng là sao Quả Tú chủ về cô quả neo đơn, nếu nhập cung lục thân, dễ vô duyên với thân thích, trở nên cô độc lẻ loi.
Sao Vũ khúc ưa thích đồng cung với sáu Cát tinh, vì có thể tăng cường sức mạnh cho sao Vũ khúc. Sao Vũ khúc cũng ưa gặp các sao tam hóa Lộc Quyền Khoa để tăng cường độ sáng. Nếu Vũ khúc đồng cung với Hỏa tinh, Hóa Kị, Cô thần, Quả tú, thì tự nó sẽ có sự biến đổi rất lớn về tính chất.
Sao Vũ khúc ưa nằm đồng cung, hoặc ở vị trí xung chiếu với một trong ba sao Thất sát, Phá quân, Tham lang, cùng 4 sao Hóa. Đó là bởi vì các sao Sát Phá Tham chủ về biến hóa, nếu có thêm sao Vũ khúc, cộng thêm sự nhạy cảm của sao Vũ khúc với 4 sao Hóa, sẽ đem lại sức mạnh đặc biệt không thể xem nhẹ.
Sao Vũ khúc ngũ hành thuộc âm kim, tại trời chủ về tuổi thọ, tại số chủ về tiền tài, kị bị khắc chế, kị nhập hãm địa, ưa thích gặp sao Lộc tồn để cùng cai trị, ưa gặp sao Thái dương để cùng nắm quyền, cầu gặp Thiên phủ, Tham lang để được trợ giúp. Các cung Tài bạch, Điền trạch là vị trí thích hợp của sao Vũ khúc.
Nếu gặp ác sát hao kiếp tại cung Chấn (Mão địa) dễ bị cây đè sét đánh. Nếu gặp Phá quân, Tham lang tại cung Khảm (Tý địa) sẽ gặp họa chết đuối nhảy sông [ Vũ khúc đồng độ Thiên phủ cư Tý nhập Thiên bàn, Địa bàn có Phá quân hoặc Tham lang trấn thủ Khảm cung - kiểm ]. Nếu gặp Lộc Mã chủ về phát tài nơi tha hương. Nếu cùng đồng cung với Tham lang chủ về tuổi trẻ bất lợi, tức Vũ khúc thủ mệnh phúc phi khinh. Tham lang bất phát thiếu niên nhân (Vũ khúc tại mệnh phúc không nhỏ. Tham lang không phất kẻ thiếu niên). Nếu đồng cung với Đào hoa miếu vượng là kẻ ích kỷ hại nhân, bủn xỉn keo kiệt. Nếu đồng cung với Thất sát lại gặp thêm Hỏa tinh thì dễ bị cướp bóc tiền của. Nếu gặp Kình dương Đà la chủ về cô độc xung khắc. Gặp Phá quân khó hiển quý (của đến tay lại sạch không). Khi gặp hai hạn, chắc chắn sẽ gặp vạ thị phi.
Sao Vũ khúc nhập miếu thủ mệnh tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mà năm sinh lại là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, sẽ hình thành cách Tướng tinh đắc địa nếu theo nghiệp võ sẽ có thành tựu xuất chúng (Vũ khúc nhập Sửu Mùi cũng là cách Tham Vũ đồng hành, người trẻ tuổi bất lợi, phát đạt muộn sẽ cát lợi). Sao Liêm trinh tọa mệnh, cung Quan lộc ắt sẽ có sao Vũ khúc, nếu lại có sao Văn xương, Văn khúc tại cung vị tam phương hội chiếu, sẽ hình thành cách Liêm trinh Văn Khúcchủ về văn võ song toàn. Cung mệnh đóng tại Tị Hợi, có sao Mệnh Mã tọa thủ, hai cung bên cạnh có Vũ khúc và Lộc tồn (Hóa Lộc) kèm mệnh, hình thành cách Tài Lộc giáp Mã, chủ về tiền của dồi dào, càng động càng sinh tài. Nếu sao Vũ khúc cung Mệnh Mã, Thiên tướng cùng trấn cung mệnh tại Dần Thân, sẽ thành cách Tài Ấn tọa Mã, chủ về danh lợi song toàn, giầu sang trọn vẹn.
Ca quyết:
Vũ khúc quản tài thọ Vũ khúc ti tài thọ
Thích nhất tài bạch cung Tối hỷ tài bạch cung
Bình, hãm gặp tai ách Bình hãm sân tai ách
Kỵ gặp Sát Kiếp Không Kỵ ngộ Sát Kiếp Không
Phá quân là khắc chế Phá quân nãi kỳ chế
Liêm trinh hỏa hình xung Liêm trinh hỏa tắc xung
Gặp Kình Đà có họa Dương Đà đồng độ họa
Gặp Giáp Kỷ không vinh Giáp Kỷ diệc bất vinh
Tại mệnh không gặp sát Thủ mệnh tam vô sát
Đủ đầy chẳng lo toan Y túc thực phong long
Tại cung Thê gặp cát Dữ cát cộng trị thê
Nhờ vợ thành phú ông Nhân phụ thành phú ông
SAO VŨ KHÚC TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Vũ khúc tọa thủ cung mệnh thường có khuôn mặt tròn, dáng người nhỏ vừa, sau tuổi trung niên gân cốt cứng chắc hoặc vai rộng lưng dày, ánh mắt kiên nghị hiền hòa, động tác nhanh nhẹn, giọng cao và vang, dễ làm mọi người chú ý, nét mặt nghiêm nghị, khi không cười nhìn dung mạo uy nghiêm khí sắc hơi lạnh, có tác phong lãnh đạo. Nam giới khỏe mạnh, cơ bắp rắn chắc dẻo dai, thường am hiểu ưa thích các môn thể thao, tràn đầy sức sống; nữ giới thường có dung mạo xuất chúng.
Tính cách cương nghị mà thẳng thắn, sử lý công việc lạnh lùng mà quyết đoán, tuy có khuyết điểm là nóng vội thiếu dung hòa ý kiến với mọi người, nên dễ đi đến độc đoán. Tấm lòng thẳng mà lương thiện nhưng ứng xử với mọi người có phần thiên vị, khi gặp việc không hài lòng đều phản ứng trực tiếp trực diện, do yêu cầu đòi hỏi ở bản thân rất cao, nên thường không chịu khuất phục, không ngại khó khăn trắc trở. Thật thà giữ chữ tín, trọng nghĩa khí, nội tính ham muốn quyền lợi lớn. Sức hoạt động mạnh, nhiệt tình trong công việc mà giầu khả năng thực hiện.
Đối với mệnh nữ, khuyết điểm là tính cách thiên về kiên cường, sau khi kết hôn thích ra ngoài làm việc, khá bảo thủ, tác phong bận rộn và cô độc, thích nắm quyền hành trong nhà, một số việc thường chỉ trích gắt gao quá mức những sai lầm của chồng một cách không cần thiết, như thể không cho phép mắc phải sai lầm nhỏ nào, chủ trương trái ngược với việc "vợ hát chồng phụ họa", vì thế giữa vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn.
Suy đoán mệnh lý
Vũ khúc = 0
Phá quân = 0
Vũ khúc + 3
Thiên phủ + 3
Vũ khúc + 4
Tham lang + 4
Vũ khúc + 2
Thiên tướng + 4
Vũ khúc + 4
Vũ khúc + 1
Thất sát + 3
Vũ khúc + 1
Thất sát + 3
Vũ khúc + 4
Vũ khúc + 2
Thiên tướng + 4
Vũ khúc + 4
Tham lang + 4
Vũ khúc + 3
Thiên phủ + 4
Vũ khúc = 0
Phá quân = 0
Độ sáng của sao Vũ Khúc tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Vũ Khúc.
Mối quan hệ của chúng như sau:
= + 4 => MIẾU
= + 3 => VƯỢNG
= + 2 => ĐỊA
= + 1 => LỢI
= 0 => BÌNH HÒA
= - 1 => KHÔNG ĐẮC ĐỊA
= - 2 => HÃM ĐỊA
Sao Vũ khúc là sao "tiền tài", được ví như mỏ vàng trong các sao của Tử vi Đẩu Số, trời sinh ra đã có tiền bạc, đặc biệt có duyên với tiền, cả đời không dứt khỏi mong muốn và sở thích nỗ lực kiếm tiền, luôn luôn nỗ lực làm việc nhưng cần phải khai quật, rèn luyện hun đúc, sau đó mới phát huy được tính thông suốt, tức là phải có sự nghiệp trước sau đó mới có tiền bạc, thường sau khi sự nghiệp phát triển ở tuổi trung niên thì tiền tài mắt bắt đầu vào như nước.
Sao Vũ khúc là Tướng tinh và cũng là Quả tú tinh, vì vậy thường cô đọc không có sự trợ giúp, hình thế lẻ loi đơn độc, thích tranh đấu, tranh giành thì sẽ có quyền, nhưng càng tranh thì càng cô (độc), vì vậy mới nói: "sao Vũ khúc có quyền mà không có Thế", tay trắng dựng cơ đồ, thường có ý nghĩ thành tích là thuộc về bản thân mình. Tuy nhiên tính cách quyết không chịu nhận thua, những thứ học được thì khá tinh thông, trái lại, ngược với sao Thái dương.
Sao Thiên cơ là nhà hoạch định, sao Vũ khúc là người thực hiện, chủ về người có tài lãnh đạo và ham muốn quyền lực, kỳ vọng cao đối với bản thân, biết đánh biết giữ, biết công biết thủ, biết động biết tĩnh, giầu năng lực chấp hành, nhưng vì lúc nào cũng trong tình trạng muốn tranh đấu, nên đôi lúc nổi hứng có những phương pháp mới kỳ lạ. Những phương pháp này mặc dù là những kế hoạch không có tính toàn diện, nhưng thường dựa vào khả năng thực hiện quyết đoán, nên khi thực thi cũng có bài bản hẳn hoi. Vì vậy, những người mà mệnh có sao Vũ khúc, thì khá phù hợp tới những việc có liên quan đến "vàng", thiên về những ngành liên quan đến tiền tệ, như ngân hàng, Cty chứng khoán, hoặc nhân viên thực thi pháp luật trong quân đội, cảnh sát, hoặc kế hoạch cố định theo ngành xây dựng. Mệnh nữ thì nên kinh doanh ngành ẩm thực, đá quý, hay theo ngành công giáo. Sao Vũ khúc miếu vượng thủ mệnh, tam phương tứ chính có cát tinh hội chiếu xung quanh chủ về người phụ nữ phú quý giầu sang.
Sao Vũ khúc cương nghị quyết đoán, ngoài ra còn là sao Quả tú, làm cho mô hình con người nặng về lý trí và sinh ra tác dụng khích lệ. Mặc dù có lợi cho sự bứt phá đối với sự nghiệp, đạt nhiều thành tích, hơn nữa lại là tài tinh tượng trưng cho mỏ vàng, là cát tinh nhưng lại có sức phá hoại đời sống hôn nhân, mà hôn nhân là một nửa của người đàn ông, thì nó lại là toàn bộ của người phụ nữ. Đối với nữ giới mà nói, hôn nhân thất bại là điều đáng tiếc lớn nhất trong cuộc đời. Vì thế cổ nhân có câu "Sao Vũ khúc tọa mệnh, nên là nam không nên là nữ". Nếu sao Vũ khúc rơi vào thế hãm, gặp Xương Khúc lại gặp thêm Sát tinh, thì sẽ nhiều trắc trở, cô độc.
Ảnh hưởng của sao Vũ khúc đối với hôn nhân: hoặc kết hôn muộn, hoặc tình cảm vợ chồng sứt mẻ, hoặc thường phải xa cách, nếu không sẽ sinh ly tử biệt. Tất cả những nội dung này, đều nhìn vào vị trí cung mà sao Vũ khúc tọa mệnh, và cát hung của sao hội chiếu là có thể xác định được. Tuy nhiên, bất luận là tọa ở cung nào mà gặp sao Hóa Kị và Hỏa tinh, thì đều không tốt cho hôn nhân.
Mệnh nữ mà có sao Vũ khúc tọa thủ cung Mệnh, cổ nhân có câu "Vợ đoạt quyền chồng", đó là vì Vũ khúc cương nghị quyết đoán, thích tranh đoạt. Nếu không ra ngoài làm việc mà chỉ ở nhà nội trợ, thì khó mà tránh được chiếm đoạt mất quyền lực của chồng. Tuy nhiên, người phụ nữ của công việc chính là đặc tính của sao Vũ khúc, phát huy thế mạnh trong xã hội và so tài cao thấp với nam giới, không những có thể gặp cát tránh hung, mà còn có thể giúp cho sự nghiệp khởi sắc. Vì thế mệnh nữ mà có sao Vũ khúc thủ mệnh, thì tốt nhất nên là người phụ nữ của công việc.
Người mà có sao Vũ khúc tọa thủ cung Mệnh, không cho phép bản thân nhàn rỗi, tích cực và sáng tạo trong công việc, phát triển và nỗ lực không ngừng, tràn đầy sức sống, đồng thời còn có cơ hội làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp với các ngành: tài chính kinh tế, công nghiệp, công nghiệp nhẹ, nguồn khoáng sản,... chăm chỉ làm việc, việc gì cũng nên suy sét kỹ và chừa sẵn đường lui, phát huy khả năng chờ đợi và tính nhẫn nại, chịu khó kiên trì để phát triển những tiềm năng của bản thân.
Sao Vũ khúc đặc biệt nhạy cảm với sao Tứ Hóa, khi Vũ khúc hóa Lộc thì có thể tăng thêm nguồn tiền bạc và cơ hội kiếm tiền, buôn bán phát tài. Sao Vũ khúc hóa Quyền thì có năng lực đảm đương một mặt, nên phát triển theo hướng làm quan võ. Sao Vũ khúc hóa Khoa lại có khả năng văn nghệ, có lợi cho sự phát triển nghiên cứu, đạt tới mục đích công thành danh toại. Sao Vũ khúc hóa Kị dễ dẫn tới hiện tượng "gián đoạn giữa chừng", việc gì cũng khó khăn chồng chất, phần nhiều là không thuận lợi, thiếu đường đi để có thể tiến hay thoái.
Sao Vũ khúc ưa thích đồng độ hoặc được 6 cát tinh vây chiếu, có thể tăng thêm khí thế cho Vũ khúc và phát huy trọn vẹn ưu điểm của Vũ khúc. Vũ khúc cũng thích gặp Lộc tồn để tăng thêm nguồn tiền bạc, gặp tam hóa Lộc Quyền Khoa để tăng thêm phần rạng rỡ của mình.
Vũ khúc gặp một trong ba sao Thất sát, Phá quân, tham lang đồng cung hoặc hội chiếu với Tứ hóa, vì "Sát Phá Lang" là then chốt cho những thay đổi lớn của cuộc đời mà sao Vũ khúc can thiệp vào trong đó, lại thêm sự nhạy cảm của Vũ khúc đối với nhóm Tứ hóa, thì sức mạnh đặc biệt được phát ra quả thực không được xem nhẹ.
Sao Vũ khúc - Lục Bân Triệu
Sao Vũ khúc trong thuyết ngũ hành thuộc âm kim, ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, hóa làm tài, là chủ tinh của cung Tài bạch. Ở trong mệnh người ta có thể phát có thể bại. Sao Vũ Khúc rất kị gặp sao Hóa Kị (năm Nhâm), gặp thì sự nghiệp thất bại. Gặp Sát tinh, thì điên đầu nát óc không thể dàn xếp được. Mừng nhất là gặp sao Hóa Lộc, nguồn tiền tài cuồn cuộn tới, sự nghiệp phát triển, uy danh lẫy lừng.
Vũ Khúc ở Thìn hoặc Tuất, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, lại gặp tam hóa Khoa Quyền Lộc vây chiếu, là tối thượng cách. Vũ Khúc ở Tị hoặc Hợi thì bình thường, có kỹ năng chuyên môn. Nếu gặp Kình Đà Hỏa Linh là công việc về kỹ thuật. Vũ khúc thủ mệnh ở Mão là lạc hãm. Còn Tham lang ở Hợi, có Lộc tồn xung chiếu, hoặc đồng độ với sao Thiên mã và các phụ tinh cát diệu khác, chủ về thân thể béo mập, làm việc có khí phách, can đảm, có tác phong, đây là tượng Anh hùng mạt lộ gặp được quý nhân. Nếu có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, Thiên hình, là quân nhân võ sỹ, hoặc là đồ tể giết heo giết bò.
Sao Vũ khúc - Vương Đình Chi
Sao Vũ khúc miếu ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, hãm ở Mão.
Vũ Khúc là sao thứ sáu của Bắc Đẩu, thuộc âm kim, hóa khí làm "tài" (tiền tài).
Về tính cách, Vũ khúc chủ về quyết đoán mau lẹ, khuyết điểm của Vũ khúc là suy nghĩ nông cạn. Người có Vũ khúc thủ mệnh có thể phát nhanh mà cũng có thể bại nhanh.
Vũ khúc tính cương, vì vậy không nên có thêm Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, nếu gặp Hỏa Linh ắt dễ vì xung động nhất thời mà xảy ra tai ách, khi hóa giải tai nạn sẽ phải trả giá rất đắt.
Do tính cương, Vũ khúc cũng không nên gặp các sao Văn (Văn xương, Văn khúc, Hóa Khoa), nếu không sẽ chủ về do dự thiếu quyết đoán, nhưng bề ngoài thì giống như rất có chủ kiến, dẫn đến xử sự tiến thoái không hợp lý, giống như người có văn tài mà làm công việc quản lí về quân sự, đương nhiên không thích hợp.
Trong Đẩu Số, sao Vũ khúc tuy không phải là chiến tướng giống như Thất sát và Phá quân giong ruỗi nơi sa trường, nhưng xét ở góc độ tính cương thì cũng được liệt vào hàng quan võ. Cho nên, nói chung cũng có chút tính cô độc và hình khắc, không nhu hòa như các sao văn. Võ cương Văn nhu là đặc tính cơ bản.
Vũ khúc không ưa Hóa Kị, nếu hóa Kị sẽ chủ sự nghiệp thất bại, tiền tài hao tán, gặp sát tinh thì nên bình tĩnh nhẫn nại, nếu cố bạo động ắt sẽ sụp đổ. Nhưng Vũ khúc lại ưa Hóa Lộc, chủ về nguồn tiền tài không bị đứt đoạn, nếu lại gặp thêm Lộc tồn, Thiên mã thì chủ về phát tài lộc ở nơi xa hoặc ở tha hương.
Do tính cương, cô độc và hình khắc, nên Vũ khúc cũng gặp trở ngại về hôn nhân, chủ về gặp bất lợi nên kết hôn muộn hoặc sinh ly tử biệt. Nhẹ thì vợ chồng gần nhau thì ít, xa nhau thì nhiều, hoặc vợ chồng không hòa thuận, nặng thì phu thê ly tán. Nếu gặp Hóa Kị, Hỏa tinh, Cô thần, Quả tú thì phải xem tới sao hung là nhiều hay ít, kết hợp với Vũ khúc ở cung vị nào, để phán đoán mức độ hôn nhân bất lợi.
Nữ mệnh Vũ khúc, chủ về vợ đoạt quyền chồng, nhưng cũng chủ về người có khí khái của bậc trượng phu. Nếu có những sao Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa hội chiếu sẽ là người phụ nữ tài giỏi, gặp thêm tam hóa Khoa, Quyền, Lộc và Thiên hình hội chiếu, thì quyền hành bổng lộc danh tiếng đều lớn, ắt là người có địa vị cao trong xã hội, nhưng bất lợi về hôn nhân. Nữ mệnh mà Vũ khúc rơi vào hãm địa, gặp tứ sát thì chủ về hình khắc cô độc, gặp thêm Hóa Kị thì có nguy cơ hung vong.
Bất kể nam hay nữ, Vũ khúc thủ mệnh, có Thiên khôi, Thiên việt mà không gặp Lục sát xung hội hoặc đồng độ, đều chủ về có thể nắm đại quyền về kinh tế, nên làm việc trong giới làm ăn kinh doanh.
Sao Thiên TướngSao Thiên tướng - Lục Bân Triệu
Sao Thiên tướng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy, ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm ấn tinh (sao ấn). Bản thân ấn có thể thiện mà cũng có thể ác. Thiện hay Ác là do người cầm ấn đi theo về bên nào. Ví như cái ấn trên pháp đường, có thể khiến cho người ta thăng quan phát tài, cốt nhục đoàn tụ, mà cũng có thể khiến cho người ta phải chịu hình phạt, gia phá nhà tan. Thiện ác khác nhau là do người cầm ấn dùng nó mà phân biệt.
Nói về sao Thiên tướng, ý nghĩa của sao Thiên tướng đúng là ý tứ "tương trợ", là địa vị tể tướng hoặc quân sư. Nghĩa vụ duy nhất của một vị tể tướng hoặc quân sư, là trung thành với chủ nhân, vì chủ nhân của mình mà tham mưu, lấy sự lợi hại của chủ nhân để tính toán mưu sự. Cho nên, chủ nhân thiện thì giúp cho chủ nhân làm thiện, chủ nhân ác thì giúp cho chủ nhân làm ác.
Do đó, tác phong của sao Thiên tướng là gặp tốt đẹp thì càng thêm tốt đẹp, gặp hung ác thì càng hung ác. Nó ở trong mệnh bàn 12 cung, chúng ta sẽ vô phương chỉ định nó, rốt cuộc, là sao cát tường hay là sao ác sát hay là sao hung. Nó là thiện hay là ác, đó là tùy theo các tinh diệu khác mà nó gặp, hoặc vây chiếu, và hoàn cảnh toàn thể mà thay đổi.
Cho nên, sao Thiên tướng đến Mệnh cung hay Thân cung, tả hữu có sao Hóa Lộc và sao Thiên lương giáp cung phù trì, sẽ là cách "Tài ấm giáp ấn", chủ về phú quý vinh hoa, hưởng thụ vui vẻ. Sao Thiên tướng hãm ở mệnh cung hoặc Thân cung, có sao Hóa Kị và sao Kình dương giáp cung, gọi là cách "Hình kị giáp ấn", chủ về người gặp phải tai họa lao ngục, kèm có sự tình "hình khắc thương tổn" phát sinh.
1. Thiên tướng ở cung Mệnh viên
Sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh trắng hoặc hơi kèm sắc vàng. Khuôn mặt hình vuông hoặc kèm hơi tròn. Dáng vóc người trung bình, cũng có người béo mập.
Tính tình khoan hậu, thái độ rộng rãi, động tác ổn trọng, có lòng chính nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình có thể rút đao tương trợ. Sùng thượng tín ngưỡng tôn giáo, thích tu hành, tình cảm dễ xung động. Đối với bất cứ ai gặp cảnh ngộ khó khăn, hay không lành, đều sinh lòng cảm thông.Thiên tướng rất ưa các cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, Thiên quý, Ân quang, Thiên đức, Giải thần, Thiên vu hội chiếu. Nếu lại gặp tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, và Lộc tồn, Thiên mã thì chủ về có địa vị cực phẩm, làm tướng lĩnh, cột trụ quốc gia, lãnh đạo trong xã hội, vừa phú vừa quý. Nếu sao Thiên tướng đồng độ với sao Tử vi và Lộc tồn, thì chủ về người có thiên kiến, hoặc có chủ kiến cực mạnh, thích tranh quyền, đồng thời cũng dễ bị tiểu nhân khuynh đảo. Có các sao Vũ khúc, Liêm trinh và Tham lang, Thiên tài, Phượng các hội chiếu, chủ về người thông minh hiếu học, nhiều tài nghệ. Nếu lại có Kình dương, Đà la hội chiếu, ở hãm địa, thì chủ về người lấy kỹ thuật, hay nghệ thuật làm sinh kế. Có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc và Lộc tồn thì lấy kỹ năng chuyên môn hay nghệ thuật để khởi nghiệp. Nếu có các sát tinh ác diệu Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về hình khắc hoặc bản thân tàn tật. Nếu có các tinh diệu Vũ khúc, Phá quân, Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Đà la, Thiên mã, Hóa Lộc vậy chiếu, chủ về người lúc thành lúc bại, chợt lên chợt xuống. Thành công thì tăng thêm nhà cửa ruộng đất, hiếm có trên đời. Thất bại thì tai họa lao ngục, tiểu nhân bao quanh, hình thương khắc hại. Đây là cách "trong cát có hung", "trong hung có cát", chợt tốt chợt xấu thay đổi bất thường.
Người nữ có sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người thông minh, thận trọng, có chí khí trượng phu. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên mã hội chiếu, là mệnh phu nhân, vượng phu ích tử, phú quý song toàn. Nếu có Văn xương, Văn khúc, Hóa Kị, Kình dương hội chiếu, chủ về cô độc, nên xuất gia tu hành, hoặc làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức hôn lễ, nếu không sẽ hình khắc phân ly.
Sao Thiên tướng đến lưu niên, đại hạn, tam phương tứ chính có các Cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, và Lộc tồn, Thiên phủ hội chiếu, chủ về tài lộc dồi dào, quyền cao chức trọng, kết hôn sinh con trai, danh lợi đều có. Nếu có sao Phá quân, Vũ khúc, hoặc Thất sát, Kình dương, Đà la hội chiếu, chủ về "lời qua tiếng lại cãi vã", kiện tụng, tiểu nhân ám hại, khuynh gia phá sản, nếu gặp thêm các Sát tinh Thiên hình, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hư hội chiếu, chủ về hình khắc trùng trùng, hơn nữa bản thân có lúc còn cảm nhận thấy trống rỗng, có ý đồ tự sát. Không có tinh diệu Cát tường hóa giải sẽ chủ về tai họa tử vong.
2. Thiên tướng ở cung Huynh đệ
Sao Thiên tướng đến cung Huynh đệ, thùa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về có năm anh chị em trở lên. Có sao Tử vi đồng độ chủ về có ba anh chị em trở lên, anh em ưa tỏ ra cao cường. Có Vũ khúc hoặc Liêm trinh đồng độ, chủ về có hai anh chị em, chủ về ý kiến không hợp nhau. Có Vũ khúc, Phá quân vây chiếu, thêm Tả phụ, Hữu bật, thì anh em tuy nhiều, song có hình khắc thương tổn, hoặc anh chị em khác mẹ, và có em nhỏ cách xa nhau nhiều tuổi. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, lục thân không nhờ cậy được. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, cũng chủ về cô độc. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn đồng độ, chủ về anh em phát đạt, có địa vị, có tiền tài.
3. Thiên tướng ở cung Thê (Phu)
Sao Thiên tướng đến cung Thê, chủ về được vợ thông minh hiền thục, giỏi chăm lo gia đình, dụng mạo mĩ lệ. Nên lấy vợ lớn tuổi, hoặc thân càng thêm thân. Có Tử vi cùng đến, chủ về vợ có chí cao, có kế hoạch, nên chậm lấy vợ. Có Vũ khúc đồng độ, chủ về có tai nạn thương tổn, hoặc khẩu qua lời lại, ý kiến bất hợp. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về hình khắc phân ly, hoặc trước khi kết hôn đã từng giải trừ hôn ước với người khác, hoặc gặp trở ngại rất nhiều trước khi kết hôn, dây dưa kéo dài mới khỏi hình khắc, nếu không sẽ chủ về hai ba vợ. Có Liêm trinh đồng độ, không hình khắc, thêm Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, là có kết quả hôn nhân mĩ mãn, hoặc nhờ vợ mà được tiền tài. Có Hóa Quyền, Hóa Khoa, Văn xương, Văn khúc, Thiên tài hội chiếu, chủ về "lời qua tiếng lại", bất hòa, hoặc nhiều bệnh nhiều lo. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về hình khắc phân ly cô độc.
4. Thiên tướng ở cung Tử nữ
Sao Thiên tướng đến cung Tử nữ, được tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, và sao Thiên phủ hội chiếu, chủ về có năm con trở lên. Có Tử vi đồng độ, chủ về con chí cao và tính khí quật cường, ba con trở lên. Có Liêm trinh đồng độ thì hai con. Có Vũ khúc đồng độ cũng hai con. Khi Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về hình khắc, nên chậm có con thì tốt hơn. Con trưởng hoặc thai đầu bị sinh non, hỏng thai hoặc tổn thương, nên có con gái trước con trai sau, hoặc cho làm con thừa tự của gia đình khác trước, nếu không đều là vợ kế, vợ lẻ sinh con. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, nếu đồng thời có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về hai ba thai trước có tổn thương, nên để vợ kế, vợ lẻ sinh con, nhưng thai đầu tiên của vợ kế, vợ lẻ vẫn xảy ra tình trạng bị tổn thương hoặc sinh non.
5. Thiên tướng ở cung Tài bạch
Sao Thiên tướng đến cung Tài bạch, thừa vượng hoặc nhập miếu, gặp sao Thiên phủ, có Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội chiếu, chủ về nguồn tiền tài dư dật, giữ gìn được. Đồng độ với sao Liêm trinh, theo thương nghiệp thì đúng với sở trường, tất nhiên có thể phát. Có Tử vi đồng độ, chủ về có tiền của bất ngờ, nhờ vậy mà đột nhiên giầu có. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về nhờ kỹ năng chuyên môn, hoặc nghệ thuật mà được tài lợi. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về tiền tài lúc được lúc mất, lúc thành lúc bại, hoặc phá gia bại sản của tổ tiên trước rồi sau mới có thành tựu. Gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về tài đến tài đi, hoặc giờ Dần ăn giờ Mão đong, ít có dành dụm. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về vì tiền tài mà gây tranh chấp, khuynh gia phá sản, hoặc dẫn đến tai họa lao ngục. Không có cát hóa chủ về nguy hiểm đến sinh mạng.
6. Thiên tướng ở cung Tật bệnh
Sao Thiên tướng đến cung Tật bệnh, có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về phá tướng hoặc trên mặt có sẹo. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về tức ngực khí trướng, da bị nhọt do thấp khí. Đồng độ với Liêm trinh, chủ về bị bệnh tiểu đường, bàng quang, hoặc sỏi thận. Nếu lại có Hồng loan, Hàm trì hội chiếu, chủ về bị bệnh giang mai, hoặc thủ dâm, di tinh. Cùng gặp các sao Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, chủ về thân thể hư nhược suy tổn, con cái bị bệnh về kinh Tỳ. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, chủ về các chứng phong thấp, đau xương, hoặc phải động tới phẫu thuật, và chủ về tim loạn nhịp hoặc Tâm tạng suy ngược, chân tay vô lực cử động bất tiện. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên nguyệt hội chiếu, chủ về cảm mạo nôn mửa, hoặc chứng thấp nhọt ngoài da.
7. Thiên tướng ở cung Thiên di
Sao Thiên tướng đến cung Thiên di, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và các sao Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về có quý nhân dìu dắt, có cơ hội đặc biệt, được nhiều người ủng hộ, địa vị đã cao mà còn có thể đại phát, chủ về được người ngoại quốc xem trọng. Đồng độ cung sao Tử vi, chủ về địa vị cao, được người kinh trọng ngưỡng mộ. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về bên ngoài được tiền tài bất ngờ, hoặc danh lợi đều có. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về tính tình cương nghị, ra ngoài có thành có bại, thiếu duyên với người. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Kiếp sát hội chiếu, chủ về ra ngoài bị phá hao, một đời nhiều sóng gió, trắc trở. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về ra ngoài cô độc, ít được người giúp, hoặc dễ gặp tai họa, hay bị tiểu nhân hãm hại.
8. Thiên tướng ở cung Giao hữu
Sao Thiên tướng đến cung Giao hữu, hội chiếu tam cát hóa Khoa Quyền Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, chủ về giao du rộng, hơn nữa còn có nhiều trợ lực, hoặc nhờ có bạn bè mà nên nhà nên cửa, và được thủ hạ trung thành. Đồng độ với Tử vi, chủ về được loại bạn đáng nể hoặc có lòng chính nghĩa. Đồng độ với Vũ khúc, chủ về quan hệ với loại người bất nghĩa mà nhiều tranh giành. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về chơi bời quan hệ với nhóm người làm ơn mắc oán, hoặc vì bạn bè mà phá tài. Có Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về bạn bè "có cũng như không", nhiều phá hao, hoặc bị chịu lỗi, bị mang tiếng, bị vạ lây thay cho bạn. Có Kình Đà Hỏa Linh và Thiên hình hội chiếu, chủ về giao du phần nhiều toàn ăn hại, nhiều tranh giành bất hòa, hoặc bị thủ hạ trộm cắp hoặc hãm hại.
9. Thiên tướng ở cung Sự nghiệp
Sao Thiên tướng đến cung Sự nghiệp, thừa vượng nhập miếu, có tam cát hóa Quyền, Lộc, Khoa, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, chủ về là người nhân vật quan trọng của quốc gia, người nổi tiếng trong xã hội, thương gia cự phách trong giới kinh doanh, đã phú còn quý, vừa văn vừa võ. Tam phương tứ chính mà không có Sát diệu, thì đều là người mưu tính phát triển ở trên vũ đài chính trị. Đồng độ với sao Tử vi, chủ về người tiến thân trong chính giới. Đồng độ cùng sao Vũ khúc, chủ về lập công ở biên cương. Đồng độ cùng sao Liêm trinh, chủ về người tham dự việc binh, rong ruổi trên chiến trường. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về có thành có bại, lúc được lúc mất. Có Không Kiếp hội chiếu, thì nên khởi nghiệp từ kỹ năng nghệ thuật, hoặc sáng lập công xưởng sản xuất, nếu không sẽ chủ về thất bại phá hao, đầu cơ thì khuynh gia bại sản. Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về sự nghiệp nhiều tranh chấp rắc rối, nhiều thay đổi, trong thuận lợi sẽ gặp nhiều nghịch cảnh, hơn nữa còn chủ về quan tai thị phi. Trong chính giới, hay giới quân sự, có thể đột nhiên bị bãi chức, cách chức, ở trong thương giới đột nhiên bị tình huống phá sản, hay bị kiện tụng điên đảo.
10. Thiên tướng ở cung Điền trạch
Sao Thiên tướng đến cung Điền trạch, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc hội chiếu, hoặc có Lộc tồn đồng độ, chủ về sản nghiệp to lớn. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về trung niên tăng thêm ruộng đất, nhà cửa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về gia tài bị phá hao. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về gia sản của Tổ tiên dần dần bị lụn bại. Có sao Hóa Kị chủ về gia trạch không yên ổn, nhiều bệnh tật, nhiều tai họa, nhiều "lời qua tiếng lại". Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về gia nghiệp phá tán (gia rồi đến nghiệp, nên nói gia nghiệp), hoặc vì sản nghiệp gây ra tai họa, tranh chấp, thị phi, kiện tụng.
11. Thiên tướng ở cung Phúc đức
Sao Thiên tướng đến cung Phúc đức, luôn có sao Thiên phủ hội chiếu, và gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật ở tam phương tứ chính, chủ về hưởng thụ hạnh phúc, phú quý trường thọ. Gặp sao Hóa Kị chủ về nhiều tư lự, tinh thần bất an. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về bôn ba, tinh thần mệt mỏi. Có Không Kiếp đồng độ, chủ về nhiều ảo tưởng mà ít thực hiện, phúc bạc. Có tứ Sát hội chiếu thì vô phúc, không ổn định, nhiều việc không thể đạt tới mục đích, nhiều rắc rối.
12. Thiên tướng ở cung Phụ mẫu
Sao Thiên tướng đến cung Phụ mẫu, thừa vượng hoặc nhập miếu, chủ về không có hình khắc. Có Vũ khúc đồng độ chủ về có hình khắc. Có sao Hóa Kị thì nhiều bệnh tật, nhiều tai họa. Có Liêm trinh đồng độ cũng chủ về có hình khắc. Đồng độ với tứ Sát hoặc tứ Sát hội chiếu, chủ về thủa nhỏ bị hình khắc. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Giải thần, Thiên đức, Thiên vu thì không có hình khắc.
Sao Thiên PhủThiên phủ tinh - Toàn thư
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên phủ là dương thổ, là ngôi sao thứ nhất trong chòm Nam Đẩu. Tại Đẩu chưởng quản phúc và quyền, tại Số nắm giữ tài và lộc, hóa khí là lệnh, tức là nền tảng của phú và quý, còn gọi là lộc khố, có khả năng giải trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ. Lộc khố của sao Thiên phủ chủ về tiền tài có được từ quan tước, bổng lộc, mà không phải tiền tài có được do tích lũy, nên không thích hợp theo sự nghiệp kinh doanh, chỉ được lợi khi đường sự nghiệp có được sự định hướng theo một thể chế ổn định.
Sao Thiên phủ là kho chứa của trời, lại đứng đầu các sao trong chòm Nam Đẩu, gồm đủ chí tuệ và tài năng, thích điều khiển chỉ huy người khác, mà không thích bị người khác quản chế. Có năng lực lãnh đạo, nhưng khá bảo thủ, thiếu sáng tạo thường chỉ biết thuận theo nếp cũ. Có khả năng thích ứng với sự biến đổi của môi trường xung quanh, nhưng có phần thiếu tính độc lập. Chỉ phát triển tuần tự từng bước trong điều kiện ổn định, thường an phận, thiếu xung lực, nên sao này hợp với nữ mệnh hơn.
Đánh giá về tính chất cát hung của sao Thiên phủ, cần phải quan sát trạng thái miếu hãm của sao Thiên tướng, là sao nắm giữ quan ấn, tức là "phùng Phủ khán Tướng", "phùng Tài khán Ấn" (gặp Thiên phủ xem Thiên tướng). Nếu sao Thiên tướng nhập miếu, thì tuy sao Thiên phủ chỉ có độ sáng trung bình cũng là cát lợi. Ngược lại, nếu sao Thiên tướng ở cung bình, cho dù sao Thiên phủ nhập miếu thì cũng không phát huy được khả năng. Qua đó có thể thấy được rằng sao Thiên phủ thiếu tính độc lập.
Sao Thiên phủ có khả năng giải trừ tai ách, có thể biến Kình dương, Đà la thành tùy tùng, có thể biến Hỏa tinh, Linh tinh trở thành phúc. Nếu gặp sao Tử vi, có thể tăng cường khả năng quản lý, khả năng lãnh đạo. Nếu gặp sao Thái dương, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, sẽ có địa vị cao. Nếu gặp các sao Tử vi, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, chủ về phú quý song toàn. Nếu gặp sao Lộc tồn, Vũ khúc, ắt sẽ thành bậc đại phú. Nếu gặp cung Không vong, hoặc bị cung Không vong hội chiếu, dễ trở nên cô độc. Nếu đứng một mình, chủ về có dã tâm rình rập chiếm đoạt. Sao Thiên phủ kỵ bị bốn sát tinh Kình Đà Hỏa Linh xung phá, sẽ tổn hại đến giầu sang. Nếu gặp các sao Địa không, Địa kiếp, thì không nên theo nghề kinh doanh để tránh phí công vô ích. Sao Thiên phủ nằm tại cung Tài bạch và Điền trạch, chủ về tiền của dồi dào, có vận thiên tài (của ngoài luồng), có tài quản lý tiền của. Cung Nô bộc và cung Phụ mẫu là vị trí gặp hãm, vô dụng. Cung Huynh đệ là cung vị bình thường.
Sao Tử vi và sao Thiên phủ cùng trấn mệnh tại Dần, Thân, hoặc nằm tại Tị, Hợi (cung Sinh) hội chiếu cung Mệnh, là cách "Tử Phủ đồng cung", chủ về một đời giầu có.
Sao Tử vi, hoặc sao Thiên phủ miếu vượng, đóng tại cung mệnh, cung vị tam phương tứ chính có cát tinh hội chiếu, là cách "Tử Phủ triều viên", chủ về bổng lộc cực hậu.
Sao Thiên phủ trấn mệnh tại Tuất, Thìn, không bị sát tinh xung phá, là cách "Thiên phủ triều viên", cũng là mệnh giầu sang phú quý.
Sao Thiên phủ (hoặc Thiên tướng) trấn tại cung mệnh, sao Thiên tướng (hoặc Thiên phủ) nằm tại cung Tài bạch hội chiếu, không bị sát tinh xung phá, là cách "Phủ Tướng triều viên", chủ về phú quý song toàn.
Sao Thiên phủ trấn mệnh tại cung Sửu, Mùi, nhập miếu, lại có Thái âm và Thái dương kèm hai bên, là cách "Nhật Nguyệt giáp mệnh" chủ về một đời giầu có.
SAO THIÊN PHỦ TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Thiên phủ ở cung Mệnh, nữ có thân hình đày đặn, nam trức tuổi trung niên có thân hình vừa phải, sau trung niên thì thân hình to béo, bụng phệ. Mặt vuông, hồng hào, răng trắng, thần mắt hoạt bát, tướng mạo thành tú, tinh thần dồi dào.
Tính tình ôn hòa, nhanh nhẹn thanh tú, khí chất tao nhã, lãng mạn đa tình, có năng lực học, học rộng biết nhiều, nhân duyên tiết hạnh.
Bảo thủ cẩn trọng, an phận thủ thường, tính tình lạc quan nhưng tính sáng tạo ít, giữ được tâm trạng bình tĩnh khi gặp nguy hiểm, thích ứng trong mọi hoàn cảnh, coi trọng thực tế, quý trọng tiền tài, coi trọng danh lợi, tự tin, tự phụ khi trẻ, lớn dần thì tính tự phụ sẽ bớt đi, sống hiện thực nhưng thiếu nhẫn nại, thích sỹ diện, thích phóng đại, thích phô trương.
Bên ngoài thì nhu bên trong thì cương, ngôn ngữ thân thiện, thích giúp đỡ người khác, tham vọng về quyền lực, không thích bị người khác quản thúc, thích mắng người khác, cao ngạo có chút ích kỷ. Thích ứng rất tốt với sự thay đổi của môi trường, mức độ yêu thích sự vật tăng tiến dần, thích tiến bộ một cách ổn định, giỏi sử lý các sự việc phức tạp, tuy nhiên thiếu nhiệt huyết nên thiếu nhẫn nại. Thường khi việc chưa đến thì lên kế hoạch chi tiết nhưng khi việc đến thì lại không làm như vậy. Cả đời chìm đắm vào hoan lạc, tửu thực, sau trung niên dễ phát phì, nên đề phòng bệnh tim, cao huyết áp, nên vận động vừa phải.
Mệnh nữ thông minh xinh đẹp, thanh tú, thanh tao. khéo léo, có lý trí, thích ăn diện, có quan điểm thẩm mỹ đặc biệt, thích chăm sóc gia đình thích bố trí nhà cửa, phần lớn không thích thay đổi, không thích biến động, tốt cho chồng, con.
Suy đoán mệnh lý
Thiên phủ + 2
Thiên phủ + 3
Vũ khúc + 3
Thiên phủ + 4
Thiên phủ + 2
Tử vi + 3
Thiên phủ + 4
Liêm trinh + 1
Thiên phủ +
Thiên phủ + 2
Thiên phủ + 4
Liêm trinh + 1
Thiên phủ + 4
Tử vi + 3
Thiên phủ + 4
Thiên phủ + 4
Vũ khúc + 3
Thiên phủ + 2
Độ sáng của sao Thiên phủ tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên phủ. Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Thiên phủ là tài khố ở trên trời, chủ về Tài bạch và Điền trạch, đứng đầu các sao thuộc chòm Nam Đẩu, như sao Tử vi đứng đầu Bắc Đẩu, đều là sao mang tính thủ lĩnh. Nhưng sao Tử vi lại là vua của tất cả các vua, truyền lệnh cho tất cả các sao, còn sao Thiên phủ giống như quân vương trấn giữ biên cương, chỉ quản lý 7 sao, gồm Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân, tính chất và ý nghĩa của Tử vi và Thiên phủ đều không giống nhau.
Sao Thiên phủ tuy có năng lực lãnh đạo nhưng thường phiến diện, trách nhiệm và áp lực không lớn, cũng thoải mái dễ chịu hơn, có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh mà không bị bó buộc, ít sáng tạo lại không độc lập tự chủ như sao Tử vi. Khi Thiên phủ đơn thủ một mình, thì không có tư tưởng và hành vi độc lập như sao Tử vi, ngược lại, vì là chủ của Tài Khố nên nhiều ham muốn.
Sao Thiên phủ sở dĩ không mang tính độc lập như sao Tử vi, là do sao Thiên phủ là chủ của Tài Khố, sao Thiên tướng là quan giữ Ấn, cả hai sao này đều là phò tá của sao Tử vi, trong mệnh bàn thì dựa vào mức độ miếu - hãm của sao Thiên tướng để phán đoán cát - hung của hệ sao Thiên phủ, đây là "Gặp Thiên phủ thì xem Thiên tướng", "Gặp Tài xem Ấn". Nếu sao Thiên tướng là thế miếu, vượng, thì sao Thiên phủ tuy là thế bình nhưng cũng vẫn là cát lợi. Ngược lại, nếu sao Thiên tướng là thế bình, sao Thiên phủ tuy là thế miếu, vượng, thì vẫn thiếu năng lực thực tế.
Tuy Thiên phủ là Tài Khố, thuộc về của cải từ bổng lộc mà không phải của cải do tích lũy, hơn nữa với bản tính bảo thủ cẩn thận, thiếu tinh thần mạo hiểm đột phá, lại hay suy nghĩ nhiều, do đó không thích hợp theo con đường kinh doanh. Sao Thiên phủ cũng chủ vê quan tước, thích hợp với nơi công bộc cửa quan. Là mệnh nữ thì thích ổn định, nếu gặp Tử vi ở tam phương tứ chính là mệnh nữ phú quý.
Sao Thiên phủ và sao Thiên tướng luôn hội chiếu ở tại tam phương, là hai sao ổn định nhất trong Tử Vi Đẩu Số. Sao Thiên phủ có bản tính bảo thủ, yên ổn, cẩn trọng, tự tin, bình tĩnh khi gặp nguy, lại cai quản tài khố, đóng vai trò "thủ", "định" trong mệnh bàn, đặc sắc này làm cho người có sao Thiên phủ tọa ở cung Mệnh phần lớn có hiện tượng sau đây:
1. Cá tính bảo thủ, chuyên tâm, biết khiêm nhường, khả năng thích ứng tốt, cẩn thận trong công việc, làm việc tiến thủ, không lùi bước, không dễ thay đổi công việc, không chủ động xen vào việc riêng của người khác, cũng không chủ động tham gia vào các quan hệ xã giao ngoài công việc.
2. Có thực lực, cả đời nỗ lực làm việc, ít chủ động sáng tạo tương lai, phần lớn do sự thay đổi hoàn cảnh mà phát triển theo, tuần tự phát triển, ổn định thăng tiến.
3. Đối nhân xử thế theo nguyên tắc nhất định, ăn nói cẩn thận, mọi việc đều làm theo tuần tự, cẩn thận. Nếu hoàn cảnh vượt quá phạm vi của mình, thường dùng sách lược "thủ" (thủ thân), do đó cả đời rất ít khi có sóng gió hay họa hoạn lớn, do cẩn trọng nên coi trọng tình cảm, luôn luôn mong muốn duy trì tình thân, tình yêu, tình bạn lâu bền.
4. Biết tích lũy nhưng không tính toán, thường tự nhiên tích trữ được tài khố.
5. thường làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp, là những công việc phải trông giữ, hoặc bảo tồn, những công việc có tính quản lý. Sự mở đầu, sáng tạo, phấn đấu và biến hóa mà Sát - Phá - Tham mang lại cho cuộc đời, có thể nhờ nó để chuyển biến vận mệnh, nhưng phải biết tăng lực dốc sức và nghỉ ngơi đúng chế độ để tái hồi, bảo tồn, dưỡng sức là điều bất kỳ ai đều cần.
Sao Thiên phủ vốn có tính ổn định, nó có vai trò "định" (ổn định) tinh thần trong mệnh bàn, không chịu sự chi phối của thế giới bên ngoài, nghỉ ngơi vừa phải, động não thích hợp để có nhiều kế hoạch và tư duy hơn. Sao Thiên tướng luôn ở thế tam phương hội chiếu với Thiên phủ, để hoàn thành sứ mệnh ở vai trò "cân bằng", giúp mức độ ổn định được gia tăng.
Sao Thiên phủ chủ về tài lộc, ruộng vườn, có sự ảnh hưởng tới mức độ tốt xấu của môi trường sống. Khi Thiên phủ nhập đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên sẽ có cơ hội tăng thêm tài sản hoặc tài phú.
Hai sao Thiên phủ và Thiên tướng đều có cơ hội đồng cung với ba sao Tử vi, Vũ khúc, Liêm trinh, sự "ổn định" và "cân bằng" của Thiên phủ và Thiên tướng có tác dụng cân bằng cảm xúc, làm giảm áp lực của sao Tử vi tôn quý, sao Vũ khúc không ngừng sáng tạo, và sao Liêm trinh bị giam hãm làm cho khuyết điểm của chúng không bị lộ ra.
Sao Thiên phủ có tính chất "thủ" (giữ), "ổn định", "tài khố", làm cho người có sao Thiên phủ tọa mệnh cả đời ổn định, ít sóng gió, tự làm tự ăn, trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều có thể thích ứng với mọi công việc. Chỉ cần không làm cho tính chất "thủ" của sao Thiên phủ biến thành chỉ biết có mình, mà có tinh thần tích cực đoàn kết, san sẽ lẫn nhau, mang đặc tính "tự túc" của bản thân mở rộng ra đại gia đình, mở rộng ra đoàn thể và xã hội, mà vẫn giữ bản tính cẩn thận, nỗ lực hướng tới mục tiêu, thêm nữa khi tránh được tính độc đoán, thì có thể mang lại thành công trong lĩnh vực kinh tế tài chính, giao thông vận chuyển, du lịch.
Sao Thiên phủ thích đồng cung với Lộc tồn, Vũ khúc, chủ về sung túc. Sao Thiên phủ hội hợp với sao Thái dương, Văn xương, Văn khúc chủ về hiển quý. Sao Thiên phủ thích đồng cung với lục Cát tinh để có được cơ hội thành công lớn, đặc biệt thích Tả phụ, Hữu bật giáp mệnh, thì có thể từ từ phát triển từng bước lên cao.
Sao Thiên phủ kỵ gặp Không vong sẽ có hiện tượng cô lập. Sao tài Thiên phủ rất hiếm độc tọa, dễ dẫn đến ham muốn, nếu gặp lục Sát tinh như Kình dương, Đà là, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, thì chủ về không còn tự biết giữ mình nữa, mà chuyển sang tính đầu cơ, từ đó dễ gặp bất lợi. Thiên phủ gặp Địa không và Địa kiếp không nên kinh doanh để tránh tiền tài đến rồi lại đi, cuối cùng chỉ là tay trắng.
Sao Thiên phủ - Lục Bân Triệu
Sao Thiên phủ trong thuyết ngũ hành thuộc dương thổ, ở trên trời là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, là phủ là kho của tiền tài. Đồng độ với sao Tử vi, nếu được Tả phụ, Hữu bật, Thiên tướng, Vũ khúc, Van xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì gọi là quân thần tương hội, chủ về đại phú đại quý.
Thiên phủ ở Tuất là thượng cách, có cát diệu phụ tinh phù trì là bậc nguyên thủ trong quân đội, lãnh đạo, trưởng quan các bộ môn. Trong thương nghiệp thường chủ về người đứng đầu sáng lập sự nghiệp, người có danh tiếng trong giới thương mại.
Trong phương diện kỹ thuật hoặc nghệ thuật, cũng chủ về người có kiến thức đặc biệt, giỏi phát minh, có sở trường đặc biệt hơn hẳn người ta, một đời lừng danh.
Nhưng cần chú ý, phải có Tả phụ Hữu bật và cát tinh phù trợ; hoặc Thiên khôi, Thiên việt giáp cung mệnh, mới là thượng cách.
Ở Tị và Hợi, thì Tử vi và Thiên phủ đối diện nhau, có cát tinh phù trợ hoặc đồng độ, là đại phú đại quý hay đại thọ, hoặc đột nhiên được quý nhân đề bạt, nhẹ bước trên con đường sự nghiệp
Ở Dần và Thân, không có cát tinh trợ lực, là người sống lý tưởng thanh cao hoặc là bậc thầy của nhiều người, hoặc sống bằng nghề dạy học.
Thiên phủ an mệnh ở Thìn hoặc Tuất, hội chiếu sao Tả phụ không bằng đồng độ, là cách cục đặc biệt, vừa phú vừa quý, nhưng phải gặp được Lộc tồn mới đúng cách. Bởi vì thiên phủ nhập mệnh ở Tuất, thì Tử vị ở Ngọ miếu địa, mà Thái dương cũng sẽ ở trên cung mặt trời mọc ở phương Đông, còn Thái âm sẽ đến cung vị trăng sáng ở cửa trời, nếu có thể được cát tinh phụ diệu đồng độ, mà không bị sát diệu xung phá, đương nhiên không phải mệnh khanh hầu thì cũng là mệnh danh tài tướng soái. Có sát diệu xung phá, cũng chủ về tay cự phách trong giới thương nghiệp, gặp Địa không, Địa kiếp thì chủ về thành tựu từ lý tưởng hư ảo.
Sao Thiên phủ - Vương Đình Chi
Thiên Phủ miếu ở Tý, Sửu, Dần, Thìn, Mùi, Tuất.
Thiên phủ Hãm ở Dậu.
Thiên phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, thuộc dương thổ, chủ về hiền năng, là tiền bạc của kho phủ.
Do là chủ tinh, nên Thiên phủ cũng có năng lực lãnh đạo, nhưng tài lãnh đạo này lại theo khuynh hướng thủ thành, thiếu tính khai sáng. Đây giống như người giữ kho bạc, chức trách là "quản lý tài chính", "bảo vệ tài chính",..., mà không có chức năng "kiếm tiền", cho nên tính lý ở đây đòi hỏi và yêu cầu về sự cẩn thận rất cao, khi làm việc thường có biểu hiện tỉ mỉ, mà không được rộng rãi như Tử vi, cũng không phóng khoáng như Thái dương. Cũng là chủ tinh trong 14 chính tinh, nhưng có sự phân biệt, cần chú ý.
Vì vậy, người Thiên phủ thủ mệnh, chỉ thích hợp phát triển ở phương diện đã có sẵn, thiếu cái nhìn bao quát, cũng không có kiến giải riêng, không có lập trường riêng, thường bộ lộ là một chủ quản xứng đáng với chức trách được giao phó. Do có tính chất "kho phủ", nên người có Thiên phủ thủ mệnh khá "thương tiền", cẩn thận, vững vàng, luôn luôn cố tìm đến sự ổn định. "Kho phủ" không có năng lực "kiếm tiền", chỉ có chức năng chuyên về "giữ tiêng" và "sử dụng" tiền bạc. Do đó Thiên phủ rất ưa thích gặp Lộc, bất kể là tam phương hội chiếu với Lộc tồn hay Hóa Lộc, đều có thể làm tăng cách cục chiếm lợi, trở thành giầu có.
Khi tam phương hội tụ Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, sẽ khai mở cho Thiên phủ có thêm tính lý kiến giải riêng, đồng thời cũng làm tăng khí thế lãnh đạo của người Thiên phủ thủ mệnh.
Khi Tả phụ, Hữu bật giáp cung, hay Long trì Phượng các giáp cung, chủ về người đủ sức đảm nhiệm chức vụ cao, vững vàng giỏi tính toán, cẩn thận lại trung thực có đầu có cuối.
Người có Thiên phủ thủ mệnh không ưa gặp Tứ sát, nếu không gặp Lộc mà chỉ gặp tứ Sát, thì không thích hợp với tính chất "kho tiền", khó tránh giở thủ đoạn gian xảo để kiếm tiền.
Giả dụ Thiên phủ gặp tứ sát, đồng thời còn hội hợp với Xương Khúc, có thể là người giầu có thành nhã, bởi vì Xương Khúc chủ về giỏi văn bút, kiêm giỏi biện luận, tuy hơi xảo quyệt, nhưng cũng không mất đi phong thái văn nhân nho sỹ. Nhưng nếu Văn xương hoặc Văn khúc Hóa Kị, thì đây là tinh hệ Thiên phủ gặp sát tinh, hội hợp với Xương Khúc. cấu tạo càng lớn thì càng giảm sắc. Người này dễ trở thành hàn nho, bụng đầy lời oán trách, tự cho mình có tài mà không gặp thời.
Thông thường, Thiên phủ không nên độc tọa, cô độc thì dễ trở thành người: nhìn thấy đồng tiền thì lòng mưu toan. Nếu độc tọa mà không có sao cát, hội tứ sát, thì biến thành xảo trá, mưu mô quỷ quyệt. Cũng không nên gặp sao Không, chủ về sống cô lập không có cứu viện. Nếu Thiên phủ độc tọa, gặp sao Không và Thiên diêu, chủ về người âm mưu thủ đoạn.
Thiên phủ và Thiên tướng là cặp "sao đôi" quan trọng trong Tử Vi Đẩu Số, cho nên cổ nhân có thuyết "Phùng Phủ tầm Tướng", "Phùng Tướng tầm Phủ"
Do là "sao đôi", cho nên "Phủ Tướng triều viên" có thể thành cách cục, còn cách "Tử Phủ triều viên" là cách rất khiên cưỡng. Tức là do Thiên phủ và Thiên tướng có quan hệ "sao đôi", còn Tử vi và Thiên phủ không phải là quan hệ "sao đôi". Nghiên cứu thêm về "Kiến tinh tầm ngẫu".
Nữ mệnh Thiên phủ, thông thường đều chủ về trung hậu hiền từ, thông minh, khéo léo, đặc tính nổi bật là thích giúp người. Nếu hội sao cát, đặc biệt là Tả Hữu, sẽ có oai nghi của bậc nam tử, cũng có thể phú quý. Gặp các sao tứ sát, hình kiếp, thì chồng con bất toàn, đời sống hôn hân trắc trở.
Sao Thiên LươngThiên lương tổng luận
Thiên lương là sao thứ hai của Nam Đẩu, ngũ hành thuộc dương Thổ.
Trong Đẩu Số, Thiên Lương được ở vị trí "giám sát ngự sử". Cổ nhân nói "Thanh danh vinh hiển ở vương thất, chức vị đến phong ninh" (Hiển thanh danh vu vương thất, chức vị lâm vu phong ninh). Thời xưa, quan phong ninh có nhiệm vụ là "nghe chuyện mà tấu vua" (văn phong tấu sự), can gián hoàng đế, đàn hạch đại thần, tuy không chủ quản về hình pháp, nhưng trong thực tế thì có ý vị của hình pháp, kỷ luật, nguyên tắc.
Thiên lương tuy được gọi là "ấm tinh" (sao che chở), nhưng về bản chất lại có tính "cô kị". Thích hành động một mình, tính tình mạnh mẽ, tính nguyên tắc rất mạnh, đây là tính cách thuộc phương diện "cô kị". Ở phương diện khác, thì căn cứ vào những nguyên tắc mà bản thân mình đã định hình, để giải quyết bất hòa, tranh chấp, phân xử thị phi, do vậy thường bị cuốn vào vòng nan giải khó khăn, kéo theo sự bất toàn của bản thân. Chính vì vậy, phàm người có Thiên lương thủ mệnh, rất nên theo ngành y dược, bảo hiểm, công tác xã hội,... tức những nghề liên quan đến "che chở" (ấm tinh).
Thiên lương không ưa Hóa Lộc, hoặc có Lộc tồn đồng độ, nếu không, sẽ vì tiền bạc mà bị đố kị, dẫn tới xảy ra thị phi; hoặc tiền bạc của Thiên lương thuần túy nhờ vào việc hóa giải khó khăn của người khác mà có, vì vậy Thiên lương thích hợp với những nghề có sắc thái giải nạn cho người, cởi bỏ khúc mắc cho người, xóa tan phiền toái cho người. Cùng là Thiên lương Hóa Lộc, đối với bác sỹ thầy thuốc, thì Thiên lương là sao hóa Cát, còn đối với thương nhân, thì Thiên lương là sao hóa Hung, bởi vì xóa tan phiền toái cho bệnh nhân là chức trách của bác sỹ và thầy thuốc; còn đối với thương nhân thì phải trải qua khó khăn mới kiếm được tiền.
Nhưng bất kể như thế nào, Thiên lương mà có sao Lộc, tất sẽ khơi động một tính chất mạnh mẽ nào đó thuộc về bản chất của nó. Ví như hệ "Thiên lương Thiên đồng" vốn chủ về mệnh tạo có phong cách đặc biệt, nhưng gặp sao Lộc thì trở thành "buông xuôi theo dòng nước".
Lúc luận giải và luận đoán về sao Thiên lương, cần quan sát hai phương diện sau:
1- Các sao hội hợp có sảnh hưởng như thế nào đối với tính "cô kị" của nó? Làm mạnh thêm hay làm yếu đi?
2- Tính tình của sao Thiên lương sẽ vì các sao hội hợp mà thay đổi như thế nào?
"Cơ Nguyệt Đồng Lương" là một cách nổi tiếng. Cổ nhân nói "Cơ Nguyệt Đồng Lương chủ về làm lại người" (Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân).
Nhưng khi Thiên đồng và Thiên lương đồng độ, hay Thiên cơ và Thiên lương đồng độ, Thiên lương độc tọa, Thiên đồng độc tọa, Thiên cơ và Thái âm đồng độ... thì tình hình cung mệnh của cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" trên thực tế vẫn có sự phân biệt. Mói một cách khái quát, lấy Thiên lương độc tọa thủ mệnh là cách tốt, bởi vì so với các trường hợp khác, thì nó ít có tâm kế thủ đoạn hơn.
Nhưng bất kể như thế nào, trong tổ hợp "Cơ Nguyệt Đồng Lương", đối với Thiên lương ắt có tính "cô kị", gặp tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, thì tính "cô kị" càng nặng, cần phải có Văn xương, Văn khúc hội hợp, mới có thể điều hòa. Nếu Thiên lương đi với các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, có thêm Hóa Kị, thì tai nạn càng thêm nặng.
Cổ nhân nói "Thiên lương, Thiên đồng, Thiên cơ, Thái âm" ở Dần hoặc ở Thân, chủ về cuộc đời lợi về nghề nghiệp, thông minh" (Lương Đồng Cơ Nguyệt Dần Thân vị, nhất sinh lợi nghiệp thông minh), nói "lợi nghiệp thông minh", nhưng tính "cô kị" vẫn là chuyện tất nhiên.
Ngoại trừ tứ sát ra, Thiên lương còn không ưa gặp Thiên mã, Địa không, Địa kiếp.
Thiên lương vốn có sắc thái hành động một mình, gặp Thiên mã sẽ biến thành "ngựa không cương", dụng ý ngựa không có chủ là ngựa đi hoang, chủ về phóng đãng. Cổ nhân nói "Thiên lương Thiên mã ở hãm địa, chủ về trôi dạt, không còn nghi gì" (Thiên lương Thiên mã hãm, phiêu đãng vô nghi).
Phàm Địa không hay Địa kiếp ở cung Mệnh, vốn đã có sắc thái cuồng ngạo, không kềm chế, lạnh nhạt không chịu hòa hợp với người khác, lý tưởng chủ nghĩa xuông. Nếu Thiên lương đồng độ với một trong hai sát tinh này, thì tư tưởng của mệnh tạo càng trở nên khó hiểu.
Truyền thừa khẩu quyết của phái Trung Châu là "Thiên lương gặp Địa không hoặc Địa kiếp, chủ về người này là Nguyển Tịch, Kê Khang" (Thiên lương Không Kiếp, kỳ nhân Nguyễn Tịch, Kê Khang). Nguyễn Tịch, Kê Khang là danh sỹ đời Tấn trong nhóm "Trúc lâm thất hiền", uống riệu như dùng thuốc, lại có nhiều lời bình luận về thế sự, chính vì những lời bình luận này mà bị giết.
Thiên lương đồng độ cùng với Thiên hình, làm mạnh thêm tính nguyên tắc của Thiên lương, có thể biến thành lòng dạ như sắt thép, nên nói gặp người Thiên lương không dễ thỏa hiệp. Nếu lại gặp Kình dương, thì tính càng thêm "cô độc". Khẩu quyết của phái Trung Châu là "Thiên lương gặp Thiên hình, người này giống như Bao Chửng mặt sắt" (Thiên lương Thiên hình, kỳ nhân thiết diện Bao Chửng), truyền thừa này ví với "thiết diện vô tư" Bao Chửng đời Tống, con người không sợ quyền quý, rất sùng thượng pháp trị. Trường hợp ở Ngọ Mùi thì càng nặng.
Thiên lương là "hình tinh", cho nên không thích đồng độ với Kình dương, Thiên hình, ba sao đều là "hình tinh", bất luận ở một cung nào trong 12 cung, đều chủ về bất lợi, không bị bệnh thì cũng bị ngoại thương, hoặc thị phi kiện tụng.
Lúc "Thái dương Thiên lương" đồng độ, lại có Văn xương, Lộc tồn hội hợp, là cách nổi tiếng "Dương Lương Xương Khúc". Cổ nhân nói "Dương Lương Xương Khúc, tên truyền đứng đầu" (Dương Lương Xương Khúc, lư truyền đệ nhất danh), đây là kết cấu tinh hệ có lợi về thi cử, cấu tạo này chủ yếu là vì Thái dương hóa giải tính "cô" của Thiên lương, hơn nữa tính nguyên tắc khô cứng của Thiên lương được nhuyễn hóa thành tính nguyên tắc trong học thuật. Vì vậy, ở xã hội hiện đại, cách "Dương Lương Xương Khúc" trở thành tinh hệ có lợi trong việc nghiên cứu học thuật. Nghiên cứu học thuật chú trọng việc "tự học", tức là bản thân phải không ngừng phủ định mình, thì học thuật mới tiến bộ, cho nên không sợ các Sát tinh, Hình tinh đồng độ. Nhưng, khi nhìn từ góc độ tranh chấp có thuận lợi hay không thuận lợi, thì gặp các sao Sát Hình là không nên.
Thông thường, Thiên lương bất lợi khi gặp Sát tinh, cổ nhân nói "nếu tứ sát xung phá thì mạ không trổ đẹp" (Nhược tứ sát xung phá tắc miêu nhi bất tú), "Thiên lương ở hãm địa gặp Kình dương Đà la, thương phong bại tục" (Thiên lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục), "Thiên lương ở hãm địa gặp Hỏa tinh Kình dương là phá cục, chủ về thấp hèn, cô quả, chết yểu" (Thiên lương hãm địa ngộ Hỏa Dương phá cục, hạ tiện cô quả yểu triết).
Thiên lương ưa gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, cổ nhân gọi là "Có thêm Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là quan lớn cả văn lẫn võ" (Xương Khúc Tả Hữu gia hội, xuất tướng nhập tướng).
Thiên lương phân bố trong 12 cung, sẽ đồng độ hoặc đối diện với ba sao Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ, nên có mối quan hệ rất mật thiết.
- Ở Tý hoặc ở Ngọ, Thiên lương đối diện với Thái dương; Ở Mão hoặc ở Dậu, Thiên lương và Thái dương đồng độ. Cho nên, bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu, là tổ hợp "Thiên lương – Thái dương".
- Ở Sửu hoặc ở Mùi, Thiên lương đối diện với Thiên cơ; ở Thìn hoặc ở Tuất, Thiên lương đồng độ với Thiên cơ. Cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp "Thiên lương – Thiên cơ".
- Ở Tị hoặc ở Hợi, Thiên lương đối diện với Thiên đồng; ở Dần hoặc ở Thân, Thiên lương đồng độ với Thiên đồng. Cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp "Thiên lương – Thiên đồng".
Thông thường, trường hợp Thiên lương độc tọa ở Sửu hoặc ở Ngọ dễ cấu tạo thành cách cục tốt, khi Thiên lương độc tọa ở Tị hoặc ở Hợi thì cấu tạo dễ thành phá cách.
Thiên lương tọa mệnh, chủ về sống cô lập
Các chính diệu có quan hệ mật thiết với Thiên lương là Thái dương, Thiên đồng, Thiên cơ. Tình hình cụ thể như sau:
- Thiên lương độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau với Thái dương.
- Thiên lương độc tọa ở Sửu hoặc ở Mùi, đối nhau với Thiên cơ.
- Thiên lương đồng độ với Thiên đồng ở Dần hoặc ở Thân.
- Thiên lương đồng độ với Thái dương ở Mão hoặc ở Dậu.
- Thiên lương đồng độ với Thiên cơ ở Thìn hoặc ở Tuất.
- Thiên lương độc tọa ở Tị hoặc ở Hợi, đối nhau với Thiên đồng.
(Độc tọa ở 2 cung dương 4 cung âm, đồng độ ở 2 cung âm 4 cung dương)
Thiên lương và Thái dương cấu tạo thành hệ là tốt nhất, bởi vì Thiên lương vốn đã có tính "cô độc và hình khắc" được Thái dương hóa giải. Do đó có thể biết nên nhập miếu hoặc thừa vượng, ví dụ Thái dương ở Ngọ hay ở Mão, ánh sáng và nhiệt đều thịnh hơn ở Tý hay ở Dậu, vì vậy Thiên lương nên ở Tý để được Thái dương ở Ngọ đối chiếu, trường hợp Thiên lương ở Ngọ được Thái dương ở Tý vây chiếu sẽ không tốt bằng. Tương tự, hệ "Thái dương Thiên lương" ở Mão sẽ tốt hơn ở Dậu.
Khi Thiên lương và Thái dương cấu thành tinh hệ, thường hình thành cách "Dương Lương Xương Khúc", tức có thêm Văn xương và Lộc tồn hội hợp. Mệnh cách này rất lợi về tham gia thì cử, nhất là các cuộc thi tuyển quốc gia, vì vậy người có cách này dễ thành chuyên viên nghiên cứu học thuật. Dù không gặp Văn xương và Lộc tồn, hệ Thái dương Thiên lương" vẫn có lợi về nghiên cứu học thuật, bởi vì làm việc trong chính giới, mức độ phong ba quá lớn, còn làm theo hướng công thương nghiệp thì cũng ba chìm bảy nổi.
Hệ Thiên cơ và Thiên lương, cổ nhân cho rằng "là người giỏi bàn luận binh pháp", đây là do Thiên cơ có tài ăn nói, mà còn mưu trí và quyền biến, còn Thiên lương thì rất thích biểu hiện bộc lộ bản thân. Ở thời cổ đại, văn nhân có thể bàn luận binh pháp, được cho là văn võ toàn tài; nếu ở thời hiện đại, hệ "Thiên cơ Thiên lương" không nhất định là giỏi bàn luận binh pháp, mà có thể chuyển thành ba hoa, xảo ngôn, toan tính về đầu cơ cổ phiếu...
Hệ "Thiên lương Thiên đồng" dễ phát triển thành người cao ngạo, ỷ tài. Bởi vì Thiên lương ưa "bới móc soi bói", đã vậy còn rất cố chấp; còn đối với Thiên đồng thì thích hưởng thụ, hai tính chất này kết hợp nhuyễn hóa, kết quả là mệnh cách thường cảm thấy bất mãn với xã hội, chỉ muốn sống an nhàn qua ngày, thường nảy sinh ý nghĩ "hãy tha cho tôi đi", bản thân không thích bôn ba mà chỉ thích ngồi "luận đạo", nên thiếu lòng cầu tiến, hơn nữa, tâm ý thường cho rằng trong thiên hạ không có ai bằng mình. Nếu phát triển theo hướng tốt, thì mệnh cách là người có tâm tư "tinh tế sắc xảo" hoặc là người "liêm khiết chính trực", nhưng ít chịu hòa hợp với mọi người, có Thiên lương đồng cung, thì càng chủ về người sống cô lập.
Thiên lương có đặc tính "tiêu tai giải khó"?
Thiên lương là sao mà "Cổ thư" gây nhiều hiểu lầm nhất về luận đoán. Các sách cổ đều nói, Thiên lương là "thọ tinh", hóa khí làm "ấm" (che chở), có công năng tiêu giải tai ách, che chở cho mệnh, phúc cho con cháu. Thâm chí còn nói "thanh danh vẹn toàn, hiển đạt ở vương nhất" ... "nếu có thêm Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội hợp, thì làm quan văn lẫn quan võ ..." Chủ ý toàn nói Thiên lương đem lại điềm cát tường.
Chỉ có Tuệ Tâm Trai Chủ là nói đúng chân tướng của sự tình, tiên phong khám phá đặc tính của Thiên lương. Bà nói: "Trong các sao, Thiên lương là sao có sức mạnh nhất về phùng hung hóa cát, gặp nạn thì mang lại điều lành. Bởi vì cần phải biểu hiện sức mạnh giải khó và mang lại điều lành, nên người có Thiên lương tọa mệnh bất kể ở cung vị nào, nếu không có Cát tinh hội chiếu, sẽ không tránh được phải tao ngộ cảnh khốn khó, để cho Thiên lương hóa giải".
Sau đó, những người viết sách Đẩu Số cũng hiểu ra mà thay đổi cách nhìn về Thiên lương, không còn đồng ý toàn bộ những lời tán dương quá đáng trước kia của cổ nhân. Trong số các thuyết cổ, chỉ có thể căn cứ ca quyết "Thiên lương gặp Thái âm, chủ về nữ dâm bần", để chỉ ra khuyết điểm của tinh hệ Thiên lương. Nhưng lại hiểu lầm ý của câu "Thiên lương Thiên đồng đối nhau ở Tị Hợi, nam thì phóng đãng, nữ thì đa dâm", hầu như cho rằng nữ mệnh có cấu tạo này đều là người dâm đãng.
Thực ra Thiên lương không quá tệ, cũng không quá tốt, mà chỉ mang lại cho mệnh tạo khốn khó hoặc hung hiểm trước, sau đó mới hóa giải trong vô hình. Ví dụ như chịu phẫu thuật ắt sẽ không chết; hay sự nghiệp sắp lâm vào cảnh vỡ nợ, sập tiệm thì đột nhiên gặp cơ hội được phù trợ; hay đang gặp đủ thứ nạn tai, bệnh tật, kết quả một ngày nào đó mọi thứ xui xẻo đều qua khỏi ... Chính vì vậy, nên người có Thiên lương tọa mệnh, khi qua tuổi trung niên, quay đầu hồi tưởng lại những chuyện trước kia, thường cảm thấy đời người là "hư ảo", do đó tư tưởng phần nhiều có khuynh hướng tiêu cực.
Một tính chất khác của Thiên lương đó là thần bí. Người có Thiên lương tọa mệnh sẽ không tự biết khuynh hướng tín ngưỡng đối với sự vật thần bí của mình. Nếu phát triển theo hướng tích cực, thì họ sẽ thích tìm hiểu một số vấn đề, mà xã hội đương thời cho rằng rất khó thâm nhập, nhưng chỉ dừng lại ở lý luận mà thiếu thực tiễn. Nếu phát triển theo hướng xấu, thì sẽ có tính hay "soi bói, bới móc", vạch lá tìm sâu, khiến cho người ta cảm thấy khó tiếp cận.
Do đó nên nhìn nhận Thiên lương tọa mệnh là danh sỹ, đây mới là tính chất cơ bản của Thiên lương. Được gọi là "sao danh sỹ", có phong cách danh sỹ, thực ra là chủ về thái độ sống thích nhàn tản, không thích bôn ba, chỉ muốn sống an nhàn qua ngày, thậm chí thái độ lười biếng. Biểu hiện cụ thể là thiếu lòng cầu tiến, trong xã hội hiện đại dễ biến thành kẻ chơi nhiều hơn làm, du thủ du thực, không hứng thú với nghề nghiệp.
Phân biệt tính chất tốt xấu của Thiên lương
Do tính chất của Thiên lương biến hóa đa đoan, bất kể là hệ "Thái dương Thiên lương", Thiên cơ Thiên lương", hay "Thiên đồng Thiên lương", đều rất dễ có biến hóa cực đoan.
Thiên lương không nên gặp các sao có tính chất hiếu động, trôi nổi. Đây là đặc điểm thứ nhất, nên cổ nhân có thuyết "Thiên lương Thiên mã hãm địa, nhất định sẽ trôi nổi vô định", "Thiên lương, Thái âm chủ về nữ dâm bần", "Thiên lương ở Dậu, Thái âm ở Tị, là khách phiêu bồng".
Thiên lương rất kị gặp Kình dương và Đà la. Đây là đặc điểm thứ hai, nên cổ nhân có thuyết "Thiên lương hãm địa gặp Kình dương Đà la, chủ về bại hoại phong tục". Câu hỏi được nêu ra, Thiên lương đã làm những gì để phong tục bị bại hoại!
Thiên lương ưa ở cung miếu vượng, được các sao Phụ Tá đến chầu, vì vậy Thiên lương không ưa ở ba nơi Tị, Thân, Hợi, ở Dậu cũng bị chê bình thường. Nói các sao Phụ Tá, tức là chỉ Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã, kế đến là tạp diệu Tam thai, Bát tọa, Long trì, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Thiên quan, Thiên phúc. Đây là đặc điểm thứ ba, nên cổ nhân có thuyết "Thiên lương thừa vượng nhập miếu, có Tả Hữu Xương Khúc hội hợp, chủ về làm quan văn lẫn quan võ".
Lưu diệu của đại vận hay lưu niên, cũng có ảnh hưởng đối với Thiên lương. Thiên lương ưa gặp hai lưu diệu Thanh long và Tấu thư, gặp nó đều chủ về có chuyện vui về văn thư. Nhưng "văn thư" ở đây khác với "văn thư" của Văn xương Văn khúc. "Văn thư" của Văn xương Văn khúc, có thể chỉ là trái phiếu, chi phiếu, cổ phiếu; còn Thiên lương gặp "văn thư" của Thanh long, Tấu thư, là chỉ công văn của nhà nước hay của công ty, tập đoàn lớn. Thông thường, phần nhiều chỉ việc được thăng chức, hoặc được phong danh hàm, học hàm.
Thiên lương gặp Cát tinh thì hành động một mình, gặp Hung tinh thì tính tình cô độc, bất kể là cát hung đều có lợi về nghiên cứu học thuật. Cổ nhân nói "Thiên lương, Thiên đồng, Thiên cơ, Thái âm ở Dần Thân, chủ về một đời lợi nghiệp, thông minh", đây là phát huy tính chất hiếu động, trôi nổi và cơ trí, lại còn thêm "cô khắc và hình kị", nếu hậu thiên có tu dưỡng, biến tính cách hiếu động, trôi nổi thành linh động, mệnh tạo có thể trở thành nhân tài trong giới học thuật.
Thiên lương tương hội với Cát tinh, ở các cung Phu thê, Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, sẽ thành cát, phát huy tác dụng của "ấm tinh" (sao che chở), chủ về được quý nhân nâng đỡ, trợ giúp, đề bạt. Song nếu thấy sát diệu Hóa Kị thì lại biến thành hình khắc. Lúc Thiên lương không cát lợi, tính cố chấp sẽ rất nặng, không chịu tin phục người khác, không dễ thỏa hiệp ngay cả với người thân bố mẹ, vợ con.
Thiên lương chủ về cô độc, tương hội sát diệu Hóa Kị ở cung Mệnh hoặc ở cung Phúc đức, chủ về quan hệ với người thân không lợi, nhất là không lợi cho nữ mệnh, không vô duyên với chồng thì cũng thiếu duyên phận với con cái.
Sao Thiên lương - Lục Bân Triệu
Sao Thiên lương ở trong ngũ hành thuộc dương thổ, ở trên trời, là sao thứ hai thuộc hệ thống sao Nam Đẩu, chủ về thọ, hóa làm ấm tinh (sao che trở). Sao Thiên lương bất luận ở Thân cung hay Mệnh cung, hoặc đến đại hạn hay lưu niên Thái tuế, đều chủ về có phong thái danh sỹ, tính tình tùy tiện, uể oải, lần nữa. Tuổi trẻ mà nó đến cung, gặp tai họa có thể giải hóa. Tuổi già được nó chiếu hay tọa, dù có nạn tai, bệnh tật nguy hiểm, cũng chủ về trường thọ.
Sao Thiên lương ở cung Mệnh hoặc cung Thân, đều chủ về "gặp hung hóa cát", gặp nạn mà không bị sao, do đó một đời thường gặp nhiều tai nạn hiểm nguy, hoặc tao ngộ phi thường. Sao Thiên Lương mà không gặp hung, thì sẽ không thấy đủ "sức mạnh cát hóa" (làm cho tốt lên) của nó, không gặp nạn thì sẽ không thấy đủ "công đức hóa lành" của nó. Cho nên, tinh diệu này mà lâm đến, tuy có thể hóa giải tai họa, hóa giải hung hiểm, chủ về trường thọ, sống lâu, nhưng cũng sẽ gặp nhiều tai, nhiều nạn, nhiều thị phi, nhiều bệnh tật, trường hợp sao Thiên lương đến cung Tị là ứng hợp nhiều nhất.
Người có Thiên lương ở cung Mệnh, cung Thân, hoặc cung Phúc đức, đều có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo, theo Phật giáo là "có căn tu", "có thiện căn". Đồng độ với sao Thiên cơ phần nhiều đều là tăng đạo xuất thế, hoặc là người thấu hiểu cõi hồng trần. Đồng độ với sao Thái dương, hội chiếu các tinh diệu Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Phượng Các ở tại Mão, chủ về có kỹ năng chuyên môn, hoặc kỹ thuật xuất chúng. Bất kể về phương diện kỹ năng hay phương diện học vấn, đều có thể hơn người, hoặc lên tới đỉnh cao. Ở Dậu, tuy học có thành tựu, nhưng thanh danh vẫn kém xa ở Mão.
Sao Thiên lương ở Ngọ hay Mùi, đều chủ về tính tình dứt khoát, thẳng thắn, ưa thích chỉ ra sai lầm của người khác, tài năng quá lộ. Nếu tam phương tứ chính có tinh diệu cát tường hội chiếu, chủ về làm quan thanh liêm, làm ăn kinh doanh thành thực, xử sự ngay thẳng, tuy hay phê bình người khác, nhưng người khác cũng có thể chấp nhận được.
Nếu sao Thiên lương ở Ngọ hay Mùi, mà có sát tinh hội chiếu, hoặc đồng độ với Lộc tồn ở Ngọ, thì không nên phê bình người khác, nếu không dễ bị người khác oán kị, thiếu duyên với người, tiểu nhân bất mãn. Bởi vì, Thiên lương là ngự sử chính trực ở thanh cung, cho nên có thể khuyên can hoàng đế. Nếu có Tài tinh cùng đến, thì bản thân tài đã nhiều, nên không còn thanh cao (bởi vì người thanh cao phần nhiều là bần cùng), chỉ trích người khác, tất không thể làm người ta kính phục được. Không kính phục sẽ sinh oán hận, có oán hận sẽ có tiểu nhân "thị phi" vậy.
Sao Thiên lương ở Tý, cũng là thông minh thái quá, tài năng quá lộ, từ nhỏ đã không coi ai ra gì, kết quả là làm ơn mắc oán.
Hai sao Thiên lương và Thiên đồng ở Dần hoặc thân, có Lộc tồn hay Hóa Lộc đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về người thông minh mưu chí, lanh lợi, nhiều sự nghiệp, một đời thường kiêm phụ trách nhiều chức vụ. Không có Lộc tồn hoặc Hóa lộc, thì sự nghiệp nhiều biến động, hoặc có tính lưu động, lấy trường hợp ở Dần là nhiều nhất, ở Thân là kế đến. Ở Dần hoặc Thân, gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, đều chủ về làm việc trong cơ cấu chính phủ, phát triển sự nghiệp mang tính đại chúng.
Người tự sáng lập sự nghiệp, cũng thích hợp lập công ty, tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân của mình. Sao Thiên lương ở Ngọ, có sao Văn khúc và Thiên tài đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tứ chính gặp các Cát tinh Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, hoặc các phụ tinh Tả phụ, Hữu bật, chủ về người được chính chính giới thừa nhận, là nhân vật có công triển khai và thực thi pháp luật vào cuộc sống, hoặc có những đóng góp trọng yếu trong ngành lập pháp. Trong thương giới cũng chủ là người có chức năng và trách nhiệm giám sát thực thi pháp luật của các công ty, hoặc giữ chức vụ quan trong của công ty. Lấy trường hợp Văn khúc đồng độ làm thượng cách, lấy trường hợp Văn khúc vây chiếu làm thứ cách.
1. Thiên lương ở cung Mệnh viên
Sao Thiên lương đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt vàng trắng, khuôn mặt hình chữ nhật, mũi thẳng, lưỡng quyền cao, thân thể mập ốm bất nhất, nhưng phần nhiều hơi mập. Ở Ngọ thân hình phần nhiều lùn mập, còn ở Tị phần nhiều gầy cao, hoặc hơi mập.
Thái độ vững vàng ổn trọng, tính tình ngay thẳng. Cuộc đời tuy có tai họa, nhưng chủ về sống thọ. Thấy hung hiểm có thể tự hóa giải, gặp tai họa có thể qua khỏi. Thích được Thái dương hội chiếu hay đồng độ. Nếu có thêm Văn xương, Văn khúc cùng đến, thì thông minh xuất chúng, nhưng hay kiêu ngạo hiếu thắng.
Sao Thiên lương ở Ngọ mà gặp cát diệu, vừa chủ về phú vừa chủ về quý, nhưng tính ưa nói thẳng, không sợ tiểu nhân, nên thường thị tiểu nhân đố kị.
Có Thiên cơ đồng độ thì bác cổ thông kim, hiếu học, giỏi nói năng và hiểu biết binh cơ.
Sao Thiên lương ở Thân, ở Tị, ở Hợi, phần nhiều chủ về phiêu lãng, gặp tinh diệu cát tường, chủ về viễn du các nơi, hoặc xa vượt trùng dương. Nếu gặp sao Thiên mã, Hàm trì, Thiên diêu, Hồng loan, Thiên hỷ, mà không có Lộc tồn đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về phong lưu hiếu sắc, đa tình đa dâm, thích rong chơi, thích sống nhàn hạ.
Sao Thiên lương có Kình dương, Đà la hội chiếu, phần nhiều gặp tai nạn hung hiểm, có mối lo về tính mạng, có nạn tai về ngục tù, hoặc có bệnh nguy nan.
Sao Thiên lương đồng độ cùng với Hỏa tinh hoặc Linh tinh, chủ về nhiều lo sợ viển vông không đâu, dễ nảy sinh ý niệm xem nhẹ mạng sống mà tự sát, hoặc bị hỏa tai làm tổn thương.
Sao Thiên lương có Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ, chủ về thích rong chơi, không tích lũy mà hay phá tán.
Người có Thiên lương lập mệnh ở Tị, thường hay phụ trách sứ mạng hoặc chức vụ đặc biệt, hoặc một mình kiêm luôn mấy chức vụ, có công khai, có bí mật. Nếu gặp các sao Kình dương, Thiên hình, Đà la, thì vào năm Dậu hoặc năm Sửu sẽ gặp sát tinh, tất nhiên xảy ra tai họa đột ngột, nếu Sát mà nặng thì vô cùng nguy hiểm, chín phần chết chỉ một phần sống, nhưng rốt cuộc vẫn hóa nạn tai thành cát tường. Nếu sát tinh ở cung độ khác, thì lúc đại hạn, lúc thái tuế, lưu nguyệt đến, sẽ xảy ra tai họa, nhưng thế của tai họa khá nhẹ, hơn nữa, còn có chức vụ trong chính giới và giới kinh doanh, hoặc phần nhiều hay phát sinh quan hệ với người trong chính giới và giới quân đội.
Sao Thiên lương có Văn xương, Văn khúc, Phượng các hội chiếu, cũng chủ về văn sỹ trong giới văn hóa, hoặc làm công việc kinh doanh về văn hóa, báo chí.
Sao Thiên lương đến cung mệnh của nữ giới, thừa vượng nhập miếu, gặp tài tinh cát, chủ về phú quý song toàn, đa tài đa nghệ. Có Thái dương đồng độ ở Mão, gặp Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Phượng các, chủ về có sở trường đặc biệt, thông minh, giỏi ăn nói. Có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, thì giúp chồng dạy con, tâm từ ái, thích bố thí, mà thẳng thắn. Nếu Thiên lương rơi vào thế lạc hãm, có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về người nữ cô độc. Còn gặp thêm Hàm trì, Thiên diêu, Hồng loan, Thiên hỷ, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về trôi nổi đó đây, không ở yên trong nhà, hoặc phiêu bạt không nơi nương tựa. Nếu gặp Văn xương, Văn khúc, chủ về dùng tài nghệ mưu sinh. Nếu cung Thiên di ở Mão có Kình dương, chủ về Phu tinh không rõ ràng.
Đại hạn, lưu niên có sao Thiên lương đến, gặp tinh diệu cát tường, chủ về phúc dày lộc trọng, gia quan tiến tước, sự nghiệp phát triển, hỷ khí đầy nhà, chủ về trường thọ. Nếu có Lộc tồn đồng độ, thì phải đề phòng tiểu nhân bất mãn chủ ý hãm hại, sự nghiệp vì thế mà bị khuynh đảo. Có Kình Đà Hỏa Linh và Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, tai nạn, tật bệnh, tù ngục, thương tổn. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, hoặc có sao Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, chủ về tử vong, khuynh gia bại sản, hoặc xảy ra các tình huống âm mưu hãm hại.
Phàm, sao Thiên lương đến cung Mệnh, cung Thân, hoặc cung Thiên di, hoặc đến đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, thì nên lui nhường ba bước, không nên kiêu ngạo, và phải đề phòng tiểu nhân hãm hại, thì mới có thể thành đại sự lập nên đại nghiệp.
2. Thiên lương ở cung Huynh đệ
Sao Thiên lương đến cung Huynh đệ, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về anh em có hòa khí. Không có Tử phụ, Hữu bật, chủ về có anh em khác mẹ, anh em cùng mẹ có hai đến ba người, anh em thường ngầm tranh giành, khuynh đảo hoặc phân ly. Đồng độ với Thái dương ở Mão Dậu, chủ về anh em tranh đoạt gia sản, di sản, hoặc xảy ra chuyện hiểu lầm đố kị nhau. Có Thiên cơ đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về có hai người. Có Thái âm, Hồng loan, Thiên hỷ hội chiếu, nhiều chị em. Đồng độ với Thiên đồng, có hai người ở chung, ở riêng có thể ba người. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về bất hòa, hình khắc, phân ly, nhiều rắc rối tranh chấp.
3. Thiên lương ở cung Thê (Phu)
Sao Thiên lương đến cung Thê, nên lấy người lớn tuổi, lấy người lớn hơn mình 3 tuổi là thích hợp (hoặc lấy người nhỏ hơn mình 3 tuổi trở lên). Có Thái âm hội chiếu, chủ về dung mạo mĩ lệ, nhưng lấy trường hợp chậm kết hôn hay tái hôn là tốt, nếu không sẽ chủ về "nhuyễn khắc" (ly dị). Có điều, tuy phân ly nhưng phần nhiều thường khó dứt tơ vương, lấy trường hợp trước khi kết hôn đã từng hủy hôn ước với người khác là tốt, hoặc nên kết hôn thật chậm thì có thể tránh khỏi.
Nữ mệnh, cung Phu có sao Thiên lương, lấy trường hợp chậm kết hôn hoặc làm kế thất, vợ lẻ, hoặc trước khi kết hôn đã từng hủy hôn ước với người khác, hay sống chung mà không có nghi thức kết hôn, thì có thể tránh được sự cố ly dị. Có Thiên đồng hội chiếu, nhưng Hóa Kị, chủ về sau khi ly hôn lại tiếp tục khắc, hoặc sau khi khắc lại ly hôn. Nhưng lấy trường hợp hội chiếu với Kình dương, Đà la, Thiên hình, Hỏa tinh, Linh tinh mới đúng.
4. Thiên lương ở cung Tử nữ
Sao Thiên lương đến cung Tử nữ, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Thiên vu, Ân quang, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về con cái phát đạt, thông minh nhiều tài, vừa phú lại vừa quý, có năm con trở lên. Đồng độ cùng với Thiên đồng, lấy trường hợp con gái trước con trai sau là tốt, chủ về ba người con. Có Thiên cơ đồng độ, đề phòng hư thai, chủ về hai người con. Có sao Hóa Kị hội chiếu, con cái nhiều tai nạn tật bệnh. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về hình khắc, nên cho làm con nuôi của người khác. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình hội chiếu, là cô đơn.
5. Thiên lương ở cung Tài bạch
Sao Thiên lương đến cung Tài bạch, thừa vượng nhập miếu, có Hóa Lộc, Lộc tồn, Thái âm, Thiên vu hội chiếu, chủ về phát giầu có, hoặc được thừa hưởng di sản hay tài phú hiện có khác. Đồng độ với Thái dương ở Mão, tuy có thể hay phú hay phát, nhưng có xảy ra chuyện tranh đoạt tài sản. Đồng độ cùng với Thiên đồng, có thể sáng lập gia tài, từ nhỏ mà phát triển lớn dần, hoặc tay trắng làm nên sự nghiệp - nếu có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hoặc Lộc tồn hội chiếu, là công khanh ở nhà tranh. Có Thiên cơ đồng độ, tiền đến tiền đi, lúc phát lúc phá, hoặc nhờ cần cù làm cực nhọc mà được, thời vận thường thay đổi. Đến cung Tý, tiền tài có nguồn đến nhưng bị cắt xén rất nặng. Gặp sao Hóa Kị, chủ về vì tiền tài mà nhiều lời qua tiếng lại, nhiều rắc rối thị phi, hoặc vì tiền tài mà sinh ra đau khổ về tinh thần. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình hội chiếu, chủ về khuynh gia phá sản, hoặc vì tiền tài mà sinh ra tai họa, hoặc vì dính vào chuyện kiện tụng mà phá hao. Nếu có cát tinh hóa giải thì trước khổ sau yên, hoặc ăn trước trả sau, miễn cưỡng sống qua ngày. Có điều, sao Thiên lương mà tọa cung Tài bạch, tuy gặp khó khăn, nhưng rốt cuộc cũng có tiền.
6. Thiên lương ở cung Tật bệnh
Sao Thiên lương đến cung Tật bệnh, tuy có nạn tai tật bệnh nhưng phần nhiều đều chuyển nguy thành an; chủ về các triệu chứng của trường vị không điều hòa, tiêu hóa không tốt. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, chủ về ngoại thương ở tay chân, bên trong thì gân cốt ngực eo bị thương, hoặc lan vĩ viêm. Có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ chủ về các chứng ung thư vú, ung thư bao tử, ung nhọt khối u. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu hoặc đồng độ, cũng chủ về các bệnh đau nhức, như phong thấp, tê bại, nhức mỏi. Có thêm Thiên nguyệt, Âm sát đồng độ, chủ về các chứng cảm mạo, thương phong, đầu choáng.
7. Thiên lương ở cung Thiên di
Sao Thiên lương đến cung Thiên di, thừa vượng nhập miếu, xuất ngoại chủ về được quý nhân phù trợ, là người được kính trọng. Ở tại ba nơi Tị, Hợi, Thân, chủ về "đông bôn tây tẩu" vất vả bận bịu. Nếu có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu, chủ về viễn du tha hương. Có Lộc tồn đồng độ, chủ về bị tiểu nhân khuynh đảo chủ ý hãm hại. Có Thiên cơ đồng độ, thì ra ngoài gặp nhiều cơ hội, nhưng nhiều biến hóa thay đổi, không yên định. Có Thái dương đồng độ thì ra ngoài thành danh. Đồng độ cùng với Thiên đồng thì ra ngoài yên định, nếu Thiên đồng Hóa Kị thì ra ngoài gặp nhiều "lời qua tiếng lại thị phi". Có tứ sát Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về ra ngoài gặp tai họa, hoặc ra ngoài bị tiểu nhân hãm hại.
8. Thiên lương ở cung Giao hữu
Sao Thiên lương đến cung Giao hữu, thừa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, hoặc có tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, chủ về có bạn ngay thẳng, chủ về được bạn bè trợ lực, hoặc được thuộc hạ ủng hộ. Có Thiên cơ đồng độ, chủ về bạn bè tuy nhiều nhưng thường thay đổi. Đồng độ cùng sao Thiên đồng chủ về có những đồng nghiệp hữu ích hoặc được bạn bè trợ lực. Có Thái dương đồng độ, chủ về trong đời kết giao được với người bạn quý, phần nhiều là người trong chính giới hay quân đội, công an, hoặc kết giao được với nhân vật quan trong trong thương giới, người có danh tiếng gây ảnh hưởng lớn đến những xu hướng trong xã hội. Có tứ sát Kình Đà Hỏa Linh đồng độ hay hội chiếu, chủ về vì bạn hữu mà tai họa, nhiều rắc rối thị phi. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hay hội chiếu hoặc xung chiếu, chủ về vì bạn hữu mà bị phá hao, hoặc vì thủ hạ không cẩn thận mà tổn thất tiền bạc.
9. Thiên lương ở cung Sự nghiệp
Sao Thiên lương đến cung Sự nghiệp, nếu ở Ngọ có cát diệu hội chiếu và xung chiếu hiệp trợ, chủ về là người quan trọng trong chính giới, thương giới, danh tiếng vang xa ra nước ngoài, quyền cao chức trọng. Có Thái dương đồng độ, văn hoặc võ đều lấy tài nghệ mà dương danh. Đồng độ cùng với Thiên đồng, chủ về người có năng lực chuyên sâu chỉnh lý nội vụ, nắm thực quyền bên trong, giỏi vạch kế hoạch. Có Thiên cơ đồng độ, chủ về một mình kiêm mấy chức, những loại công việc thường có nhiều biến động, việc có ẩn có hiện. Có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và Thiên hình hội chiếu và xung chiếu, chủ về người có sứ mệnh đặc biệt, hoặc vì sự nghiệp mà sinh tai họa, dính líu đến kiện tụng mà bị phá hao.
10. Thiên lương ở cung Điền trạch
Sao Thiên lương là tinh diệu "che chở", đến cung Điền trạch, chủ về được di sản của tổ tiên. Có Thiên cơ đồng độ thì phải tự tạo, nhiều dời đổi biến động, hoặc có tình hình "phiên tạo trùng kiến". Có Thái dương đồng độ, chủ về vì nhà cửa hoặc tài sản chung mà xảy ra tranh giành. Có tứ sát Kình Đà Hỏa Linh đồng độ hay hội chiếu và xung chiếu, chủ về gia trạch không yên, nhiều thị phi rắc rối, nhiều tranh chấp. Hội chiếu với sao Hóa Kị thì nhiều lời qua tiếng lại. Có Không Kiếp đồng độ, ở Tị, ở Hợi, ở Thân, thì trôi dạt. Sao Thiên lương và Thiên mã đồng độ, cũng chủ về trôi dạt bất định.
11. Thiên lương ở cung Phúc đức
Sao Thiên lương đến cung Phúc đức, thừa vượng nhập miếu, chủ về hưởng thụ an lạc. Đồng độ cùng với Thái dương, có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Ân quang, Thiên quý, Thiên vu hội chiếu và xung chiếu, chủ về phúc dày lộc trọng, vừa quý vừa phú. Đồng độ cùng với Thiên đồng, chủ về yên định. Đồng độ cùng với Thiên cơ thì lao tâm nhọc thần, gặp Hóa Kị thì vô phúc, nhiều phiền não. Có Đà la đồng độ thì tự tìm bận rộn. Có Kình dương hội với Hỏa tinh hay Linh tinh, thì phúc bạc, nhiều tranh chấp rắc rối, nhiều thị phi không thể yên định. Sao Thiên lương nhập miếu đến cung Phúc đức, chủ về an nhàn, có phong thái danh sỹ, tư tưởng phóng túng, không chịu gò bó, lạc thiên an mệnh, không thích biến động. Thiên lương lạc hãm đến cung Phúc đức, chủ về lười biếng, lần nữa, thường để xảy ra tình trạng làm lỡ công lỡ việc. Sao Thiên lương ở ba nơi Tị, Hợi, Thân, gặp Thiên mã, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về trôi nổi bất định không yên.
12. Thiên lương ở cung Phụ mẫu
Sao Thiên lương đến cung Phụ mẫu, thừa vượng nhập miếu, có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu và xung chiếu, chủ về có phúc ấm hoặc thừa hưởng di sản của cha mẹ. Lạc hãm chủ về hình thương khắc hại, nên làm con thừa tự của người khác. Có Kình dương gặp Thiên mã hội chiếu hay xung chiếu, chủ về xa gia đình, hoặc làm con nuôi người ta, hoặc ở rể. Đồng độ cùng với Thiên đồng thì không hình khắc, nếu Hóa Kị hoặc hội chiếu và xung chiếu Kình Đà Hỏa Linh, vẫn chủ về hình thương, hoặc giữa cha con ý kiến bất đồng không hợp, nên làm con thừa tự người khác. Đồng độ cùng Thiên cơ, chủ về phân ly hoặc ở riêng. Đồng độ cùng Thái dương, có cát tinh hội chiếu và xung chiếu, không có sát diệu thì không hình khắc, ở Mão thì chủ về được cha mẹ che chở. Nếu có sát tinh hội chiếu và xung chiếu, chủ về hình khắc phân ly, nhận người khác làm cha mẹ.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Sao Thiên ĐồngThiên đồng tinh - Toàn thư
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên đồng là dương thủy. Tại Đẩu sao Thiên đồng là sao thứ tư thuộc Nam Đẩu, tại Số sao Thiên đồng theo cung vị thứ sáu thuộc Bắc Đẩu, của phép định cục an sao Thiên bàn. Hóa khí là phúc, cung chủ là cung phúc thọ, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa. Nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ nằm đồng cung với các hung tinh, Thiên đồng nằm ở 12 cung đều chủ phúc thọ.
Tuổi trẻ chủ về Phúc.
Tuổi già chủ về Thọ.
Phúc nhiều thì Thọ ít.
Phúc ít thì Thọ nhiều.
Sao Thiên đồng có phúc, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của sáu sát tinh Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên, hơn nữa, lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại dẫn đến cảm giác "có phúc không biết hưởng" hay "số vất vả".
Sao Thiên đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ không hợp với mệnh nam.
Thiên đồng hóa Lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có "khẩu phúc" (được ăn ngon), nhưng tính cách dễ lười biếng uể oải. Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp sao Khoa và Quyền, thì không những không lười biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Thiên đồng hóa Kị chủ về bận rộn vất vả, kỵ nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.
Sao Thiên đồng gặp cát tinh sẽ tốt lành, gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên lương, chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm Ất, miếu vượng mà trấn mệnh tại cung Tị, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại cung Thìn, Mão không tốt, đóng tại cung Dậu Tuất chủ về oán hận, không nên rơi vào cung mệnh, thân. Gặp bốn sát tinh Kình Đà Hỏa Linh trấn tại Tị Hợi là hình và hãm, dễ bị tàn tật cô độc.
Sao Thiên đồng chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc, nhưng đến trung niên hoặc về già mới được hưởng phúc, tuổi nhỏ và lúc trẻ phải vất vả nỗ lực. Nếu như sao Thiên đồng chỉ chủ về sống để hưởng phúc, thì thời trẻ không thể tự lập nghiệp, vận thế dễ gặp trở ngại.
Thái âm và Thiên đồng nếu trấn tại mệnh, hoặc trấn Điền trạch tại Tý, là cách "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh - Tài - Quan là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách "Nguyệt Đồng ngộ sát", chủ về thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.
SAO THIÊN ĐỒNG TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Thiên đồng tọa thủ cung Mệnh thường có thân hình tròn đầy, tướng mạo đẫy đà, khuôn mặt như đứa trẻ, mắt thanh mày ngài, ánh mắt hiền dịu, khuôn mặt trông phúc hậu, với người nữ thì da trắng, tướng mạo thanh tú.
Là người khiêm tốn dịu dàng, hết lòng tuân thủ, ứng đối có lễ nghĩa, nhân từ thẳng thắn, mềm mỏng hòa nhã tinh thông. Phàm là làm việc lớn hóa nhỏ, có mới nới cũ, có ý tưởng kế hoạch nhưng lại thường không có giới hạn, vì vậy mà nói thì nhiều mà làm thì ít, có tính hài hước và tính trẻ con.
Bình thường không hay tranh chấp với người khác, nhẫn nại mà chẳng bận tâm phiền não, không hay tính toán với người nên cũng không hay phải tức giận vô cớ, xong thì thôi vì vậy duy trì quan hệ với mọi người ở mức độ giao tiếp.
Tư duy nhạy bén, khả năng lý giải tốt, tính thích ứng cao, thích làm việc thiện, yêu văn nghệ, chú trọng đến hưởng thụ cuộc sống, thích đầu tư vào hình thức ăn mặc sang trọng. Thích cuộc sống nhàn hạ, việc gấp cũng từ từ, lạc quan nhưng không tích cực, được chăng hay chớ, cổ nhân thường gọi là người "trí túc thường lạc"
Thiên đồng thủ mệnh nữ nước da trắng, thông minh lanh lợi, phong cách nụ cười hấp dẫn mọi người, rất có duyên, hay nhận được ánh mắt quan tâm của nam giới, thể hiện hình thức quý phái, thường không quan tâm đến lĩnh vực khoa học.
Suy đoán mệnh lý
Thiên đồng + 4
Thiên đồng – 2
Thái âm – 1
Cự môn – 1
Thiên đồng – 1
Thiên đồng + 3
Thiên lương – 2
Thiên đồng = 0
Thiên đồng = 0
Thiên đồng = 0
Thiên đồng = 0
Thiên đồng + 1
Thiên lương + 4
Cự môn – 1
Thiên đồng – 1
Thiên đồng + 3
Thái âm + 4
Thiên đồng + 4
Độ sáng của sao Thiên đồng tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên đồng.
Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Thiên đồng là Phúc tinh, phúc của sao Thiên đồng là "không lo lắng trước mọi việc", làm việc gì cũng không nôn nóng, thích an nhàn tự tại, lúc thuận thì hưởng thụ cuộc sống, lúc nghịch cảnh thì cũng "nhìn theo chiều hướng tốt", "trong khổ ải vẫn thấy niềm vui", "vui trong sự vất vả". Chính vì vậy, người có sao Thiên đồng tọa thủ cung mệnh, thì cho dù là gia cảnh bần hàn, cũng sống cảnh an nhàn tự đắc.
Người có sao Thiên đồng thủ mệnh thiên bẩm đã có phúc, tự nhiên được hưởng những vật chất tốt hơn người khác, hoặc được sinh ra trong gia đình tương đối có tiền của, hoặc cho dù là gia cảnh nghèo khó cũng được hưởng thụ vật chất hơn người, đồng thời người Thiên đồng thủ mệnh rất dễ phát phì.
Sao Thiên đồng và sao Thiên lương đều có cái phúc trời phú, đó là làm thì ít mà hưởng thì nhiều, nhưng hai sao cũng có những điều không giống nhau như:
Thứ nhất - sao Thiên đồng có lòng dạ tâm địa phúc đức của chính thần, gương mặt như trẻ con, tính cách trẻ con, giống một đứa trẻ bướng bỉnh. Còn sao Thiên lương thì giống như một người già, thích nói khoác, thích được người khác phụng sự mình như lão Phật tổ, thích được người khác tôn thờ mình.
Thứ hai - sao Thiên lương là "âm tinh", cuộc đời thường bị che phủ, biểu hiện ra bên ngoài giống như đang được hưởng phúc, nhưng kỳ thực trong lòng thì lại đang có "nỗi niềm" tự thấy có khổ cực, tức cái vỏ bọc bề ngoài dường như đang được hưởng phúc là do nhận được sự chiếu cố, kỳ thực bên trong lại rất khổ tâm. Sao Thiên đồng thì không như vậy, nó chỉ là "biểu hiện trong ngoài hợp nhất", trong ngoài đều vui vẻ lạc quan, cho dù có nỗi khổ thì thường vẫn quan niệm khá đơn thuần, dễ nói ra và dễ xử lý.
Thứ ba - sao Thiên lương mặc dù có "Âm" quý nhưng lại chủ "thanh cao", cũng có thể so sánh với cuộc sống hưởng thụ vật chất tương đối tốt. Sao Thiên đồng thì có "vận" quý nhân mạnh, nên không bị áp lực tâm lý và khó khăn nào, chi phối đời sống chỉ muốn hưởng thụ an nhàn.
Do bản thân sao Thiên đồng hiểu được cách theo đuổi hưởng thụ cuộc sống về mặt vật chất và tinh thần, nên không chỉ dốc hết tâm sức, mà hơn nữa, lại còn suy nghĩ hộ người khác, luôn muốn hưởng thụ tốt hơn nữa mặc dù bản thân điều kiện chưa cho phép, chưa thể tự mình tạo ra môi trường tốt. Do vậy, ăn, mặc, ở, đi, lại, là những nhu cầu giản yếu, khi một loại nhu cầu nào đó khiến con người ta thoải mái, đều có thể khiến cho sao Thiên đồng phát triển được tài năng.
Sao Thiên đồng không thích nỗ lực phấn đấu, nên thường sau khi bận rộn, tự biết tìm ngay đến phương thức hưởng thụ, đây chính là một chút khích lệ cho bản thân mình.
Người có sao Thiên đồng thủ mệnh, chủ về an phân thủ thường, sống bình dị dễ gần, bị động bảo thủ, biết hài lòng với những gì đã có, an nhàn, yên ổn, tự tại là tâm tính ổn định hơn người thường, khó tránh khỏi việc được nhiều mất nhiều, trốn tránh hiện thực. Cũng vì vậy mà thiếu đi quyết tâm và khí phách phấn đấu sự nghiệp, hay sáng tạo cục diện mới, vì vậy sao Thiên đồng hợp với nữ giới hơn là nam giới.
Sao Thiên đồng trong mệnh bàn có chức năng đặc thù, đó là vì thời gian bôn ba vất vả trên trần thế càng nhiều, thì cơ hội an nhàn thoải mái càng ít, thường sao Thiên đồng kịp thời xuất hiện để điều chỉnh. Vì vậy, bất luận cách cục của mệnh bàn như thế nào, chỉ cần gặp sao Thiên đồng đều có thời gian nghỉ ngơi để nuôi dưỡng tinh thần, nạp thêm năng lượng, chuẩn bị cho cuộc sống tiếp sau.
Sao Thiên đồng cũng có tính chất đào hoa, đào hoa của sao này thiên về hoạt động xã giao với người khác giới, dễ lạc đề, tình cảm trọng về lý trí, tự suy tưởng hưởng thụ một chiều. Vì vậy người có sao Thiên đồng thủ mệnh về mặt tinh thần và tình cảm thường có cảm giác hư không, nên thích hướng ngoại tìm kiếm sự kích thích để duy trì hạnh phúc đang có, nhưng cần kiềm chế nhiệt tình thái quá mà không đúng nơi đúng chỗ, để tránh sinh ra những vướng mắc tình cảm lệch lạc, mệnh nữ thì càng phải thận trọng.
Cơ hội mà sao Thiên đồng độc tọa không nhiều, vì bất kỳ sao nào cũng đều có phúc không bằng sao Thiên đồng, do đó mà sao đồng cung với sao Thiên đồng, hoặc ít hoặc nhiều cũng đều có ảnh hưởng tới "phúc khí" của Thiên đồng, sự ảnh hưởng "phúc khí" đó là:
- Thứ nhất: khiến cho mức độ hưởng phúc của sao Thiên đồng giảm, hoặc giảm thời gian hưởng phúc.
- Thứ hai: khiến cho con đường hưởng phúc của sao Thiên đồng tương đối trắc trở.
- Thứ ba: do có phúc khó được hưởng, mà khiến cho đời sống tình cảm hôn nhân dễ gặp nhiều khó khăn.
Sao Thiên đồng Hóa Lộc thiên về thực lộc, ngược lại khiến người ta càng thêm lười nhác. Sao Thiên đồng hóa Quyền, hóa Khoa thì không còn lười nhác, lại có tính lạc quan, tích cực tiến thủ. Sao Thiên đồng hóa Kị chủ về lao động vất vả, khi Hóa Kị cũng là người có chủ nghĩa lạc quan, nhưng thường điều hòa cuộc sống công việc hằng ngày không hợp lý, nhiều sự việc trái với mong muốn, hoặc cơ năng thân thể thiếu hài hòa.
Sao Thiên đồng là một phúc tinh, không sợ sát tinh đồng cung hoặc hội chiếu. Có thể không cần đề kháng, cũng có thể tự hóa giải được sự hung hãn của lục Sát tinh. Sát tinh không chỉ không có tổn hại đối với sao Thiên đồng, mà ngược lại, còn thích Sát tinh đến kích phát lực khai sáng của sao Thiên đồng, khiến cho Thiên đồng không bị đình trệ trong sự "hưởng phúc". Nhưng, cũng có thể trong sự bận rộn và khai sáng, mà có lúc phải than rằng "có phúc mà không được hưởng". Cần phát triển thêm về mặt ngoại ngữ, hoặc văn nghệ, hoặc học để tăng thêm kỹ năng trong cuộc sống mà tự khai mở nguồn vui mới.
Người có sao Thiên đồng nhập mệnh, nếu không gặp Sát tinh, ngược lại, khiến cho Thiên đồng vốn thích hưởng phúc sẽ chìm đắm trong sự an lạc mà không có sự vươn lên. Thiên đồng thích gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên cơ, Thái âm, Thiên lương, càng chủ thọ cao. Gặp Xương Khúc chủ về tài thiên phú văn học nghệ thuật. Nữ mệnh Thiên đồng gặp Hữu bật, Thái âm, Văn xương, Vũ khúc, thì tình cảm thường nhiều phong ba.
Người có sao Thiên đồng thủ mệnh, chỉ cần thay đổi quan niệm và thói quen, tạm thời không đi hưởng phúc, mà tích cực đối diện với cuộc sống thì vẫn có thể đạt được những thành công như mong muốn.
Thiên đồng gặp Đà la ở cung mệnh, thường chìm đắm trong hiện tại. Thiên đồng gặp Kình dương thân thể dễ bị tổn thương. Thiên đồng thủ mệnh, gặp Kình Đà Hỏa Linh, và hóa Kị thì chủ về khai đao, phá tướng, nếu không thì thường xuyên bị đau ốm.
Sao Thiên đồng - Lục Bân Triệu
Sao Thiên đồng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy. Ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm Phúc tinh, là chủ tinh của cung phúc đức trong mệnh bàn. Bẩm tính ôn hòa không sợ tính hung của sao Kình dương, không lo sao Hóa Kị làm loạn.
Cho nên, sao Thiên đồng đồng độ với sao Kình dương ở Ngọ địa thì gọi là cách "Mã đầu đới tiễn" (Đeo tên ở đầu ngựa), chủ về vì quốc gia đem sức lực ra phục vụ, nắm giữ binh phù đại quyền, là vị đại tướng lập công ở chiến trường.
Sao Thiên đồng trấn thủ ở Tuất địa thì gọi là "Phản bối". Nếu ở Thìn địa thấy Hóa Kị, đồng thời còn gặp Lộc tồn hoặc Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu, thì lại là thượng cách, chủ về vừa phú vừa quý, đó là tượng "bĩ cực thái lai".
Sao Thiên đồng- Vương Đình Chi
Thiên đồng miếu ở ba cung Mão, Tị, Hợi, hãm địa ở ba cung Sửu, Ngọ, Mùi.
Thiên đồng là sao thứ tư của Nam Đẩu, thuộc dương thủy, hóa khí là "phúc".
Trong Đẩu Số, sao Thiên đồng được ví là vị thần chuyên trông coi việc ăn uống, sắp xếp yến tiệc cho hoàng đế, vì vậy thiên đồng có đặc tính là hưởng thụ, theo đó khuyết điểm là lãng phí và nhu nhược.
Tồn tại một khái niệm khá phổ biến, cho rằng "Thiên đồng ở trong 12 cung, đều là phúc trạch", thực ra không phải vậy. Vương Đình Chi cho rằng "Thiên đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm".
Nói về cung mệnh, người có Thiên đồng thủ mệnh, Cát thì chủ về khiêm tốn, thông minh mẫn tiệp, phong thái cao thượng phong nhã; Hung thì chủ về chìm đắm trong dục lạc, hay do dự thiếu quyết đoán, hoặc chỉ có kế hoạch tốt mà không thực hiện.
Thiên đồng úy kị tính cứng rắn và hình khắc của Hỏa tinh và Linh tinh, nhưng lại không sợ Kình dương. Khi Thiên đồng nằm cùng cung với Kình dương ở Ngọ, gọi là "Mã đầu đới tiễn" trái lại, sẽ chủ về người nắm thực quyền trong quân đội hoặc cảnh sát.
Thiên đồng ở Hợi không ưa Hóa Kị (năm Canh). Nếu can của cung Hợi hóa Kị, gọi là hóa xuất, lại gặp thêm Lục sát và Thiên hình, thì chủ về hình khắc cô độc, hoặc bị tai nạn bệnh tật làm tổn thọ.
Thiên đồng rất ưa trấn thủ tại Tuất, gặp Cự môn hóa Kị ở xung cung lai chiếu, được gọi là "phản bối", nếu được Lộc tồn và Hóa Lộc hội hợp, là hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai, biến thành mệnh đại quý.
Nữ mệnh Thiên đồng cuộc sống thường sung túc, nhưng dễ cảm thấy tinh thần trống rỗng. Cổ nhân cho rằng "Nữ mệnh Thiên đồng cư Tị Hợi nhập miếu, thì đẹp mà dâm". Luận đoán này được suy diễn ra từ tính chất tinh thần trống rỗng. Ở phương diện sự nghiệp hoặc phương diện sở thích, nếu có thể làm cho sinh hoạt tinh thần trở nên phong phú, thì vẫn tránh được cái gọi là "đẹp mà dâm", đời sống hôn nhân tự nhiên sẽ được vui vẻ. Thiên đồng rất cần sinh hoạt tinh thần phong phú và đa dạng, để lấp đầy cảm giác nhàm chán.
Phàm Thiên đồng nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc đức, chỉ cần không có Hóa Kị, phần nhiều chủ về tài năng âm nhạc, hoặc ưa thích cái đẹp, do đó chẳng khó tìm nơi để ký thác về phương diện tinh thần.
Bất kể là nam hay nữ, nếu Thiên đồng thủ mệnh, gặp sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng lại có thể có năng lực khai sáng, mà không bị sầu muộn về phương diện tinh thần. Nếu chỉ gặp sao Cát, mà không gặp các sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng dễ chìm đắm trong lạc thú mà trở thành phóng đãng. Đây giống như thời xưa, hoàng đế không có trung thần can gián, ở vào thời chưa gặp họa loạn, dễ vì lời sàm tấu của nịnh thần mà biến thành hôn quân.
Sao Thiên đồng - Phan Tử Ngư
Thiên đồng thuộc dương thủy, sao thứ tư của Nam Đẩu, chủ về kéo dài tuổi thọ, làm chủ cung Phúc đức, hóa khí gọi là Phúc.
Cổ nhân gọi sao Thiên đồng là "Ích thọ chi tinh, bảo sinh chi tú" (Sao ích thọ, sao bảo vệ sinh mệnh). Thiên đồng nhập mệnh chủ về thời trẻ nước da mặt trắng, trung niên về già biến sắc ngả trắng vàng, mặt hình chữ nhật. Khi Thiên đồng nhập miếu thì người béo mập, gặp hãm địa thì thấp bé, tính ôn hòa từ thiện có cơ trí, không cao ngạo, tinh thông văn chương bút mực. Nếu gặp Sát tinh đồng cung hay xung chiếu, thì chủ về cô đơn, phá tướng. Nếu đồng cung với Đà la phần lớn là mắt híp, mắt lé và thường phát phì. Nếu nam mệnh Thiên đồng nhập cung Quan, mà bản mệnh không hình thành được cách cục, thì không thể luận là cát. Vì đặc tính lớn của Phúc tinh chỉ biết an hưởng, không có năng lực sáng tạo.
Sao Thiên CơThiên cơ tinh - Toàn thư
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên cơ là âm mộc. Tại Đẩu sao Thiên cơ là ngôi sao thứ ba thuộc Nam Đẩu, tại Số sao Thiên cơ theo cung vị thứ hai thuộc Bắc Đẩu, của phép định cục an sao thiên bàn. Chủ về trí tuệ, tư tưởng, anh chị em, hệ thần kinh, hóa khí là thiện, khi hóa Kị sẽ Hung (chủ về thần kinh đầu óc có vấn đề), làm chủ cung Huynh đệ.
Sao Thiên cơ mang đặc trưng đa tài đa nghệ, mang tính động, nhưng tính động ở đây không phải là những biến động trong cuộc đời, mà là động não, hoạt động thường phải bôn ba lao lực nên phản ứng khá nhanh nhạy, giỏi vận động, liên lạc giao thiệp, quy hoạch, phân tích, làm việc có nguyên tắc có uy nghiêm. Hợp với những nghề dịch vụ, kỹ thuật chuyên môn, truyền thông đại chúng, thường theo các công việc thiết kế quy hoạch mà không phải thực thi, thực hành. Nhưng thiếu tính ổn định nên kỵ theo nghề kinh doanh hay tự lập nghiệp.
Sao Thiên cơ còn có tên là sao Thiện, nếu gặp Cát tinh lại đắc địa thì mọi việc đều tốt đẹp. Chăm lễ Phật, có hứng thú đặc biệt với tôn giáo hoặc mệnh lý, kính trọng hiếu thảo với người thân, phù hợp với nghiệp tu hành tăng đạo, tính lương thiện không có lòng ác độc bất nhân, có khả năng tùy cơ ứng biến, làm việc có phương pháp.
Nếu mệnh nữ có Thiên cơ phần nhiều chủ về phúc thọ, gặp Cát sẽ cát gặp Hung sẽ hung. Nếu gặp sao Thiên lương thì bản thân sẽ có một biệt tài nào đó.
Sao Thiên cơ không có khả năng chế hóa hung sát, đặc biệt nhạy cảm với sát tinh, vì sợ rằng trí tuệ của Thiên cơ sẽ giúp kẻ ác làm càn. Sao Thiên cơ cũng rất kỵ khi Hóa Kị, khi hành vận hạn nếu gặp phải hung sát hoặc sao hóa Kị, hoặc bị hung sát Hóa Kị xung chiếu, nếu không được Cát tinh ứng cứu, nên đề phòng tai ách, tốt nhất là nên thận trọng phòng thủ, không nên hành động.
Bốn ngôi sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương nếu tập hợp lại 3 cung Mệnh Tài Quan là cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thích hợp với sự nghiệp tôn giáo, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên cơ và Cự môn rơi vào cung mệnh tại Mão hay Dậu là cách Cự Cơ đồng lâm, sẽ có thành tựu lớn trong lĩnh vực khoa học công nghệ cao. Nếu Thiên cơ và Thiên lương đồng cung tại Thìn hay Tuất, hoặc tại cung Thiên di chiếu về cung Mệnh, là cách Thiện ấm triều cương chủ về phúc thọ song toàn. Nếu Thiên cơ Cự môn cùng trấn mệnh tại Dậu địa lại đồng cung với hóa Kị, hoặc gặp sao hóa Kị tại cung vị tam phương tứ chính là cách Cự Cơ hóa Dậu chủ về bôn ba vất vả gặp nhiều thất bại, nếu là mệnh nữ chủ về lênh đênh phiêu bạt.
Ca quyết:
Thiên cơ huynh đệ chủ, Nam Đẩu chính diệu tinh
Tố sự hữu thao lược, bẩm tính tối cao minh
Sở vi tối hiếu thiện, diệc khả tác quần anh
Hội cát chủ hưởng phúc, nhập cách cư hàn lâm
Cự môn đồng nhất vị, võ chức áp biên đình
Diệc yếu quyền phùng sát, phương khả lập công danh
Thiên lương tinh đồng vị, định tác đạo dữ tăng
Nữ nhân nhược phùng thử, tính xảo tất dâm bôn
Thiên đồng dữ Xương Khúc, tụ củng chủ hoa vinh
Thìn Tuất Tý Ngọ địa, nhập miếu hữu công danh
Nhược tại Dần Mão Thìn, Thất sát tịnh Phá quân
Huyết quang tai bất trắc, Kình Đà cập Hỏa Linh
Nhược dữ chư sát hội, tai hoạn hữu ách kinh
Vũ ám Liêm Phá hợp, lưỡng mục thiểu quang minh
Nhị hạn lâm thử tú, sự tất hữu biến canh.
SAO THIÊN CƠ TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và đặc tính
Người có sao Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, đa phần là có dáng người cao, nếu hập miếu thì béo mập, rơi vào thế hãm thì gầy, ánh mắt linh hoạt, dáng vẻ đoan chính, diện mạo dễ gần lương thiện, có lễ nghĩa, lời nói nho nhã, cử chỉ lịch sự.
Là người thông minh, mặt mũi ưa nhìn, tính cách nhân từ, ôn hòa trung hậu, thích làm việc tốt, hiếu nghĩa với luc thân, chịu khó lễ Phật, không có hành vi bất nhân bất nghĩa, được người khác tin cậy. Có tính hiếu học hiếu động, đa tài đa nghệ, học nhiều nhưng không tinh thông, phản ứng nhanh nhạy, điềm tĩnh có sức hút, túc trí đa mưu, xử sự hợp lý, giỏi thích nghi hoàn cảnh, lúc lâm nguy không bị rối loạn. Tam tư trấn tĩnh, có năng lực quan sát, giỏi nghiên cứu, có sở trường về phân tích, kế hoạch, giao thiệp, có thể không ngừng đưa ra ý tưởng sáng tạo. Thích phục vụ cống hiến, có tinh thần đồng đội, hứng thú với mệnh lý tôn giáo. Thần kinh quá nhạy cảm hoặc đa sầu đa cảm, nhiều ảo tưởng, có tửu lượng tốt, tính cố chấp, không phục tùng, có cơ duyên với người khác giới, về phương diện tình cảm thì ghét tình dục, dễ bị cắm sừng; tâm tính, công việc, sự nghiệp thường thay đổi theo hoàn cảnh.
Nếu là mệnh nữ thường có dung mạo xinh đẹp, biết cách trang phục dễ coi, được lòng người, tính cởi mở. Nếu sao Thiên cơ là miếu, vượng thì tính cách khôn khéo, có quyền bính, vượng chồng lợi con, nếu lại được Hóa Quyền, Hóa Lộc (hoặc có Lộc tồn) thì là quý phụ. Thiên cơ rơi vào thế hãm địa, gặp tứ Sát, sao Hóa Kị xung phá, thì chủ về cô độc, tàn tật, không cát lợi.
Suy đoán mệnh lý
Thiên cơ = 0
Thiên cơ + 4
Thiên cơ - 2
Thiên cơ + 2
Thiên cơ + 1
Thiên cơ + 3
Thiên cơ + 3
Thiên cơ + 1
Thiên cơ + 2
Thiên cơ - 2
Thiên cơ + 4
Thiên cơ = 0
Độ sáng của sao Thiên Cơ tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên cơ.
Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Thiên cơ vận chuyển theo sao Tử vi, do sự chỉ đạo của sao này, các sao khác mới có thể vận hành theo quý đạo, là mẫu chốt thay đổi của hệ thái tinh tĩnh "Cơ Nguyệt Đồng Lương" nên có đặc tính "động"
Sự chuyển động của sao Thiên cơ không giống như sự chuyển động với "biên độ lớn" trong lịch trình đời người của các sao Thất sát, Phá quân, Tham lang, mà là sự động não, động thân thể. Sự thay đổi "biên độ nhỏ" trong phạm vi nhất định, đầu óc không ngừng hoạt động, chân tay cũng không chịu để yên, vì vậy mà phản ứng nhanh nhạy, túc trí đa mưu, là một sao chủ về đa trí. Nhưng cũng vì vậy mà dễ bị thần kinh suy nhược, mất ngủ, bệnh biến tứ chi, hoặc trở thành bệnh mang tính chất thần kinh.
Sao Thiên cơ tùy theo cơ duyên mà thay đổi không ngừng, thường thay đổi lập đi lập lại trong phạm vi cố định, thay đổi lập đi lập lại hoặc trở về thời điểm ban đầu, nhưng lại không có chức năng hoàn nguyên. Do sao Thiên cơ thông minh, phản ứng nhanh, khả năng thích ứng mạnh, có thể thoải mái tự do trong sự thay đổi, vận dụng mang tính đàn hồi, cùng với sách lược điều chỉnh cơ động của môi trường, trong trạng thái tĩnh không làm mất đi biểu hiện hoạt bát, vì vậy có thể không ngừng thay đổi về quan niệm và hành động của bản thân. Làm cho những phiền não và đau khổ trước đó được giải tỏa, mang lại thời cơ chuyển biến cho khí vận vốn cứng nhắc trì trệ.
Sao Thiên cơ thay đổi thích ứng với hoàn cảnh, đồng thời chủ động nắm bắt và thúc đẩy bản năng thay đổi, có thể thúc đẩy năng lực học tập, có nhiều cơ hội học tập, làm cho sao Thiên cơ rất dễ học được nhiều điều mới, sau khi học hỏi xong rất nhanh có thể học hỏi những điều mới lạ khác, thúc đẩy bản thân sao Thiên cơ tiến bộ không ngừng, tri thức và trí tuệ không ngừng gia tăng, về già thường trở thành người đáng tin cậy "Nhất ngôn cửu đỉnh", là người giảng hòa cho người khác.
Sao Thiên cơ là một sao tốt, nhiều trí tuệ, thích đưa ra chủ kiến giải tỏa khó khăn cho người khác, nên theo nghề phục vụ, chuyên môn kỹ thuật, thiết kế và truyền thông đại chúng. Người có sao Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, về quân đội có thể trở thành nhà chiến lược. Về văn chương có thể trở thành nhà văn, nhà nghệ thuật. Về chính trị có thể trở thành quản đốc kỹ thuật, đại biểu dân ý chuyên nghiệp. Về kinh doanh có thể trở thành nhân tài đầu tư tài chính. Về khoa học kỹ thuật có thể trở thành sỹ sư máy tính hoặc cơ điện.
Sao Thiên cơ hiếu học hiếu động, làm cho người khác cảm thấy vừa tháo vát lại vừa đa tài đa nghệ, nhưng tính chất của "tài nghệ" không giống với sao Tham lang, hoặc Văn xương, Văn khúc. Tài nghệ của sao Thiên cơ thiên về các lĩnh vực như vận động, vạch ra kế hoạch, phân tích, sáng tạo, phát minh, giao thiệp, truyền thông đại chúng. Tài nghệ của sao Tham lang chủ yếu là giao tiếp ứng xử, cầm kỳ thư họa, thiết kế. Tài nghệ của sao Văn Xương thì lại thiên về văn học, nghiên cứu học thuật, viết văn... Tài nghệ của sao Văn Khúc chủ yếu ở các linh vực như: nghệ thuật, giao tiếp, ngoại ngữ, tài nghệ đặc biệt, âm nhạc, hội họa, vũ đạo, sân khấu, giải trí.
Sao Thiên cơ có đặc tính động, khó yên vị với môi trường cố định không thay đổi, thích tự mình tìm ra cái mới phát sinh thay đổi, có tiềm năng vận động để thay đổi vận động cũng như thay đổi môi trường, hoặc có nhiều cơ hội kiêm hai ba chức vụ, nên thường rất bận rộn vất vả bôn ba, thiếu tính ổn định, do vậy Thiên cơ kỵ nhất là lập nghiệp theo ngành kinh doanh.
Người có sao Thiên cơ thủ Mệnh, cung Phu thê tất có sao Thái dương tọa thủ, nếu gặp sao Thái dương rơi vào thế hãm hoặc Hóa Kị (người sinh năm Giáp), hoặc sao Thiên cơ bản thân rơi vào thế hãm, Hóa Kị hay gặp phải hung tinh, sát tinh, thì chủ về bất lợi cho đời sống hôn nhân, có thể đứt gánh giữa đường.
Sao Thiên cơ tại cung vị tọa mệnh liền kề với hai cung vị, một cung luôn có sao Tử vi, cung còn lại thì không có chủ tinh cũng là không có sao cố định, mức độ tốt xấu thiện ác của sao này hành đại vận, tiểu hạn, lưu niên, đều ảnh hưởng đến phương hướng thay đổi của sao Thiên cơ. Nếu thuận hành theo đại vận, tiểu hạn hoặc lưu niên, tất trước tiên phải xem mức độ tốt xấu của sao tọa thủ tại cung này, nếu thuộc cát lợi thì sao Thiên cơ nên "thuận tay đảy thuyền" nghênh tiếp vận hạn mà phát triển theo phương diện tốt. Cung này nếu không cát lợi, mà phấn đấu cũng không có hiệu quả, thì sao Thiên cơ nên điềm tĩnh lại, thu thập tàn cục, chịu khó phân tích và kiểm điểm lại việc đã qua, để vạch ra sách lược nhiệm vụ kế hoạch cho tương lai sau này.
Trường hợp nghịch hành với đại vận, tiểu hạn, lưu niên, nếu cung này không cát lợi, thì sao Thiên cơ phải biết thận trọng dè dặt, không được vội vàng thay đổi, khi chưa phân tích tình hình cụ thể những đòi hỏi của hoàn cảnh có thể phải sửa đi sửa lại nhiều lần. Bởi vậy, khi gặp phải vận xấu nhập vào sao Thiên cơ, vận hạn này chưa thể là thời cơ tốt để thăng cơ bổ vận.
Phương thức bổ vận có vận động, tiến tu, suy xét,..., để làm giảm bớt sự dao động của bản thân sao Thiên cơ, với tiền năng của Thiên cơ làm cho bản thân có được trạng thái điềm tĩnh mà đối diện với biến động không ngừng của cuộc sống, đồng thời thể hiện đầy đủ triết lý nhân sinh về tĩnh và động, biến và bất biến.
Sao Thiên cơ khi miếu, vượng, thì hóa cát lợi chủ về phú quý. Nếu rơi vào hãm địa thì bình thường, có thể nói là không tốt. Sao Thiên cơ và các Cát tinh như Thiên lương, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, tam phương hội chiếu, về văn thì tinh thông về võ thì trung lương, thông tình đạt lý tận trung tận tụy với công việc.
Sao Thiên cơ gặp Thiên lương đồng cung hoặc trong thế tam phương hội chiếu, là người giỏi về việc binh, có thể là nhân tài quân sư. Sao Thiên cơ và sao Thiên tài cùng cung là người trí tuệ, thông minh hơn người.
Mệnh nữ có sao Thiên cơ gặp cát tinh chiếu tại tam phương (cung Quan, cung Tài, cung Di), tứ chính (cung mệnh hợp tam phương) thì vượng chồng ích lợi cho con, gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền là người vợ tốt.
Sức đối kháng của sao Thiên cơ với Sát tinh khá yếu. Thiên cơ sợ rơi vào thế hãm, không ưa đồng cung với 6 sát tinh, cũng sợ gặp sao Hóa Kị. Nếu Thiên cơ rơi vào thế hãm hoặc gặp Sát tinh, mà không có Cát tinh phù trợ, thì dễ gặp trắc trở nội tâm đau khổ, nên theo nghề công chức hoặc ngoại vụ, đề phòng bệnh tật hình khắc.
Sao Thiên cơ Hóa Kị, có thể tồn thương đến gân não, đầu óc, phàm làm việc dễ xảy ra tình trạng xai sót, càng suy sét kỹ lại càng xảy ra sai lầm, trước khi kết hôn thường hay trăng hoa, sau khi kết hôn lại dễ rơi vào môi trường có điều kiện hái hoa bắt bướm, thường theo nghề kỹ nghệ, thiên về lĩnh vực kỹ thuật, hoặc thích nghiên cứu Đông y, Mệnh lý.
Tất cả các sao đều sợ sao Hóa Kị, đặc biệt là ba sao Liêm trinh, Tham lang và Thiên cơ càng sợ sao Hóa Kị. Sao Liêm trinh là sao "tù", khi Hóa Kị thành bị thắt chặt, không thể mở ra, thân và trái tim bị đóng chặt, hàng ngàn khó khăn, tai họa không nhẹ. Sao Thiên cơ chủ về lo xa, chu đáo, sao Thiên cơ hóa Kị thì mọi việc đều có sai xót, càng lo lắng thì càng có vấn đề. Sao Tham lang là quỷ dục vọng, sao Tham lang Hóa Kị thì dục vọng quá cao nên mọi cố gắng cuối cùng cũng bằng không.
Sao Thiên cơ - Lục Bân Triệu
Sao Thiên cơ về ngũ hành thuộc âm mộc, ở trên trời thuộc chòm Nam tinh, hóa làm sao lành. Tính chất của sao này là nhiều kế mưu ứng biến đa đoan; ở người là giỏi quyền biến, giỏi nắm bắt cơ hội, có tính hiếu học, hiếu động, siêng năng. Song cứ thấy lạ là thay đổi cách suy nghĩ, vì vậy rộng mà không sâu, bác mà không tinh; hơn nữa dục vọng quá cao, cho nên thực tế thường không theo kịp lý tưởng, vì vậy mà nhọc tâm mệt sức, song xử sự phần nhiều là có lý lẽ.
THIÊN CƠ Ở CUNG MỆNH
Thiên cơ ở cung mệnh thì chủ về người sắc mặt trắng xanh, lúc tuổi già hơi kèm sắc vàng. Nhập miếu thì thân hình dài mập. Đồng độ với Cự môn hoặc lạc hãm chủ về người gầy dong dỏng cao, mặt dài hơi kèm tròn, tâm từ tính gấp, hiếu động, hiếu học.
Nam mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh thì nhiều cơ mưu biến hóa, đa tài đa nghệ. Hội hợp với Thiên lương thì sở trường về khẩu tài, khéo biện luận, tính tình nhạy cảm, giỏi tùy cơ ứng biến. Đồng độ hoặc hội hợp với Thái âm thì kín đáo giỏi quyền biến, trọng tình cảm.
Thiên cơ ở Thân địa thì có Tử vi và Thiên phủ giáp cung Mệnh, một đời quyền trọng lộc nhiều. Ở Tý địa hoặc Ngọ địa thì Cự môn xung cung trở thành bậc quyền quý giầu có.
Thiên cơ nhập miếu thì bàn việc quân rất giỏi. Được các sao Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Hóa quyền, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt hội hay chiếu thì một đời quyền quý. Được Lộc tồn Thiên mã vây chiếu thì nguồn tiền tài dồi dào. Có Văn xương Văn khúc giáp cung thì bẩm tính thông minh, văn chương xuất chúng. Có tam hóa tinh Lộc Quyền Khoa chiếu và hội, không có sát diệu, là trong thần triều đình. Gặp Hóa Kị thì đi đó đi đây nhiều thay đổi, lừng khừng không quyết đoán vì tính tự hay quan trọng hóa vấn đề, quan trọng hóa sự việc một cách không cần thiết, nên hay lo hay nghĩ. Đồng độ với Kình Đà Hỏa Linh tuy được phú quý song không lâu dài. Gặp Cát tinh thì nên chọn nghề kinh doanh song phải chấp nhận nhiều biến động để thích nghi với thị trường.
Nếu có Cát tinh phù trì thì chủ về bản thân kiêm mấy chức, hoặc là người có kỹ thuật chuyên môn, thành công vè nghệ thuật.
Thiên cơ Cự môn Lộc tồn đồng cung, hoặc ở cung Thiên di, chủ về đại quý (cần phải không có ác sát)
Thiên cơ Thiên lương đồng cung, có cát tinh hội và chiếu, tuy có thể phát song không được lâu dài, tuy rằng quý nhưng chỉ có hư danh. Thiên cơ, Thiên lương, Thát sát, Phá quân xung hội là người thích đàm luận thiền cơ của cửa Không. Thiên cơ, Thiên lương, Thiên đồng, Thái âm hội và chiếu thì nên tính việc phát triển ở cơ quan công sở hoặc những ngành nghề liên quan đến công chúng. Nếu gặp Văn xương Văn khúc thì thích hợp với những ngành nghề liên quan đến văn hóa đại chúng. Thiên cơ, Thiên lương, Thái âm hội và chiếu, mà Tham lang thì ở cung Thân thì chủ về người ngày đêm bôn ba, tất bật dị thường, hoặc đam mê riệu chè cờ bạc. Cùng với Kình Đà Hỏa Linh hội và chiếu thì chủ về nhiều tài nhiều nạn, hoặc sau khi suy sụp thì bỏ đi nơi khác, hay làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ hay lo sợ vô cớ. Ở Dần địa, Mão địa, Thìn địa mà hội và hợp Sát tinh Thất sát và Phá quân là chủ về chuyện bất trắc chảy máu. Phàm hội và hợp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và Thiên hình, lại gặp thêm Hóa Kị thì yểu thọ.
Nữ mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh chủ về tính tình cương cường, thông minh khéo léo, lanh lợi, giúp chồng ích con, giỏi lo việc nhà, tháo vát hơn chồng. Có tam cát Lộc Quyền Khoa tương hội là tạo mệnh phu nhân. Có Thái âm đồng độ là dung mạo mỹ lệ, giầu tình cảm, khéo đối xử. Có Cự môn hội và chiếu là người nhiều lời qua tiếng lại. Thiên cơ hóa Kị thì hay lo nhiều nghĩ nhiều, bị tính ưa kích thích, dễ bị ngoại giới ảnh hưởng mà gây nên cảm xúc, làm cho đối tượng nam giới vừa hận vừa yêu, là bông hoa hồng có gai. Nếu Thiên cơ, Cự môn, Thiên lương, Thái âm hội và hợp, lại gặp thêm ác sát Hóa Kị Kình Đà Hỏa Linh, Thiên hình Không Kiếp là chủ về hình khắc, thường làm kế thất, làm vợ lẽ, hoặc hậm kết hôn, nếu không thì tổn thương chồng khắc hại con.
Lưu niên đại hạn vào triền độ của Thiên cơ, nhiều cơ hội mới, chủ về có cơ hội chuyển động biến đổi, hoặc nhà ở, giường ngủ có chuyện phải di dời. Hội và chiếu Thiên mã là có thuyên chuyển thăng chức, đi xa. Hội với tam hóa Khoa Quyền Lộc và các cát tinh như Lộc Mã Xương Khúc Khôi Việt thì chủ về phát triển sự nghiệp, thêm tài thêm phúc. Nếu các sao Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kị Cự môn hội và chiếu thì chủ về lời qua tiếng lại liên miên, gia sự rối bời, tâm phiền ý nản, mọi việc đều biến động không được yên ổn.
Sao Thiên cơ - Vương Đình Chi
Sao Thiên cơ miếu ở Tý Ngọ, hãm ở Sửu Mùi.
Sao Thiên cơ là sao thứ nhất của Nam Đẩu, ngũ hành thuộc âm mộc, hóa khí là "thiện" (khéo léo).
Tính chất cơ bản của Thiên cơ là mưu trí, quyền biến và linh hoạt, có thể ví với mưu sĩ hoặc quân sư.
Nói về phương diện tốt, Thiên cơ chủ về thông minh, nhạy bén, xử sự có mạch lạc lớp lang, cho nên học hành giỏi giang, có thể trở thành người đa tài đa nghệ. Nhờ đặc tính thông minh, nhạy bén với thời cuộc, người Thiên cơ là người khi lâm sự thường phản ứng nhanh, lại khéo ăn khéo ở. Do những đặc tính này, Thiên cơ có phẩm cách về trí tuệ, giỏi động não sở trường về phân tích và vạch kế sách, kiêm có kỹ năng chuyên môn. Đây đều là đặc tính mưu thần và quân sư.
Nói về phương diện khuyết điểm, Thiên cơ có đặc tính hay lo nghĩ quá đáng, thường lao tâm khổ tứ. Cho nên, có biểu hiện không thể kiên trì trong một kế hoạch. Bởi vì, khi tiến hành theo kế hoạch tới một giai đoạn nào đó, người Thiên cơ sẽ vì suy nghĩ tính toán quá nhiều nên muốn thay đổi kế hoạch. Nói cụ thể hơn, người có Thiên cơ thủ cung Mệnh dễ có tính đứng núi này trông núi nọ, học nhiều mà không thực tế, tâm dục đặt mục tiêu quá cao.
Thiên cơ thủ Mệnh không nên kinh doanh làm ăn, đặc biệt không nên tự sáng lập sự nghiệp, mà chỉ nên làm việc lập kế sách. Nếu không, khi tự kinh doanh, sẽ dễ vì động não quá nhanh mà không kiên trì theo đuổi mục đích ban đầu, thường dẫn đến rối loạn sự đồng thuận ở giai đoạn cuối nên hiệu quả không mang lại giá trị cao nhất, đôi khi còn dẫn đến thất bại.
Thiên cơ khác với Tử vi, nó không có khí quý phái của bậc hoàng đế, cho nên sức đề kháng và hóa giải các sao hung, sát, kị, hình, rất yếu. Thiên cơ rất ngại Hóa Kị, khi hóa Kị khiến cho những ưu điểm của Thiên cơ rất khó được phát huy, trong khi khuyết điểm lại bị bộc phát hoàn toàn.
Thiên cơ cũng tương phản với Tử vi ở chỗ không kị gặp Cự môn, khi Cự môn gây ảnh hưởng đối với Thiên cơ, chỉ là dễ xảy ra điều tiếng thị phi sau lưng, nhất là sai lầm về những phát ngôn thuộc quá khứ của Thiên cơ.
Sao Thiên cơ - Phan Tử Ngư
Thiên cơ thuộc âm mộc, sao thứ ba của nhóm Nam Đẩu, là sao ích thọ, chủ về anh em, hóa khí gọi là thiện nên còn gọi là Thiện Tú (sao Thiện). Thiên cơ nhập miếu, vượng thì người đậm mập, gặp hãm địa thì người gầy ốm. Tính cách phần nhiều tính toán sáng suốt, siêng năng cẩn thận, nếu đồng cung với Thiên lương thủ Thân Mệnh thì phần nhiều là người nói hay, giỏi biện luận, đủ tố chất thành tài ở ngành nghề cần tới sự khéo léo đặc biệt, tâm địa thiện lương, có lòng tín ngưỡng đối với tôn giáo. Nếu thêm Khôi Việt Khúc Xương thì chủ về đa học đa năng, nếu có Kình dương xung phá hoặc hội thêm Không Kiếp thì rất cô độc, hoặc là mệnh sư tăng đạo sĩ.
Sao Thái DươngSao Thái dương - Toàn thư
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thái dương là dương hỏa, là chủ tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, là cát tinh, hóa khí là quyền quý, chính chủ của cung Quan lộc.
Sao Thái dương chủ về phần mắt, cá tính. Về sự nghiệp chủ về hoạt động giao tiếp, tính công bằng, bác ái, rộng lượng.
Sao Thái dương là tinh hoa của mặt trời, là chuẩn mực của tạo hóa, tại số chủ về danh vọng, sau đó là giầu có, văn võ song toàn (nếu gặp sao Thiên hình sẽ hiển quý về nghiệp võ), ưa thích gặp Tả phụ và Hữu bật để được trợ giúp, gặp Lộc tồn sẽ có tước lộc cao, gặp Thái âm sẽ tương sinh. Gặp các Cát tinh sẽ may mắn cát tường, gặp Sát tinh sẽ vất vả truân chuyên. Nếu đóng tại cung Thân cung Mệnh lại miếu vượng, sẽ là sao tốt trong mệnh số, tốt nhất là ở cung Quan lộc.
Vầng Thái dương có lúc mọc lúc lặn, nên trong lá số, sao Thái cũng biến đổi theo từng cung Mệnh: tại Dần địa Mão địa là mới mọc, tại Thìn Tị là thăng điện, tại Ngọ là mặt trời giữa trời chủ về đại phú đại quý, tại Mùi Thân là xế bóng làm việc trước chuyên cần sau trễ nải, tại Dậu là lặn về Tây hữu danh vô thực, đẹp mã mà rỗng tuếch, tại Tuất Hợi Tý Sửu là mất sáng, nếu lại gặp Cự môn hay Phá quân chủ về một đời bần hàn vất vả, tính cách khó gần, dễ gặp chuyện thị phi.
Sao Thái dương chủ về Quan Lộc, nên tốt nhất là đóng tại Cung quan lộc, đặc biệt là khi xuất hiện một mình tại Ngọ địa, là thế Nhật lệ trung thiên (mặt trời giữa trời), khí thế sôi nổi, sự nghiệp lẫy lừng, ắt là bậc lãnh tụ thành tựu phi phàm.
Sao Thái dương ưa thích đồng cung với sáu Cát tinh, hoặc cùng sáu Cát tinh hội tam phương chiếu lẫn nhau, đặc biệt hợp với sao Tam thai và Bát tọa tăng cường vẻ sáng. Cũng rất ưa đồng cung với Ân quang và Thiên quý chủ về nhận được ân huệ đặc biệt, mang vinh dự lớn. Nếu Thái dương nằm cùng một cung với Đế tinh, Tả phụ, Hữu bật, tuy hãm nhưng vẫn được coi là quý.
Sao Thái dương nếu miếu, vượng mà gặp Sát tinh xâm phạm, chỉ gây ảnh hưởng đến người thân là nam giới, còn về biểu hiện bản thân thì chỉ tăng thêm ít nhiều vất vả chứ không bị giảm tốt. Ánh sáng của Thái dương cũng không thể bị Thiên la Địa võng khống chế. Sao Thái dương tuy không sợ sáu Sát tinh nhưng trừ trường hợp nằm ở Mão địa, thì đều kỵ gặp sao Hóa Kị, đặc biệt khi nằm tại cung vị hãm sẽ rất bất lợi cho mắt.
Sao Thái dương không ngừng di chuyển, gặp Tả phụ Hữu bật sẽ phò trợ cho quân chủ, gặp Cát tinh nhập miếu sẽ cát. Lạc hãm gặp thêm hung tinh sẽ vất vả. Nếu đóng tại cung Thân cung Mệnh chủ về tính tình trung hậu, rộng rãi không chấp nhặt. Nếu được miếu, vượng, Hóa Lộc, Hóa Quyền lại càng thêm hiển quý. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt tam phương hội và chiếu hai cung Tài bạch và Quan lộc, chủ về phú quý tột đỉnh, thêm tứ Sát cũng chủ về đủ ăn đủ mặc, là phụ nữ chủ về vượng phu ích tử.
Sao Thái dương có tính động, nếu đóng tại cung Mệnh chủ về một đời không được nhàn nhã, lại thêm Thái dương chủ về sang chứ không chủ về giầu, nên hiển quý mà thanh cao, cho dù gặp Lộc tồn cũng phải vất vả mới kiếm được tiền bạc.
Nếu Thái dương và Thái âm kèm hai bên sao Thiên phủ hoặc Vũ khúc Tham lang trấn thủ cung Mệnh tại Sửu Mùi, là cách Nhật Nguyệt giáp mệnh chủ về một đời giầu (nếu kèm hai bên Vũ Tham sẽ phát tài muộn).
Thái dương trấn Mệnh tại Ngọ là cách Kim sán quan huy (hay còn gọi là cách Nhật lệ trung thiên), tài hoa xuất chúng, thành tựu phi thường.
Nếu Thái dương đồng độ với Thiên lương tại Mão, tam phương hội Thái âm tại Hợi, nếu sinh ban ngày sẽ là cách Nhật chiếu lôi môn (Mặt trời rọi cả sấm) có tài lãnh đạo lỗi lạc.
Nếu cung Mệnh tại Mùi, sao Thái dương tại Mão, sao Thái âm tại Hợi, sao Thiên đồng và Cự môn đồng cung tại Sửu đối diện hội chiếu, sẽ hình thành cách Minh châu xuất hải vững bước đường mây.
Nếu cung Mệnh tại Sửu hoặc Mùi, sao Thái dương Thái âm miếu vượng tại cung tam phương hội chiếu; hoặc Thái dương tại Thìn Tị sao Thái âm tại Tuất Dậu là cách Nhật Nguyệt tịnh minh (mặt trăng mặt trời cùng sáng, hay còn gọi là cách Đan trì quế trì bậc son thềm quế), đường công danh sớm rộng mở.
Nếu cung Mệnh đóng tại Sửu Mùi, lại gặp Thái dương Thái âm, hoặc nằm tại cung đối diện tương chiếu là cách Nhật Nguyệt đồng lâm sẽ làm quan lớn.
Nếu Thái âm Thái dương đồng cung đều nằm tại cung Điền trạch, hoặc tại cung tam phương hội chiếu là cách Nhật Nguyệt chiếu bích (Mặt trăng mặt trời rọi vách), thường sở hữu cơ ngơi điền trang rộng.
Nếu Thái dương Cự môn trấn tại cung Mệnh ở Dần hay Thân là cách Cự Nhật đồng cung chủ về khổ trước sướng sau.
Nếu Thái dương, Thiên lương, Văn xương, Lộc tồn tụ hội tại cung tam phương tứ chính là cách Dương Lương Xương Lộc chủ về tước vị tiền tài gồm đủ.
Nếu Thái âm tại Thìn Mão, sao Thái dương tại Tuất Hợi gặp hãm trấn mệnh, sẽ hình thành cách Nhật Nguyệt phản bối là mệnh vất vả lao nhọc, ít duyên với cha mẹ.
Nếu sao Thái dương Thái âm gặp hãm, lại đóng tại cung Tật ách là cách Nhật Nguyệt tật ách chủ về khuyết tật.
SAO THÁI DƯƠNG TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Thái dương tọa thủ cung Mệnh, tướng mạo sáng sủa, cơ thể khỏe mạnh, mặt như trăng rằm, giọng nói sang sảng.
Dám yêu dám hận, thông minh nhân ái, quang minh lỗi lạc, trung hậu, không so đo tính toán.
Tính cách cởi mở, nhiệt tình bác ái, lạc quan thành thật, chí công vô tư
Độ lương khoan dung, khẳng khái tự tin, tích cực tiến thủ, hành động nhanh nhẹn.
Sôi nổi hiếu động, có năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức, biết thuyết phục lòng người, thẳng thắn, dễ đắc tội với người khác.
Dồi dào tinh lực, không để ý tiểu tiết lặt vặt, giỏi giao tiếp, thích thể hiện.
Mệnh nữ thường hướng ngoại, hoạt bát, động lập tự chủ, có tính cách của đang ông, cương trực đảm đang, thích phục vụ mọi người, có duyên với người khác giới, gặp nhiều sóng gió trong tình cảm, nên tìm đối tượng có tính ôn hòa. Sao Thái dương miếu vượng chủ về vương phu ích tử, gặp thêm Cát tinh sẽ phú quý. Nếu lại gặp thêm Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn thì sẽ có phong tặng. Nếu gặp Sát tinh sẽ bình thường. Nếu Thái dương hội hợp thêm 6 sát tinh hay Hóa Kị thì đa số là phụ nữ trinh tiết.
Suy đoán mệnh lý
Thái dương + 3
Thái dương + 3
Thái dương + 2
Thái dương + 2
Thái dương + 3
Thái dương = 0
Thái dương + 4
Thái dương – 1
Thái dương + 3
Thái dương - 1
Thái dương - 2
Thái dương - 2
Độ sáng của sao Thái dương tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thái dương. Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Thái dương chủ "quyền quý", là sao có ánh sáng chiếu bốn phía, mãi mãi chiếu xuống nhân gian, có thể đồng thời kiêm cả Nam Đẩu và Bắc Đẩu.
Là người hay đấu tranh lý lẽ, nên khó tránh gặp phải vất vả cô đơn. Hằng ngày mặt Trời mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây, vì thế ánh sáng của nó trong các cung Tử vi sẽ thay đổi tùy theo giờ. Mặt trời khi ở Dần Mão của Tử vi tượng trưng cho giờ Dần giờ Mão, là mặt trời mọc hướng Đông, khi mặt trời ở cung Ngọ của Tử vi là tượng trưng cho giờ Ngọ, là lúc mặt trời trên đỉnh đầu; khi mặt trời ở cung Thân Dậu của Tử vi, tượng trưng cho giờ Thân Dậu, là lúc mặt trời lặn xuống phía Tây.
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thái dương thuộc dương hỏa, tượng trưng cho tính "dương". Dù là mệnh nam hay nữ, miếu vượng hay hãm địa, ánh sáng của Thái dương trong cung mệnh, khi người cha còn sống có thể dùng để suy luận hung và cát của người cha; khi người cha không còn sống, mệnh nam sẽ đại diện cho bản thân, mệnh nữ thì đại diện cho chồng. Khi chồng của mệnh nữ mất đi, Thái dương trong cung Mệnh sẽ đại diện cho con cái. Vì thế, cho dù nam hay nữ, cho dù sao Thái dương miếu, vượng hay rơi vào hãm địa, có gặp thêm Cát tinh hay Hung tinh hay không, thì đều duyên bạc với bố từ lúc còn thơ ấu; ở tuổi trung niên mệnh nam sẽ mắc nhiều bệnh; mệnh nữ sẽ bạc duyên phận với chồng ở tuổi trung niên, về già bạc duyên với con cái. Còn về duyên phận, căn cứ vào cung vị của sao Thái dương và sao đồng cung hoặc hội chiếu mà quyết định. Tuổi nhỏ bạc duyên với bố hoặc bố hay ốm yếu hoặc ít khi gặp mặt bố hoặc sự nghiệp của bố thất bại; người nghiêm trọng thì mất bố từ nhỏ, xa gia đình hoặc khó xum họp hoặc đổi họ, làm con nuôi.
Thông thường, sao Thái dương rơi vào thế hãm, lại gặp Sát tinh, bất lợi nhất với người bố. Mệnh nữ có sao Thái dương tọa mệnh, dễ oán trách chồng, cũng bỏ tiền bạc hoặc tinh thần thể lực đặc biệt vào gia đình. Sức sống của sao Thái dương trường tồn và cũng có thể cung cấp sức sống cho các ngôi sao khác, có sự quang minh, hy vọng, dũng khí, và bác ái. Vì thế mà độc lập tự chủ, không lùi bước trước gian khổ, có quyền uy, có thể bảo về người khác.
Người có sao Thái dương thủ mệnh sẽ đặc biệt hứng thú với các công việc thanh nhã, mang tính chất văn nghệ. Có thể đạt thành tích tốt trong nghiên cứu, thi cử... Dễ mắc bệnh mắt, đau đầu, thần kinh suy nhược, bệnh tim, huyết áp.
Hào quan muôn trượng của sao Thái dương tràn đầy uy lực, ở cung vị miếu vượng Dần Mão Thìn Tị Ngọ, nếu tiếp cận Sát tinh và Kị tinh sẽ ảnh hưởng tới sức mạnh của nó, tăng thêm phần vất vả. Chỉ có sao Cự môn có hóa khi u ám mà bao phủ lên ánh sáng mặt trời, làm sao Thái dương mất đi ánh sáng hào quang. Ngoài ra, ánh sáng mặt trời có thể xuyên qua Thiên la Địa võng, chỉ tăng thêm vất vả mà thôi chứ không hạn chế sự thành công. Sao Thái dương ngoài nhập miếu ở Mão ra, không thích gặp sao Hóa Kị, đặc biệt rơi vào thế hãm ở Hợi Tý, có thể ảnh hưởng xấu tới mắt.
Sao Thái dương thích cùng cung hoặc hội chiếu với 6 cát tinh Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc, cả đời được quý nhân phù trợ, sự nghiệp hiển hách, việc gì cũng thuận lợi, đặc biệt thích gặp sao Tam đài, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, có thể tăng thêm hào quang, được hưởng đặc ân, Sao Thái dương cũng thích hội chiếu sao Thái âm và sao Lộc tồn, phú quý đều được hưởng, vừa có tiền vừa có chức, duy chỉ có phải lao động vất vả. Đồng cung với sao Thái âm thường là người hay thay đổi đa đoan trong công việc, thường xuyên chuyển nghề hoặc làm trái ngành, nếu là mệnh nữ lại là người dễ thay đổi tình cảm.
Sao Thái dương thích ban ngày và người sinh vào mùa Xuân Hạ, người sinh ban đêm thì sao Thái dương sẽ mất ánh sáng nên không có thành công, người sinh mùa Đông thì cả đời lận đận. Sao Thái dương mất ánh sáng, lại gặp sao Thiên hình sẽ vướng vào vòng kiện tụng lao lý. Sao Thái dương miếu, vượng gặp sao Thiên hình thì nên làm trong quân đội hoặc cảnh sát. Sao Thái dương không thích Kình dương và Đà la vì dễ mắc bệnh.
Sao Thái dương - Lục Bân Triệu
Sao Thái dương trong ngũ hành thuộc dương hỏa, ở trên bầu trời là mặt trời, hóa làm quý khí. Ở nam mệnh là Phụ tinh - sao Cha, và Tử tinh - sao con trai. Ở nữ mệnh, làm Phụ tinh - sao Cha, Phu tinh - sao Chồng, và Tử tinh - sao con trai. Thích hợp người sinh ban ngày, không thích hợp người sinh ban đêm. Là chủ tinh của cung sự nghiệp trong mệnh bàn.
Thái dương ở trong 12 cung đều có tên gọi riêng:
- Thái dương đến cung Tý gọi là Thiên Nghi, chủ về người giầu tình cảm, sinh quý tử.
- Thái dương đến cung Sửu gọi là Thiên U, nhật nguyệt đồng cung chủ về người có tính tình chợt âm chợt dương, khó mà đoán trước được.
- Thái dương đến cung Dần gọi là Thiên Tang, là ý nói mặt trời mọc ở Phù tang, đó chính là lúc mặt trời rạng đông, khó mà đoán trước được.
- Thái dương đến cung Mão gọi là Thiên Ô, chủ về người anh minh khí khái đại lượng, đa tài đa nghệ, danh hiển giầu có.
- Thái dương đến cung Thìn gọi là Thiên Sảng, là lúc mặt trời ra khỏi cửa Rồng (long môn), chủ về còn trẻ đã hiển đạt, quyền thế, có tiếng tăm vang xa.
- Thái dương đến cung Tị gọi là U Trưng, chủ về người có trí khí cao ngạo, quá lộ tài năng, là người lộc hậu quyền cao, công danh hiển đạt.
- Thái dương đến cung Ngọ gọi là "Nhật lệ trung thiên", chủ về người phúc hậu, lộc trọng, chí cao khí mạnh,
- Thái dương đến cung Mùi gọi là Thiên Huy, nhật nguyệt chói lọi, chủ về quyền thế hào sảng.
- Thái dương đến cung Thân gọi là Thiên Ám, chủ về học nhiều mà thành tựu ít, xử sự nhiều quanh co.
- Thái dương đến cung Dậu gọi là Cửu Không, chủ về người làm việc hanh thông, song hữu thủy hữu chung, tối kị Sát tinh, có tai nạn tù tội hoặc hình khắc.
- Thái dương đến cung Tuất gọi là Thiên Khu, mặt trời giấu ánh sáng, tiếng tăm tuy không nổi bật, song nếu gặp Cát diệu thì lại giầu có.
- Thái dương đến cung Hợi gọi là Ngọc Tỷ, nhật nguyệt quay lưng lại nhau, trái lại trở thành đại cục, còn trẻ đã lập nên công trạng.
Sao Thái dương rất ưa thích các cát tinh Tam thai, Bát tọa, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật hội và chiếu, chủ về sự nghiệp lớn lao, đã phú còn quý. Thái dương ở Tuất địa chủ về tình trạng bị đau mắt, lòa. Ở Ngọ địa tuy quý song ánh mặt trời chiếu quá mạnh, nên cũng chủ về bị bệnh đau mắt. Thái dương ở Hợi địa trái lại có thể phát đạt song phải hội ngộ Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên mã mới là hợp cách. Tóm lại, sao Thái dương lấy Quý làm chủ, kế đến mới Phú, còn sao Thái âm lấy Phú làm chủ kế đến với Quý.
Thái dương ở cung Mệnh
Thái dương ở cung Mệnh thì chủ về người có sắc mặt hồng nhuận hoặc kèm sắc đỏ tía, khuôn mặt đãy đà hoặc dài tròn. Ở Ngọ địa thì thân hình cao lớn, phong thái tiêu xài thoải mái, lạc hãm thì thân hình trung bình hay lùn thấp.
Nam mệnh miếu vượng thì chủ về người tính tình hào phóng, có lòng tử bi hỷ xả, bẩm tính thông minh, chí khí cao ngạo. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa quyền hội và chiếu, chủ về quý cực phẩm, văn võ toàn tài. Song, Thái dương cần phải nhập miếu và sinh ban ngày, không gặp Sát diệu thì mới hợp cách.
Dần địa và Mão địa gọi là Húc nhật đông thăng = mặt trời mọc ở phương đông
Thìn địa và Tị địa gọi là Nhập điện = vào điện, hoặc gọi là Nhật du long môn = Mặt trời dạo chơi ở cửa rồng.
Ở Ngọ địa gọi là Nhật lệ trung thiên = Mặt trời đẹp ở giữa trời, chủ về đại phú đại quý.
Ở Sửu địa Mùi địa gọi là Nhật nguyệt đồng minh = Mặt trời mặt trăng đều sáng, cho nên nói chợt âm chợt dương
Thân địa thiên về Tây, làm việc có đầu mà không có đuôi, trước thì siêng năng công tác, làm việc cẩn thận nghiêm túc, sau thì lười biếng tùy tiện, học mà không cầu hiểu rõ
Ở Dậu địa gọi là Lạc nhật = Mặt trời lặn, quý mà không hiển, giầu mà không bền, bề ngoài thì đẹp đẽ hào nhoáng nhưng bên trong thì thật trống rỗng.
Ở Tuất Hợi Tý Sửu gọi là Thất huy = Mất ánh sáng, chủ về người làm việc tất bật, vật vả nhưng lại không thực tế. Đoạn này chú giải tên gọi Thái dương ở 12 cung, so với chú giải của Cổ nhân có chỗ bất đồng, nay đều ghi ra hết, để người học dùng làm tham khảo.
Thái dương ở Mão địa nếu được Hóa Lộc là thượng cách. Ở Hợi địa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã tuy có thể giầu song thủa ấu niên Cha bất lợi. Thái dương hóa Kị cũng bất lợi cho Cha, hoặc đau mắt. Nếu cùng Kình Đà Hỏa Linh tương hội thì chủ về người có số hoạch phát hoạch phá, quý không được lâu, phú không được dài. Có Xương Khúc Khôi Việt Tả Hữu giáp cung Mệnh là được quý.
Nữ mệnh có Thái dương đến cung Mệnh, nhập miếu, và người sinh ban ngày, tính tình trinh liệt hào sảng, có chí khí trượng phu. Có các cát tinh Tả phù, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên mã, Tam thai, Bát tọa hội và chiếu, là nhất phẩm phu nhân, vượng phu ích tử. Có tam hóa Khoa Quyền Lộc vây chiếu cung Mệnh, cũng chủ về cách được phong phu nhân. Nữ Mệnh mừng nhất là được sao Thái dương nhập miếu, phần nhiều là người thông minh từ ái, phúc lớn lượng rộng. Song nếu lạc hãm, thì làm việc lên lên xuống xuống, tính tình nóng nảy. Đồng cung với Hỏa tinh thì tính tình chân thật, xử sự theo tình cảm nhưng rất vất vả lại thiếu duyên với người. Thái dương hóa Kị, còn trẻ thì khắc chồng về già thì khắc con, nên kết hôn chậm muộn hoặc làm kế thất, vợ lẻ. Nếu gặp Kình Đà Linh Hỏa, Thiên hình, Không Kiếp thì chủ về hình khắc, phần nhiều làm ni sư ở cửa Không, hoặc sống độc thân phục vụ xã hội. Vì Thái dương gặp Sát tinh, tính tình sẽ trinh liệt, cứng cỏi, cho nên chủ về người đoan trang, chững chạc. Nếu lạc hãm thì gọi là phản bối (quay lưng lại), hai mắt cận thị, hoặc một mắt to một mắt nhỏ. Gặp Phá quân thì chủ về lấy chồng không đúng lễ nghi.
Đại hạn lưu niên ở cung độ sao Thái dương đến, nhập miếu, gặp Cát tinh, tất sẽ bình bộ thanh vân, thêm tài tiến phúc, kết hôn có con, phú quý danh tiếng đến. Nếu lạc hãm mà gặp tứ Sát còn gặp thêm Không Kiếp chủ về làm việc mà như không, nhiều tranh giành mà ít thành tựu, bị tiểu nhân xâm hại, phá tài, đầu choáng.
Sao Thái ÂmSao Thái âm - Toàn thư
Thuộc tính ngũ hành của sao Thái âm là âm thủy, là cát tinh trong chòm Trung Thiên Đẩu, là tinh túy của nước, hóa khí là phú, chủ cung Điền trạch. Tiền tài của Thái âm có được do tích lũy từng bước, khiến cho tình hình tài chính luôn luôn được ổn định.
Sao Thái âm và sao Thái đương đều là chủ nhân của bầu trời, cai quản đêm và ngày, đồng thời cũng chưởng quản giầu có và sang trọng. Trong lá số, mức độ sáng của sao Thái âm sẽ thay đổi tùy theo từng giờ, nên tại Dậu, Tuất, Hợi, Tý, là "đắc viên", tại Mão, Thìn, Tị, Ngọ, là "hãm địa", tại Dần và Thân là nơi mọc và lặn của sao Thái âm.
Sao Thái dương chủ về sớm thành công, sao Thái âm chủ về thành tựu muộn. Sao Thái âm chia thành thượng huyền và hạ huyền, thượng huyền là cơ yếu, hạ huyền là giảm uy. Theo lịch âm, mồng 1 là tối tăm, đến chừng mồng 7 ~ 8 là thượng huyền, trăng tròn dần, đến ngày 15 là rằm, trăng tròn và sáng. Sau đó, trăng tối và khuyết dần, đến chừng 22 ~ 23 là hạ huyền. Sao Thái âm cát lợi nhất cho người sinh vào tiết Trung thu tháng 8, thứ đến là người sinh vào ngày rằm hàng tháng. Nếu sinh vào thượng huyền, thì sao Thái âm nằm vào cung nào, sự việc thuộc cung đấy sẽ dần dần trở nên tốt đẹp. Nếu sinh vào hạ huyền, thì sao Thái âm nằm vào cung nào, sự việc thuộc cung đấy sẽ dần xấu đi.
Nếu sao Thái âm cùng những sát tinh như Cự môn, Kình dương, Liêm trinh, Thất sát, đồng cung hoặc gia hội, sẽ tạo thành tổ hợp bất lợi, phải chịu thương tàn, nhưng nếu theo nghiệp tăng đạo lại sẽ gặp cát lợi. Sao Thái âm rơi vào hãm địa, lại gặp sát tinh, chủ về lộc có lỗ hổng, tiền của đến rồi lại đi, một đời vất vả, tốt nhất là xa quê tìm cơ hội phát triển. Dễ gặp vạ vì tiền của, họa huyết quang, phải mổ xẻ phẫu thuật.
Sao Thái âm ưa gặp tam hóa Lộc Quyền Khoa, để có tác dụng bổ trợ cho chính mình. Thái âm gặp Lộc tồn, Hóa Lộc sẽ tăng vẻ sáng, sở hữu nguồn sinh lực dồi dào không cạn. Thái âm gặp Hóa Khoa, nhờ tiền tài mà được nổi danh. Thái âm nếu tại Hợi sẽ không sợ sao Hóa Kị, được gọi là biến cảnh, gặp sự biến đổi lại thành ra có lợi. Người sinh năm Canh không sợ sao Thái âm Hóa Kị vì đã gặp sao Thái dương Hóa Lộc. Nếu sao Thái âm và Thái dương đồng cung hoặc hội chiếu lẫn nhau, có thể dùng Lộc của sao Thái dương để khống chế Kị của sao Thái âm, mức độ tổn hại sẽ được giảm bớt. Nếu sao Thái âm lạc hãm mà Hóa Kị, do bản thân không còn ánh sáng, nên không có nguy hiểm gì đáng kể.
Sao Thái âm ưa thích gặp sáu cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc và Lộc tồn. Nếu rơi vào cung miếu, vượng mà gặp Địa không, Địa kiếp, tuy bất lợi cho tiền tài, nhưng không ảnh hưởng đến khoa danh.
Sao Thái âm - mặt Trăng, chuyển động quanh mặt trời liên tục không ngừng nghỉ, nên cũng chủ về bôn ba vất vả, đặc biệt mệnh càng trở nên vất vả một cách rõ nét, đó là khi rơi vào bốn cung Mã (Dần Thân Tị Hợi). Nếu nằm đồng cung với sao Thiên cơ cũng mang tính lưu động, dễ lưu lạc tha hương, tìm đường phát triển tại nơi đất khách.
Tiền tài của sao Thái âm thu nhập một cách cố định, thường có cơ hội là nhiều nghề, nên cũng là tiền của có được do tích lũy dần dần, mà không phải phát tài đột ngột.
Nếu sao Thiên phủ, hoặc hai sao Vũ khúc và Tham lang trấn thủ cung mệnh, và đóng tại Sửu hoặc Mùi, sao Thái âm và Thái dương kèm ở hai cung bên cạnh, hình thành cách "Nhật Nguyệt giáp mệnh", chủ về một đời giầu có.
Nếu sao Thái âm nhập miếu, trấn thủ mệnh tại Hợi, lại sinh vào ban đêm, là cách "Nguyệt lãng thiên môn" (trăng sáng cổng trời), chủ về sẽ được giầu sang.
Cung mệnh an tại Mùi, sao Thái dương tại Mão, sao Thái âm tại Hợi nhập miếu giao hội lai chiếu, là cách "Minh châu xuất hải" (ngọc sáng rời mặt biển), chủ về đường công danh rộng mở.
Cung mệnh an tại Sửu, Mùi, sao Thái âm và Thái dương tam hội, vương mà hội chiếu. Hoặc, sao Thái dương ở Thìn, Tị, sao Thái âm tại Tuất, Dậu,, vượng mà trấn mệnh lại hội chiếu lẫn nhau, là cách "Nhật Nguyệt tịnh minh" (mặt trăng mặt trời cùng sáng), chủ về sớm được đắc ý.
Sao Thái âm, Thái dương đồng cung tại Sửu, Mùi, trấn mệnh hoặc chiếu về cung mệnh, là cách"Nhật Nguyệt đồng lâm" (mặt trăng mặt trời cùng đến), chủ về đường quan vận được nhiều lợi thế.
Thái dương, Thái âm trấn cung Điền trạch tại Sửu, Mùi, hoặc nằm tại Thìn và Tuất chiếu về cung Điền trạch, là cách "Nhật Nguyệt chiếu bích" (mặt trăng mặt trời soi vách), chủ về là mệnh phú hào.
Sao Thái âm và Thiên đồng trấn mệnh tại Tý hoặc trấn Điền trạch, là cách "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc biển xanh, hay còn gọi là "Thủy trừng quế ngạc" - nước trong hiện cành quế), chủ về được chức quan cao quý.
Các sao Thien cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp tại ba cung Mệnh, Tài, Quan, là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", có lợi trong các lĩnh vực văn hóa giáo dục, truyền thông đại chúng.
Sao Thái âm và Văn khúc cùng đóng tại Phu thê, sao Thái âm miếu vượng, lại gặp cát tinh, là cách "Thiềm cung triết quế", chủ về nam mệnh thường gặp vợ sang, nữ mệnh thường sinh quý tử.
Cung mệnh an tại Thìn, Mão, sao Thái âm lạc hãm trấn mệnh, sao Thái dương lạc hãm trấn Thiên di. Hoặc cung mệnh an tại Tuất, Hợi, có Thái dương trấn thủ, sao Thái âm lạc hãm cư Thiên di, là cách "Nhật Nguyệt phản bội" (mặt trăng mặt trời quay lưng), chủ về mệnh vất vả lao lực.
Sao Thái âm, Thiên đồng, lạc hãm trấn mệnh tại Ngọ, lại gặp sát tinh, là cách "Nguyệt Đồng ngộ sát", chủ về mọi việc đều không thuận lợi.
Sao Thái dương, Thái âm lạc hãm, trấn thủ cung Tật ách, là cách "Nhật Nguyệt tật ách", chủ về cơ thể có khuyết tật.
Sao Thái âm trấn mệnh tại Thìn, sao Thiên lương tại Thân địa lạc hãm hội chiếu. Hoặc sao Thiên lương lạc hãm trấn mệnh tại cung Thân địa, sao Thái âm cư Thìn cũng lạc hãm hội chiếu, Tài Mệnh hội chiếu, là cách "Thiên lương củng nguyệt" (Thiên lương chầu về mặt trăng), chủ về một đời nhiều biến động, phiêu bạt tha hương, hoặc mất mạng vì tửu sắc, hoặc phá gia bại sản.
SAO THÁI ÂM TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Thái âm tọa thủ ở cung mệnh, mặt vuông tròn trắng hồng, mày thành mắt tú, ngũ quan đoan chính, đoan trang, cử chỉ, lời nói, hành động ưu nhã rất hấp dẫn.
Thông minh dịu dàng, lãng mạn đa tình, độ lượng khoan dung, bác học đa tài, cẩn trọng chính trực, cá tính hướng nội, biết tính toán, khả năng lý giải tốt, nhưng ít quan sát, có sự nhẫn nại, hay nghi ngờ, thiếu tình cảm, thích sạch sẽ.
Người sinh vào ngày Trăng sáng thì vui vẻ an nhàn, thích hưởng thụ, chú trọng và đề cao thi vị của cuộc sống, thích nghiên cứu tự do, có duyên với người khác giới, có tài năng bẩm sinh về văn học nghệ thuật.
Người sinh vào ngày Trăng mờ thì tính nhát gan, lười biếng, thích sạch sẽ nhưng lực bất tòng tâm, dễ bị đắm chìm vào ảo tưởng, tình cảm không rộng mở, có thể là nhà nghệ thuật có phong cách đặc biệt, tư tưởng tự do phóng khoáng, khó hiểu.
Mệnh nữ da trắng mịn, mắt ướt nữ tính, tính trẻ con đa tình mà dịu dàng, rất coi trọng hình thức bề ngoài, có tài nghệ thuật nên lãng mạn.
Ngọt ngào thân thiện, lương thiện nhưng thiếu chủ kiến. Trong lòng có chuyện gì thì sẽ nói ra, dễ bị chi phối bởi mọi người. Sau khi kết hôn, nếu cuộc sống đơn điệu, thì thường tỏ thái độ bất mãn, tâm lý và khả năng chịu đựng suy giảm. Thích thay đổi, thích trang trí nội thất, thích đi du lịch.
Suy đoán mệnh lý
Thái âm – 2
Thái âm – 1
Thiên đồng – 2
Thái âm – 1
Thái dương + 2
Thái âm + 1
Thiên cơ + 2
Thái âm – 2
Thái âm + 3
Thái âm – 2
Thái âm + 3
Thái âm + 3
Thiên cơ + 2
Thái âm + 4
Thái dương – 1
Thái âm + 4
Thiên đồng + 3
Thái âm + 4
Độ sáng của sao Thái âm tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thái âm. Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Thái âm chủ về Phú, phần lớn có thêm chủ về Quý, chủ về Tài bạch và Điền trạch. Trong mệnh bàn, ánh sáng của sao Thái âm có sự thay đổi tùy theo sự thay đổi của thời gian, ở Mão Thìn Tị là hãm địa, ánh sáng tối nhất. Ở Ngọ Mùi là không được thế địa, lượng ánh sáng tối thứ hai. Ở cung Thân thế lợi, ánh sáng vừa phải. Ở cung Dậu Tuất thế vượng là ánh sáng mạnh thứ hai. Ở Hợi Tý Sửu là thế miếu, có lượng ánh sáng mạnh nhất.
Sao Thái âm ở Dần, tượng trưng cho mặt Trăng vào giờ Dần, là điểm thấp nhất của mặt Trăng. Sao Thái âm ở Thân tượng trưng cho mặt trăng vào giờ Thân, là điểm cao nhất của mặt Trăng.
Sao Thái âm tượng trưng cho tính âm, đại diện cho mẹ. Do đó, bất luận là mệnh nam hay nữ, khi mẹ còn sống, sao Thái âm trong cung mệnh có thể dùng để luận đoán cát hung của mẹ. Sau khi mẹ qua đời, sao Thái âm của mệnh nữ đại diện cho bản thân, Mệnh nam đại diện cho Vợ, sau khi Vợ qua đời thì sao Thái âm của cung Mệnh đại diện cho con gái. Do đó, muốn đoán cát hung của mẹ, vợ, con gái thì lấy sao Thái âm làm căn cứ.
Trong Tử Vi Đẩu Số, tất cả các sao chủ đứng đầu, như Tử vi của hệ sao Bắc Đẩu, sao Thiên phủ trong hệ sao Nam Đẩu, sao Thái âm và Thái dương chủ về âm dương, đêm ngày trong hệ sao Trung Thiên Đẩu, nếu độc tọa tại cung Mệnh thì phần lớn chủ về cô độc và đều lấy thời thơ ấu làm chủ đạo.
Do đó, người có sao Thái âm tọa thủ cung Mệnh, thì mẹnh nam nữ đều chủ về cha mẹ hoặc vợ chồng, hoặc con cái, có hiện tượng tình thân không đủ, gần nhau ít xa nhau nhiều, hoặc sinh ly tử biệt, hoặc tình cảm bất hòa, hoặc ít trao đổi, hoặc sức khỏe thường xuyên không tốt, hoặc sự nghiệp hay bị thất bại. Nếu sao Thái âm ở cung mệnh hãm địa lại gặp sao Hóa Kị, thì mệnh nữ sẽ bất lợi cho bản thân, còn mệnh nam sẽ bất lợi cho vợ và con gái (tuế quân năm Ất)
Nhật Nguyệt là sao chủ về âm dương và ngày đêm, thuộc Trung Thiên Đẩu, mặt Trăng liên tục quay quanh trái đất không ngừng nghỉ, do đó sao Thái âm chủ về Dịch mã (ngựa đưa tin chiến trường), đại diện cho sự vất vả bôn ba, đặc biệt khi Thái âm tọa ở chỗ tứ Mã (Dần Thân Tị Hợi), khi đồng cung với sao Thiên cơ thì không thích bị bó buộc quản thúc, thích cuộc sống tự do tự tại, dễ phiêu bạt tha hương, có mưu cầu phát triển ở tha hương.
Mặt Trăng phân thành trăng Thượng huyền và trăng Hạ huyền. Trăng Thượng huyền - khoảng mồng 7 ~ 8 âm lịch, có cung Trăng hướng lên trên, bởi vì ngày mồng 1 đầu Tháng đến ngày 15 giữa Tháng, thì mặt Trăng ngày càng trong hơn, do đó, người sinh vào Thượng huyền, thì vận thế từ xấu chuyển sang tốt. Trăng Hạ huyền - khoảng ngày 22 ~ 23 âm lịch, thì mặt Trăng từ tròn chuyển sang khuyết dần, do đó, người sinh vào Hạ huyền có vận thế từ tốt chuyển sang xấu. Sao Thái âm tọa ở cung Mệnh thì nên sinh vào giữa tháng, sinh vào ban đêm, ngày Thượng huyền, Trung thu, rất kị sinh vào lúc mặt Trăng mất đi ánh sáng.
Sao Thái âm chủ về "kho lộc", vật chất trong cả cuộc đời nhiều, đầy đủ về tinh thần, tuy không chú ý đến tiền tài, nhưng lại nhận thức và hiểu được cách dùng tiền tài. Tiền tài là do tích lũy dần dần, tuyệt đối không phải là do của cải đến bất ngờ.
Sao Thái âm, sao Vũ khúc, sao Thiên phủ, đều là tài tinh, nhưng lại có sự khác biệt:
Tiền tài của sao Vũ khúc là do lập nghiệp mà có. Tiền tài của sao Thiên phủ là do đầu tư tích lũy mà có. Tiền tài của sao Thái âm là do làm việc cần kiệm gom góp mà có.
Sao Thái âm và sao Thiên phủ đều chủ về ruộng vườn, nhưng hàm nghĩa ruộng vườn của sao Thiên phủ là đầu tư, còn hàm nghĩa ruộng vườn của sao Thái âm là coi trọng thực dụng.
Mặt trời ban ngày chiếu sáng, mặt Trăng ban đêm khúc xạ ánh sáng của mặt Trời, mang đến ánh sáng, mang đến hy vọng, mang đến sự viện trợ, mang đến sự phối hợp, cũng giống như vai trò của người Mẹ trong gia đình. Do đó, sao Thái âm thích hợp với các công việc như hộ lý, giáo dục, thư ký, văn nghệ, văn hóa xã hội,...
Sao Thái dương và sao Thái âm vốn có sinh mệnh và mang đến sinh mệnh cho các sao khác trong mệnh bàn. Phương thức phát huy của chúng có những đặc điểm sau:
1- Ánh sáng của sao Thái dương đến từ sao Thái dương nóng bỏng mà khúc xạ ánh sáng và nhiệt của sao Thái dương, chuyển hóa thành ánh sáng nhân từ và điềm đạm chiếu xuống nhân gian. Sao Thái dương là tích cực và nhiệt tình cung cấp ánh sáng và sự ấm áp trực tiếp. Sao Thái âm dùng phương thức uyển chuyển, mềm mại, cung cấp sự viện trợ và hy vọng gián tiếp.
2- Sao Thái dương có nhiệt độ, có sự phân biệt mạnh và yếu. Sao Thái âm thì nhiệt độ không thay đổi, trong đêm tối ban tặng cho con người sự bình tĩnh và ấm áp.
3- Sao Thái dương bất luận là sáng, tối, lạnh, nóng, vẫn luôn luôn chiếu xuống mặt đất. Sao Thái âm thì phân biệt sáng, tối, tròn, khuyết. sóc, vọng, cũng do đó và từ đây, mà sinh ra bi, hoan, ly, hợp trong nhân gian.
Người có sao Thái âm thủ Mệnh, thường có những hiện tượng:
1. Sao Thái âm giống như sao Thái dương, tự nhiên, chủ động giúp đỡ người già, yếu, cô độc bất hạnh mà không cần báo đáp. Nhưng sao Thái dương đều dùng tiền, dùng chủ ý, dùng phương thức giúp đỡ tổng thể để sắp xếp, giúp đỡ. Sao Thái âm phần lớn là chia sẻ tinh thần, như an ủi, tỏ thái độ quan tâm ân cần, chăm sóc nhân từ trực tiếp từ những chi tiết nhỏ trong cuộc sống, khiến mọi người tin tưởng.
2. Rất tự nhiên trong công việc phúc lợi xã hội, hoặc các việc từ thiện, hy vọng nhận được sự báo đáp từ xã hội.
3. Có sự huy hoàng của người Mẹ, thích cố thủ bên trong, coi trọng sự thi vị của cuộc sống, coi trọng công việc gia đình, mệnh nữ thường giỏi việc nhà.
4. Thường làm những việc cần viện trợ và cần sự phối hợp, công việc làm ban đêm hoặc thay ca như y tá, phù hợp với tính chất công việc ban đêm của sao Thái âm.
5. Người có sao Thái âm thủ Mệnh, có đặc tính nữ tính, như bình tĩnh, tinh tế, dịu dàng, nhẫn nại, lạc quan. Thời gian rèn luyện tích tụ được tố chất kiên định, trầm tĩnh, kiên nhẫn, bên ngoài tuy lạnh lùng nhưng bên trong nội tâm nhiệt tình, lương thiện. Đối với những sự việc không được như ý trong cuộc đời, thì nó trực tiếp phản ánh sự nhẫn nại, không tích cực tranh đấu, hoặc biểu thị bộc lộ ý kiến, nội tâm thường hướng đến sự an phận, nhưng bản năng của sao Thái âm là gián tiếp, phối hợp, mọi việc mà nóng vội thì thường không thành.
Bất cứ cung vị nào có sao Thái âm, đều sẽ khiến cho con người số thủ bên trong, có thể hiểu được sự cần thiết phải bình tĩnh và duy trì trạng thái cân bằng, sau đó là kéo theo sự chuyển hóa ở bên ngoài, vào thời khắc chuyển hóa chính là bắt đầu của sao Thái dương - kết thúc của sao Thái âm.
Người có sao Thái âm thủ Mệnh, nên có thói quen đọc sách trong thời gian dài, làm công việc có tính chất nghiên cứu lâu dài, phần lớn cần có sự trao đổi phối hợp với mọi người, để giảm hiện tượng thiếu thốn tinh thần, đồng thời dễ chịu ảnh hưởng từ những tác động thị phi, bị bạn bè hay tiểu nhân lừa lọc, hạn chế ăn uống thái quá để giữ gìn thân thể khỏe mạnh, thì mới có thể tránh được hung mà đón cát lợi.
Sao Thái âm ưa thích hội ngộ những sao hóa Cát, bất luận là Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, đều làm tăng thêm ánh sáng cho Thái âm. Gặp Hóa Lộc hay Lộc tồn, chủ về cả đời có tiền tài dùng không hết. Thái âm gặp Hóa Quyền có thể lập nghiệp, nắm quyền. Thái âm gặp Hóa Khoa có thể nhờ tài mà được danh.
Các sinh vật trên trái đất thiếu mặt Trăng có thể sinh tồn, nhưng thiếu mặt Trời thì khó mà sinh tồn. Do đó, bất luận là mệnh nam hay nữ, khi sao Thái âm ở cung mệnh Hóa Kị, nếu có thể biết dùng Hóa Lộc của sao Thái dương để trợ giúp, thì đều có thể giảm nhẹ tổn hại.
Tại Hợi, sao Thái âm là "Nguyệt lãng thiên môn", không sợ sao Hóa Kị, ngược lại có tác dụng thay đổi hoàn cảnh. Sao Thái âm hãm địa Hóa Kị, do bản thân không có ánh sáng, nên không thể tạo thành sự uy hiếp quá lớn. (Sao Thái âm tại Thân thì gọi là "Nguyệt lãng quỷ môn", tại Tị thì gọi là "Nguyệt lãng địa môn", tại Dần thì gọi là "Nguyệt lãng nhân môn", tại Mão thì gọi là "Nguyệt lãng lôi môn" - là tượng Nguyệt nhập Ngũ môn).
Sao Thái âm thích gặp lục Cát tinh, gặp Tả phụ Hữu bật chủ về có phúc có phận. Gặp Văn xương, Văn khúc chủ về người nhiều văn nghệ có tài hoa. Gặp Thiên khôi, Thiên việt chủ về người có quý nhân, có thể đảm nhận việc nơi công môn, bình an thuận lợi.
Sao Thái âm không thích gặp lúc Sát tinh, chủ về trắc trở. Hãm địa gặp tứ sát Dương Đà Hỏa Linh, sợ rằng có thương tật cơ thể. Thái âm ở cung miếu, vượng thì không sợ sao Địa không, tuy tiền tài có bất lợi nhưng không bị ảnh hưởng đến công danh. Sao Thái âm kị nhất khi đồng cung với Kình dương, Đà la, nhất định có ly biệt, phá sản. Sao Thái âm hãm địa lại gặp Sát tinh, chứng tỏ kho lộc thiếu cửa, tiền của đến rồi lại đi, đời nhiều lao lực, phát triển ở xa quê hương thì đỡ đi phần nào, khi trao đổi tiền tài với bạn bè dễ vì tiền tài mà tranh cãi.
Sao Thái âm - Lục Bân Triệu
Sao Thái âm trong thuyết ngũ hành thuộc âm thủy. Ở trên trời là tinh túy của mặt Trăng, hóa làm sao "phú". Tương phối với sao Thái dương. Ở trong mệnh bàn làm "mẫu tinh" (sao mẹ), làm "thê tinh" (sao vợ) và làm "nữ tinh" (sao con gái). Thái âm ưa thích người sinh ban đêm. Sao Thái âm ở 12 cung cũng giống như sao Thái dương, mỗi cung có một tên gọi:
Thái âm đến Tý, gọi là "Thiên cơ". Chủ về nữ mệnh vinh hóa phú quý, có duyên với người, suy nghĩ sâu sắc, giỏi mưu kế.
Thái âm đến Sửu, gọi là "Thiên khố". Nhật Nguyệt tương hội, tính tình hào sảng, quan cao lộc hậu.
Thái âm đến Dần, gọi là "Thiên muội". Mặt trời mới mọc, mặt Trăng mất sáng, chủ về người có tính do dự, tiến thoái không quyết đoán.
Thái âm đến Mão, gọi là "Phản bối". Gặp cát diệu chủ về đại phú.
Thái âm đến Thìn, gọi là "Thiên thường". Ưa tương hội với tinh diệu thuộc Kim. Nếu hội chiếu Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì chủ về làm lãnh đạo, tham dự triều chính, tay nắm quân cơ đại quyền, danh lừng bốn biển. Đây là cách "Âm tinh nhập thổ" (Tinh túy của âm khí nhập vào đất)
Thái âm đến Tị, gọi là "Thiên hưu", còn gọi là "Thất điện". Chủ về có tật ở mắt, cận thị, hoặc có chồng hữu danh mà vô thực nhưng xa cách, hoặc chồng giỏi lo cho người mà không thích lo cho nhà. Nếu gặp tam hóa Khoa Quyền Lộc thì lại chủ về hưởng thụ phú quý.
Thái âm đến Ngọ, gọi là "Thiên y", hoặc gọi là "Hàn nguyệt". Chủ về người có tình cảm phong phú, nhiều ảo tưởng, tự tác đa tình, không lợi cho nguyên phối.
Thái âm đến Mùi, gọi là "Thiên khuê". Nhật Nguyệt đồng độ, tính tình hào sảng, thẳng thắn, nhưng chợt dương chợt âm, và không lợi cho mẹ.
Thái âm đến Thân, gọi là "Thiên hoàng", chủ về người phúc đầy lộc trọng, sự nghiệp lớn lao, khéo ứng biến, có quyền biến, giầu hùng tâm, suy tưởng phong phú.
Thái âm đến Dậu, gọi là "Thiên tường", chủ về phú quý.
Thái âm đến Tuất, gọi là "Thiên trợ", là cách "Nguyệt chiếu hàn đàm" (trăng rọi đầm lạnh). Đây chính là lúc thỏ ngọc phát ánh sáng, là thượng cách.
Thái âm đến Hợi, gọi là "Nguyệt lãng thiên môn" (Trăng sáng cửa trời), chủ về đại phú, hoặc được tiền của bất ngờ, còn gọi là cách "Triều thiên" (chầu trời), nhiều mưu kế, giỏi vạch kế hoạch sách lược.
Sao Thái âm rất ưa gặp tam hóa Lộc Quyền Khoa và Lộc tồn. Do Thái âm chủ về phú, chủ về ẩn tàng, chủ về yên tĩnh, nên đồng hành với Hóa Lộc hay Lộc tồn thì hợp nhau. Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu thì cương nhu tương xứng. Xương Khúc giáp cung hoặc hội chiếu tất phát về văn chương, học rộng nhiều tài.
Sao Thái âm - Vương Đình Chi
Thái âm miếu ở Hợi, Tý, Sửu. Hãm ở Mão, Tị, Ngọ.
Thái âm là sao của Trung Thiên Đẩu, ngũ hành thuộc âm thủy, hóa khí làm "phú" (giầu có)
Thái âm và Thái dương là cặp "sao đôi" quan trọng trong Đẩu Số, do đó hai sao có tính chất tương đồng và cũng có tính chất tương dị. Thái âm chủ về phú, Thái dương chủ về quý; Thái âm chủ về nữ, Thái dương chủ về nam; Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương; Thái âm thuộc thủy, Thái dương thuộc hỏa; Thái âm là mẹ, Thái dương là cha; Thái âm là con gái, Thái dương là con trai.
Thông thường bất kể nam hay nữ, mà gặp Thái âm, đều chủ về bất lợi cho lục thân phái nữ. Có thể căn cứ cung vị Thái âm bay đến, và tổ hợp tinh hệ của tam phương tứ chính để luận đoán mệnh vận của người bị bất lợi. Nói chung, thường chủ về lúc nhỏ mẹ bất lợi; nếu là nam mệnh, Thái âm lạc hãm là bất lợi cho vợ hay con gái.
Nam mệnh cung Thân gặp Thái âm, chủ về dễ tiếp cận với người khác giới, cũng chủ về người này tính tình dựu dàng, nhiều nữ tính. Nếu cung Phúc đức và cung Phu thê không tốt, có thể có khuynh hướng đồng tính.
Nữ mệnh cung Thân gặp Thái âm, không hội sát tinh, chủ về là người đoan trang, thông minh. Nếu gặp các sao Sát Hình, thì có khuynh hướng khắc chồng hình con. Nếu gặp các sao đào hoa, mà cung Phúc đức và Phu thê không tốt, thì cũng có thể phát triển thành đồng tính luyến ái.
Thái âm hội hợp Văn xương, Văn khúc, chủ về tài năng học rộng, có thể phát về văn chương. Rất ưa hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, bởi vì Thái âm chủ về cất giấu, phú, tĩnh, có khí vị hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc. Hội hợp với Hóa Quyền, Hóa Khoa thì có thể cương nhu tương tề.
Thái âm và Thái dương hội hợp, nếu hai sao đều nhập cung miếu vượng, cũng chủ cương nhu tương tề, là người có nội tài, nhưng cao thượng độ lượng, phóng khoáng bất phàm.
Thái âm ở cung hãm không ngại Hóa Kị, vì Thái âm của cung hãm vốn không sáng, đương nhiên không sợ mây mù che kín. Ở cung vị miếu vượng thì lại sợ Hóa Kị, vì có mây mù che trăng sáng. Nhưng Hóa Kị ở Hợi thì gọi là "biến cảnh", trừ khi có các sát hình cùng chiếu, nếu không "biến cảnh" chỉ làm tăng vẻ rực rỡ của ánh trăng.
Vương Đình Chi kinh nghiệm, phàm là Thái âm thủ mệnh, lúc luận đoán rất nên xem kèm cung Phúc đức. Bởi vì Thái âm chủ về phú, ở xã hội cổ đại khá đơn thuần, tuy có cạnh tranh nhưng không kịch liệt, do đó việc chủ về sự hưởng thụ tinh thần của cung Phúc có ảnh hưởng không lớn. Còn trong xã hội hiện đại thì cạnh tranh kịch liệt, thủ đoạn cạnh tranh cũng nhiều âm mưu hơn, nếu cung Phúc đức mà không tốt, do Thái âm chủ về phú, thương thường sẽ trái lại, dễ dẫn đến đau khổ về phương diện tinh thần. Khi luận đoán cần chú ý.
Sao Liêm TrinhSao Liêm trinh - Toàn thư
Thuộc tính ngũ hành của sao Liêm trinh là âm hỏa, là ngôi sao thứ năm trong chòm Bắc Đẩu, tại Đẩu nắm giữ phẩm vị, tại Số chưởng quản quan quyền. Sao Liêm trinh chủ về tà ác, hóa khí là tù, sát (quyền uy), tại cung Quan lộc chủ về quan lộc, tại cung Thân cung Mệnh là thứ Đào hoa. Như vậy, sao Liêm trinh vừa là họa vừa là phúc, nhưng họa nhiều hơn phúc, thân phận khá phức tạp.
Sao Liêm trinh là một sao có nhiều biến hóa, trong mười hai cung của lá số đều có ảnh hưởng nhất định, hợp với lĩnh vực chính trị, công chức, và được bộc lộ rõ nét nhất tại cung Quan lộc. Mang tính chất thứ đào hoa, tính đào hoa của Liêm trinh thường được bộc lộ trong những công việc, hoặc môi trường làm việc phải tiếp xúc nhiều với người khác giới.
Sao Liêm trinh không rơi vào cung miếu vượng, lại phạm Quan phù nên hóa thành tù, trở thành sát tinh gây tai ương họa hại, gặp phải sẽ gặp tai họa bất trắc không thể giải trừ. Chủ về tính tình độc địa, cuồng ngạo, vô lễ bất nghĩa.
Sao Liêm trinh gặp sao Tử vi sẽ có uy quyền. Gặp Lộc tồn chủ về phú và quý. Gặp Văn xương Văn khúc chủ về chuộng đạo đức lễ nhạc. Gặp sao Thất sát chủ về phát đạt khi theo nghiệp Võ. Liêm trinh trấn thủ tại cung Quan lộc thì có uy quyền. Đóng tại cung Thân cung Mệnh là thứ Đào hoa chủ về lẳng lơ đa tình. Nếu rơi vào cung hãm thì dễ bị kiện tụng vì ham mê bài bạc. Nếu gặp Cự môn tại cung hãm sẽ gặp kiện tụng thị phi. Gặp Quan phù sẽ hao tài, phá bại sản nghiệp của cha ông. Gặp Hình và Kị thì khó tránh được vạ đổ máu. Bị Bạch hổ hình xung khó thoát khỏi hình ngục tra tấn. Gặp Vũ khúc thì không bị khắc chế, nhưng dễ bị gỗ đè hoặc rắn rết cắn bị thương. Gặp sao Hỏa tại cung hãm hoặc Không vong thì chủ về nhảy sông hoặc treo cổ. Gặp Phá quân, và Thái dương, Thái âm tại cung hãm thì dễ mắc tật về mắt. Vận hạn gặp phải khó tránh tai ương. Chỉ hợp với các cung Lộc, cung Thân, cung Mệnh, nếu gặp cát tinh sẽ có phúc, gặp phải hung tinh sẽ bất lợi. Nếu đóng tại các cung khác, thì cần phải phân biệt rõ là họa hay phúc. Nếu Liêm trinh đồng cung với Thiên việt thì dễ vì quá đà mà hỏng việc, hỏng chuyện. Sao Liêm trinh kị nhất Hóa Kị, gặp phải sẽ có nhiều bất trắc (năm Bính). Nếu sao Liêm trinh độc thủ đứng một mình mà gặp Không Kiếp, chủ về người sẽ là nhân viên công chức có chức vụ cao, hoặc nhân tài trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Hóa khí của sao Liêm trinh là tù, chủ về có tài mà không gặp thời, vất vả khó nhọc, phần nhiều đều không phát triển được tài năng. Tù, cũng mang ý nghĩa là thị phi, thường hay tự chuốc lấy những rắc rối vô ích nên dễ bị liên lụy vào kiện tụng lao lý.
Xét phương diện Quan lộc, sao Liêm trinh gồm cả tính thiện và tính hung ác, tức "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", nếu thiếu thận trọng sẽ trở nên tham lam thích tranh đoạt, dễ sa vào thói đầu cơ mạo hiểm bài bạc.
Tính cách đa biến của sao Liêm trinh dễ đem lại cho đời người những biến hóa mang tính cực đoan, ví như cá tính hướng nội đột nhiên trở nên hướng ngoại.
Liêm trinh thủ mệnh tại Thân, Dần, được miếu, có Tham lang tại cung đối diện chiếu đến, là cách "Hùng tú kiền nguyên" (Sao mạnh chầu triều), có tài ngoại giao, có thể đảm đương những chức vụ quan trọng. Sao Liêm trinh đóng tại cung Mệnh, tại cung Quan, xét tới sao Vũ khúc, nếu lại gặp Văn xương, Vũ khúc tại cung vị tam phương hội chiếu, là cách "Liêm trinh Văn Vũ" chủ về văn võ song toàn. Liêm trinh đóng tại cung Mệnh, sao Thất sát đồng cung hoặc nằm tại cung tam phương tứ chính hội chiếu, có thêm sao Hóa Kị cùng tứ Sát hội Phá quân, là cách "Sát củng Liêm trinh" (Sát tinh chầu về Liêm trinh) chủ về phiêu bạt bất ổn, tai họa triền miên không dứt. Nếu Liêm trinh thủ Mệnh tại Mão Dậu, lại xuất hiện Sát tinh, là cách "Trinh cư Mão Dậu" thường làm nhân viên tại các đơn vị hành chính công. Sao Liêm trinh (tù) Thiên tướng (ấn) cùng đóng tại cung Mệnh tại Tý hoặc Ngọ, nếu lại gặp thêm Kình dương (hình) đồng cung, sẽ là cách "Hình Tù giáp Ấn", tuy chủ về vũ dũng, nhưng do bị hình thương nên sẽ gặp tai họa nặng.
Liêm trinh Tị Hợi cung
Ngộ cát phúc doanh phong
Ưng ngộ tam tuần hậu
Tu phòng bất thiện chung.
Liêm trinh cung Tị Hợi
Gặp cát phúc trùng trùng
Sau khi ba trục tuổi
Đề phòng chết tai ương.
SAO LIÊM TRINH TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Liêm trinh tọa thủ cung mệnh có thân hình vừa phải, lông mày rộng, miệng rộng, mặt vàng, mắt sáng, gò xương lông mày cao lộ, răng rõ nét, nói nhanh, ngữ điệu lên xuống nhịp nhàng, nhìn bề ngoài rất có tinh thần dễ tạo cảm giác là người có bản tính tốt.
Người có sao Liêm trinh tọa thủ cung mệnh, trong lòng nhiều thù hận, không coi trọng lễ nghĩa, tính thẳng không sợ hãi, khả năng biểu đạt tốt, cá tính ứng xử thường cứng nhắc nhưng đời sống lại buông thả, phóng đãng, phản ứng nhanh.
Sao Liêm trinh thủ mệnh, chủ về người tính tình nóng nảy không ổn định, tính đa nghi nhưng lại thích cạnh tranh mà dễ phẫn nộ, ưa mạo hiểm thích cờ bạc, phần lớn có tính "tự cho mình là đúng" và không dựa vào lục thân.
Coi trọng lý lẽ nhưng không hòa đồng, trái phải phân rõ, dám làm dám chịu, chịu trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, thích quan niệm mới, có chút "khôn vặt" trong đầu cơ, quan niệm về đạo đức khá kém, ích kỷ.
Sao Liêm trinh thủ mệnh là người là người có tham vọng thăng tiến mạnh, coi trọng nghệ nghiệp, tận tâm tận lực với công việc, có khả năng lãnh đạo, nhiệt tình giúp đỡ người khác, không chịu khuất phục người cuối cùng để đạt được thành tựu.
Thích náo nhiệt, khi thanh nhàn thì lại sa đà vào hoan lạc, tính hay khiêu khích nên thường bị đắc tội với người. Khẳng khái với đồng nghiệp và bạn bè, có duyên với công chúng, khi có ý kiến khác người khác thì phê bình, chỉ trích ngay lập tức.
Mệnh nữ có sao Liêm trinh thì thông minh, khí chất đoan trang, tính cách mạnh mẽ, lòng tự tôn cao, mọi việc đều rất cố chấp, hay đố kỵ, hay giám sát chồng.
Suy đoán mệnh lý
Liêm trinh – 2
Tham lang – 2
Liêm trinh = 0
Thiên tướng + 4
Liêm trinh + 1
Thất sát + 4
Liêm trinh + 4
Liêm trinh + 1
Thiên phủ + 4
Liêm trinh = 0
Phá quân – 2
Liêm trinh = 0
Phá quân – 2
Liêm trinh + 1
Thiên phủ + 4
Liêm trinh + 4
Liêm trinh + 1
Thất sát + 4
Liêm trinh = 0
Thiên tướng + 4
Liêm trinh – 2
Tham lang – 2
Độ sáng của sao Liêm trinh tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Liêm trinh.
Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Liêm trinh là một ngôi sao hay biến hóa, ở cung Quan lộc chủ về quan lộc, ở cung Mệnh chủ về tửu sắc, chủ về Tù - Sát - Tà, vì thế làm cho thân phận của Liêm trinh khá phức tạp, nói nó là họa nhưng lại có chút phúc phận, nói nó là phúc nhưng lại có họa nhiều hơn phúc.
Sao Liêm trinh là tù tinh, hàm nghĩa tượng hình của chữ là người bị nhốt trong bốn bức tường, có tài nhưng không gặp thời, bị không chế, bị nhốt lại, nhiều thị phi. Sao Liêm trinh cũng là sát tinh đại diện cho quyền uy, có lợi cho công việc về chính trị, quân đội, cảnh sát, công chức, có tác dụng trong cả 12 cung của mệnh bàn, đều có thể có biểu hiện tốt, đặc biệt là cung Quan lộc càng có thể biểu hiện đặc tính của sao Liêm trinh. Sao Liêm trinh chủ về tà tinh là người cuồng vọng, không chịu bó buộc, không để ý ánh mắt khác lạ của người khác, nhốt họ cũng tốt mà thả họ cũng tốt, là anh hùng chưa từng rơi lệ, khó tránh khỏi bị liên lụy đến chuyện thị phi.
Sao Liêm trinh chỉ đứng sau chòm sao đào hoa của sao Tham lang, có khác là ở chỗ, sao Tham lang có diện mạo xinh đẹp lại đa tài đa nghệ, còn sao Liêm trinh thanh tú đoan trang lại có khí chất cao thượng, có duyên với người khác giới. Sự đào hoa của sao Liêm trinh luôn luôn đi cùng với công việc, hoặc vì tính chất của công việc cần phải tiếp xúc với nhiều người khác giới, như ngành ăn uống, diễn viên ngành sân khấu, ngành điện ảnh, ngành ca múa nhạc, trang phục, nữ tiếp viên hàng không, nhân viên phục vụ ở quầy,... Loại đào hoa này có khả năng quan hệ công chúng tốt, là loại hình "có thể tiếp xúc với mọi loại hình", có chút buông thả, không chỉ là đào hoa về nhục dục.
Sao Liêm trinh chủ về Quan lộc, sao Thái dương cũng chủ về Quan lộc. Quan lộc của sao Thái dương là trạng thái động, cần bỏ sức lao động mới có thể có thu hoạch. Quan lộc của sao Liêm trinh là trạng thái tĩnh, đại diện cho trạng thái kinh doanh và kiếm tiền. Vì sao Liêm trinh có bản chất tham lam, thích cạnh tranh, nhiều mưu liều lĩnh lại chủ về tà, do đó thích dùng thủ đoạn đầu cơ không chính đáng, như cờ bạc để kiếm tiền, có thể nói là thiện ác đều có, tạo hóa tạo ra nó là "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng".
Người có sao Liêm trinh thủ mệnh thường yêu nghề nghiệp và thích nơi chỗ đông người, khi còn thanh niên thì phần lớn là gian khổ vất vả, tạo thành bản năng được tôi luyện chịu đựng gian khổ, sau khi trưởng thành thì sự nghiệp một khi có thành tựu, sẽ chú trọng hưởng thụ vật chất, không ngăn được sự hấp dẫn của dục vọng, để lộ ra bản tính tham lam, cạnh tranh, tà ác, dễ đi vào con đường đầu cơ mạo hiểm, cờ bạc.
Sao Liêm trinh thích giao tiếp, thích thể hiện, thích làm đẹp, về mặt giao tiếp giữa người với người thì hiểu được đạo lý "cho đi trước thì sẽ thu hoạch trước", "một mình vui không bằng tất cả vui" trong mối quan hệ với mọi người, đồng thời khéo léo đối nhân xử thế, thiết lập mối quan hệ giao tiếp tốt đẹp.
Tù của sao Liên trinh là "nhốt" người vào trong khung, mới có thể có trời đất riêng, mới có cảm giác an toàn. Do đó, người có sao Liêm trinh thủ mệnh thường giỏi "bảo vệ", "trang điểm" cho mình, hiểu cách thức bảo vệ đoàn thể. Bảo vệ hợp lý làm cho sao Liêm trinh có nhiều ưu điểm hơn hẳn các sao khác. Khi bảo vệ không hợp lý dễ dẫn đến những khuynh hướng dưới đây:
1. Đối với con người hoặc môi trường, nếu có nhiều sự sợ hãi, thì luôn ở vào trạng thái lo sợ bất an.
2. Bảo vệ quá mức thường dẫn đến thể chất dễ bị dị ứng, như da, mũi, đường hô hấp bị dị ứng, dị ứng với thuốc, đồ ăn.
3. Sai lầm khi lợi dụng các mối quan hệ, như nịnh nọt một số người không tốt với mình, kết quả là làm cho mình càng thêm căm hận; đi cầu cứu người không thể giúp đỡ mình, cuối cùng cũng thất bại, làm cho mình ấm ức trong lòng.
Sao Liêm trinh chủ về sát (quyền uy), chủ về tù (bảo vệ và trang điểm), và tiếp đến là đào hoa (tiếp xúc nhiều với người khác giới), và đặc tính thích giao tiếp, thích quan hệ, thích làm đẹp, nghè nghiệp thích hợp gồm:
1. Quân đội, cảnh sát, chính trị, công chức, giáo dục cho nhi đồng, bảo mẫu, bảo vệ đất nước, nhân dân và trẻ nhỏ.
2. Quan hệ quần chúng, phát thanh quần chúng, quản lý hành chính và công tác xã hội, để vận dụng đặc tính thích giao tiếp, thích quan hệ.
3. Công việc biểu diễn, giải trí để phát huy đặc tính thích làm đẹp.
4. Chuyên viên làm đẹp, thời trang, bác sĩ khoa ngoại chỉnh hình, đồ trang sức mỹ phẩm mỹ nghệ.
5. Ngành ăn uống và phục vụ quần chúng, những ngành tiếp xúc nhiều với người khác giới.
Người có sao Liêm trinh thủ mệnh, nếu biết bảo vệ bản thân có tính hai chiều, tức vừa bảo vệ mình đồng thời cũng bảo vệ người khác, thì mới có thể làm cho thân thể và trái tim của sao Liêm trinh hòa làm một. Nếu có thể bảo vệ người khác trước, thì bốn bức tường bao xung quanh tự nhiên sẽ biến mất, lúc này sao Liêm trinh sẽ không bị "nhốt" nữa, có thể phát huy hết tài năng, vươn lên dẫn đầu, làm việc gì cũng được như ý, để có thể bộc lộ hết khả năng.
Ngoài ra, Liêm trinh có cá tính "nóng nảy dễ bùng nổ", nhìn bề ngoài thường không dễ cảnh giác, mà nội tâm dục vọng vật chất của sao Liêm trinh cực kỳ mạnh, do đó cần phải tu thân dưỡng tính về sau, đó là quy luật của cuộc sống. Nếu tình cảm trước hôn nhân và sau hôn nhân của sao Liêm trinh như một không thay đổi, thì có thể kiềm chế được khuyết điểm của Liêm trinh, phát huy triệt để những đặc tính của nó để mang lại những biểu hiện xuất sắc.
Sao Liêm trinh gặp sao Tử vi thì nắm uy quyền, gặp Lộc tồn chủ về phú quý, gặp Văn Xương chủ về biết các lễ nghi, gặp Thất sát có thể có chức võ vinh hiển, nhưng lại quá cố chấp và cá tính quá mạnh. Liêm trinh ở cung Quan lộc có uy quyền, ở cung Mệnh thích phong lưu, Liêm trinh là một ngôi sao nhiều thay đổi khó lường, trong 12 cung đều phải luận đoán tỉ mỉ.
Sao Liêm trinh thích sao Thiên tướng, nếu lại gặp hai sao Tả phụ và Hữu bật hội chiếu thì có thể nắm quyền lớn. Nhưng, Liêm trinh và Thiên tướng cùng tọa mệnh mà lại gặp Kình dương thì thành mệnh cách "Hình tù giáp ấn" sẽ nhiều hình thương tai họa, nhiều thị phi, cả đời gặp nhiều chuyện bị tranh chấp tố tụng.
Sao Liêm trinh thủ mệnh, cung Quan lộc sẽ có sao Vũ khúc, nếu lại gặp Văn xương, Văn khúc cùng cung, hoặc hội chiếu ở tam phương tứ chính, là mệnh cách "Liêm trinh văn võ", giỏi văn giỏi cả võ. Sao Liêm trinh tọa tại Dần, hoặc Thân nhập miếu độc tọa thì phúc khí toàn diện nhưng mệnh thọ không dài, tình cảm cũng không thuận lợi, thường gặp nhiều hình thương.
Sao Liêm trinh kỵ bốn Sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về dễ có tố tụng, thị phi, tai nạn xe cộ. Gặp Kình Đà đều chủ về hình thương.
Sao Liêm trinh có thể chịu được hai sao Thiên không và Địa kiếp, khi Liêm trinh đứng một mình mà gặp Thiên không, Địa kiếp phần lớn là nhân viên công chức có chức vị cao.
Liêm trinh gặp sao Phá quân, hoặc Liêm trinh gặp sao Thiên phủ, lại gặp thêm Hỏa tinh thì dễ tự tìm đến phiền phức, tự mình gây rắc rối cho mình mà phiền phức.
Sao Liêm trinh hóa Lộc nhập cung Mệnh chủ về có quyền uy, Liêm trinh hóa Quyền nhập cung Mệnh hay cung Quan lộc là chủ về quan lộc.
Tất cả các sao đều sợ sao Hóa Kị, đặc biệt là ba sao Liêm trinh, Tham lang và Thiên cơ càng sợ sao Hóa Kị. Sao Liêm trinh là sao "tù", khi Hóa Kị thành bị thắt chặt, không thể mở ra, thân và trái tim bị đóng chặt, hàng ngàn khó khăn, tai họa không nhẹ. Sao Thiên cơ chủ về lo xa, chu đáo, sao Thiên cơ hóa Kị thì mọi việc đều có sai xót, càng lo lắng thì càng có vấn đề. Sao Tham lang là quỷ dục vọng, sao Tham lang Hóa Kị thì dục vọng quá cao nên mọi cố gắng cuối cùng cũng bằng không.
Sao Liêm trinh - Lục Bân Triệu
Sao Liêm trinh trong thuyết ngũ hành thuộc âm hỏa, ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, hóa làm tù. Ở mệnh bàn là sao đào hoa thứ. Nhưng nếu Liêm trinh thủ mệnh tại Mùi, hoặc Hóa Lộc thủ mệnh tại Dần, Thân, gặp Lộc tồn, thì ngược lại là thượng cách thanh bạch. Ở Mùi, Thân, mà có cát tinh vây chiếu, không gặp lục sát thì đều chủ về phú quý song toàn. Đồng độ với Thiên phủ tại Tuất thì danh tiếng vang dội xa gần. Đồng độ với Tham lang ở Tị mà không có sát diệu, chủ về làm yếu nhân trong quân đội. Liêm trinh và Thất sát cùng đến Mùi, hoặc Liêm trinh độc tọa ở Thân còn Thất sát trấn tại Ngọ, có cát tinh hội chiếu mà không bị Lục sát và Đại hao xung phá, là thượng cách phú quý song toàn, gọi là cách "Hùng tú kiền nguyên".
Bởi vì Liêm trinh là âm hỏa, Thất sát là âm kim, lấy khắc chế nhau làm dụng, tựa như nham thạch ở núi hoang, trải qua lửa trui rèn, sẽ trở thành thứ nguyên liệu cực quý.
Liêm trinh ở Tị hoặc Hợi, mà có kị tinh hoặc sát diệu, thì chủ về bôn ba tứ hải, bất luận là quân nhân hay thương nhân đều phải ở bên ngoài gió sương mưa tuyết, gian lao vất vả. Nếu hội chiếu với Kình Đà Hỏa Linh, Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, Không Kiếp, mà không có cát tinh hóa giải, thì chủ về chêt ở tha hương. Liêm trinh ở cung mệnh mà có Thiên nguyệt vây chiếu, không có Sao làm cho tốt lên, lại hội sát diệu, thì chủ về nhiễm bệnh ở tha hương.
Sao Liêm trinh - Vương Đình Chi
Liêm trinh miếu ở Dần, Mùi, Thân, hãm ở Tị, Hợi
Liêm trinh là sao thứ năm của Bắc Đẩu, ở ngũ hành thì thuộc âm hỏa. Là sao "đào hoa thứ" trong Đẩu Số, hóa khí làm "tù". Về tính cách chủ thông minh mẫn tiệp, bại thì tà ác.
Về phương diện tính cách, người có Liêm trinh thủ mệnh, phần nhiều trọng tình cảm, thiếu lý trí, cho nên là người có phong độ nhưng lại phóng túng, tận tình. Đây là tính chất cơ bản của sao Đào hoa thứ.
Do tính chất đào hoa, nên Liêm trinh rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Bởi vì lúc sao Văn chương hội với đào hoa, tính chất đào hoa lập tức biến thành nhàn nhã, không chìm đắm trong nhục dục, có thể hóa giải thành thú "phong lưu thơ riệu", hoặc chuyển hóa thành lực sáng tác, lực sáng tạo trong nghệ thuật. Văn học nghệ thuật phần nhiều mang sắc thái tình yêu, đây là đạo hóa giải. Trên thực tế, phàm là người có Liêm trinh thủ cung Mệnh, phần nhiều cũng yêu thích mỹ thuật, có khuynh hướng về thư họa, nếu không, cũng sẽ có cảm thụ khá đặc biệt về thưởng ngoạn, nhất là lúc hội với Tham lang thì càng đúng.
Nếu không gặp sao Văn, mà chỉ hội hợp với các Phụ diệu như Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, trái lại sẽ dễ làm tăng tính hay lúng túng khó xử của Liêm trinh, dẫn đến tiến thoái bất an.
Lực đề kháng của Liêm trinh đối với tứ sát Kình Đà Hỏa Linh rất yếu. Cho nên, hễ Liêm trinh đóng ở cung Mệnh, thì cần phải không gặp tứ Sát, thì mới nên chuyện. Nhất là ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp tứ Sát chủ về bôn ba tứ hải, nếu gặp thêm Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, càng chủ về sống chết ở tha hương.
Liêm trinh là sao có tính chất biến hóa rất phức tạp, tuy có thuyết đào hoa thứ, nhưng lại không chắc chắn là mệnh đào hoa, hoặc có tính dâm đãng. Chỉ có một tính chất cơ bản có thể khẳng định, đó là người này tất có chút lẳng lơ và dí dỏm, nhưng nội tâm lại chủ quan cực mạnh, không dễ gì chiều lòng theo ai.
Tham lang là đào hoa chính, Liêm trinh là đào hoa thứ, cùng thuộc đào hoa, nhưng người Tham lang thủ Mệnh lại khéo ăn khéo ở khác với Liêm trinh hơi có chút trôi nổi. Chỗ khác nhau này cần phải phân biệt rõ.
Liêm trinh tuy dí dỏm nhẹ nhàng, trong giao tế hơi có chút hài hước, nhưng do có tính chất chủ quan mạnh, cho nên không thể thấy anh ta dí dỏm nhẹ nhàng, rồi lấy đó để bàn công việc. Trên thực tế anh ta rất có thể là một người có tính "làm việc theo nguyên tắc". Lúc hội với Địa không Địa kiếp, tính chất này càng thêm rõ rệt, cho nên thích hợp theo đuổi công việc nghiên cứu về phương diện khoa học kỹ thuật, bởi vì công trình khoa học kỹ thuật rất cần ngăn nắp thứ tự. Liêm trinh đóng ở cung Mệnh cũng thích hợp theo nghề kiến trúc, bởi vì công trình kiến trúc có mang ý vị sáng tác nghệ thuật và sáng tạo bộ mặt đô thị.
Liêm trinh rất ngại Hóa Kị, chủ về bệnh tật máu mủ. Nó cư cung Mệnh, cung Tật ách và cung Thiên di, đều có ảnh hưởng đến vận trình của người đó.
Sao Liêm trinh - Phan Tử Ngư
Liêm trinh thuộc âm hỏa, sao thứ năm của chòm Bắc Đẩu, trông coi về phẩm vật và quyền uy mệnh lệnh. Hóa khí là tù nên còn có tên là Tù tinh, nếu đóng ở Thân Mệnh lại gọi là "thứ" đào hoa, người cung Mệnh có sao này mặt lưỡi cày, xương gò má cao, chân mày rộng, miệng ngang, người cao vừa, giỏi ăn nói biện luận. Nếu hãm địa lại gặp sát, phần nhiều là mặt có nốt ruồi hoặc tàn nhang, tính hung dữ điên cuồng, vô lễ nghĩa, hợp nhất là Thiên tướng đồng cung để áp chế tính ác của Liêm trinh.
Gặp thêm Đế tọa có thể nắm quyền uy, gặp Lộc tồn cũng chủ về giầu có đầy đủ. Nếu đồng cung với Kình dương thì ngày nào cũng có chuyện thị phi kiện tụng. Gặp Phá quân lại có Hỏa tinh, Linh tinh ở tam phương lai chiếu, chủ về người thâm hiểm ác độc, có thêm Bạch hổ ở cùng thì không tránh khỏi tai họa lao tù, nếu hãm địa mà gặp Hỏa Linh thì chủ về tự tìm cái chết một cách nông nổi. Cùng với Tham lang ở Tị là nhược địa, chủ về người ưa nói nhưng không có chủ kiến. Ở cung Hợi là cách "Tuyệt xứ phùng sinh" (Được cứu sống nơi tuyệt địa), thêm cát tinh có thể hiển quý.
Liêm trinh nhập nữ mệnh chủ về hay ghen, gặp miếu vượng thì trinh khiết, gặp hãm địa thì không tránh khỏi ham muốn mù quáng dẫn tới dâm tà. Nếu còn hội hợp thêm các sao đào hoa như Tham lang, Thiên diêu, Hàm trì, thì đoán có mệnh làm kỹ nữ.
Hành hạn gặp Liêm trinh, ở tại cung hãm nhược, lại có Bạch hổ xung chiếu, ắt có tai họa về kiện tụng và lao tù. Nếu gặp sát nhiều thì chủ về chết đột ngột, nhẹ thì cũng không tránh khỏi thương tật tàn phế.
Liêm trinh nhập Tị địa hoặc Hợi địa, ở Tị là hãm nhược ở Hợi là miếu vượng, nhưng không hợp Văn xương và Văn khúc đồng cung, lập Mệnh gặp trường hợp này thì chủ về chết bất đắc kỳ tử hoặc chết yểu. Hành hạn nếu gặp trường hợp như vậy thì cũng có hiện tượng hung hiểm, tan xương nát thịt.
Liêm trinh khi trấn cung Tật ách, tiên thiên tâm khí không đủ thường dễ bị bệnh ung thư, bệnh hoa liễu, tâm phế mãn gây hen suyễn, can hỏa thượng thăng gây đờm thấp ùn tắc...
Sao Cự MônSao Cự môn - Toàn thư
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Cự môn thuộc âm thủy. Tại Đẩu là ngôi sao thứ hai thuộc chòm Bắc Đẩu, tại Số là ngôi sao thứ tư theo phép định cục an sao Thiên bàn thuộc chòm Nam Đẩu. Hóa khí là ám, chủ về thị phi, đa nghi, hiềm khích.
Cự môn là ngôi sao về nói năng, nên chủ về có tài ăn nói, phù hợp với những ngành nghề cần giao tiếp, năng nói, có sở trường xử lý các mối quan hệ công cộng, nên có khả năng trở thành nhà ngoại giao. Nhưng, cũng vì nói nhiều, dễ rước lấy điều tiếng thị phi, lại khó tránh được đố kị, hiềm khích, cạnh tranh, nên không hợp với mệnh nữ. Trừ khi theo những nghề như giáo viên, biểu diễn, ngoại giao, quảng cáo marketing, nếu không rất dễ trở thành ngôi lê đôi mách, buôn chuyện thị phi.
Sao Cự môn hóa ám, chủ về lo lắng buồn phiền, cũng chủ về vất vả. Nằm tại bất lỳ cung vị nào, bất kể có Cát tinh ở tam phương hiệp trợ hay không, đều chủ về tuổi trẻ vất vả, phải phấn đấu gian khổ rất nhiều mới có được thành tựu.
Sao Cự môn ưa gặp Hóa Lộc, tăng cường lý tính và mức độ hoạt ngôn, lại có thêm uy quyền. Nếu sao Cự môn miếu, vượng gặp Hóa Quyền, lại gặp lục Cát tinh, phần nhiều đều trở thành các nhà ngoại giao có tài hùng biện, đảm đương những chức vụ quan trọng. Nếu sao Cự môn không ở cung miếu, vượng mà gặp được Hóa Quyền, sẽ trở thành bậc thầy nổi tiếng, nhiều học trò đệ tử.
Sao Cự môn cũng nên Hóa Lộc tại cung miếu, vượng, chủ về có khẩu phúc (được ăn ngon), đồng thời tăng cường phần cảm tính và tài hùng biện. Nếu như lại gặp thêm Cát tinh, chắc chắn sẽ thành tựu về sự nghiệp. Nếu như Hóa lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Thiên diêu, Hàm trì, Hóa Khoa, nên phát triển trong lĩnh vực biểu diễn, diễn xuất, khả năng trở thành nghệ sỹ có danh tiếng. Sao Hóa lộc, Hóa quyền của Cự môn có tửu lượng tốt, được hưởng khẩu phúc.
Sao Cự môn không có khả năng kháng cự với lục Sát tinh và sao Hóa Kị, nhất là khi gặp Kình dương và Đà la, sẽ khiến cho đường tình duyên gặp nhiều sóng gió trắc trở. Nếu gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp chủ về vất vả trắc trở. Khi sao Cự môn Hóa Kị thì ăn nói khó nghe nhưng lại nói quá nhiều gây phản cảm cho người khác, tự chuốc lấy điều tiếng thị phi, có khuynh hướng bất mãn với hiện thực, dễ gây nên vạ miệng mà bị kiện tụng.
Sao Cự môn nếu gặp Thái dương thì cát hung lẫn lộn. Gặp sao Thất sát chủ về bị sát thương. Gặp Tham lang, Phá quân dễ bị tù tội lưu đầy. Gặp Tử vi sẽ khắc chế được tính cách ngoan cố của Cự môn. Gặp Lộc tồn sẽ giải trừ được tai ách. Gặp Kình Đà trai làm giặc cướp gái dâm tà. Nếu tại cung đối xung có Hỏa tinh, Linh tinh, Bạch hổ, mà không có sao Tử vi trấn áp hay Lộc tồn hóa giải, dễ bị đầy ải hoặc xung quân đến phương xa. Tam phương hội Sát trùng điệp ức hiếp, là thần hà khắc, dễ trở thành số cô độc, dễ gặp hỏa hoạn. Nếu theo nghiệp cửu lưu sẽ tránh được vất vả. Hai hạn gặp hung tinh tai họa không nhẹ.
Sao Cự môn và sao Thái dương trấn mệnh tại Dần hoặc Thân, là cách "Cự Nhật đồng cung", có tài ăn nói hùng biện, vất vả trước thành công sau. Sao Cự môn trấn mệnh tại Tý hoặc Ngọ, cung vị tam phương tứ chính có thêm hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Khoa hiệp trợ, là cách "Thạch trung ẩn ngọc" (Ngọc ẩn trong đá), bất khuất kiên cường, khi trẻ vất vả trung niên sẽ có thành tựu. Sao Cự môn nhập Thân cung lạc hãm tại Thìn hoặc Tuất, lại gặp bốn Sát tinh Kình Đà Hỏa Linh tại cung mệnh, là cách "Cự phùng tứ sát", nếu không có Cát tinh ứng cứu, dễ vì trốn tội mà lưu lạc tha hương. Sao Cự môn và Thiên cơ cùng trấn mệnh tại Dậu, tại Dậu hoặc cung vị tam phương tứ chính gặp Hóa Kị, là cách "Cự Cơ hóa dậu", làm việc gì cũng không thành tựu, mệnh nữ ắt phá bại, phiêu đãng vô định.
SAO CỰ MÔN TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và tính cách
Người có sao Cự môn tọa thủ cung Mệnh, thường ánh mắt nhìn đoan chính, vẻ mặt nghiêm túc, giọng nói cao mà thanh, hành động nhanh nhẹn. Nhập miếu thì cơ thể cao đậm, nhìn vẻ bề ngoài toát ra hình thức là người phúc hậu lương thiện, lạc hãm thì thân thể cao gầy.
Ngay thẳng bộc trực, tính đa nghi, có khuôn mặt thánh thiện khả ái, cũng có vẻ mặt hiền lành ít nói. Lục thân thiếu hòa hợp, là người chủ quan lại tự tin, thường hay tỏ thái độ bất mãn với hiện tại, nên thích gây chuyện thị phi, lúc thiện lúc ác thường không biểu hiện lộ ra ngoài mặt. Học nhiều nhưng ít tinh thông, phong cách làm việc thường tỏ ra khó khăn vất vả nên khó có được sự thanh nhàn thảnh thơi.
Tính tình đa nghi, kết bạn với mọi người ban đầu thì tốt nhưng cuối cùng lại ác. Tư duy lãnh đạm, trong lòng nhỏ nhen hiếm khi rộng lượng, làm việc lớn thường quá chú trọng tới hình thức mà bỏ qua khả năng phân tích, khả năng quan sát, khả năng phán đoán tình huống, khả năng ghi nhớ, và khả năng liên tưởng. Tuy nhiên, là người giầu khả năng nghiên cứu, nên thường có tầm hiểu biết rộng, có sáng kiến, dù không giao tiếp nhưng khả năng biểu đạt lại rất tốt, biện luận sắc sảo. Có xu hướng sống cuộc đời thanh bạch, ít thiên về thú vui của cuộc sống, lấy công việc là mục đích hành đầu.
Phụ nữ cung mệnh có sao Cự môn thường có lòng tự tôn rất cao, bụng thẳng dạ ngay, sức sống mạnh mẽ, đa nghi, thường hay tự so bì với người khác mà tự chuốc lấy phiền muộn trong lòng. Khi can thiệp vào chuyên gia đình hay công việc của chồng, thường thiếu thận trọng trong ngôn ngữ, lời nói phản cảm thường gây tổn thương bầu không khí hạnh phúc, ấm cúng. Làm việc chăm chỉ cần mẫn, xử lý mọi việc trong gia đình chu đáo, công việc và gia đình đều đảm nhiệm tốt.
Suy đoán vận mệnh
Cự môn + 3
Cự môn + 3
Cự môn – 1
Thiên đồng – 1
Cự môn + 4
Thái dương + 2
Cự môn – 2
Cự môn + 4
Thiên cơ + 3
Cự môn + 4
Thiên cơ + 3
Cự môn – 2
Cự môn + 4
Thái dương + 3
Cự môn – 1
Thiên đồng – 1
Cự môn + 3
Cự môn + 3
Độ sáng của sao Cự môn tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Cự môn.
Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Cự môn là miệng, cho nên sao Cự môn tượng trưng cho "miệng", nói chung không thể tách rời khỏi "miệng", có "khẩu phúc", giỏi quan hệ công chúng, phần nhiều là những người gây dựng sự nghiệp bằng "miệng", như giáo sư, quan tòa, luật sư, nhà ngoại giao, người dẫn chương trình, người làm việc kinh doanh đối ngoại, nhân viên kinh doanh, ca sỹ, diễn viên, nghề dịch vụ công hay tư,... đồng thời còn thiên về việc xử lý các mối quan hệ chung.
Sao Cự môn phần nhiều là nói về "miệng", cho nên ngay thẳng bộc trực là ở "miệng", nhưng "ngôn đa tất thất" là nói về người phụ nữ thị phi, cho nên sao Cự môn không nên xuất hiện trong mệnh của nữ giới.
"Thị phi" của sao Cự môn không phải là có ý gây chuyện "thị phi", người mệnh sao Cự môn có khả năng phân tích rất tốt, rõ ràng là rất "thị phi", cố gắng không nên gây những chuyện "thị phi", nhưng cũng khó có thể thoát khỏi những chuyện "thị phi".
Ba sao Cự môn, Tham lang và Thiên cơ, đều thuộc kiểu giao tiếp hướng ngoại, nhưng tính chất của chúng lại có sự khác biệt. Sao Tham lang đa tài đa nghệ, tính chất giao tiếp của nó thiên về trường phái lãng mạn: tửu, sắc, tài, khí; Sự giao tiếp của sao Thiên cơ thiên về liên lạc giao thiệp, vì người mà bôn tẩu vất vả; Sao Cự môn thì dùng "miệng" là chính, thiên về diễn giảng biện thuyết đúng sai, phải trái.
Sao Cự môn và sao Văn khúc đều thiên về tài biện luận ăn nói, nhưng tài biện luận ăn nói của sao Văn khúc phần nhiều thuộc về kỹ xảo biện luận, chú trọng tu từ mà lời nói hướng thiện, cũng mang hàm nghĩa "tài" và "đào hoa". Tài biện luận ăn nói của sao Cự môn thì lại chú trọng đến thực tế, gồm có phân tích và liên tưởng, cũng có nội dung nhưng "tài khí" thì lại tương đối ít.
Khí hóa của sao Cự môn là ám, trong bóng tối có thể thấy được ánh sáng bên ngoài, cố nhiên sao Cự môn với khả năng quan sát sự vật một cách thấu đáo hơn người, phần nhiều có những biểu hiện như sau:
1. Bất luận ở hoàn cảnh khó khăn nào, phần lớn đều có thể tháo gỡ được trở ngại khó khăn bước đầu, biết hy vọng vào tương lai.
2. Khoan dung độ lượng, biết khoan dung hơn nữa còn hiểu đạo lý.
3. Có khả năng hội nhập được cuộc sống đa dạng muôn mầu, và có biểu hiện cụ thể bằng ngôn ngữ, hành động, dễ được mọi người chấp nhận và hoan nghênh.
4. Có thể hiểu được sự việc và truyền đạt thông tin, hóa giải khúc mắc.
5. Nằm giữa ranh giới thị phi và chính trực, nhưng không bị mất đi bản tính lương thiện, mà còn giữ được đạo trung dung.
6. Có chuyện thầm kín trong lòng không thể bày tỏ với người khác, hoặc là dấu đầu hở đuôi.
7. Thường rơi vào ảo tưởng mà tự chuốc lấy phiền muội, thậm chí còn tự hủy hoại mình.
8. Nhàn rỗi, càng nói càng sai, thường khổ tại miệng, bị người khác hiểu lầm oán trách.
9. Trước khi được xã hội công nhận, phải trải qua nhiều vất vả, chỉ cần giữ vững ý chí, cuối cùng cũng thành công.
10. Mạnh bạo hơn người, thường làm những chuyện mà mọi người không ngờ tới, hoặc những việc mà không được mọi người tán thành, khiến mọi người bàn tán.
11. Cơ hội sự dụng ngôn ngữ hơn người, cũng thường vận dụng tài ăn nói của mình mà đạt được lợi ích.
12. Cuộc đời có nhiều cơ hội phải đấu tranh.
Người có sao Cự môn thủ mệnh, nên theo những nghề dùng miệng là chính, có thể nên học và tinh thông nhiều thứ tiếng ngoại ngữ, để có cơ hội làm việc theo phương thức chính phái, qua đó, bản tính thị phi dễ bị "phê bình" thường sẽ chuyển biến sang xu hướng "giám sát đúng sai", "đánh giá sự hoàn thiện", phát huy khả năng phân tích có tính thực tiễn của sao Cự môn. Ngoài ra, người có sao Cự môn thủ mệnh, cuối đời phần lớn đều nhận được sự chăm sóc của con cháu.
Sao Cự môn cũng là sao đơn độc, duy có sao Lộc tồn mới có thể hóa giải được. Sao Cự môn thâm nhập vào các cung Lục thân, chủ về phần lớn người đó bạc duyên với lục thân, nếu không kết hợp với sao Lộc tồn, hoặc đồng cung với sao Hóa Lộc, thì tâm thần thường thường dễ bất an, hoặc có hiện tượng cô đơn.
Sao Cự môn được tam cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về bổng lộc dồi dào, tài diễn thuyết hùng biện được trọng dụng phát huy. Song tính chất lại có sự khác biệt: Hóa Lộc mà lại mang cảm tính, hiền lành không cưỡng bức, quan sát tình cảnh nói chuyện. Hóa Quyền giảng lý mà mang tính quyền uy, trật tự rõ ràng, tăng thêm trọng lượng lời nói, hơn nữa còn tăng thêm lòng tin và độ tin cậy vào người khác mà giảm bớt chuyện thị phi. Hóa Khoa là lời nói nho nhã, mang phong thái của người quân tử.
Sao Cự môn thích nhất là Hóa Quyền, khi miếu vương Hóa Quyền, lại kết hợp thêm lục Cát tinh, thì phần nhiều là người làm quan lớn gánh vác trách nhiệm ngoại giao. Nếu không thuộc miếu vượng mà gặp sao Hóa Quyền, thì cũng là người gánh vác trọng trách. Khi sao Cự môn nhập miếu vượng Hóa Lộc, có thêm cát tinh hội chiếu, chủ về sự nghiệp sẽ được thể hiện thấy rõ, nếu Hóa Lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Hàm trì, thì nên phát triển theo hướng văn hóa nghệ thuật, biểu diễn giải trí, phần nhiều sẽ thành danh trên con đường này.
Sao Cự môn không thích gặp Hóa Kị, ngôn từ sắc bén, nói chuyện khó nghe, lại thích nói chuyện, dễ khiến cho người phản cảm, đắc tội với người mà không biết. Nếu sao Hóa Kị lại gặp phải Sát tinh, thì nên chú ý chuyện thị phi nơi quan trường.
Sao Cự môn kỵ nhất gặp sao Kình dương và sao Đà la, chủ về chuyện tình cảm gặp nhiều sóng gió, một lời không thể nói hết được, phần lớn là những chuyện thị phi mang tới. Sao Cự môn gặp phải Hỏa tinh, Linh tinh thường tăng thêm phần khó khăn. Cự môn đồng độ cùng Địa không, Địa kiếp tọa thủ cung mệnh, chủ về một đời vất vả, thậm chí thời thơ ấu còn bị bỏ rơi.
Sao Cự môn - Lục Bân Triệu
Sao Cự môn trong thuyết Ngũ hành vừa thuộc âm thổ, vừa thuộc âm kim, đây là Thổ yên tĩnh chôn Kim, cho nên hóa khí là "ám tinh" (sao u ám). Ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, ở trong mệnh bàn chủ về lời qua tiếng lại, tranh chấp ra mặt hay ngấm ngầm đấu nhau.
Nếu sao Cự môn hóa Quyền thì làm thầy người ta, thanh danh vang xa. Có Thái dương hội chiếu thì quang minh lỗi lạc, vừa phú vừa quý. Cự môn ở Tý hoặc Ngọ, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", lấy Cự môn hóa Quyền hoặc hóa Lộc làm thượng cách, lấy Lộc tồn đồng cung làm thứ cách, lấy không có Lộc làm cho tốt lên làm kế đó, chủ về phú quý song toàn, một đời chức vị cao lộc hậu. Nhưng không thể lên tới đỉnh tối cao, nếu lên tới đỉnh sẽ có hậu quả không tốt, hoặc bị mọi người chỉ trích, dẫn đến thân bại danh liệt.
Cự môn ở Dần hoặc Thân, đều chủ về danh lợi song thu, có thể thành đại phú, thanh danh lừng lẫy ở tha hương. Có điều lấy Dần làm Thượng cách, kế đến là tới Thân. Ở Dần lấy thân thể phát mập là hợp cách.
Cự môn ở Tị không lợi cho Phụ tinh (cha), hoặc tuổi còn nhỏ đã làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ tổn hại cha, hay còn nhỏ nhiều bệnh tật, chủ về vất vả tất bật, nên theo học một nghề chuyên môn. Nếu được Lộc tồn đồng độ, thì phúc dày lộc trọng, song tính tình mộc mạc giản dị mà cẩn thận, chủ về giầu có. Nếu có Hóa Quyền, Hóa Lộc thì khí phách cực lớn, giỏi sáng lập sự nghiệp, chủ về sang quý.
Cự môn ở Hợi, có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về đã phú lại quý, lừng danh ở tha hương, song tài năng quá lộ, chí cao mà khí ngạo, nên dễ bị người chỉ trích.
Cự môn ở Thìn, nếu hóa Quyền hoặc hóa Lộc chủ về phú cách, gặp thêm Lộc tồn chủ về đại phú. Nếu Cự môn và Văn xương cùng đến tọa tại Thìn, mà Cự môn Hóa Lộc, còn Văn Xương Hóa Kị, là cách rất đặc biệt, chủ về đại phú đại quý. Bởi vì sao Thiên đồng ở Tuất có thể hóa cái xấu của sao Kị thành hữu dụng.
Cự môn và Thiên cơ ở tại Mão, có Hóa Lộc hay Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, và có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, là chủ về cực quý.
Cự môn và Thiên cơ ở tại Dậu, tuy có cát tinh Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhưng vẫn chủ về quý mà không hiển, phú mà không bền.
Các cung vị trên đều lấy tiêu chuẩn tam phương tứ chính không gặp Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh là nhập cách.
Sao Cự môn đồng độ với sao Thiên đồng ở Sửu hoặc ở Mùi, chủ về hình khắc, khổ cực, nhiều thị phi, có gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền tuy tốt nhưng không được lâu dài. Cự môn ở Tuất Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc là cách đặc biệt (kỳ cách), bởi vì Thái dương ở cung Ngọ là mặt trời giữa trời hội chiếu Cự môn, thì khí u ám tan hết.
1. Cự môn ở cung Mệnh viên
Sao Cự môn đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh vàng, có Thái dương đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về sắc mặt hồng trắng hoặc hồng vàng. Khuôn mặt hình chữ nhật dài hoặc tròn dài. Nhập miếu hoặc có Thái dương ở Tị Ngọ thì chủ về béo mập, thân hình trung bình cao, nếu không sẽ chủ về thân hình trung bình, hoặc gầy nhỏ. Tính tình trung hậu, mặt mày thanh tú, có nghề chuyên môn, khéo ăn nói, hay hùng biện. Có lòng chính nghĩa, không có việc gì nhưng lại thường thể hiện bận rộn tất bật, học nhiều mà ít tinh, có theo học về pháp luật, cơ giới, y học, và tinh tướng tạp nghệ, hoặc làm thầy mọi người, lãnh đạo bang hội. Ưa nhất là Hóa Quyền, Hóa Lộc, và Lộc tồn, chủ về vừa quý vừa phú. Nếu Hóa Kị thì lời qua tiếng lại liên miên, tai họa tơi bời. Phàm làm việc gì cũng nhiều nghi ngờ mà ít quyết đoán, tiến thoái bất định. Có Đà la đồng cung thì trong mình có nốt ruồi lạ. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Kiếp sát, Thiên hình, Âm sát, mà không có Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền hóa giải, thì xảy ra tình hình xem nhẹ mạng sống, như tự tử, đâm đầu xuống sông, uống thuốc độc, hoặc gặp hỏa tai, bị điều ra tiền tuyến, bôn ba ngàn dặm, làm việc điên đảo, hoàn toàn không có chủ trương.
Nữ mệnh có sao Cự môn lâm mệnh cung, nhập miếu hoặc có Lộc tồn, Hóa Lộc, hoặc Hóa Quyền, thì chủ về vừa phú vừa quý, hơn nữa, thọ mệnh rất dài. Nếu lạc hãm, hoặc Hóa Kị thì mang tiếng người ghét, nhiều thị phi. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu thì chủ về hình khắc, thọ yểu, lấy kế thất, vợ lẻ là thích hợp, song vẫn nhiều tranh giành đấu đá.
Lưu niên đại hạn có sao Cự môn, đồng độ với Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn thì chủ về phát triển sự nghiệp, có thể sáng lập đại nghiệp, thành đại sự, mọi việc thấy hung mà thực ra là cát, danh lợi song thu. Nếu Hóa Kị, hoặc hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, thì chủ về tai họa kiện tụng lao ngục, hình khắc, hoặc gặp hỏa tai, binh lửa, trộm cướp, nhiều tai họa vô vọng.
2. Cự môn ở cung Huynh đệ
Sao Cự môn đến cung Huynh đệ, chủ về hình khắc bất hòa, lời qua tiếng lại cãi vã, hoặc có anh em khác mẹ. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên phúc hội chiếu, và có các sao Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn cùng đến, thì chủ về anh em sáng lập sự nghiệp thành tựu, ba người trở lên. Song phải có Thái dương đồng độ mới nhập cách. Đồng độ với Thiên cơ thì anh chị em đều có cơ tâm, phân ly đông tây. Đồng độ với Thiên đồng là có anh em kết nghĩa, song trước tốt sau xấu. Hội Không Kiếp Hình Hao, thì bị anh em cắt xén bớt. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Âm sát, Cô thần, Quả tú hội chiếu thì hình khắc, tranh chấp thị phi. Sao Hóa Kị cũng chủ về lời qua tiếng lại thị phi, tai nạn bệnh tật, phá hao.
3. Cự môn ở cung Thê (Phu)
Sao Cự môn đến cung Thê, thường có tình trạng lời qua tiếng lại, cãi vã, gây sự, nên lấy người lớn tuổi hơn mình. Nếu có Thái dương đồng độ, thì tính tình hào sảng, làm việc sáng suốt, dũng cảm gánh vác trách nhiệm. Có các cát diệu Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật hội chiếu thì giúp chồng dạy con, thông minh lanh lẹ. Đồng độ với Thiên cơ, gặp sao làm cho tốt lên, thì thông minh nhanh nhạy, xinh đẹp giỏi chăm lo gia đình. Đồng độ với sao Thiên đồng, tuy thông minh nhưng có hình khắc sinh ly. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Cô thần, Quả tú hội chiếu, thì chủ về khắc hại vợ, sinh ly, ở riêng, lời qua tiếng lại.
Nữ mệnh có sao Cự môn đến cung Phu, có các cát tinh Thái dương, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì chủ về lấy được người chồng đã phú mà còn quý, đa tài đa năng, sự nghiệp lớn lao, còn được người kính mến. Nếu có sao Hóa Kị thì lời qua tiếng lại thị phi, lúc nào cũng cho bản thân là đúng, nhiều tranh cãi vô ý nghĩa. Nếu hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, thì chủ về hình khắc phân ly, mệnh ba lần lấy chồng. Nên làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức kết hôn. Đây là tinh diệu nóng nảy, nhiều tranh chấp.
4. Cự môn ở cung Tử nữ
Sao Cự môn đến cung Tử nữ thì nên chậm có con. Nếu có Thái dương đồng độ, hội chiếu Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì chủ về có ba con trở lên, có thể phát, đã phú mà còn quý, thông minh đa tài, sự nghiệp hơn cha ông. Có Thiên cơ đồng độ thì nên làm con thừa tự của người khác hoặc ở riêng, nếu không sẽ hình khắc. Có Thiên đồng đồng độ, gặp sát diệu, nuôi con thừa tự. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì chủ về cô độc. Có Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, thì chủ về con cái nhiều bệnh tật, phá hao tiền bạc về sau còn hình khắc. Đây là tinh diệu cô độc, cho nên cần phải có Thái dương đến chiếu sáng mới trừ khí u ám. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì mới sinh được ánh sáng tốt lành.
5. Cự môn ở cung Tài bạch
Sao Cự môn đến cung Tài bạch, chủ về nhờ có lao tâm lao lực và dựa vào trí lực, khẩu tài mà được, có thể tay trắng lập nên sự nghiệp. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn đồng độ thì chủ về giầu có, song tối kị chí khí cao ngạo, tài năng bức người, nếu không, tất sẽ bị người chèn ép, gặp phải khó khăn cực lớn, vì bị mọi người xúm lại đánh đổ, hoặc bị con cái làm hao tổn, suy bại. Có Thái dương đồng độ, chủ về được người tin cậy, mở rộng cơ nghiệp đã thành, và có thể được người ở tha hương tôn sùng. Có Thiên cơ đồng độ, vào nhiều ra nhiều, nhiều biến động. Có sao Thiên đồng đồng độ, có thể dựa vào kỹ thuật, nghệ thuật hoặc tay trắng mà sáng lập sự nghiệp; hoặc làm các nghề như luật sư, thẩm phán, bác sỹ, thầy thuốc mà làm nên. Có Kình dương Đà la cùng đến, chủ về nhiều rắc rối tranh chấp, kiện tụng. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hoặc hội chiếu, sẽ có tổn hao vì họa binh đao, cướp bóc, hỏa tai,...
6. Cự môn ở cung Tật bệnh
Sao Cự môn đến cung Tật bệnh, chủ về các chứng âm tổn, thương tổn ngầm, bệnh phổi, mụn nhọt ngầm, ung thư bao tử. Có Thiên cơ đồng độ thì "Can Vị bất hòa", hoặc trường vị nhiều khí, tâm phiền uất kết. Có Thái dương đồng độ thì huyết áp cao, đau mắt, đầu choáng, nhức đầu, hư hỏa bốc lên. Có Đà la đồng độ thì bán thân bất toại. Có Thiên đồng đồng độ thì đau thần kinh tọa, đau lưng eo, cơ nhục ngày càng teo tóp, hoặc mụn nhọt. Có Lộc tồn, Hóa Lộc thì bệnh bao tử. Có Hóa Kị thì thường lở miệng.
7. Cự môn ở cung Thiên di
Sao Cự môn có Hóa quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhập miếu đến cung Thiên di, chủ về xuất ngoại đại phát, nhờ khẩu tài diễn thuyết hùng biện mà nổi tiếng tha phương. Trong chính giới là nhân tài của ngành tư pháp, yếu nhân trong công tác ngoại giao, trong thương giới là người phụ trách doanh nghiệp công ty. Sao Cự môn Hóa Kị thì xuất ngoại nhiều tranh chấp cãi vã, tiến thoái không quyết đoán, đa nghi bất định, đông bôn tây tẩu, vất vả lạ thường. Có Thái dương đồng độ thì xuất ngoại vẻ vang, có thu hoạch bất ngờ. Nhưng, Thái dương ở Tị Ngọ dễ bị tiểu nhân đố kị. Đồng độ với Thiên đồng, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, chủ về xuất ngoại tay trắng lập nghiệp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, thì xuất ngoại gặp tai nạn, thiếu duyên với người, nhiều thị phi. Lưu niên hóa sát thì có tai họa về lao tù, hình khắc tử thương.
8. Cự môn ở cung Giao hữu
Sao Cự môn Hóa Quyền đến cung Giao hữu, gặp cát diệu nhập miếu Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, chủ về bạn hữu tuy nhiều cãi vã tranh chấp, song có nhiều bạn đa mưu, lập nên sự nghiệp, hoặc có thuộc hạ tính tình thẳng thắn, siêng năng, giỏi làm, đa tài. Có Thái dương đồng độ chủ về "úy hữu", hoặc được bạn tốt, trượng nghĩa, nói điều phải. Đồng độ với sao Thiên đồng thì nhiều bạn bè khẩu thị tâm phi, ngôn hành bất nhất. Gặp sao Hóa Kị thì ít được bạn bè giúp đỡ, nhiều lời qua tiếng lại, nhiều tranh chấp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, thì chủ về bạn bè làm liên lụy, hoặc thủ hạ là người bất nghĩa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Âm sát đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về vì bạn bè mà phá hao, hoặc bị thủ hạ trộm cắp.
9. Cự môn ở cung Sự nghiệp
Sao Cự môn nhập miếu đến cung Sự nghiệp, chủ về sáng lập sự nghiệp, hoặc phát triển từ nghề nghiệp chuyên môn, như làm thầy thuốc, luật gia, nhà quân sự, cho đến phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực tướng học, hoặc lãnh đạo bang hội, lãnh đạo tôn giáo, dùng đầu óc hơn người và khẩu tài hùng biện mà thành công. Nhập miếu, có các cát tinh, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về làm yếu nhân trong giới quân sự, người nổi tiếng trong xã hội, nhân vật lớn trong giới thương nghiệp. Có Thái dương đồng độ, thì danh tiếng lớn hơn tiền tài. Có Thiên cơ đồng độ thì biến động đa đoan không thể làm một việc một nghề suốt đời được, khi văn khi võ, khi đông khi tây, ảo tưởng nhiều, dục vọng nặng. Đồng độ với sao Thiên đồng, thì có đầu mà không có đuôi, việc nhiều mà không thể kết thúc. Có sao Hóa Kị thì sự việc không yên định, nhiều tranh chấp, cãi vã thị phi, trong sự thành công có nhiều thất bại. Gặp các sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình, thì trong công việc bị nhiều kiện tụng, dính dáng đến pháp luật, đấu đá tranh chấp, nghề nghiệp không ổn định, tai họa tơi bời. Có khi được tiền tài bất ngờ, song bạo phát bạo tàn, được đó mất đó, hoặc bôn ba giang hồ, bị thất bại bất ngờ, hay bị đả kích một cách đặc biệt.
10. Cự môn ở cung Điền trạch
Cự môn nhập miếu, đến cung Điền trạch, có cát diệu, lại Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng cung, chủ về tự tạo sản nghiệp. Có Thái dương đồng độ, tuy có điền sản, song vì điền sản tranh chấp ra mặt, hay ngấm ngầm đấu tranh, có nhiều điều tiếng. Có sao Thiên cơ đồng độ, lúc lên lúc xuống, dễ thành dễ bại. Đồng độ cùng sao Thiên đồng, phần nhiều vì ruộng đất thấp và sông lạch mà gây ra tranh chấp, rắc rối. Cự môn Hóa Kị thì gia trạch không yên, vì lời qua tiếng lại thị phi mà rời xa nhau, hoặc trong gia trạch lắm chuyện thị phi. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, thì chủ về vì nhà cửa đất đai mà sinh ra tranh chấp rắc rối hay liên quan đến pháp luật, hoặc người trong nhà thường hay bị hình khắc tổn thương, tai họa. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên nguyệt, Âm sát hội chiếu, thì chủ về gia trạch gặp họa binh đao, hỏa tai, cướp trộm, hoặc chủ về bản thân phải phiêu bạt tứ hải.
11. Cự môn ở cung Phúc đức
Sao Cự môn đến cung Phúc đức, chủ về người lao tâm lao lực, hao tổn tinh thần. Hóa Kị thì tâm thần bất định, mất ngủ, làm việc không có định hướng, không thể làm suốt một mạch, nửa chừng thường muốn thay đổi, hoặc nửa chừng mất đi nhiệt tình. Có Thiên cơ đồng độ thì càng nặng lòng muốn thay đổi, làm việc hay thay đổi nửa chừng, hoặc muốn làm lại từ đầu, hoặc hối tiếc, nên tinh thần không được sảng khoái, chủ người mẫn cảm. Có Thái dương đồng độ, tuy tâm chí luôn bận rộn, song có thể hưởng thụ. Chỉ khi nào đồng độ với phúc tinh Thiên đồng mà không có sát diệu, thì mới được vui vẻ, yên ổn. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì chủ về tự tìm phiền não, ngực tức khí kết, nhiều lo nghĩ ưu phiền, nói nhiều hay gây rắc rối, không được hưởng phúc.
12. Cự môn ở cung Phụ mẫu
Sao Cự môn đến cung Phụ mẫu, tất nên làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ khắc hại hình thương. Có Thiên cơ đồng độ, tất nên làm con thừa tự của người khác, hoặc bái thêm người khác làm cha mẹ, nếu không sẽ hình khắc phân ly. Có Thái dương đồng độ thì giữa cha con có sự tranh chấp, nhiều cãi vã. Đồng độ cùng Thiên đồng, không lợi cho cha mẹ, gia sản của tổ tiên dần dần lụn bại, hoặc bị kẻ khác chiếm đoạt. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng cung, thì không hình khắc, hoặc chủ về cha mẹ giầu có, được thừa hưởng di sản. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình thương khắc hại, cha mẹ không thể đầy đủ.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip