(Tử vi đẩu số bổ mệnh thư - Phan Tử Ngư)
Phân tích cung Phúc Đức
Cung Phúc đức là cung có liên quan đến đời sống tinh thần của một người. Có người gia đình giàu có, không phải lo nghĩ nhưng cuộc sống của họ lại không được vui vẻ như ý. Trái lại, có những người cuộc sống khó khăn nhưng lại không buồn lo, không có phiền não.
Trên thực tế có rất nhiều người có nhận thức không đầy đủ đối với cung Phúc đức, cho rằng cung Phúc đức chỉ xem về đời sống tinh thần của người này. Điều này không sai nhưng là chưa đủ. Cung Phúc đức có thể xem cuộc sống tinh thần của người này, đồng thời còn có thể xem về sự nghiệp của họ. Ví dụ, người mà cung Phúc đức có Thiên cơ, Thái âm chủ về giác quan thứ 6 nhạy bén, có thể học đoán mệnh. Người mà cung Phúc đức có Thái dương, Thái âm chủ về tình cảm không ổn định, lúc tỉnh lúc mê. Cung Phúc đức hóa kỵ hoặc ám kỵ cũng chủ về tình cảm không ổn định.
Cung Phúc đức có Thái âm lạc hãm:
Sinh hoạt tình dục không được thỏa mãn.Cô độc.Nên theo tôn giáo.Mệnh nữ gặp phải cách cục này chủ về không giữ trinh tiết, mệnh nam háo sắc hoặc mê đánh bạc, hoặc có thói quen không tốt. Hoặc mệnh nam không thê trở thành người đứng đầu, có tài mà không gặp thời.Mệnh nam phạm đào hoa.
Cung Phúc đức có Dương nhẫn, nhọc tâm lo nghĩ.
Cung Phúc đức có Đà la, lao tâm khổ tứ.
Cung Phúc đức rất ưa Thái âm ở chỗ miếu vượng, có Văn xương tọa thủ:
Thi cử ắt đỗ đầu bảng,Có bất động sản.Có mẹ mẫu mực.Mệnh nữ cát lợi, có chồng tốt.Mệnh nam cũng cát lợi, có vợ tốt, vợ có thể giúp đỡ hỗ trợ chồng.Phân tích cung Phu Thê
Trong hôn nhân, chúng ta thường gặp hiện tượng chồng lấn át vợ và ngược lại. Để có thể tránh được tình trạng đó, Phan Tủ Ngư có đưa ra phương pháp xem các đôi lứa có xung khắc nhau hay không?
Thứ nhất, xem cung Mệnh:
Tử vi, Tham lang thêm Lục sát.Liêm trinh, Thiên tướng thêm Dương nhẫn.Thái dương tọa thủ cung Mệnh rơi vào lạc hãm.Thái âm tọa thủ cung Mệnh rơi vào lạc hãm.
Thứ hai, xem cung Phu thê:
Cung Phu thê hóa ky thêm Lục sát.Cung Phu thê có Tử vi, Phá quân thêm Lục sát.Cung Phu thê có Tử vi, Thất sát thêm Lục sát.Cung Phu thê có Thiên cơ thêm Lục sát.Cung Phu thê có Vũ khúc, Thất sát thêm Lục sát.Cung Phu thê có Vũ khúc, Tham lang thêm Lục sát.Cung Phu thê có Vũ khúc, Phá quân thêm Lục sát.Cung Phu thê có Liêm trinh, Thiên tướng thêm Lục sát (hoặc Tả phù, Hữu bật).Cung Phu thê có Liêm trinh, Phá quân thêm Lục sát (hoặc Tả phù, Hữu bật).Cung Phu thê có Tham lang thêm Lục sát.Cung Phu thê cố Cự môn thêm Lục sát.Cung Phu thê có Thất sát thêm Lục sát.Cung Phu thê có Phá quân thêm Lục sát (không có Lục sát thì chủ về ly hôn).Cung Phu thê thêm Lục sát (Linh tinh, Dương nhẫn).Cung Phu thê hóa kỵ thêm sát (cho dù có sao nào tọa thủ).
Thời điểm kết hôn
Phàm tiểu hạn có Thiên hỷ hoặc Tam phương Tứ chính cố Thiên hỷ.Tiểu hạn cố Hồng loan, Thiên diêu hoặc Tam phương Tứ chính có Hống loan, Thiên diêu.Tiểu hạn gặp Tham lang thêm Đà ỉa hoặc Dương nhẫn.Tiểu hạn gặp Liêm trinh, Tham lang thêm sát.
Thời điểm ly hôn
Trong xã hội ngày nay, hiện tượng ly hôn đã trở thành phổ biến. Vậy làm thế nào biết được điểu này xảy ra, từ đó có những phương pháp đế phồng hữu ích để bảo vệ tình yêu đôi lứa. Phan Tử Ngư xin đưa ra một vài cách luận đoán như sau:
Cung Mệnh: Mệnh nữ có Thiên cơ, Cự môn ở Dậu tọa thủ cung Mệnh, 3 lần kết hôn.Cung Phu thê: Cung Phu thê có Phá quân, Cự môn hóa kỵ, Lục sát hoặc Tử vi, Thiên phủ thêm Hữu bật...Xem 1 cung trước đại hạn và tiểu hạn có Phá quân, Cự môn, Tả phù, Hữu bật ...Căn cứ vào sách cổ, nam gặp Cô thần, nữ gặp Quả tú.
Nhưng nếu trong bàn mệnh không gặp các hiện tượng trên mà vẫn dẫn tới ly hôn thì chúng ta phải giải thích như thế nào? Sau một thời gian nghiên cứu thêm các sách, các môn tứ trụ, Thất chính Tứ dư, tác giả đã phát hiện ra 2 điểm nữa:
- Cung Phu thê ở chỗ Tứ mã (Dần, Thân, Tỵ, Hợi), cho dù có bất kỳ sao nào cùng có thể dẫn tới ly hôn.
- Tứ trụ gặp phải các tình huống như: 2 Giáp, 3 Canh, 3 Dần, 3 Quý, 1 Tân cũng có thể dẫn tối ly hôn.
Xin được đưa ra một ví dụ:
Cung Phu thê của một ngưòi ỏ Thân, có Vũ khúc, Thiên mã, Thiên tưởng tọa thù, nhìn qua bàn mệnh này thì không thể nói là có hiện tượng ly hôn được. Trên thực tế người này có 2 vợ 4 thiếp, sau khi ly hôn liền kết hôn ngay. Duy chỉ có thể căn cứ vào:
Cung Phu thê ở chỗ Tứ mã.Tứ trụ có 2 Giáp.
Tứ trụ của người đó: Giáp Thân, Giáp Tuất, Nhâm Thân, Canh Tý.
Vì vậy bạn đọc có thể tiếp nhận thêm 2 điều trên để áp dụng khi xem bàn mệnh về tình hình hôn nhân.
Phân tích cung Quan lộc
Cung Quan lộc chủ về sự nghiệp. Con người cần nỗ lực làm việc, có làm việc mới có thể kiếm tiền, có tiền mới có thể sống, mới có thể mua nhà, thành gia thất, nuôi dưỡng giáo dục con cái. Cho nên, công việc trong cuộc sống của con người rất quan trọng, có quan hệ mật thiết với vinh hoa phú quý hoặc bần cùng nghèo khổ của một đời người.
Cung Quan lộc hóa kỵ, chủ phá sản, sự nghiệp thất bại.
Cung Quan lộc có Địa không, Địa kiếp tọa thủ, sự nghiệp trái với mong muốn.
Cung Quan lộc có Thiên tướng nên làm phó quản lý, hoặc quản lý con dấu.
Cung Quan lộc có Hóa quyền có thể làm quan cao.
Cung Quan lộc có Liêm trinh, thêm sát tinh, khó tránh họa lao ngục.
Cung Quan lộc có Thiên đồng, Thiên lương, có thể trở thành một nhân viên công chức ưu tú.
Cung Quan lộc có Phá quân, thêm sát tinh, sự nghiệp ắt thất bại, nên làm công nhân viên chức hoặc phục vụ trong quân đội. Nếu như ngũ trụ không tốt e sẽ gặp biến cố trên đường đi mà khó giữ mạng.
Cung Quan lộc ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, cả đòi vì sự nghiệp mà bôn ba, cũng chủ về có thể kiếm chức. Nói cách khác, đồng thời có thể làm 2 việc. Nếu như chỉ có 1 nghề cùng phái bôn ba 2 nơi, ví dụ như làm bác sĩ, làm giáo viên. Nếu như lại có song tinh, ví như Tử vi, Thất sát; Liêm trinh, Tham lang; Thiên đồng, Thiên lương; Thiên cơ, Thái âm thì hiện tượng bản thân kiêm 2 chức hoặc bôn ba đi lại 2 nơi càng rõ.
Cung Quan lộc có Thiên cơ, Thiên lương hoặc Thiên cơ, Thiên lương đồng cung, nên làm công tác từ thiện, công tác xã hội, bác sỹ, quản lý mạng, khoa học kỹ thuật...
Thái dương chủ về sự nghiệp, ưa tọa ở vượng cung. Vì Thái dương tọa ở vượng cung nên Thái âm cũng tọa ở vượng cung. Thái âm tọa ở vượng cung chủ về có bất động sản. Một người có bất động sản không thể quá nghèo khó. Cho nên, người có Thái dương tọa ở vượng cung chủ về sự nghiệp, tài vận đều tốt.
Phân tích cung Điền
Cung Điền trạch chủ về chỗ ăn, ngủ, nghỉ ngơi trong cuộc đời mỗi con người. Người xưa khi có tiền trước tiên xây nhà, giống như chúng ta ngày nay nếu có tiền việc trước tiên là đi mua nhà ở. Điền trạch và cuộc sống của chúng ta có quan hệ mật thiết, vì vậy cần đặc biệt chú ý. Xem mệnh nữ cần phải xem cung Điền trạch, nếu như có hình, tù, ác, sát, ám, hao tọa ở cung đó đều chủ về phá tại, lưu lạc tha hương, anh chị em vô tình.
Cung Điền trạch không ưa có Địa không, Địa kiếp tọa thủ, chủ vế gặp trộm cướp hoặc bán nhà cửa.
Người mà nhật trụ có Kiếp, sát, không thể đứng tên mua bất động sản, cũng không thể mang bất động sản đi thế chấp.
Người mà cung Điền trạch có Hữu bật hoặc Tả phù tọa thủ chủ về phải lo cho gia đinh, đại hạn gặp Đà la phải chuyển nhà:
Có thể sự nghiệp thất bại phải bán nhà, do vậy không thể chuyển nhà.Có thể sẽ mua nhà mới, cho nên cần chuyển nhà hoặc xuất ngoại...
Cung Điền trạch rất ưa Tham lang, Hỏa tinh, Linh tinh, hoặc Vũ khúc, Tham lang, Hỏa tinh, Linh tinh tọa thủ, chủ phát tài.
Cung Điền trạch tọa ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi nên lập nghiệp nơi quê nhà.
Cung Điền trạch có sao Tử vi (và hệ sao tổ hợp của sao này), Thiên đồng (và hệ sao tổ hợp sao này), trong nhà nên trang hoàng hoa lệ, màu sắc rực rõ.
Cung Điền trạch có Thái dương (và hệ sao tổ hợp của sao này) nên ở trên nhà cao, vùng đất cao.
Cung Điền trạch có Thái âm (và hệ sao tổ hợp của sao này) nên ô tang 1 hoặc tầng 2, không nên ở tầng cao.
Cung Điền trạch có Thiên đồng, Thái âm tọa thủ nên ở biệt thự có hoa viên, ao cá...
Cung Điền trạch có Thiên diêu, trong nhà nên nuôi chim, gà...Nhà ở đề phòng mưa dột hoặc ngập nưóc.
Cung Điền trạch có sao Thiên hình, trong nhà có nuôi chó, khỉ...
Cung Điền trạch có sao Thiên cơ, Thiên lương chủ có nhiều bất động sản
Cung Điền trạch có Dương nhẫn, nhà ở gần nơi ồn ào.
Mệnh có cung Điền trạch đẹp thì muôn sự đều thuận lợi. Bởi vì cung Điền trạch là cung Quan lộc của cung Phu thê, là cung Phụ mẫu của cung Tử nữ, là cung Tài bạch của cung Huynh đệ.
Phân tích cung Mệnh
Sách cổ viết: "Thần không có miếu không có chỗ quay về, quỷ không có vị trí thì không có chỗ dựa theo, người không có nhà thì không có nơi dừng chân, mệnh không có cung thì không thể báo được điều gì". Cho nên mới sắp đặt ra cung Mệnh. Nếu không có thì các lưu niên không thể xác định được đâu là cát lợi và đâu là hung họa.
Từ cung Mệnh có thể biết được các thông tin: Cá tính, phẩm chất, hỷ kỵ, giàu sang, thành tựu, vận thế tương lai, hôn nhân...
1. ĐÀ LA TỌA THỦ CUNG MỆNH
- Nên kết hôn muộn.
- Luôn cho mình là đúng.
- Tinh thần sầu khổ hoặc tổn thương.
- Nên sớm rời xa quê hương hoặc gặp đại hạn lần thứ nhất có thể chuyển nhà.
- Làm việc gì cũng dây dưa kéo dài, không kết thúc.
2. KÌNH DƯƠNG TỌA THỦ CUNG MỆNH
- Lời nói mâu thuẫn.
- Tính tinh hiếu thắng.
3. THIÊN HÌNH TỌA THỦ CUNG MỆNH
- Tỳ khí không tốt.
- Có nhản duyên và nên hiến thân cho tôn giáo, như: Phật giáo Cơ đốc giáo...
- Cá tính cố chấp, kiên cường.
- Đồng cung với Cự môn hoặc Thái dương (chỗ hãm), đề phòng việc kiện tụng thị phi.
- Vô duyên với người thân hoặc không được gia đình giúp đỡ.
- Thích thể diện, không dễ dàng chịu khuất phục trước người khác.
- Nếu như cùng Thái dương đồng cung mà Thái dương ở chỗ miếu vượng, nên làm luật sư, cảnh sát...
- Thiên hình gặp đại, tiểu hạn, cần đề phòng việc liên quan tói pháp luật, tang sự hoặc xuất gia
- Thiên hình tối kỵ ở Sửu, Mùi. Nếu đại, tiểu hạn gặp nó cần đề phòng các việc liên quan tới phấp luật, hỏa hoạn, nên xuất gia. Nếu như tọa thủ ở cung Mệnh cần đề phòng yểu thọ.
- Là người kiêu ngạo, không nhẫn nhịn.
4. VĂN XƯƠNG TỌA THỦ CUNG MỆNH
- Khuôn mặt thanh tú.
- Ăn nói lưu loát, thích tranh luận, trọng hư danh.
- Thường ảo tưởng, thiếu tính thực tế.
- Văn xương với Thái dương, Thái âm đồng cung hoặc ám hợp hoặc ở chỗ Tỵ chủ về có giác quan thử sáu nhạy bén, nên học triết học, đoán mệnh, ngũ thuật, làm giáo viên hoặc các công việc mang tính nghệ thuật ...
5. TAM GIÁ BẤT TƯỜNG
Thuật số Tử vi xưa thường không đưa ra Tam giá khiến mọi người khó hiểu để lại nhiều tranh luận, hoài nghi. Dùng Tam giá luận mệnh hiện vốn còn giá trị vẫn còn giá trị và không thể coi là lạc hậu được.
Dưới đây xin được trình bày với quý độc giả:
- Tuế giá: Người sinh năm Tý, cung Mệnh ở Tý.
- Hành giá: Người sinh năm Tý, cung Mệnh ở Ngọ.
- Mạch giá: Người sinh năm Tý, cung Mệnh ở Hợi.
Tam giá này có quan hệ tới cát hung họa phúc của đời người. Nếu như có hung thần, ác sát khó tránh khỏi hung họa. Nếu có quý nhân lộc mã sẽ nhận được nhiều phúc lộc. Nói một cách đơn giản, gặp hung khó tránh khỏi hung họa, gặp cát thường có nhiều may mắn.
Tối kỵ ở cùng Kiếp sát, chủ về gặp phải đạo tặc, tai ương.
Thứ đến là vong thần đối hành, khó giữ được tổ nghiệp, gặp nhiều thất bại.
Ba là kỵ gặp Dương nhẫn, chủ về phá tướng, hình khắc người thân.
Tóm lại, cung Mệnh gặp Tam giá khó có thể luận đều là cát lợi, đặc biệt là Mạch giá, chủ về người giảo hoạt, hiếu chiến, hiếu thắng.
Sách viết: "Hôn nhân không thể lấy người có Mạch giá".
Tuế giá, Hành giá đều chủ về hình khắc, thường phải rời xa quê hương mới có cơ hội phát triển sự nghiệp.
----------------------------------
Đẩu số cốt tủy phú
Sao Thái cực là chủ tể của muôn vàn tinh tú; Thiên môn ở vận hạn chính là nguồn gốc để giúp Thân trợ Mệnh. Đầu tiên phải biết rõ cách cục rồi sau mới xem ác tinh.
Con người có khi sinh cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng giờ nhưng lại có sự khác biệt về trạng thái giàu nghèo, bần tiện, thọ yểu. Hoặc tại hạn xấu có lúc lại có thật nhiều tiền bạc, còn khi ở miếu vượng mà quanh năm khốn khó. Họa phúc không thể quy về một để mà suy, cát hung không thể phán đoán theo một kiểu. Muốn biết sư vinh nhục của môt đời người thì cần xem kỹ cung vị Ngũ hành. Lập Mệnh biết được sang hèn, an Thân hiểu được căn cứ. Thứ nhất, trước tiên xem cung Phúc đức, tiếp đến xem tỉ mỉ kỹ càng cung Thiên di. Phân thể dụng của đối cung, định cội nguồn của tam hợp. Mệnh không có chính diệu thi ắt nghèo khổ, tính mạng gặp nguy khó. Cát tinh gặp hung tinh thì ngọc lành có vết. Nếu có nền tảng kiên cố cần phải biết hợp cục tương sinh, nếu kiên cố thì phú quý diên thọ, tương sinh thì sẽ giàu sang vinh hiển.
MỆNH TỐT, THÂN TỐT, HẠN TỐT THÌ ĐẾN GIÀ VẪN VINH HIỂN
Giả sử cung Thân, Mệnh tọa tại cung trường sinh, đế vượng, lại có cát tinh ở miếu vương với đại, tiểu hạn gặp cát tinh tương sinh thì một đời mưu cầu gì đều được như ý.
MỆNH SUY, THÂN SUY, HẠN SUY THÌ CẢ ĐỜI SỐNG KIẾP XIN ĂN
Giả sử cung Thân, Mệnh tọa tại chỗ tuyệt địa, bản cung lại không thấy hóa cát, lại hội với Dương nhẫn, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, vận hạn lại không có cát tinh tiếp ứng tất là mệnh bần tiện.
GIÁP QUÝ, GIÁP LỘC ÍT NGƯỜI BIẾT; GIÁP HÓA QUYỀN, HÓA LỘC CHỦ MAY MẮN
Giả sử như người sinh vào năm Bính Đinh, Mậu Quý an Mệnh tại Thìn, Tuất có Thiên khôi, Thiên việt đến kẹp, lại gặp Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm, hóa quyền, hóa lộc, Tả phù, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc kẹp cung Thân, cung Mệnh gọi là giáp quý, chủ về giàu sang. Nếu như người sinh vào năm Giáp an Thân, Mệnh tại Sửu, Mão, còn hóa lộc tọa ở cung Dần, là lộc sinh thành, là thượng cách. Ngoài ra, nếu người sinh vào năm Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tận Dậu cũng tương tự như vậy. Cách cục này nếu người sinh vào năm Giáp an Mệnh tại Tý, có Liêm trinh hóa lộc tại Hợi, Phá quân hóa quyền tại Sửu, có hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc kẹp Mệnh tất chủ về giàu sang.
GIÁP NGUYỆT, GIÁP NHẬT KHÓ GẶP ĐƯỢC; GIÁP XƯƠNG GIÁP KHÚC CHỦ VỀ GIÀU SANG
Giả sử Thái dương, Thái âm nằm ở 2 cung cạnh Thân, Mệnh để kẹp Mệnh không gặp Địa không, Địa kiếp, Dương nhẫn, Linh tinh tất được quý hiển Nếu như có Văn xương, Văn khúc kẹp Mệnh thì cũng tương tự như vậy.
GIÁP KIẾP, GIÁP KHÔNG CHỦ VỀ BẦN TIỆN; GIÁP DƯƠNG, GIÁP ĐÀ LÀ MỆNH XIN ĂN
Giả sử cung Mệnh hóa kỵ, gặp Địa không, Địa kiếp, Dương nhẫn, Đà la kẹp Thân, Mệnh, lại gặp Liêm trinh, Phá quân, Vũ khúc, chủ về cô độc, bần hàn, là hạ cách, khó được sống thọ. Hay cung Mệnh hóa kỵ lại gặp Liêm trinh, Dương nhẫn, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đến kẹp cũng là mệnh hạ cách. Hoặc Lộc đóng ở cung sinh vương tại Dậu, tuy kẹp Lộc, Dương nhẫn, Đà la nhưng không phải là hạ cách. Hoặc nếu không gặp Dương nhẫn, Đà la, Địa không, Địa kiếp mà ở Tam phương có hóa quyền, hóa lộc thì cũng không đến nỗi bị kẹp mà hung hại. Nếu gặp sát tinh thì khó tránh tai họa.
NGƯỜI CÓ SAO LIÊM TRINH, THẤT SÁT NGƯỢC LẠI LẠI GIÀU CÓ
Liêm trinh thuộc hành Hỏa, Thất sát thuộc hành Kim, Hỏa chế Kim, là quyền. Nếu như Liêm trinh tọa ở cung Mùi, Thất sát tọa ở cung Ngọ, cung Thân, Mệnh gặp được là kỳ cách, ngược lại cũng giàu có. Còn nếu tọa tại hãm địa hóa kỵ thì là hạ cách, có mệnh bần tiện.
THIÊN LƯƠNG, THÁI ÁM LÀ CÁCH CỤC THA HƯƠNG
Mệnh có Thái âm tọa ở Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ tại hãm địa; Thiên lương tọa ở cung Thân, Mệnh tại Hợi, Tỵ chắc chắn sẽ cô độc, bần hàn, nếu không sẽ phải phiêu bạt tha hương, đắm mê tửu sắc. Lại có thuyết cho rằng: Thiên lương dù không thất hãm cũng không phải là người đôn hậu.
LIÊM TRINH CHỦ HẠ TIỆN, CÔ ĐƠN; THÁI ÂM CHỦ MỘT ĐỜI VUI VẺ
Giả sử an Thân Mệnh tại Tỵ, Hợi, lại gặp Liêm trinh tại hãm địa, tại Tam phương và 2 cung trước sau lại không có cát tinh đến trợ giúp chính là mệnh bần tiện. Hay như cung Thân, Mệnh từ Mùi địa đến Tý địa, gặp Thái âm ắt chủ về giàu sang, hoặc có cát tinh nhiều thì phú quý không nhỏ, hoặc cát tinh ít cũng chủ về văn chương thành danh.
TRƯỚC NGHÈO MÀ SAU GIÀU LÀ CÁCH CỤC VŨ KHÚC THAM LANG CÙNG TỌA Ở CUNG THÂN, MỆNH
Ví dụ: Lập Mệnh tại Sửu địa, Mùi địa, có 2 sao này đồng cung, tính Kim của Vũ khúc khắc tính Mộc của Tham lang, Mộc bị chế hóa mà thành hữu dụng, cho nên trước tuy nghèo mà sau giàu có. Hoặc Tam phương có Văn xương, Văn khúc, Tả phù, Hữu bật củng chiếu nên chủ về quý. Hạn gặp hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc sẽ được quý hiển.
TRƯỚC GIÀU MÀ SAU NGHÈO LÀ CÁCH CỤC VẬN HẠN GẶP KIÉP, SÁT
Ví dụ: Tại cung Thân, Mệnh có 1 hoặc 2 chính tinh, lại gặp cát tinh củng chiếu hạn, đến trung niên hạn hành đến tuyệt địa, lại gặp Địa kiếp, Địa không, Đại hao, Thất sát chủ về hung tai, cung Thân, Mệnh vô lực nên có giàu cũng hóa nghèo.
SINH RA ĐÃ HƯỞNG VINH HOA LÀ CÁCH CỤC CÓ HÓA QUYỀN, HÓA LỘC TỌA THỦ Ở CUNG TÀI BẠCH, QUAN LỘC
Hóa quyền, hóa lộc tọa thủ ở cung Tài bạch, Phúc đức nhập miếu lại có nhiều cát tinh thì chắc chắn sẽ hưởng vinh hoa. Cung Thân, Mệnh gặp được cũng phán đoán tương tự.
VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC TỌA THỦ LÀ NGƯỜI HỌC RỘNG TÀI CAO; TẢ PHÙ, HỮU BẬT TỌA THỦ CHỦ VỂ BẨM TÍNH KHOAN DUNG ĐÔN HẬU
Ví dụ: An Mệnh tại Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu, gặp Văn xương, Văn khúc, nếu như 2 sao này tọa ở Mùi địa lại gặp Dương nhẫn, Đà la thì ắt có tai ương. Cho nên khi đoán mệnh cần phải biến hóa linh hoạt, nếu như gặp Tả phù, Hữu bật tọa ở cung Mệnh, bất kể các sao khác có nhiều hay ít đều chủ về người cố tính đôn hậu, rộng lượng.
THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG LÀ THẦN HƯỞNG LỘC, CHỦ VỀ ĐƯỜNG QUAN TRƯỜNG THUẬN LỢI
Ví dụ: An Mệnh tại Sửu, Thiên phủ, Thiên tướng tọa ở Tỵ, Dậu đến chầu; an Mệnh tại Mùi, có Thiên phủ, Thiên tướng ở Hợi, Mão đến chầu. Người sinh vào năm Giáp không có sát tinh thì phán đoán giống như trên, còn nếu gặp sát tinh thì không phán đoán như vậy.
CÓ NỤ MÀ KHÔNG NỞ HOA, KHOA DANH BỊ HÃM BỞI HUNG THẦN
Ví dụ: Hóa khoa bị hãm bởi Địa không, Địa kiếp, Dương nhẫn, Đà la; hoặc có Thái dương tọa tại Tuất; hóa khoa, Thái âm tọa tại Mão, tuy là hóa cát nhưng hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc cũng không tốt đẹp.
PHÁT MÀ KHÔNG GIỮ TIỀN, HÓA LỘC HÀNH Ở NHƯỢC ĐỊA
Ví dụ: Hóa lộc bị hãm bỏi Địa kiếp, Địa không, hoặc đóng tại Tý, Ngọ, Thân, Dậu, tuy có hóa lộc nhưng cũng vô dụng, chủ về cô độc, bần hàn.
THẤT SÁT TRIỀU ĐẨU LÀ CÁCH CỤC TƯỚC LỘC VINH HOA
Ví dụ: An Thân, Mệnh tại Dần, Thân, Tý, Ngọ, cố Thất sát tọa thủ chính là trường hợp này. Nhưng cũng cần phải có Tả phù, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc tọa chiếu, chủ về một đời phú quý vinh hoa. Nếu như thêm sát tinh thì không luận đoán như vậy.
TỬ VI, THIÊN PHỦ ĐỔNG CUNG LÀ CÁCH CỤC MỘT ĐỜI HƯỞNG PHÚC HẬU
Ví dụ: An Mệnh tại Dần, Thân, có Tử vi, Thiên phủ đồng cung, Tam phương có Tả phù, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt củng chiếu, ắt chủ về phú quý, một đòi hưởng phúc dày. Người sinh vào năm Giáp nếu gặp hóa cát thì càng cát lợi.
TVI VI TỌA Ở NGỌ, KHÔNG GẶP SÁT TINH, LÀM QUAN ĐẾN VỊ TRÍCÔNG KHANH
Ví dụ: Người sinh vào năm Giáp, Đinh, Kỷ, an Mệnh tại Ngọ địa, có Tử vi nhập cách chủ về đại quý. Nếu ở các cung khác cũng chủ về giàu có, hoặc ít nhiều có sự sang trọng.
THIÊN PHỦ TỌA Ở TUẤT CÓ SAO TRỢ GIÚP LÀ CÁCH CỤC "ĐAI VÀNG ÁO GẤM"
Ví dụ: người sinh vào năm Giáp, Kỷ an Mệnh tại cung Tuất cũng phán đoán giống như câu trên. Nếu thêm sát tinh thì không đoán như vậy. Mệnh có Thiên khôi Thiên việt, Tả phù, Hữu bật, Lộc tồn, hóa quyền sẽ chủ về đại quý, còn nếu không có cát tinh thì cũng luận là bình thường.
HÓA KHOA, HÓA QUYỀN, HÓA LỘC HỘI LÀ CÁCH CỤC TIẾNG TĂM VANG DỘI
Tam hóa này là cát tinh, nếu như 1 hóa tọa thủ ở cung Thân, Mệnh, còn 2 hóa tọa ở cung Tài bạch, Quan lộc đến hợp, là tam hợp thủ chiếu, gọi là hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc hội chiếu, có thể làm quan đến vị trí Tam đài.
VŨ KHÚC TỌA Ở MIẾU VIÊN LÀ CÁCH CỤC UY DANH HIỂN HÁCH
Ví dụ: An Mệnh tại Thìn địa, Tuất địa, có Vũ khúc tọa thủ chắc chắn là thượng cách, còn an Mệnh tại Mùi là thứ cách. Nếu gặp hóa quyền, hóa lộc, Tả phù, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, cát tinh thì phán đoán giống như câu trên.
KHOA MINH LỘC ÁM, LÀM QUAN ĐỂN TAM CÔNG
Ví dụ: Người sinh vào năm Giáp, an Mệnh tại Hợi địa, có hóa khoa tọa thủ tại cung Mệnh, lại có Lộc tồn tọa ở Dần địa, Dần hợp với Hợi, cho nên gọi là Khoa minh Lộc ám.
THÁI DƯƠNG, THÁI ÂM ĐỒNG LÂM LÀ CÁCH CỤC TƯỚC ĐẾN BÁ HẦU
Ví dụ: An Mệnh tại Sửu địa, có Thái dương, Thái âm tọa tại Mùi; an Mệnh tại Mùi địa có Thái dương, Thái âm tọa tại Sửu thì gọi là đồng lâm. Ca quyết viết rằng: "Thái dương, Thái âm đồng lâm luận đối cung, người sinh vào năm Bính Tân gặp đươc thì phúc lôc song toàn".
CỰ MÔN, THIÊN CƠ ĐỒNG CUNG, LÀM QUAN ĐẾN VỊ TRÍ CÔNG KHANH
Ví dụ: Người sinh vào năm Tân, Ất, an Mệnh tại cung Mão, có 2 sao này tọa thủ lại gặp Văn xương, Văn khóc, Tả phù, Hữu bật thì là thượng cách; còn người sinh vào năm Bính là thứ cách, người sinh vào năm Đinh cũng chủ về bình thường. Khi nó tọa ở các cung khác thì không luận đoán như vậy.
THAM LANG, LINH TINH CÙNG TỌA THỦ LÀ CÁCH CỤC DANH TƯỚNG
Ví dụ: An Mệnh tại Thin, Tuất, Sửu, Mừi, Tý, có 2 sao này tọa thủ nhập miếu, phán đoán giống như câu trên. Nếu như thêm cát tinh chỉ tọa thủ ở Tý, Thìn là dặc biệt tốt. còn người sinh vào năm Mậu, Kỷ là hợp cách.
THIÊN KHÔI, THIÊN VIỆT LÀ CÁCH CỤC CHỦ VỂ NGƯỜI VĂN CHƯƠNG CẢI THẾ
Ví dụ: Kỵ tinh tọa ở cung Thần Mệnh, đối cung có Thiên việt tọa thủ; hay j Thiên việt tọa ở cung Thốn Mệnh, đôi cung có Thiên khôi thì gọi là Tọa quý hướng-Ị quý, nếu lại hợp với hóa cát thì càng quỷ hiển.
THIÊN LỘC, THIÊN MÃ THI CỬ ĐỖ ĐẠT
Ví dụ: An Mệnh tại Dần, Thân, Tỵ, Hợi có Thiên lộc, Thiên mã tọa thủ, lại gặp Tam đài cát tinh thù chiếu cũng phán đoán giống như câu trên. Nếu thêm sát tinh thì không phán đoán như vậy.
TÀ PHÙ VĂN XƯƠNG HỘI VỚI CÁT TINH GIỮ VỊ TRÍ TÔN QUÝ
Ví dụ: An Mệnh tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có các sao này tọa thủ là thượng cách, Tam phương có hóa cát củng chiếu là đặc biệt tốt. Nếu như an Mệnh tại Mão, không có sát tinh thì kém hơn một bậc, nếu gặp Dương nhẫn, Đà la, Địa không, Địa kiếp không luận đoán như vậy.
CỰ MÔN, THÁI DƯƠNG ĐỒNG CUNG, BA ĐỜI LÀM QUAN
Cự môn, Thái dương an ở Mệnh tại Dần địa, không có Địa kiếp, Địa không, Tứ sát là thượng cách; tại Thân địa là thứ cách, còn tại Tỵ, Hợi thì không tốt. Nếu như Tỵ địa có Thái dương thủ ở cung Mệnh, còn Cự môn tọa tại Hợi địa là thượng cách; Cự môn thủ Mệnh tại Ty địa, Thái dương tọa ở Hợi địa không tốt, là hạ cách. Cung Thân có Thái dương thủ Mệnh, Cự môn đồng cung, không có sát tinh là mệnh bình thường.
TỬ VI, THIÊN PHỦ TRIỀU VIÊN, MỘT ĐỜI HƯỞNG LỘC
Ví dụ: An Mệnh tại Dần, Ngọ, Tuất có Tử vi, Thiên phủ đến chầu; hay an Mệnh tại Thân, Tý, Thìn có Tử vi, Thiên phủ đến chầu là cách cục tốt, lại gặp sao Lộc tốn ở lưu niên thì tất làm quan đến vị trí công khanh. Nếu như Thất sát tọa tại Dần, Thân cũng là thượng cách, thêm Tứ sát hóa cát kỵ là Mệnh bình thường.
HÓA KHOA, HÓA QUYỀN ĐỐI CUNG, VƯỢT QUA BA BẬC VŨ MÔN
Hai sao này tọa ở cung Thiên di, Tài bạch, Quan lộc đối cung, hoặc cung Mệnh có hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc ở Tam phương thủ chiếu, không có sát tinh kẹp cũng phán đoán như vậy
THÁI ÂM, THÁI DƯƠNG CÙNG SÁNG, PHÒ TÁ NHÀ VUA NƠI ĐIỆN NGỌC
Ví dụ: An Mệnh tại Sửu địa có Thái âm tọa tại Tỵ, Thái dương tọa tại Dậu đến chầu chiếu, người sinh vào năm Tân, Ât là hợp cách, người sinh năm Bính thì chủ về sang, người sinh vào năm Đinh chủ về giàu. Thêm Tứ sát, Địa không, Địa kiếp, hóa kỵ là mệnh bình thường.
THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG CÙNG ĐẾN HỘI Ở CUNG MỆNH, GIA ĐÌNH SUNG TÚC ĐẦY ĐỦ
Tam đài chiếu, càng gặp nhiều cát tinh ở bản cung, Thân, Mệnh không có bại, là cách cục của Phủ Tướng triều viên, tất được phú quý. Ca quyết viết: "Cách cục Phù Tướng triều viên là rất tốt, xuất sĩ làm quan lớn mà vinh hoa".
TAM HỢP MINH CHÂU SINH VƯỢNG ĐỊA ĐƯỜNG QUAN RỘNG BƯỚC
Ví dụ: An Mệnh tại Mùi, có Thái dương tọa tại Mão, Thái âm tọa tại Hợi đến chầu chiếu là cách cục "Minh châu xuất hải", chủ về tài quán song mỹ. Nếu như Thái dương thủ Mệnh tại Thìn, Thái âm tọa ở Tuất; hay Thái âm thù Mệnh tại Tuất, Thái dương tọa ở Thìn đều chủ về phú quý.
THẤT SÁT, PHÁ QUÂN, TỌA THỦ CUNG THÂN, MỆNH TẠ HÃM ĐỊA NÊN XUẤT NGOẠI
Hai sao này hội ở cung Thân, Mệnh tại hãm địa, chủ về người có tay nghề khéo léo nếu xuất ngoại thì có thể thành công.
THIÊN CƠ, THÁI ÂM, THIÊN ĐỒNG, THIÊN LƯƠNG LÀ NGƯỜI THEO NGHIỆP VIẾT LÁCH
Bốn sao này tam hợp ở cung Thân, Mệnh sẽ là người theo ngành viết lách mà thu được thành tựu. Thêm sát hóa kỵ là hạ cách. Ca quyết viết: "Thiên cơ, Thiên đồng, Thái âm, Thiên lương hội ở Dần, Thân ắt sẽ là người theo nghiệp viết lách, nếu 4 sao này chỉ thiếu một cũng không hợp cách.
TỬ VI, THIÊN PHỦ, THÁI DƯƠNG, THÁI ÂM CƯ Ở VƯỢNG ĐIA PHÁN ĐOÁN CÓ KHÍ CHẤT CỦA BẬC CÔNG HẦU
Tử vi tọa tại Ngọ, Thiên phủ tọa tại Tuất, Thái dương tại Mão, Thìn, Thái âm tại Dậu, Hợi, lại hóa lộc, hóa khoa, hóa quyền toạ thủ ở cung Thân, Mệnh là cách cục này. Thêm Thất sát, Địa kiếp, Địa không, kỵ tinh không phải là cách cục này, là "ngọc lành có vết".
THÁI DƯƠNG, THÁI ÂM, HÓA KHOA, HÓA LỘC TẠI SỬU ĐỊA, CHỨC TƯỚC THĂNG ĐẾN HÀNG VƯƠNG, BÁ
An Mệnh tại Sửu, Mùi, Thối dương, Thái âm hóa khoa, hóa lộc tọa thủ. Nếu như không có hóa cát thì tuy có Thái dương, Thái âm đồng cung cũng không trọn vẹn. Ca quyết viết: "Thái dương, Thái âm thủ Mệnh tại Sửu, Mùi, tam phương không có cát tinh, phúc không sinh, nếu như có hóa cát mới tốt, phương diện uy quyền, phúc lộc đều tăng".
LIÊM TRINH KHÔNG GẶP SÁT TINH, THANH DANH VANG XA
Sát chỉnh là nơi Tứ sát. Nếu như an Mệnh tại Mão địa, chủ về quý, cũng nên có cát chiếu tam hợp, thêm sát tinh thì bình thường. Hoặc an Mệnh tại Mùi, Thân, không có sát tinh cũng tốt.
NHẬT CHIẾU LÔI MÔN, VINH HOA PHÚ QUÝ
An Mệnh tại Mão địa, có Thái dương tọa thủ, Tam phương lại có Tả phù, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt thủ chiếu, chủ về có phú quý không nhỏ. Người sinh vào năm Bính, Đinh sẽ được phú quý, còn người sinh vào năm Nhâm, Quý sẽ giàu sang.
MỘ GẶP TÀ PHÙ, HỮU BẬT, ẮT LÀM QUAN LỚN
An Mệnh tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cố 2 sao này tọa thủ; hoặc cung Thiên di, Quan lộc, Tài bạch gặp 2 sao này cũng chủ về phúc thọ.
THIÊN LƯƠNG TỌA Ở NGỌ ĐỊA, LÀM QUAN THANH HIỂN
Tức là an Mệnh tại Ngọ địa, có Thiên lương tọạ thủ, người sinh vào năm Đinh là thượng cách, người sinh vào năm Tỵ là thứ cách, còn người sinh vào năm Quý cũng là thứ cách, chủ về giàu có.
VĂN KHÚC GẶP SAO THIÊN LƯƠNG, LÀM QUAN CÓ CHỨC TRỌNG QUYỀN CAO
Tức là an Mệnh tại Ngọ địa, có 2 sao đồng cung tọa thủ, là thượng cách, còn tại Dần địa là thứ cách. Hoặc Thiên lương tọa tại Ngọ địa, Vũ khúc tọa tại Tý địa chiếu xung sẽ làm quan đến hàng nhị phẩm, tam phẩm.
HÓA KHOA, HÓA LỘC HỘI HỢP, THĂNG QUAN TIẾN CHỨC
Cung Mệnh có cát tinh tọa thủ, Tam phương hóa cát củng xung, hoặc tại cung Tài bạch gặp hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc đều chủ về có phú quý.
VĂN TINH ÁM CỦNG, THI CỬ ĐỖ ĐẠT
Cung Mệnh có cát tinh tọa thủ, cung Thiên di, Quan lộc, Tài bạch ở Tam phương có Văn xương, Văn khúc, hóa khoa triều củng chính là cách cục này.
DƯƠNG NHẪN, HỎA TINH, UY QUYỀN XUẤT CHÚNG; ĐỒNG HÀNH VỚI THAM LANG, VŨ KHÚC SẼ VANG DANH CHỐN BIÊN CƯƠNG
Tức an Mệnh tại Tứ mộ là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, ĩại gặp Dương nhẫn, Hỏa tinh nhập miếu, ắt người này văn võ song toàn, nắm giữ binh quyền vạn dặm. Nếu như gặp Tham lang, Vũ khúc, Hỏa tinh tại vượng địa cũng luận giống như vậy.
DƯƠNG NHẪN GẶP LỰC SĨ LÀ MỆNH BÌNH THƯỜNG
Hai sao này tọa thủ cung Mệnh có cát tinh đa phần luận là bình thường. Còn thêm sát tinh chủ về hung họa, không luận cho mệnh nữ.
VĂN XƯƠNG LẠC HÃM Ở MÙI ĐỊA, KHÓ ĐƯỢC THỌ CAO
Người này sinh vào năm Sửu, an Mệnh tại Dần địa, có Văn xương lạc hãm tại Mùi địa, lưu niên lại gặp Thất sát với Dương nhẫn, Đà la chiếu hạn nên vận mệnh khó được dài lâu.
LIÊM TRINH NHẬP MIẾU GẶP TƯỚNG QUÂN, CÁ TÍNH MẠNH MẼ
Tức lập Mệnh tại Thân có 2 sao này tọa. Còn các trường hợp khác luận tương tự.
CỰ MÔN, THIÊN ĐỒNG, THIÊN LƯƠNG XUNG HỢP, TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG
Lập Mệnh tại Thân, Tý có Thiên động; Dần địa có Cự môn, Thìn địa có Thiên lương lại được hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc, Tả phù, Hữu bật củng xung là hợp với cách cục này.
CUNG DẦN, THÂN ƯA NHẤT CÓ THIÊN ĐỒNG, THIÊN LƯƠNG HỘI HỢP
An Mệnh tại Dần địa, có Thiên đồng, Thiên lương hóa cát, người sinh vào năm Giáp, Canh và Thân sẽ phú quý; hay an Mệnh tại cung Thân, có Thiên đồng, Thiên lương hóa cát, người sinh vào năm Giáp, Canh và Dần cũng được phú quý.
CỰ MÔN TỌA Ở CUNG THÌN, TUẤT CHỖ HÃM ĐỊA
An Mệnh tại Thìn, Tuất có Cự môn thất hãm chủ vể người làm việc không theo quy củ; nếu như thêm sát tinh thì chủ vê' có tranh chấp thị phi, không tránh khỏi hình thương, càng gặp ác tinh ở hạn thì càng đáng lo.
LỘC ĐẢO MÃ ĐẢO, KỊ THÁI TUẾ HỢP VỚI ĐỊA KIẾP, ĐỊA KHÔNG
Ví dụ: Thiên lộc, Thiên mã lâm vào chỗ bại tuyệt Không vong, lại có Thái tuế ở lưu niên hội với Địa kiếp, Thiên không chủ vể tai họa, khó phát tài.
VẬN SUY HÃM SUY, ƯA TỬ VI GIẢI HUNG ÁC
Như đại, tiểu hạn không gặp cát tinh, còn cung Thân, Mệnh có Tử vi củng chiếu thì hạn tuy hung nhưng sau dần bình ổn.
CÔ BẦN THÌ THỌ CAO MÀ PHÚ QUÝ THÌ ĐOẢN MỆNH
Như sao chủ ở cung Mệnh yếu, sao chủ ở cung Tài bạch, Quan lộc, Tử nữ tại hãm địa sẽ giảm thọ. Nếu có Thái tuế tọa Mệnh, chủ tinh lại yếu, hoặc cung Tài bạch, Quan lộc, Thiên di hóa cát, hoặc hạn hành đến cát địa thì chủ về phát tài nhanh nhưng không quá 10 năm, qua vận 20 năm sẽ mất.
ĐIẾU KHÁCH, TANG MÔN, VẬN MỆNH KHÓ ĐƯỢC DÀI LÂU
Đại, tiểu hạn trước gặp Tang môn, sau có Điếu khách, Thái tuế gặp hung tinh ắt nguy hiểm muôn trùng.
QUAN PHÙ, THÁI TUẾ, VƯỚNG VÀO VÒNG TÙ TỘI
Hai sao này thù ở cung Thân, Mệnh, nhị hạn lại gặp các sát tinh như Quan phù thì đểu ứng với câu nói trên.
HẠN ĐẾN THIÊN LA, ĐỊA VÕNG, GẶP HỌA SÔNG NƯỚC
Nhị hạn đến Thìn, Tuất, gặp Vũ khúc, Tham lang, lại có Thái tuế, Điếu khách, Tang môn, Bạch hể với Địa kiếp, Địa không, Tứ sát, chủ về bần khốn.
VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC HỘI VỚI LIÊM TRINH, TÍNH MẠNG GẶP NGUY KHÓ
Tức an Mệnh tại Tỵ, Hợi có các sao này hội hợp là cách cục nói trên. Cách cục này tối kỵ với người sinh vào năm Tân.
MỆNH KHÔNG HẠN KHÔNG, KHÔNG CÓ CÁT CHIẾU, ĐƯỜNG CÔNG DANH TRẮC TRỞ
Ví dụ: Mệnh, hạn không có chính tinh chiếu lại thêm sát tinh thì đường công danh sẽ không có thành tựu. Hoặc nếu có chính tinh hóa cát, gặp Địa không, Địa kiếp ở Mệnh, cũng chủ về vất vả không được thành đạt.
SINH GẶP THIÊN KHÔNG, GIỐNG NHƯ NỬA ĐƯỜNG ĐỨT GÁNH
Cung Mệnh có Thiên không tọa thủ, luận mệnh bình thường, đặc biệt đến tuổi trung niên e sẽ lụn bại. Nếu phát tài nhanh chóng thì dễ ảnh hưởng đến tính mạng. Như người sinh vào giờ Tý có Mệnh đóng tại Hợi, người sinh vào giờ Ngọ có Mệnh đóng tại Tỵ là có cách cục như vậy.
TRONG MỆNH GẶP ĐỊA KIẾP, KHÁC GÌ CHÈO THUYỀN NGOÀI BlỂN CẢ
Cung Mệnh gặp Địa kiếp tọa thủ, luận bình thưởng, cũng không có tiển của. Nêu như thêm sát, kỵ là rất xấu.
HẠNG VŨ ANH HÙNG, HẠN ĐẾN THIÊN KHÔNG MÀ MẤT NƯỚC
Đại, tiểu hạn nếu gặp Thiên không thì luận như vậy.
THẠCH SỪNG HÀO PHỦ, HÀNH HẠN ĐẾN KIẾP ĐỊA ẮT MẤT NHÀ
Đại, tiểu hạn lâm vào chỗ hãm địa, lại gặp Đà la ở lưu niên thì ắt khó tránh hung họa.
LÃ HẬU CHUYÊN QUYỀN, THIÊN LỘC, THIÊN MÃ TỌA THỬ
Lộc tồn lại gặp hóa lộc với Thiên mã cùng thủ ở cung Mệnh là cách cục này.
DƯƠNG QUÝ PHI HIẾU SẮC, LÀ CÁCH CỤC TAM HỢP VỚI VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC
Cung Mệnh vôi cung Tài bạch, Quan lộc, Thiên di có Văn xương, Văn khúc chiếu, lại hội với Thái âm, Thiên cơ, ắt chủ về dâm tà
THIÊN LƯƠNG GẶP THIÊN MÃ, MỆNH NỮ HẠ TIỆN MÀ DÂM TÀ
Mệnh nữ nếu như ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi mà gặp Thiên mã tọa thủ, còn tam phương có Thiên lương hợp chiếu thì có cách cục này.
VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC KẸP THÊM, LÀ CÁCH CỤC MỆNH NAM QUÝ HIỂN
Thái dương là đan trì (thềm son), Thái âm là quế trì (thềm quế), tức Thái dương, Thái âm toa ở cung Mệnh tại Sửu, Mùi, còn trước sạu 2 cung có Tả phu, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc đến kẹp là cách cục này.
TỬ VI TỌA ở MÃO, DẬU ĐA PHẦN LÀ XUẤT GIA TU ĐẠO
Tử vi là Bắc cực lại tọa thủ ở cung Mệnh, thêm sát tinh là mệnh tăng đạo; không có sát tinh thêm hóa cát, Tả phù, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt chủ về phú quý.
LIÊM TRINH TỌA Ở MÃO, DẬU NHẤT ĐỊNH LÀM NHA LẠI VĂN THƯ
An Mệnh tại Mão, Dậu, có Liêm trinh tọa thủ, thêm sát tinh ắt làm bộ dịch ở công môn.
TẢ PHÙ, THIÊN PHỦ ĐỒNG CUNG, MỆNH LÀM QUAN LỚN
An Mệnh tại Thìn, Tuất có 2 sao này tọa thủ, lại hội với hóa cát ở Tam phương xung chiếu, chủ về mệnh làm quan cao.
LIÊM TRINH, THẤT SÁT, LÀ CÁCH CỤC PHIÊU BẠT KHẮP NƠI
An Mệnh tại Tỵ địa, Hợi địa, có 2 sao này tọa thủ, thêm sát tinh hóa kị, gặp Địa không, Địa kiếp ắt lưu đãng phiêu bạt, không được ở trong nhà mà phải kiếm sống gian khổ bên ngoài.
HẠN GẶP CUNG CÓ ĐẠI HAO TỌA THỦ, KHỔ SỞ KIẾM ĂN
An Mệnh tại Tý địa, nhị hạn hành đến chỗ kẹp hạn gặp Đại hao, hội với ác tinh thì có cách cục này.
LINH TINH, VĂN XƯƠNG, ĐÀ LA, VŨ KHÚC, HẠN ĐẾN E KHÓ TRÁNH HỌA SÔNG NƯỚC
Bốn sao này giao hội ở Thìn, Tuất, người sinh năm Tân, Nhâm, Kỷ, nhị hạn hành đến Thìn, Tuất e khó tránh họa sông nước. Lại thêm ác tinh, sát tinh e sẽ gặp biến cố trên đường đi. Nếu như 4 sao này tọa ở cung Mệnh tại Thìn, Tuất cũng luận như vậy.
CỰ MÔN, HỎA TINH, DƯƠNG NHẪN, TÍNH MẠNG GẶP NGUY KHÓ
Ba sao này tọa ở cung Thân, Mệnh, đại, tiểu hạn lại gặp ác sát thì không tốt, dựa vào đó mà phán đoán.
KIM LÝ GẶP ĐỊA KHÔNG, NẾU KHÔNG PHIÊU BẠT CŨNG CHỦ VỀ TẬT KHỔ
Tức cung Mệnh không thấy chính tinh, chỉ có sao Thiên không độc tọa, lại tam hợp với sát hóa cát, phán đoán dựa vào đó. Thêm cát tinh thì không phán đoán như vậy.
XÔNG PHA NƠI CHIẾN TRẬN, KHÔNG BỎ MẠNG CŨNG CHỦ CÓ HÌNH THƯƠNG
Dương nhẫn thủ Mệnh tại Ngọ đia, tiếp theo tại Mão địa, Dậu địa lạc hãm nên có cách cục như vậy. Tại Dần, Thân, Tỵ, Hợi có Đà la thủ Mệnh cũng luận tương tự. Còn người sinh vào năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì không kỵ.
PHÁ QUÂN TỌA Ở TÝ, NGỌ ẮT THĂNG QUAN TIẾN TÀI
Tại Tý địa, Ngọ địa có Phá quân thủ Mệnh, thêm cát tinh ắt sẽ làm quan đến vị trí tam công.
VĂN XƯƠNG, THAM LANG TỌA Ở MỆNH, LÀ CÁCH CỤC KHÓ ĐƯỢC KẾT CỤC BÌNH YÊN
Mệnh nữ mà ở Tỵ địa, Hợi địa có 2 sao này tọa thủ, thêm sát hóa kỵ thì khó tránh họa yểu vong, hoặc cung Quan lộc gặp 2 sao này cũng như vậy.
TRIỀU ĐẨU NGƯỠNG ĐAU LÀ CÁCH CỤC TƯỚC LỘC VINH XƯƠNG
Thất sát thủ Mệnh tại vượng cung, nếu như Tý, Ngọ, Dần, Thân là triều đẩu, Tam phương là ngưỡng đẩu, là hợp cách, chủ về phú quý. Nếu như cung Thiên di, cung Quan lộc có cách cục này thì không luận như vậy.
VĂN QUẾ, VĂN HOA, CỬU TRÙNG HIỂN QUÝ
Văn xương là Văn quế, Văn khúc là Văn hoa, nếu như 2 sao này an ở cung Mệnh tại Sửu, Mùi lại hóa cát và được các cát tinh kẹp thì có cách cục như vậy.
Nhưng nếu năm không hóa cát thì có Văn xương, Văn khúc cũng vô dụng thậm chí tính mạng khó giữ.
ĐAN TRÌ, QUẾ TRÌ, SỚM ĐƯỢC ĐẮC CHÍ
Đan trì tức Thái dương tọa ở Mão, Thìn, Tỵ; quế trì tức là Thái âm nhập Dậu Tuất, Hợi. Cung Thân, Mệnh đóng tại ở cung đó chính là cách cục này. Nên gặp Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt.
HỢP LỘC, CỦNG LỘC, CÓ QUYỀN CAO CHỨC TRỌNG
Lộc tồn với hóa lộc tọa tại cung Tài bạch, Quan lộc hợp Mệnh, hoặc Lộc tồn tọa Mệnh, còn cung Thiên di có Lộc tồn củng chiếu đều chủ về phú quý. Ca quyêt viết: "Hợp Lộc, củng Lộc thôi Kim Ngọc, có tước vị cao".
THÁI ÂM, THÁI DƯƠNG HỘI VỚI VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC, VINH HOA XUẤT THẾ
Ví dụ: Thái âm, Thái dương tọa Mệnh có Văn xương, Văn khúc ở cung Tài bạch, Quan lộc đến hội; hoặc Văn xương, Văn khúc tọa ở cung Mệnh, côn Thái âm, Thái dương ở cung Tài bạch, Quan lộc đến hội, lại gặp Thiên khôi, Thiên việt thì càng phú quý.
CUNG TÀI BẠCH, QUAN LỘC GẶP SAO TẢ PHÙ, HỮU BẬT LÀ CÁCH CỤC ÁO GẤM VINH QUY
Tức là cung Mệnh, Thân cổ chính tinh hóa cát, Tam phương ở cung Tài bạch, Quan lộc có Tà phù, Hữu bật đêh chầu.
CỰ MÔN, THIÊN LƯƠNG HỘI VỚI LIÊM TRINH, ĐỒNG THỜI HỢP VỚI LỘC TỒN LÀ CÁCH CỤC TÌNH CẢM VỢ CHỒNG GẮN KỂT ĐẾN CUỐI ĐỜI
4 sao Cự môn, Thiên lương, Tham lang, Liêm trình tam hợp ở cung Thân, Mệnh chỗ miếu địa lại có cát tinh như Lộc tồn, hóa lộc tọa ở cung Phu thê, có Lộc tồn đến hợp cũng chủ về phú quý.
VŨ KHÚC TỌA Ở NHÀN CUNG LÀ NGƯỜI CÓ NHIỀU TÀI NGHỆ, CÓ THAM LANG ở HÃM ĐỊA ẮT LÀM NGHỀ ĐỒ TỂ
Vũ khúc thủ Mệnh tại Tỵ địa, Hợi địa, thêm sát tinh là người có tài nghệ an thân. Tham lang tọa tại Tỵ, thêm sát tinh tọa tại Hợi sẽ chẳng thể sống thọ.
THIÊN LỘC TRIỀU VIÊN, THÂN VINH QUÝ HIỂN
Ví dụ: Người sinh vào năm Giáp, lập Mệnh tại Dần địa, Giáp Lộc đến Dần thủ Mệnh cũng là cách cục Thiên lộc triều viên. Hay như Canh Lộc tọa ở Thân địa, Ất Lộc tọa ở Mão địa, Tân Lộc tọa ở Dậu địa, 4 cung vị trên đều là Lộc tồn thủ Mệnh.
Nhưng Mệnh tọa ở Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ gặp sao Lộc tồn không phải là cách cục Thiên lộc triều viên.
SAO THIÊN KHÔI LÂM MỆNH, LÀM QUAN ĐẾN VỊ TRÍ TAM ĐÀI
Tức là an Mệnh tại Ngọ địa có Tử vi tọa thủ, gặp Văn xương, Vàn khúc, Thiên khôi, Thiên việt đồng cung, người sinh năm Bính là kỳ cách.
VŨ KHÚC TỌA TẠI TUẤT, HỢI, KỴ NHẤT LÀ CÓ THÁI ÂM GẶP THAM LANG
Vũ khúc thủ Mệnh tại Tuất, Hợi, Tam phương thấy có Thái âm, Tham lang, hóa kỵ thêm sát là không tốt, chủ về tuổi trẻ bất lợi. Hoặc có Tham lang, Hỏa tinh xung phá, chủ về quý. người sinh vào năm Giáp, Kỷ là hợp cách.
HÓA LỘC VẪN LÀ TỐT, CUNG MỘ CHỚ ẨN TÀNG
Tức Văn khúc, Thái âm, Tham lang, hóa lộc thủ chiếu cung Mệnh, lại thêm cát diệu thì càng phú quý, nhưng tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tuy có hóa cát cũng vô dụng.
CỰ MÔN TỌA Ở CUNG TÝ, NGỌ LÀ CÁCH CỤC "THẠCH TRUNG ẨN NGỌC"
An Mệnh tại 2 cung Tý, Ngọ có Cự môn tọa thủ, lại được hóa khoa, hóa lộc ở Dần, Tuất, Thân, Thìn hợp chiếu sẽ được phú quý.
MINH LỘC, ÁM LỘC LÀ CÁCH CỤC GẤM THÊM HOA
Như người sinh vào năm Giáp, lập Mệnh tại cung Hợi có hóa lộc tọa thủ, lại được Lộc tồn ở Dần đến hợp, trường hợp này tương tự như trên.
TỬ VI TỌA TẠI THÌN, TUẤT GẶP PHÁ QUÂN SẼ GIÀU MÀ KHÔNG SANG, CHỈ CÓ HƯ DANH
An Mệnh tại Thìn, Tuất, gặp sao Tử vi, Phá quân tại hãm địa thì không quý nhưng có phát tài, cũng chỉ là có hư mà không có thực.
VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC, HỘI VỚI PHÁ QUÂN LÀ CÓ HÌNH KHẮC, VẤT VẢ
Ví dụ: Phá quân tọa Mệnh tại Mão, Dậu, Thìn, Tuất, tuy được Văn xương, Văn khúc chiếu nhưng cũng không vẹn toàn. Nếu như thêm sát tinh hóa kỵ thì càng không được phú quý.
THAM LANG, VŨ KHÚC TỌA TRONG CUNG MỘ, 30 TUổl MỚI PHÁT PHÚC
Ví dụ: 2 sao thủ Mệnh tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, chủ về thiếu niên bất lợi, nếu thêm hóa kỵ sẽ khó tránh mệnh yểu vong. Trong ca quyết có viết rằng: "Tham lang, Vũ khúc thiếu niên không phát, vận quá 30 tuổi mới diên thọ".
THIÊN ĐỒNG TỌA Ở TUẤT ĐỊA DÊ BỊ PHẢN BỘI, NGƯỜI SINH NĂM ĐINH CÓ HÓA CÁT CHỦ VỀ ĐẠI QUÝ
Thiên đồng tọa ở Tuất tại hẫm địa, nếu gặp người sinh năm Đinh có cunị Mệnh đóng tại Dần, Ngọ, có Lộc tồn, hóa lộc tọa ở Dần, Thìn hóa cát xung chiếu chủ về đại quý. Thiên tướng cũng tương tự, nếu như thêm sát tinh thì làm tăng đạo, là mệnh hạ cục.
CỰ MÔN TỌA TẠI THÌN, TUẤT LÀ HÃM ĐỊA, NGƯỜI SINH VÀO NĂM TÁN HÓA CÁT CÓ LỘC DỒI DÀO
Cự môn tọa Mệnh tại Thìn, Tuất tại hãm địa, ví dụ như người sinh vào nam Tân thì Cự môn, hóa lộc tại Thìn, là Lộc ám hợp tại Dậu; tại Tuất thì Lộc ở Dậu kẹp Mệnh, chủ về phú quý, còn nếu thêm sát tinh thì không luận đoán như vậy.
THIÊN CƠ, THIÊN LƯƠNG TỌA TẠI CUNG DẬU HÓA CÁT; CUNG TÀI BẠCH, QUAN LỘC GẶP SAO NÀY SẼ KHÔNG VINH HlỂN
Thiên cơ, Thiên lương tọa Mệnh tại Dậu là hăm địa, tuy có hóa cát cũng vô dụng. Nếu gặp Cự môn cũng tương tự như vậy.
CUNG THÂN, MỆNH NHẤT ĐỊNH PHẢI XEM XÉT KỸ, TỐI KỴ CÓ SAI LẦM
Muốn an cung Thân, Mệnh trước tiên phải xem giờ, khắc, nếu chính xác thì rất ứng nghiệm. Sau khi định Thân, Mệnh thì xem trạng thái sinh vượng tử tuyệt ở bản cung như thế nào, sau đó mối dựa vào sao mà suy đoán.
TÍCH ĐỨC NHIỀU NĂM TĂNG TRĂM PHÚC, DÙ TỌA Ở HÃM ĐỊA CŨNG CHẲNG TỔN THƯƠNG
Cung Thân Mệnh tuy có sao yếu và hành hạn yếu nhưng vẫn được hưởng phúc thọ may mắn, tiền tài, quan tước được như ý, ấy là nhờ vào phúc ấm của tổ tiên cùng vởi phúc đức của bản thân.
MỆNH THỰC VẬN KIÊN CỐ, NHƯ RUỘNG HẠN GẶP MƯA, MỆNH SUY HẠN, YẾU NHỪ CỎ CÂY NON GẶP SƯƠNG ĐÊM
Ví dụ: Mệnh tọa tại hãm địa có cát tinh chiếu cũng luận là phúc. Nếu tọa ở hãm địa, vận gặp ác sát thì chủ về tai họa.
LUẬN MỆNH ẮT PHẢI XEM SỰ THIỆN Ác CỦA SAO, TÍNH CHẤT CỦA CỰ MÔN, PHÁ QUÂN, DƯƠNG NHẪN RẤT MẠNH MẼ
Ba sao này thủ Mệnh, nếu tọa ở hãm địa thì không những tính cách mạnh mẽ mà chắc chắn còn hay chuốc lấy tranh chấp thị phi, thêm sát tinh thì có thương tàn, phá bại.
THIÊN PHÙ, THIÊN TƯỚNG, THIÊN ĐỔNG, THIÊN LƯƠNG TÍNH RẤT TỐT; HỎA TINH, ĐỊA KIÊP, ĐỊA KHÔNG TÍNH BẤT THƯỜNG
Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương đều thuộc chòm sao Nam đẩu, khi đóng ở Thân, Mệnh ắt chủ về người có tính cách trung hòa. Nếu như lang gặp Hỏa tinh sẽ được phú quý nhưng gặp Địa không, Địa kiếp thì không phán đoán như vậy.
VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC, LỘC TỒN, THIÊN CƠ CHỦ VỀ NGƯỜI THANH TÚ, KHÉO LÉO; THÁI DƯƠNG, THÁI ÂM, TÀ PHÙ, HỮU BẬT LÀ NGƯỜI RẤT HIỂN TỪ
Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên cơ thủ Mệnh, không gặp sát tinh, chủ vể người tài hoa lỗi lạc, thông minh xinh đẹp, cũng là mệnh giàu sang. Còn có Thái âm, Thái dương, Tả phù, Hữu bật tọa Mệnh, không gặp sát tinh thì chủ về người tao nhã, đôn hậu, độ lượng, cũng được giàu sang.
VŨ KHÚC, PHÁ QUÂN, LIÊM TRINH, THAM LANG XUNG HỢP, BỂN VỮNG SANG HIỂN; DƯƠNG NHẪN, ĐÀ LA, THẤT SÁT HỘI HỢP SẼ TỔN HẠI LẪN NHAU
Cung Thân, Mệnh tam hợp gặp Vũ khức, Phá quân, Liêm trinh, Tham lang thủ chiếu, lại được hóa cát chủ về giàu sang. Phải biết là Tử vi có thể hàng được uy quyền của Thất sát, có thể chế hóa được Dương nhẫn, Đà la, cho nên Tử vi cùng tọa ở cung Mệnh rất tốt, nếu tại xung hợp cũng phát huy tác dụng. Nhưng Thất sát, Dương nhẫn, Linh tinh chung quy không phải là sao mang đến điều tốt lành, đến già cũng không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
THAM LANG, LIÊM TRINH, PHÁ QUÂN LÀ ÁC TINH; THẤT SÁT, DƯƠNG NHẪN, ĐÀ LA LÀ HUNG TINH
Cung Thân, Mệnh tam hợp có 6 sao này thủ chiếu, lại gặp hóa kỵ không thấy cát tinh, chác chắn sẽ chủ về dâm tà, phá bại, có thương tàn, hình khắc. Nếu như nhập miếu hóa cát thì cũng phán đoán giống như vậy.
HỎA TINH, LINH TINH CHUYÊN GÂY HỌA; ĐỊA KIẾP, ĐỊA KHÔNG, THIÊN THƯƠNG, THIÊN sứ HỌA TRÙNG TRÙNG
Đại, tiểu hạn gặp những hung tinh này chắc chắn chủ về tai họa đa đoan, nếu như cung Thân, Mệnh gặp cát tinh thì Hỏa tinh, Linh tinh vô hại, còn Địa không, Địa kiếp không bị ảnh hưởng.
CỰ MÔN, KỴ TINH ĐỀU KHÔNG TỐT LÀNH, CUNG THÂN, MỆNH, HẠN RẤT KỴ GẶP HAI SAO NÀY
Cự môn, kỵ tinh là thần quản nhiều việc, khi tọa ở trong 12 cung, cung Thân, Mệnh, nhị hạn gặp được đều chủ về không tốt lành. Huống hồ Cự môn vốn là cát tinh, nếu như ở hãm địa hóa kỵ đều không được cát lợi. Lại gặp Thái tuế, Quan phù đến thì chắc chắn có tranh chấp thị phi không ngừng.
Thái tuế, Quan phù vôn là thần chủ về kiện tụng, huống hồ Cự môn là sao chủ vê thị phi, lại có hóa kỵ vào thì không thể tránh khỏi có kiện tụng, tranh chấp.
ĐIẾU KHÁCH LẠI GẬP TANG MÔN, KHÓ TRÁNH TAI HỌA, BỆNH TẬT LIÊN MIÊN
Điếu khách, Tang môn vốn chủ về hình, hiếu phục, nhưng không gặp Thất sát, Thiên hình, Thiên nhẫn thì có thể tránh được, tuy nhiên tai họa, bệnh tật thì tất sẽ gặp phải.
THẤT SÁT TỌA THỦ CUNG THẢN CHỦ MỘT ĐỜI NGHẺO KHỔ; NGƯỜI CÓ SAO THAM LANG NHẬP MỆNH ẮT LÀM KỸ NỮ
Thất sát tọa thủ ở cung Thân, Mệnh tại hãm địa thi càng hung là ứng vôi cầu nói trên. Nếu như Tham lang thủ Mệnh, tuy không gặp sát tinh, hoặc tại tam hợp chiếu cũng chủ về dâm dật. Nếu như gặp Thất sát ở hãm địa thì chủ về nam phóng đáng, nữ dâm loạn. Trong Bí kinh có viết rằng: "Tham lang tam hợp xung chiếu cũng là phường lả lưót đa tình".
Tâm thiện mệnh suy cũng chủ thọ, tâm độc mệnh bển cũng yểu vong.
Thượng cú là chỉ về tích đức như đã luận ở trên, hạ cú và thượng cú có ý nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ như Gia cát Khổng Minh dùng lửa thiêu chết quân Đằng Giáp nên bị giảm bớt mấy năm tuổi thọ.
Ngày nay dù mệnh cực sang quý, vận hết cũng chẳng được dài lâu.
Trong đó bao gồm nhiều ý nghĩa, người học nên xem cho tường tận, tỉ mỉ.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
--------------------------------
Mệnh nữ cốt tủy phú
MỆNH NỮ CÓ SAO THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG HÀNH, TẤT SẼ LẤY ĐƯỢC CHỒNG HIỀN, SINH QUÝ TỬ
An Mệnh tại Ngọ địa, có 2 sao tọa thủ, người sinh vào năm Giáp là hợp cách; hay an Mệnh tại Tý địa, có 2 sao này tọa thủ, người sinh vào năm Kỷ là hợp cách; hoặc an Mệnh tại Thân địa, có 2 sao này tọa thủ, người sinh vào năm Canh là hợp cách. Đây đều có mệnh làm phu nhân, một đời vinh hoa phú quý.
LIÊM TRINH TỌA CUNG MỆNH, NGƯỜI SINH VÀO NĂM GIÁP LÀ HỢP CÁCH
Sao này tọa ở cung Mệnh, người sinh vào năm Giáp là hợp cách. Hay Mệnh tọa ở Thân địa, lấy người sinh vào năm Quý là hợp cách. Hoặc Mệnh tọa ở Dần địa, lấy người sinh vào năm Kỷ là hợp cách. Ngoài ra thì được xem là thượng cách.
THIÊN ĐỔNG TỌA DẦN ĐỊA LẤY NGƯỜI SINH NĂM GIÁP LÀ HỢP CÁCH
Sao này tọa Mệnh tại Dần địa, lấy người sinh vào năm Giáp là hơp cách Hay tọa Mệnh tại Mão địa, lấy người sinh vào năm Ất là hợp cách. Mệnh tọa tại Tuất địa, lấy người sinh vào năm Đinh là hợp cách. Mệnh tọa tại Tỵ địa, lấy người sinh vào năm Bính, Tuất là hợp cách. Mệnh tọa tại Hợi địa, lấy người sinh vào năm Bính, Tân là hợp cách, chắc chắn đều sẽ phú quý.
TỬ VI, THÁI DƯƠNG CHỦ VỀ NGƯỜI ĐOAN CHÍNH, SỚM LẤY ĐƯỢC NGƯỜI CHỒNG HIỀN LÀNH
An Mệnh tại Tý, Tỵ, Hợi, có 2 sao này tọa thủ chủ về phú quý.
Thái dương tọa ở Dần, Ngọ, gặp cát tinh sẽ được hưởng phúc
Thái dượng tọa ở Mệnh tại Ngọ địa, chắc chắn sẽ phú quý, nếu tọa ở hãm địa là mệnh bình thường.
TẢ PHÙ, THIÊN KHÔI CHỦ VỀ PHÚC THỌ, LẠI GẶP HỮU BẬT, THIÊN TƯỚNG THÌ HƯỞNG PHÚC HẬU
Bốn sao này tọa ở các cung đắc địa, nếu như đều tọa thủ ở cung Thân, Mệnh thì chắc chắn chủ về phúc thọ vinh xương.
LỘC TỒN CHỦ VỀ CỦA CẢI VẬT CHẤT ĐẦY ĐỦ, GẶP THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG TRIỀU VIÊN THÌ TẤT ĐƯỢC VINH HOA
Lộc tồn thủ Mệnh, đồng thời gặp cát tinh như Tử vi, Thiên phủ, Vũ khúc, Thiên tướng tam hợp thủ chiếu, nếu không sang hiển cũng giàu cỗ. Chỉ khi chúng tọa tại Dần, Thân thì mới là cách cục triều viên, người sinh vào năm Giáp, Canh là thượng cục, còn người sinh vào năm Tân thì kém hơn một chút. Nếu như người sinh vào năm Bính, Mậu, Đinh, Kỷ, Nhâm, Quý lại an Mệnh tại Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ thì không tốt.
TỬ VI, THIÊN PHỦ TỌA ở TỴ, HỢI, ĐƯỢC TẢ PHÙ, HỮU BẬT TRỢ GIÚP THÌ ẮT SINH PHÚC
An Mệnh tại Tỵ, Hợi, có Tử vi, Thiên phủ, Tả phù, Hữu bật thủ chiếu, xung kẹp, lại có sao hóa cát thì chủ về phú quý.
CỰ MÔN, THIÊN CƠ LÀ CÁCH CỤC MỘT ĐỜI PHÚC LỘC KHÔNG TRỌN VẸN
An Mệnh tại Dần, Mão, Thân, gặp Cự môn, Thiên cơ, tuy là ở chỗ vượng địa nhưng một đời hưởng phúc không trọn vẹn.
THIÊN LƯƠNG, THÁI ÂM TỌA Ở MỆNH CHỦ VỀ BẦN HÀN
An Mệnh tại Tỵ, Hợi, có Thiên lương tọa thủ; hay an Mệnh tại Dần, Thìn có Thái âm tọa thủ, cho dù trinh khiết cũng có cuộc sống không sung túc no đủ. Nếu như tọa ở hãm địa thì chủ về mệnh hạ tiện.
DƯƠNG NHẪN, HỎA TINH LÀ MỆNH HẠ TIỆN
Hai sao này thủ Mệnh, nếu ở vượng cung thì hung họa có giảm nhưng không tránh khỏi có hình khắc. Còn nếu tọa ở hãm địa, gặp sát tinh thì chủ về hạ tiện, nếu không thì khó tránh vận yểu vong.
VĂN XƯƠNG, VĂN KHÚC TỌA MỆNH, HƯỞNG PHÚC KHÔNG TRỌN VẸN
Hai sao này thích hợp với mệnh nam còn không thích hợp với mệnh nữ.
VŨ KHÚC LÀ SAO QUẢ TÚ
Sao này thích hợp với mệnh nam còn không thích hợp với mệnh nữ. Nếu như có Thái âm tọa thủ ở cung Mệnh, lại được cát tinh ở Tam phương củng chiếu thì có thể làm nữ tướng. Còn nếu ở hãm địa gặp Văn xương, Văn khúc, sát tinh thì chủ về cô độc, bần hàn.
PHÁ QUÂN LÀ SAO KHÓ ĐOÁN TÍNH CHẤT
Sao này chủ về sự cô độc, dâm dật, không thích hợp với mệnh nữ, nếu thêm Tứ sát thì ắt có lòng gian dối chồng, vì đố kỵ ghen ghét mà hại con, nếu không cũng là mệnh hạ tiện, làm kỹ nữ.
THAM LANG CHỦ VỀ NGƯỜI TÂM ĐỊA HUNG BẠO, DÂM DẬT
Sao này còn được gọi là sao đào hoa, là sao chủ về hiếu sắc, chủ về người có lòng đố kỵ ghen ghét, có lòng gian dối chồng, hại con, nếu không cũng là phường dâm đãng.
THẤT SÁT CHỦ VỀ NGƯỜI CÓ TÍNH THÂM TRẦM, ÍT ĐƯỢC HƯỞNG PHÚC
Sao này là tướng tinh, nếu tọa ở miếu vượng thì chủ về người có mệnh làm nữ tưóng. Ca quyết có viết rằng: "Mệnh nữ có Thiên cơ, Thái âm tọa ở cung Dân, Thân, gặp ác sát thì chủ về dâm dật, nếu có cát tinh hóa thì không tốt, chỉ có thể làm vợ lẽ".
GẶP ĐƯỢC HÓA LỘC LÀ RẤT VINH XƯƠNG, MỆNH NỮ GẶP CÁCH CỤC NÀY LÀ ĐẠI CÁT
Lại được Lộc tồn đến chiếu là mệnh vượng phu ích tử.
Mệnh nữ có hóa lộc tọa Mệnh, lại được Lộc tồn xung hợp, hoặc thủ chiếu, hoặc đồng cung đểu chủ về mệnh làm quý phu nhân, cũng chủ về giàu có, ắt sinh quý tử.
HỎA TINH, LINH TINH, DƯƠNG NHẪN, ĐÀ LA HỘI VỚI CỰ MÔN, GẶP ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIÊP LẠI CÓ THAM LANG, THẤT SÁT, LIÊM TRINH, VŨ KHÚC CHỦ KHẮC HẠI
Đại khái những sao này mệnh nữ không nên gặp, nếu như gặp 1 hoặc 2 sao thì cũng chủ về dâm dật, hạ tiện. Nếu như đều thấy thì là mệnh hạ tiện, bần hàn, yểu thọ.
TAM PHƯƠNG, TỨ CHÍNH ĐỀU GẶP SÁT TINH, NẾU GẶP Ở CUNG PHU THÊ THÌ HỌA CÀNG NẶNG; NẾU NHƯ BẢN CUNG LẠI KHÔNG CÓ CHÍNH TINH CHỦ VỀ CHIA CẮT, KHẮC HẠI
Trước có luận về các sao này, chỉ có Thất sát toa ở Tam phương Tứ chính, cung Thân, Mệnh không nên thấy.
Bài phú trên là điều tiên quyết của việc toán mệnh, người học cần tìm hiểu thận trọng, kỹ càng là sẽ biết được đầu cuối.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
--------------------------------------
Trọng bổ đẩu số cấu suất
Các sao trong Tử vi đẩu số, bất luận tọa ở cung nào mà nhiều cát tinh, cho dù có gặp hung tinh thì cũng vẫn tốt; còn nếu nhiều hung tinh, cho dù có gặp cát tinh thì cũng vẫn xấu. Xem các sao thì cũng cần phải xem nó tọa ở chỗ nào? Nó ở mức độ sáng hay không sáng, nếu nó ở chỗ sáng nhất thì gọi là miếu vượng, nếu nó ở chỗ không sáng thì gọi là lạc hãm. Cũng cần phải xem những sao này trong mối quan hệ sinh khắc chế hóa của chúng, như vậy có thể chỉ ra được vận mệnh là tốt hay xấu.
Luận về phúc họa cùng thông của con người lấy các sao cung Thân, cung Mệnh để phán đoán. Sao Tử vi tọa ở cung Mệnh mà lại có Tả phù, Hữu bật đồng cung thì tất định sẽ phú quý. Có Vũ khúc, Thiên tướng giáp Mệnh, Thái dương, Thái âm giáp Tài thì nhất định sẽ phát tài. Thiên lương, Thiên đồng đồng cung thì ắt sẽ gặp hung hóa cát. Thái dương, Thái âm đồng cung thì không bằng Tam phương Tứ chính củng chiếu. Tham lang ở Tý địa, đó gọi là "Phiếm thủy đào hoa"; Thiên hình, Tham lang đồng cung thì sẽ vì lưu lạc phong trần mà bị hình thương, Tử vi tọa Mệnh thì gọi là "Kim dư bổng tiết".
Cung Quan lộc có Văn xương, Văn khúc thì gọi là "Ngọc tụ thiêm hương" (được làm quan cao mà an nhàn). Cung Phu thê có Thái âm, Văn khúc đồng cung thì ắt thi cử đỗ đạt cao, được vào viện hàn lâm. Cung Quan lộc có sao Thái âm, Văn xương thì sẽ là mệnh trạng nguyên, hơn nữa tương lai sẽ được làm tướng. Cung Điền trạch hoặc cung Tài bạch có Lộc tồn thì ắt sẽ phát đại tài. Cung Thiên di mà có Vũ khúc hoặc Thiên lương thì ắt sẽ trở thành thương nhân lớn. Phá quân ở chỗ hãm địa thì làm kẻ ăn xin ở ven đường. Tham lang ở vượng cung thì làm kẻ trộm vặt. Thất sát ở chỗ tuyệt địa thì cũng giống như Nhan Hồi chỉ sống được 32 tuổi. Thái dương ở chỗ vượng địa thì thọ như Bành Tổ. Cự môn tại cung Thân, cung Mệnh hoặc cung Tật ách thì thân thể gầy mòn yếu đuối. Hung tinh tọa cung Phụ mẫu hoặc cung Thiên di thì mặt có phá tướng. Liêm trinh, Đại hao tại cung Quan lộc thì phạm pháp ngồi tù. Quan phù và Dương nhẫn tọa ở cung Thiên di thì bị đày ra ngoài đảo huấn luyện. Thất sát mà ở chỗ hãm địa đó là điềm báo lưu niên có hung vong. Đại hao, Hỏa tinh, Linh tinh không thể gặp sao Phá quân. Hỏa tinh, Linh tinh không thể gặp sao Thái tuế. Tấu thư, Bác sĩ ở cung Quan lộc thì đó là hiện tượng tốt lành. Hành hạn mà gặp sao Lực sĩ, Tướng quân và Thanh long thì có thể có uy quyền hiển hách. Tiểu vận không tốt thì cũng giống như bong bóng nổi trên mặt nước, cuộc đời khó được dài lâu; lão vận suy thì giống như ngọn đèn trước gió, trong nháy mắt rồi sẽ vụt tắt; hành hạn gặp sát tinh thì khó tránh xảy ra việc kinh hãi.
Lưu niên tiểu hạn rất quan trọng, trong cuộc đời kỵ nhất là hành hạn lên rồi lại xuống, cuộc đời mệnh vận không tốt thì các sao mà hành hạn gặp phải cũng rất phức tạp. Nghiên cứu Tử vi đẩu số đến đây thì đã có thể nhìn ra những điều vi diệu thần kỳ của nó.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
Hình tính phú
Phàm là người có sao Tử vi tọa Mệnh thì ắt sẽ là người có tướng mạo đoan trang hậu trọng, không hư phù, làm việc rất chắc chắn và thực tế.
Người có Thiên cơ tọa Mệnh thì người cao vừa tầm, không cao cũng chẳng thấp, thích làm việc thiện, vui vẻ giúp đỡ người khác.
Người có Thái dương tọa Mệnh thì có khuôn mặt vuông mà hơi tròn, thông minh, hiền lành lại độ lượng rộng rãi, không thích so đo tính toán với người khác.
Người có sao Vũ khúc tọa Mệnh thì tính cách cương cường, quả đoán, nói là làm, nói ra được thì làm được.
Người có sao Thiên đồng tọa Mệnh thì thân hình đầy đặn, khuôn mặt thanh tú, khi trưỏng thành rất xinh đẹp.
Người có sao Liêm trinh tọa Mệnh thì mày rộng, miệng và mặt to, cá tính nóng này, dễ tức giận, ưa gánh vác, không chịu thua ai.
Người có sao Thiên phủ tọa Mệnh thì thông minh, anh tuấn (mệnh nữ xinh đẹp), môi đỏ răng trắng, khuôn mặt thanh tú, học thức rộng, cá tính ôn hòa, phẩm tính ôn lương.
Người có sao Thái âm tọa Mệnh thì cá tính lương thiện, nhu hòa, độ lượng rộng rãi, học thức uyên bác, năng lực tốt.
Người có sao Tham lang tọa Mệnh có thể tốt mà cũng có thể xấu, nếu miếu địa tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì cá tính kiêu căng tự đại, tại Tỵ, Hợi là hãm địa thì ngu xuẩn ngoan cố.
Người có sao Cự môn tại Mệnh thì cuộc đời nhiều thị phi, làm gì cũng có người phê bình hoặc phản đối, thường hay phải tranh cãi với người khác, nhưng nếu miếu địa tại Dần, Thân, Mão, Dậu thì người này lại đôn hậu ôn lương.
Người có sao Thiên tướng tọa Mệnh thì làm việc cẩn thận, công bằng, ổn trọng thành thực, có chính nghĩa, vui vẻ giúp đỡ người khác, tâm tính thẳng thắn, có trách nhiệm, cần cù, nhiệt tình, thành khẩn, ôn hòa, một đời cơm áo no đủ.
Người có sao Thiên lương tọa Mệnh thì tâm địa lương thiện, làm việc chắc chắn, thanh bạch, siêu nhiên, sách xưa đã gọi đó là "ngọc khiết băng thanh".
Người có sao Thất sát tọa Mệnh thì mắt to, tính nóng, vui giận thất thường, độc đoán chuyên quyền, ưa làm những việc mưu tính, là quân nhân thì rất tốt nhưng phải chịu gian khổ vất vả mới có thành tựu.
Người có sao Phá quân tọa Mệnh thì hay thích bắt những loại động vật nhỏ, dũng cảm, thích mạo hiểm, can đảm, có tinh thần khai sáng, có năng lực lãnh đạo, tính nóng vội, hiếu động, không thích nhàn rỗi, đứng ngồi không yên, đi cũng vội vã, rất nhanh ý, đặc biệt họ có một loại thói quen không tốt là bảo họ làm việc tốt họ không làm, bảo họ làm việc xấu thì họ lại nhận lời. Sách xưa gọi loại người này là: "giúp người làm điều ác mà không giúp người làm điều thiện".
Người có sao Văn xương tọa Mệnh thì khuôn mặt thanh tú, anh tuấn, văn nhã, ai thấy cũng mến.
Người có sao Vàn khức tọa Mệnh thì giỏi nói năng biện luận, thích nói khoác, thổi phồng vấn đề, sách xưa đã gọi đó là những kẻ "hay nịnh". Nhưng người có sao Văn khúc tọa Mệnh lại thường giàu ảo tưởng, hay có những phát minh nghiên cứu, có thể trở thành nhà phát minh. Sao Văn khúc tại miếu địa thì trên người ắt có nốt ruồi lạ, tại hãm địa thì trên mặt sẽ có vết sẹo hoặc vết nám.
Người có sao Tả phù, Hũu bật tọa Mệnh là người có tính cách ôn hòa, lương thiện, là người có tài, đứng đắn, thích điều thiện, sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Người có sao Thiên khôi, Thiên việt tọa Mệnh thường có tướng mạo đoan chính, uy nghiêm, nếu lại có Tam thai đồng cung hoặc củng chiếu thì ắt sẽ được thập toàn thập mỹ, là người rất mô phạm.
Người có sao Lộc tồn tọa Mệnh thì tính cách nhẹ nhàng gần gũi, tướng mạo ổn trọng.
Người có sao Dương nhẫn, Đà la tọa Mệnh thì lớn lên tướng mạo không đẹp, hay cố ý làm những việc không tốt.
Người có sao Hỏa tinh tọa Mệnh thì tính tình cương cưòng, râu tóc khác lạ, mặt, tay, chân khi còn nhỏ đều vì ương bướng nghịch ngợm mà bị thương.
Người có sao Linh tinh tọa Mệnh thì mặt thường hay vị phá tướng hoặc là phải làm lẽ, nhưng họ là người can đảm, dám làm những việc mà người khác không dám, thường hay có ý hại người.
Các sao ở chỗ miếu vượng kỵ nhất là đồng cung với Không vong, Thất sát, nếu đồng cung với Không vong sẽ mất đi uy lực.
Người có sao hóa quyền, hóa lộc tọa Mệnh thì ắt ngũ quan sẽ có điểm khác biệt.
Phá quân đồng cung với Địa không, Địa kiếp thì một đời không có phúc khí.
Lộc tồn đồng cung với Thiên lương thì người đó thích hành thiện mà vui vẻ, thường hay đem tài sản của mình đi cứu giúp người khác.
Tham lang, Đà la đồng cung thì hay có tình cảm yêu đương lén lút. Sao Phá quân không thể đồng cung với sao Tham lang. Người có sao Tham lang tọa Mệnh thì rất dễ trở thành người tốt, nhưng cũng rất dễ trở thành người xấu.
Sao xấu đồng cung với sao tốt thì người đó tính tình khi xấu khi tốt dễ thay đôi.
Người mà cung Tài bạch có Địa không, Địa kiếp thì thường hay thiếu thốn.
Người có sao Văn khúc tọa ở Hợi, Măo, Mùi thì rất có năng lực lãnh đạo.
Mệnh nam tốt nhất là nên lập mệnh ở chỗ trường sinh và đế vượng.
Mệnh nữ nếu lập mệnh ở chỗ tử, tuyệt thì cần phải xem cung Phúc đức của họ.
Cung Mệnh kỵ nhất là lập ở chỗ không tốt.
Cung Tài bạch kỵ nhất là gặp Địa không, Địa kiếp.
Các sao Thiên cơ, Dương nhẫn, Thất sát, Thiên lương thuộc cường khắc, nếu lại có thêm ác tinh như hóa kỵ, Phá quân ở cung Tử nữ thì con cái không tốt.
Cung Phụ mẫu có Đà la, Phá quân, Liêm trinh thì ắt sẽ bán sạch tổ nghiệp, hơn nữa lại khắc với cha mẹ.
Mệnh của trẻ nhỏ cần phải xem căn cơ.
Người có sao Tử vi tại Mệnh thì người mập béo, người có sao Thiên phủ tại Mệnh thì tinh thần thoải mái.
Người có sao Lộc tồn tai Mênh là người chín chắn (nếu độc tọa tại cung Mệnh thì bị người khác lừa dối).
Người có các sao Thái dương, Thái âm, Văn khúc, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Văn xương tại cung Mệnh thì đều là những người lốn lên rất xinh đẹp anh tuấn, trán cao, cằm ngắn, khuôn mặt thanh tú.
Người có sao Tham lạng, Vũ khúc tại cung Mệnh thì nhỏ người nhưng tiếng nói vang trong.
Thiên đồng, Đà la đồng cung (không nhất định phải ở cung Mệnh) dễ mắc chứng béo phì, mắt bên to bên nhỏ.
Hành hạn mà gặp cung không tốt thì cần phải suy xét cho thật kỹ, nếu gặp phải Không, Kiếp thì càng cần phải nghiên cứu cho tỉ mỉ.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
Tăng bổ thái vi phú
Các sao ở 2 cung trước và sau cung Mệnh mà không tốt có thể chưa phát sinh tai họa lớn, còn nếu hung tinh đồng cung với hung tinh thì tai họa là khó tránh. Hỏa tinh kỵ đồng cung với Thiên mã, như vậy ắt sẽ gặp tai họa, nếu có Dương nhẫn chiếu đến thì Lộc tồn mất đi trợ lực. Cung Mệnh mà có Địa không, Địa kiếp thì lục thân không được nhờ cậy. Trong cung Mệnh mà có hóa quyền, hóa lộc thì rất tốt, hoặc có Thiên khôi hay Thiên việt thì ắt sẽ là bậc chính nhân quân tử. Cung Mệnh có Dương nhẫn hoặc là Hỏa tinh, Linh tinh là mệnh tiểu nhân. Hung tinh lại gặp hung tinh thì rất xấu, cát tinh gặp cát tinh chủ cát lợi. Chủ tinh mà mạnh, phụ tinh yếu thì một đòi bình an; chủ tinh yếu còn phụ tinh mạnh thì tai hung ập đến khó lường. Chủ tinh và phụ tinh bổ sung chế hóa lẫn nhau, khi hành hạn cung Mệnh, cung Thân đều có sao củng chiếu mới tốt. Cung Thân, cung Mệnh kỵ nhất là có sao Dương nhẫn, Đà la, Thất sát, gặp như vậy thì sẽ xảy ra tai họa thương tật.
Đại hạn, tiểu hạn kỵ nhất là có Tham lang, Phá quân, Cự môn, Liêm trinh, gặp như vậy thì ắt xảy ra họa hại. Cung Mệnh có Thiên khôi, hoặc Thiên việt, hoặc Văn xương, Văn khúc thì ắt được làm quan.
Đại hạn, tiểu hạn gặp Tử vi, Thiên phủ sẽ phát tài. Yếu quyết của việc xem mệnh nữ tốt hay xấu trước tiên phải xem cung Phúc đức và cung Tài bạch, sau đó còn phải nghiên cứu xem cung Thiên di và các sao trong đại hạn, tiểu hạn như thế nào, như vậy sẽ biết được cát hung.
Đại hạn, tiểu hạn mà có cát tinh thì không phải lo lắng chuyện tiền bạc, hơn nữa ra ngoài làm việc đều được cát lợi.
Mệnh mà ở chỗ hãm nhược thì một đời làm việc gặp khó khăn, có Liêm trinh, Lộc tồn tại cung Thân thì mệnh nữ sẽ là người trinh tiết hiền thục. Có Thiên đồng, Thiên lương tại cung Mệnh, mệnh nam sẽ là bậc chính nhân quân tử. Trong cung Mệnh mà có hóa khoa, hóa quyền, hóa lộc thì cần phải xem các sao này ở miếu vượng hay là lạc hãm. Nếu luận về mệnh trẻ nhỏ thì cần phải suy xét thật kỹ đại hạn và tiểu hạn khi nhỏ của họ. Trẻ nhỏ cung Mệnh mà tọa ở chỗ hung thì khó sống qua 5 tuổi. Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi đồng cung, cho dù không phải là người học hành thì lớn lên cũng rất giỏi giang đáng yêu. Dương nhẫn mà gặp Địa không, Địa kiếp hoặc sát tinh thì người đó học nhiều mà ít thành. Sao Thái tuế gặp Quan phù thì người đó vui mừng vì thoát khỏi họa lao tù.
Nghiên cứu về mệnh lý cần phải nắm vững sự biến hóa của các sao. Lý luận của Tử vi đẩu số rất thâm áo cho nền cần phải suy xét nghiên cứu thật kỹ sự hưng suy của cách cục. Sao Tử vi nếu đồng cung với sát tinh thì người đó nên hiến thân cho tôn giáo. Dương nhẫn, Đà la mà đồng cung với ác tinh thì khó mà được thành tựu. Cung Mệnh có Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh thì tất sẽ được phú quý, hơn nữa lại là người giỏi về mưu tính; nhưng nếu có Dương nhẫn, Địa không, Địa kiếp đồng cung thì ngược lại lại trở thành người không có chí khí cao xa, mà hơn nữa còn cô độc bần hàn. Các sao trong đại hạn, tiểu hạn mà miếu vượng thì vận tuy yếu nhưng lại không yếu.
Mệnh ở chỗ cát địa, tuy hung nhưng cùng không đến nỗi quá xấu. Đại hạn, tiểu hạn kỵ nhất là gặp Địa kiếp, Địa không và Tiệt lộ. Ở Mão địa, Dậu địa mà có Địa kiếp, Địa không sẽ là người thông minh phát phúc. Cung Thân, cung Mệnh có Tử vi, Thiên phủ chủ về cuộc sống đầy đủ. Thân chủ, Mệnh chủ mà gặp Không, Kiếp thì cuộc sống thiếu thốn. Cung Mệnh hoặc nhị hạn mà có Dương nhẫn thì mưu sự không thành. Cung Thân hoặc nhị hạn mà có Thiên tướng, Tả phù thì làm việc có thành tựu. Người mà có hóa quyền, hóa khoa, hóa lộc củng chiếu cung Thân, cung Mệnh thì tất sẽ được vinh hoa phú quý. Người mà có Địa không, Địa kiếp, Dương nhẫn, Linh tinh ở cung Mệnh thì làm nghề tự do. Người có Văn xương, Văn khúc tại cung Thân hoặc cung Mệnh thì lòng dạ rộng rãi, tính tình hào phóng. Người có Dương nhẫn, Đà la hãm địa tọa Mệnh sẽ là người gian trá hư phù. Thiên cơ thiên lương thêm Dương nhẫn đồng cung sẽ sớm hình khắc với cha mẹ vợ con, để đến nỗi cuối đời cô quạnh một mình. Tham lang, Vũ khúc hoặc Tham lang, Liêm trinh đồng cung thì tuổi trẻ gian kho nhưng cuối đòi được hưởng phúc. Những điều này đều là sự vi diệu của Tử vi đẩu số, người nghiên cứu cần phải ghi nhớ cho thật kỹ.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
---------------------------------------
Thái vi phú
Tử vi đẩu số rất huyền diệu thâm sâu, lý luận của nó cũng tương đối khó hiểu, khó giải thích, tuy đã có hàng trăm thiên sách thuyết minh nhưng vẫn đều cảm thấy chưa thể nói hết được ý nghĩa của nó.
Còn đến như sự phân bố các sao, các sao có sự phân bố khác nhau, trường thọ hay đoản mệnh, thông minh hay ngu muội, phú quý hay bần tiện đều không thể chỉ một lời mà khái quát cho hết được. Các sao phân bố trong 12 cung, chủ tinh tổng cộng có 36 sao, nếu nó ở mức độ sáng nhất thì tốt nhất, nếu nó ở chỗ tối nhất thì mất đi sức mạnh. Nhìn chung lấy cung Thân, cung Mệnh để xem là căn bản của phúc đức, rồi lại xem đến sự sinh khắc chế hóa của các sao mà biết được sự thay đối như thế nào; sao này cùng với sao khác tổ hợp lại với nhau sẽ hình thành nên một loại hiện tượng khác. Muốn chỉ ra được sự cát hung thì cần phải biết sự sinh khắc chế hóa của nó, đồng thời phải biết phương vị sở tại của các sao.
Trước tiên phải xem sao Tử vi, bởi vì nó là đại biểu cho các sao, khiến cho các sao có một phương thức sắp xếp nhất định mà thành một mệnh bàn. Sao Tử vi tọa cung nào sẽ hình thành nên một loại mệnh bàn nào đó có kết cấu cố định. Sao Vũ khúc đại biểu cho tài phú, kỵ nhất là đồng cung với Địa không, Địa kiếp; sao Tử vi nếu có biến động thì các sao cũng sẽ biến động theo nó. Sao Tham lang đồng cung với Địa không, Địa kiếp thì tiền bạc có rồi lại hết. Các sao có hiện tượng đặc thù khác nhau không nên nhầm lẫn, nếu không suy xét kỹ cái lẽ huyền vi lại quên đi sự biến hóa của nó sẽ không bao giờ hiểu được Tử vi đẩu số".
Chẳng hạn như, Lộc tồn bị đối cung hóa kỵ xung phá thì đó gọi là "cát xứ tàng hung", ý chỉ lạc cực sinh bi, hoặc là sau khi vui mừng đắc ý sẽ có sự thay đổi bất ngờ. Thiên mã đồng cung với Thiên không, Địa kiếp thì một đời bôn ba vất vả. Cung Mệnh mà ở chỗ không tốt cho dù có phát tài cũng nhanh chóng phá bại. Mệnh không tốt mà vận tốt thì cũng được hưng vượng mà không đến nỗi thất bại. Các sao ở chỗ miếu vượng còn cần phải xét tới sự sinh khắc chế hóa của chúng. Cung Mệnh tốt thì cũng cần phải xem sinh khắc chế hóa. Thái dương, Thái âm kỵ nhất là ở chỗ không phát sáng, Lộc tồn ưa nhất là đồng cung với Thiên mã, nếu như đồng cung với Không vong thì cần phải xem nó ở phương vị nào. Nếu gặp chỗ bại tuyệt thì cần phải dựa vào các sao đến sinh trợ. Tử vi, Thiên phủ dựa vào sự phù trợ của sao Tả phù hoặc Hữu bật; Thất sát, Phá quân đồng cung với Dương nhẫn, Linh tinh thì càng thêm hung ác. Các cát tinh tụ lại, nếu có gặp 1, 2 hung tinh thì vẫn tốt; các hung tinh cùng tụ lại thì cho dù có thêm cát tinh cũng vẫn xấu.
Ở 2 vị trí trước và sau sao Tử vi mà có Tả phù, Hữu bật kẹp lại thì ắt sẽ là quý nhân hoặc giữ chức quan cao. Tử vi đồng cung với Tham lang thì người này nhu cầu tình dục cao. Tử vi tọa thủ ở cung Mệnh, có Thiên tướng, Thiên phủ, Tả phù, Hữu bật đồng cung hoặc kẹp lại thì có thể làm đến chủ tịch tỉnh hoặc hoặc làm viện trưởng. Cung Mệnh mà có sao Thiên khôi, cung Thân có sao Thiên việt thì ắt làm quan lớn. Lộc tồn, Văn xương, Văn khúc tại cung Mệnh hoặc củng chiếu ở Tam phương Tứ chính thì đó là người hiền lương mà hơn nữa lại làm quan cao. Trước và sau cung Tài bạch có Thái dương Thái âm kẹp lại, nếu không làm quan cao thì cũng là mệnh đại phú. Dương nhẫn, Thái âm, Thiên đồng ở Ngọ địa sẽ lập công ở chốn biên thùy. Liêm trinh, Thiên tướng, Dương nhẫn đồng cung sẽ khó tránh họa ngục tù. Thiên cơ, Thiên lương đồng cung sẽ là bậc trưỏng giả nhân từ; Thiên khôi, Thiên việt đối chiếu ở cung Thân, cung Mệnh thì tất có phú quý.
Vũ khúc ở cung Tài bạch là người có nhiều tiền của; Thái dương ở chỗ Tý, Ngọ thì gọi là "Nhật lệ trung thiên", chủ nắm quyền lớn, hơn nữa lại vô cùng giàu có. Thái âm tại Tý địa gọi là "Thủy trừng quế ngạc", ắt sẽ làm quan thanh tra, hơn nữa còn là bậc trung thần. Tử vi mà thêm Tả phù hoặc Hữu bật đồng cung thì ắt hạ lệnh một tiếng muôn người thần phục. Phá quân với Văn xương hoặc Văn khúc ở 2 Dần địa, Mão địa gọi là "Chúng thủy triều đông" (hình khắc mà hơn nữa tài vật lại không tụ). Thái dương, Thái âm thủ Mệnh thì không bằng đối chiếu; Thiên đồng, Thiên lương đồng cung thì không sợ hung nguy. Tham lang tại Hợi hoặc tại Tý là cách cục "Phiếm thủy đào hoa" (sắc tình rất nặng). Dương nhẫn đồng cung với Tham lang thì gọi là "Phong lưu thái trượng". Liêm trinh, Thất sát đồng cung thì khó tránh gặp biến cố trên đường đi. Phá quân đồng cung với Xương, Khúc thì khó tránh họa sông nước. Lộc tồn ở cung Nô bộc, dẫu cho có làm quan thì cũng bôn tẩu Đông Tây. Tử vi đồng cung với hung tinh sẽ là người không thực tế. Sao Tử vi tọa ở cung Mệnh thì ắt sẽ được hưởng phúc. Cung Phúc đức mà có Văn xương, Văn khúc thì cuộc đời được an nhàn vui vẻ. Thái âm với Văn xương tọa thủ ở cung Quan lộc thì ắt sẽ làm quan ở viện hàn lâm, phú quý song toàn. Thái âm hội với Văn khúc ở cung Phu thê thì rất giỏi vãn chương, tham gia thi cử được đỗ đạt cao. Lộc tồn ở cung Điền trạch hoặc cung Tài bạch thì trong nhà sẽ có rất nhiều tiền bạc vật chất. Thiên lương tọa ở cung Thiên di thì có thể trở thành thương nhân lớn. Phá quân ở cung Quan lộc là mệnh xin ăn dọc đường. Tham lang tọa ở chỗ Tý, Ngọ thì có thói quen không tốt. Thất sát ở chỗ tuyệt địa thì khó sống thọ. Tham lang tọa ở chỗ trường sinh sẽ được trường thọ.
Cự môn, Đà la cùng tọa ở cung Mệnh, cung Thân hoặc cung Tật ách thì ắt sẽ có ám tật liên miên, thân thể gầy mòn yếu nhược. Cung Phụ mẫu hoặc cung Thiên di mà có hung tinh thì ắt phạm hình thương hoặc phá tướng. Dương nhẫn hoặc Tứ sát cùng với Liêm trinh tọa ở cung Quan lộc thì ắt phạm pháp ngồi tù. Cung Thiên di có Quan phù thêm Dương nhẫn hay Tứ sát thì ắt bị đày ra ngoài đảo huấn luyện. Thiên cơ, Thiên lương đồng cung thêm Địa không, Địa kiếp thì nên hiến thân cho tôn giáo. Tả phù hoặc Hữu bật độc tọa ở cung Mệnh, nếu không làm lẽ thì cũng là con do dì ghẻ mẹ kế sinh ra. Thất sát tọa ở cung Thân hoặc cung Mệnh lại thêm ác tinh thì vận mệnh chẳng thể dài lâu. Dương nhẫn, Linh tinh tọa thủ cung Mệnh lại thêm có Bạch hổ đồng cung thì e tính mạng gặp nguy khó. Quan phù với cát tinh đồng cung thì sẽ có điềm phát triển đột phá. Phá quân kỵ gặp lưu niên sát tinh; Dương nhẫn, Linh tinh vận toán theo sao Thái tuế. Quan phù, Bệnh phù đều là những sao gây nên tai họa. Tấu thư, Bác sĩ, Lưu lộc thì đều cát lợi; Lực sĩ, Tướng quân, Thanh long thì được thăng quan phát tài. Hạn tuổi trẻ không tốt thì giống như bọt nổi trên nước; hạn về già không tốt thì như đèn treo trước gió. Lưu niên kỵ nhất là gặp sát tinh mà lại không có sao khác đến chế hóa.
Cuộc đời vinh nhục, ấy là vì có liên quan đến sự tốt xấu của các sao trong đại hạn, tiểu hạn. Một đời cô khổ bần cùng, ấy là vì các sao trong mệnh và hạn đều rất phức tạp. Nghiên cứu Tử vi đẩu số đến trình độ này thì đã biết được cái lẽ huyền vi của tạo hóa vậy.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
--------------------------------
Hình tính phú
Phàm là người có sao Tử vi tọa Mệnh thì ắt sẽ là người có tướng mạo đoan trang hậu trọng, không hư phù, làm việc rất chắc chắn và thực tế.
Người có Thiên cơ tọa Mệnh thì người cao vừa tầm, không cao cũng chẳng thấp, thích làm việc thiện, vui vẻ giúp đỡ người khác.
Người có Thái dương tọa Mệnh thì có khuôn mặt vuông mà hơi tròn, thông minh, hiền lành lại độ lượng rộng rãi, không thích so đo tính toán với người khác.
Người có sao Vũ khúc tọa Mệnh thì tính cách cương cường, quả đoán, nói là làm, nói ra được thì làm được.
Người có sao Thiên đồng tọa Mệnh thì thân hình đầy đặn, khuôn mặt thanh tú, khi trưỏng thành rất xinh đẹp.
Người có sao Liêm trinh tọa Mệnh thì mày rộng, miệng và mặt to, cá tính nóng này, dễ tức giận, ưa gánh vác, không chịu thua ai.
Người có sao Thiên phủ tọa Mệnh thì thông minh, anh tuấn (mệnh nữ xinh đẹp), môi đỏ răng trắng, khuôn mặt thanh tú, học thức rộng, cá tính ôn hòa, phẩm tính ôn lương.
Người có sao Thái âm tọa Mệnh thì cá tính lương thiện, nhu hòa, độ lượng rộng rãi, học thức uyên bác, năng lực tốt.
Người có sao Tham lang tọa Mệnh có thể tốt mà cũng có thể xấu, nếu miếu địa tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì cá tính kiêu căng tự đại, tại Tỵ, Hợi là hãm địa thì ngu xuẩn ngoan cố.
Người có sao Cự môn tại Mệnh thì cuộc đời nhiều thị phi, làm gì cũng có người phê bình hoặc phản đối, thường hay phải tranh cãi với người khác, nhưng nếu miếu địa tại Dần, Thân, Mão, Dậu thì người này lại đôn hậu ôn lương.
Người có sao Thiên tướng tọa Mệnh thì làm việc cẩn thận, công bằng, ổn trọng thành thực, có chính nghĩa, vui vẻ giúp đỡ người khác, tâm tính thẳng thắn, có trách nhiệm, cần cù, nhiệt tình, thành khẩn, ôn hòa, một đời cơm áo no đủ.
Người có sao Thiên lương tọa Mệnh thì tâm địa lương thiện, làm việc chắc chắn, thanh bạch, siêu nhiên, sách xưa đã gọi đó là "ngọc khiết băng thanh".
Người có sao Thất sát tọa Mệnh thì mắt to, tính nóng, vui giận thất thường, độc đoán chuyên quyền, ưa làm những việc mưu tính, là quân nhân thì rất tốt nhưng phải chịu gian khổ vất vả mới có thành tựu.
Người có sao Phá quân tọa Mệnh thì hay thích bắt những loại động vật nhỏ, dũng cảm, thích mạo hiểm, can đảm, có tinh thần khai sáng, có năng lực lãnh đạo, tính nóng vội, hiếu động, không thích nhàn rỗi, đứng ngồi không yên, đi cũng vội vã, rất nhanh ý, đặc biệt họ có một loại thói quen không tốt là bảo họ làm việc tốt họ không làm, bảo họ làm việc xấu thì họ lại nhận lời. Sách xưa gọi loại người này là: "giúp người làm điều ác mà không giúp người làm điều thiện".
Người có sao Văn xương tọa Mệnh thì khuôn mặt thanh tú, anh tuấn, văn nhã, ai thấy cũng mến.
Người có sao Vàn khức tọa Mệnh thì giỏi nói năng biện luận, thích nói khoác, thổi phồng vấn đề, sách xưa đã gọi đó là những kẻ "hay nịnh". Nhưng người có sao Văn khúc tọa Mệnh lại thường giàu ảo tưởng, hay có những phát minh nghiên cứu, có thể trở thành nhà phát minh. Sao Văn khúc tại miếu địa thì trên người ắt có nốt ruồi lạ, tại hãm địa thì trên mặt sẽ có vết sẹo hoặc vết nám.
Người có sao Tả phù, Hũu bật tọa Mệnh là người có tính cách ôn hòa, lương thiện, là người có tài, đứng đắn, thích điều thiện, sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Người có sao Thiên khôi, Thiên việt tọa Mệnh thường có tướng mạo đoan chính, uy nghiêm, nếu lại có Tam thai đồng cung hoặc củng chiếu thì ắt sẽ được thập toàn thập mỹ, là người rất mô phạm.
Người có sao Lộc tồn tọa Mệnh thì tính cách nhẹ nhàng gần gũi, tướng mạo ổn trọng.
Người có sao Dương nhẫn, Đà la tọa Mệnh thì lớn lên tướng mạo không đẹp, hay cố ý làm những việc không tốt.
Người có sao Hỏa tinh tọa Mệnh thì tính tình cương cưòng, râu tóc khác lạ, mặt, tay, chân khi còn nhỏ đều vì ương bướng nghịch ngợm mà bị thương.
Người có sao Linh tinh tọa Mệnh thì mặt thường hay vị phá tướng hoặc là phải làm lẽ, nhưng họ là người can đảm, dám làm những việc mà người khác không dám, thường hay có ý hại người.
Các sao ở chỗ miếu vượng kỵ nhất là đồng cung với Không vong, Thất sát, nếu đồng cung với Không vong sẽ mất đi uy lực.
Người có sao hóa quyền, hóa lộc tọa Mệnh thì ắt ngũ quan sẽ có điểm khác biệt.
Phá quân đồng cung với Địa không, Địa kiếp thì một đời không có phúc khí.
Lộc tồn đồng cung với Thiên lương thì người đó thích hành thiện mà vui vẻ, thường hay đem tài sản của mình đi cứu giúp người khác.
Tham lang, Đà la đồng cung thì hay có tình cảm yêu đương lén lút. Sao Phá quân không thể đồng cung với sao Tham lang. Người có sao Tham lang tọa Mệnh thì rất dễ trở thành người tốt, nhưng cũng rất dễ trở thành người xấu.
Sao xấu đồng cung với sao tốt thì người đó tính tình khi xấu khi tốt dễ thay đôi.
Người mà cung Tài bạch có Địa không, Địa kiếp thì thường hay thiếu thốn.
Người có sao Văn khúc tọa ở Hợi, Măo, Mùi thì rất có năng lực lãnh đạo.
Mệnh nam tốt nhất là nên lập mệnh ở chỗ trường sinh và đế vượng.
Mệnh nữ nếu lập mệnh ở chỗ tử, tuyệt thì cần phải xem cung Phúc đức của họ.
Cung Mệnh kỵ nhất là lập ở chỗ không tốt.
Cung Tài bạch kỵ nhất là gặp Địa không, Địa kiếp.
Các sao Thiên cơ, Dương nhẫn, Thất sát, Thiên lương thuộc cường khắc, nếu lại có thêm ác tinh như hóa kỵ, Phá quân ở cung Tử nữ thì con cái không tốt.
Cung Phụ mẫu có Đà la, Phá quân, Liêm trinh thì ắt sẽ bán sạch tổ nghiệp, hơn nữa lại khắc với cha mẹ.
Mệnh của trẻ nhỏ cần phải xem căn cơ.
Người có sao Tử vi tại Mệnh thì người mập béo, người có sao Thiên phủ tại Mệnh thì tinh thần thoải mái.
Người có sao Lộc tồn tai Mênh là người chín chắn (nếu độc tọa tại cung Mệnh thì bị người khác lừa dối).
Người có các sao Thái dương, Thái âm, Văn khúc, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Văn xương tại cung Mệnh thì đều là những người lốn lên rất xinh đẹp anh tuấn, trán cao, cằm ngắn, khuôn mặt thanh tú.
Người có sao Tham lạng, Vũ khúc tại cung Mệnh thì nhỏ người nhưng tiếng nói vang trong.
Thiên đồng, Đà la đồng cung (không nhất định phải ở cung Mệnh) dễ mắc chứng béo phì, mắt bên to bên nhỏ.
Hành hạn mà gặp cung không tốt thì cần phải suy xét cho thật kỹ, nếu gặp phải Không, Kiếp thì càng cần phải nghiên cứu cho tỉ mỉ.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
----------------------------------------
Nhẹ chẳng ngăn được nặng, cát chẳng chống được hung
Có rất nhiều học giả đã không nghiên cứu sâu về Tử vi đẩu số, hoặc là chỉ mới đọc vài cuốn sách mà chưa được một vị danh sư nào chỉ điểm, hoặc có kẻ bản thân mình tài sơ học cạn để đến nỗi gặp phải những trường hợp không biết phán đoán như thế nào, không thể nào đột phá lên được, họ cảm thấy vô cùng khó khăn, thậm chí còn đưa ra những mâu thuẫn.
Mâu thuẫn, thuật Phi Yến Quỳnh Lâm đã gọi đó là "trùng lặp", tức là đã có hiện tượng này rồi lại gặp phải một hiện tượng khác khiến họ không biết lựa chọn từ đâu, càng không dám đưa ra những phán đoán.
Người xưa đoán mệnh có một bí quyết rất đơn giản mà chỉ 8 chữ:
Nhẹ chẳng ngăn được nặng
Cát chẳng chống được hung
Ví dụ như, có người cung Tử Tức có cát tinh, không có Lục sát, cung Tài bạch cũng có cát tinh, không có Lục sát, như vậy gọi là "hoa tươi quả đẹp", bạn sẽ đoán người này đời con cháu của họ đều tốt đẹp. Nhưng nên xem lại cung Quan lộc của họ như thế nào, nếu cung Quan lộc phạm vào "kỵ sát tọa cung" thì bạn cần phải lựa chọn "kỵ sát tọa cung" để đoán về con cháu của họ, chứ không thể dùng "hoa tươi quả đẹp", đó chính là điều mà ta gọi là "nhẹ chẳng ngăn được nặng", bởi vì "kỵ sát tọa cung" là nặng, mà "hoa tươi quả đẹp" là nhẹ, nhẹ phải nhường nặng.
Hay ví dụ như, cô A đại hạn đến cung Sửu, đó chính là "điệp duyên hoa hồng", điều này chứng tỏ trong 10 năm này sẽ được "tài quan song mỹ", hoặc sẽ có mối lương duyên, nhưng nếu đại hạn lại gặp "trúc la tam hạn" thì nên lấy "trúc la tam hạn" để đoán mệnh, bở vì "cát chẳng chống được hung".
Còn đến như sự "nhẹ", "nặng", "cát", "hung" thì phân biệt thế nào?
Vấn đề này rất đơn giản, chỉ cần xem nhiều sách tự nhiên ắt quán thông!
Tự mình nếu là người tám lạng
Thì đừng phán người nửa cân
(Tử vi đẩu số tứ hóa luận đời người - Phan Tử Ngư)
-------------------------------------------
Làm thế nào có thể gặp hung hóa cát?
Con người có những sở thích chung, trong đó có đoán mệnh. Có người nói chỉ có người Trung Quốc hoặc người phương Đông mới thích đoán mệnh, đó thực là một sai lầm lớn, Hitlle nước Đức là người rất thích xem mệnh, ngay đến giới lãnh đạo ở Ấn Độ cũng đều rất có hứng thú vói việc đoán mệnh.
Nói chung các cách đoán mệnh là không giống nhau, nhưng điểm chung là mỗi người đều muốn biết về tương lai của mình, như hôn nhân, tài phú, quan vận... Tuy nhiên có rất nhiều người khi xem được vận mệnh của bản thân không tốt thì luôn canh cánh trong lòng, tâm tư muộn phiền không vui, u sầu, khổ não, như thế muôn phần không nên. Chúng ta tuy không thể thay đổi vận mệnh nhưng có một phương pháp có thể hóa hung thành cát, đó chính là tích cực làm việc thiện. Có người cả đời quá xem trọng của cải, đó gọi là "một xu cho người cũng không bỏ", kiểu người này cả đời dù gia tài có lớn đến đâu cũng không được hưởng hạnh phúc, chỉ có thể nói anh ta cả đời không lo cái ăn cái mặc mà thôi, lúc thác về cũng chẳng thể mang theo được của cải.
Cái gọi là tích cực làm việc thiện không phải là ở chỗ tiền bỏ ra nhiều hay ít mà là ở "lương tâm" và "thành ý" của người đó. Có người nói: "Đợi đến khi tôi phát tài sẽ tích cực làm việc thiện", đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Nếu như hôm nay trên người chúng ta chỉ có 200 ngàn lại thấy một người đang rất cần giúp đỡ, mặc dù chúng ta chỉ đưa cho họ 100 hay cả 200 thì số tiền đó vẫn có ý nghĩa hơn rất nhiều so với một tên trọc phú cho họ 5 tạ gạo. Cho nên ông trời đang nhìn vào "tâm" bạn chứ không phải nhìn vào "tiền tài" của bạn.
Năng làm việc thiện ở nhiều nơi chính là giúp cho chúng ta gặp hung hóa lành, gặp nguy nan biến thành tốt đẹp, hoặc là tích âm đức cho con cháu, hoặc chính là giúp bản thân trừ bỏ đi bệnh tật đã kéo dài nhiều năm.
Nhặt được tài vật của người khác làm rơi cần trả về nguyên chủ, đó cũng là một cách làm việc thiện, tích âm đức vì bạn có thể cứu vãn phát sinh một tấm bi kịch.
Lấy việc giúp người làm niềm vui, giúp người thoát khỏi khốn cùng, giúp người một tay, cứu người lúc nguy kịch... đều là việc thiện. Tránh sát sinh cũng là việc thiện, vợ chồng bất hòa cố gắng làm lành cũng là việc thiện. Trái lại, thay người viết khế ước bán thân, viết đơn ly hôn đều sẽ tổn hại âm đức.
Kỳ thực ở mọi nơi trong xã hội ngày nay đều có thể làm việc tốt, tùy lúc đều 1 cơ hội, chỉ sợ bạn có quan niệm sai lầm bỏ qua cơ hội hoặc không muốn làm việc thiện, như vậy quả là điều đáng tiếc.
1. Không được đến gần biển (hoặc hồ bơi) bơi hoặc câu cá, hoặc đùa nghịch.
2. Không được ngồi thuyền.
3. Khu vực nhà ở không được ở gần biển hoặc khe nước.
4. Thuyền viên tránh ra khơi.
ĐẠI, TIỂU HẠN GẶP CÁCH CỤC "TÙ HÌNH GIÁP ẤN"
Cái gọi là "Tù Hình giáp ấn" tức Liêm trinh, Thiên tướng đồng cung lại thêm Dương nhẫn, e là khó tránh họa lao ngục.
Cách hóa giải:
1. Không được làm những việc mạo hiểm phạm pháp, như buôn lậu, trộm căp, mại dâm.
2. Không được đem bản thân ra thử nghiệm, tự chuốc khổ não.
3. Không được làm việc gì trái pháp lệnh của chính phủ.
CUNG QUAN LỘC CÓ SAO LIÊM TRINH LẠI THÊM SÁT TINH
1. Không làm trái pháp lệnh của chính phủ.
2. Không làm việc phạm pháp.
3. Không bảo lãnh giúp người khác.
CUNG THIÊN DI CÓ SAO QUAN PHÙ LẠI THÊM SÁT TINH
1. Không làm việc gì phạm pháp.
2. Không tham gia những tổ chức phi pháp, tổ chức xã hội đen.
3. Không vô cớ gây sự.
4. Không nói điều thị phi, nói khoác.
LIÊM TRINH, THẤT SÁT LẠI THÊM SÁT TINH TỌA CUNG THIÊN DI
1. Hạn chế đi xa.
2. Không được đi tàu.
3. Cẩn thận khi lái xe.
CUNG MỆNH CÓ DƯƠNG NHẪN, LINH TINH
1. Không được làm viêc phạm pháp.
2. Không được cướp giật
3. Nếu như hiện tại đang phục vụ trong quân đội, thậm chí là phục vụ ở tiền tuyến không được tự ý rời bỏ chức trách, cương vị, không được làm trái quân lệnh.
VŨ KHÚC, THẤT SÁT TỌA MỆNH LẠI THÊM SÁT TINH
1. Khi có sấm sét không được ở dưới gốc cây.
2. Tay ẩm ưót không được cắm điện.
3. Trong nhà có sửa chữa điện thì trước tiên cần ngắt nguồn.
4. Không được đi lại ở nơi có gỗ chất đống.
VŨ KHÚC VÀ THAM LANG THÊM SÁT TINH TỌA CUNG MỆNH
1. Không nên để phát sinh rắc rối về tiền bạc với bất cứ người nào.
2. Không được có chuyện vay mượn tiền với bất cứ ai, cũng không được giúp người khác mượn tiền.
THAM LANG, VĂN XƯƠNG (HOẶC VĂN KHÚC) TỌA MỆNH
1. Không ngồi máy bay
2. Không lên tầng cao đùa nghịch.
3. Không đi chơi ở nơi núi cao.
CUNG THÂN CÓ THẤT SÁT, DƯƠNG NHẪN ĐỒNG CUNG
1. Không nên làm quân nhân, nếu như có phục dịch trong quân đội tốt nhất tránh ở tiền tuyến.
2. Không được giao chiến bằng vũ khí với người khác.
3. Tích cực làm việc thiện.
CỰ MÔN, HỎA TINH, DƯƠNG NHẪN TỌA MỆNH
1. Giữ vững lập trường, không để bị xúi giục.
2. Tránh vì bị lụy chán chường mà dễ dàng muốn rời bỏ trần thế.
3. Bồi dưỡng tinh thần lạc quan, phấn đấu.
4. Trân trọng sinh mệnh, quý trọng cuộc sống.
LINH TINH, VĂN XƯƠNG, ĐÀ LA VŨ KHÚC ĐỒNG CUNG
1. Tránh bơi lội, nghịch nước.
2. Tránh vì bi lụy chán chường mà dễ dàng muốn rời bỏ trần thế.
3. Nên biết sinh mệnh rất đáng quý.
THIÊN LƯƠNG TẠI TỴ, HỢI
1. Nhất thiết chớ thấy sắc mà nổi lòng tà dâm.
2. Tránh phát sinh vấn đề tình cảm nam nữ với người thân
3. Phàm việc gì cũng phải biết tiết chế bản thân
4. Phàm việc gì trước tiên cũng phải suy nghĩ đến hậu quả
5. Không nên nghe lời dụ dỗ của nữ giới.
LIÊM TRINH, THAM LANG TẠI TỴ, HỢI LẠI THÊM SAO THIÊN KHÔNG, ĐỊA KIẾP
Nên chú ý tới an toàn trong gia đình, bảo quản tài vật, mỗi ngày đều phải có người trông coi nhà cửa, ví như cả nhà đi xa nên nhờ bạn bè thân thích trông nhà giúp.
TRONG TỨ SÁT CÓ HAI SÁT TINH ĐỒNG CUNG, HOẶC THẤT SÁT VÀ MỘT TRONG TỬ SÁT ĐỒNG CUNG
1. Khi vận động nên cẩn thận, xương cột sống dễ bị tổn thương.
2. Không được quá dừng sức khi chuyển đồ đạc, hàng hóa.
3. Đi thang máy cần đặc biệt chú ý.
LIÊM TRINH, THAM LANG TẠI HỢl ĐỊA, DƯƠNG NHẪN TẠI SỬU ĐỊA
1. Chớ mang bản thân ra thử nghiệm.
2. Chớ âm mưu phạm pháp.
VŨ KHÚC THÊM SÁT TINH
1. Đến ngân hàng hoặc bưu điện rút tiền hoặc gửi tiền phải chú ý kẻ cắp, cường đạo.
2. Tránh vay hoặc mượn tiền người khác (không mượn tiền của người khác, cũng không cho người khác mượn tiền).
THÁI ÂM TẠI MÃO, THÌN, TỴ, NGỌ THÊM SÁT TINH
1. Ngồi máy bay, lái xe đều phải rất cẩn thận.
2. Làm việc chớ thiên về tình cảm, phàm việc gì cũng phải phân biệt rõ ràng.
VŨ KHÚC HOẶC THẤT SÁT, PHÁ QUÂN TẠI CUNG NÔ BỘC, HOẶC LỘC TỒN THÊM THIÊN KHÔNG, ĐỊA KIẾP
1. Không thể quá tin bạn bè, nhân viên, người cùng hợp tác, người dưới, viên chức.
2. Nhất thiết không được bảo lãnh cho người khác.
3. Tránh gọi bạn bè, nhân viên, người cùng hợp tác, viên chức tới ngân hàng gửi tiền hoặc đưa tiền.
4. Phải luôn quan tâm đến tình hình đời tư của cấp dưói.
5. Không được kết oán thù với cấp dưới.
LIÊM TRINH, THẤT SÁT TỌA CUNG QUAN LỘC THÊM SÁT TINH HOẶC THIÊN CƠ, CỰ MÔN THỀM SÁT TINH
1. Nên tận trung với chức vụ.
2. Cẩn thận xử lý bất kỳ trường hợp nào.
3. Chớ nói điều thị phi, luôn nhớ "họa từ miệng mà ra".
THÁI DƯƠNG LẠC HÃM THÊM SÁT TINH
1. Cẩn thận giữ gìn đôi mắt.
2. Chớ tham lam danh lợi.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
---------------------------------
Sai lầm khi đem "uyên ương" ví với vợ chồng
Uyên ương là loài chim mà con cái và con đực không bao giờ rời xa, bởi vậy con người ta thường ví tình cảm của vợ chồng với uyên ương.
Trong Đẩu số cốt tủy phú có câu: "Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh" (Lộc hợp uyên ương một đòi vinh hiển), đó là chỉ trong cung Mệnh có Lộc tồn, cung Thân có hóa lộc hoặc cung Thân có Lộc tồn, cung Mệnh có hóa lộc thì một đòi vinh hoa phú quý. Nhưng ở Đài Bắc có 1 vị thầy đoán mệnh nói rằng: Cung Phu thê có hóa lộc và Lộc tồn đồng cung thì tình cảm vợ chồng rất tốt, ở đây đã sai lầm khi đem 2 chữ "uyên ương" để giải thích cho vợ chồng. Bởi vậy có thể thấy bất cứ một môn học vấn nào cũng đều không đơn giản như vậy, chỉ có một chút sai lầm sẽ tạo thành một câu chuyện khiến người ta cười nhạo.
Lấy thực tế để giải thích, có 1 cô tên H rất xinh đẹp, cô ấy từng đến Đài Bắc tìm thầy Tử vi đẩu sô đoán mệnh. Đối với cô ấy điều gì cũng không quan trọng, chỉ quan tâm đến quan hệ vợ chồng, cho nên chỉ hỏi 1 câu: "Cung Phu thê của tôi như thê nào?". Thầy đoán mệnh này xem chừng rất có học vấn, nói dẫn kinh điển rằng: "Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh" (Lộc hợp uyên ương một đời vinh hiển), sau đó nói cung Phu thê của cô ấy có Lộc tồn lại gặp hóa lộc đồng cung cho nên vợ chồng rất hòa hợp. Cô H sau khi nghe cảm thấy bàng hoàng, bởi vì từ sau khi cô ấy kết hôn, nhiều lần bị chồng đánh đập vô lý, bị ngược đãi. Cô ấy không được tiêu 1 đồng tiền nào của chồng, trái lại hằng tháng đều phải đưa tiền cho chồng, nếu không sẽ bị đánh đập. Cô ấy 3 lần yêu cầu ly hôn nhưng chồng không đồng ý, nhất định không viết đơn, chỉ ra ở riêng, cô ấy quả thực không thể chịu nổi sự ngược đãi vô lý của chồng nên đã uống thuốc tự tử, may mắn là được phát hiện kịp thời, đưa đến bệnh viện cấp cứu mới có thể tránh khỏi cái chết. Lúc đó người chồng rất sợ sau này cô sẽ lại tự sát nên đồng ý ly hôn. Cô ấy chỉ hỏi 1 câu: "Vợ chồng tôi như thế nào?", tác giả nói: "Ắt ly hôn". Cô ấy nói: Vì sao có 1 thầy đoán mệnh nói với tôi "Lộc hợp uyên ương nhất thế vinh"? Tác giả trả lòi: "Hóa lộc ắt trưóc tiên phải xem sao chủ nào hóa mới có thể luận cát hung, Phá quân tọa ở cung Phu thê ắt ly hôn, mặc dù hóa lộc thì có tác dụng gì? Lộc tồn tọa ở cung Phu thê trước nó có Đà la, lại có Dương nhẫn, hôn nhân của cô ắt bị tan vỡ?" (người chồng cũng nhiều lần lừa dối, phụ lòng cô ấy). Cô H sau khi nghe tác giả phân tích rất khâm phục, nguyện bái làm thầy, học tập Tử vi đẩu số.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
-------------------------------------
Phân tích vị trí 12 cung
12 cung lần lượt là cung Mệnh, Tài bạch, Huynh đệ, Điền trạch, Tử nữ, Nô bộc, Phu thê, Tật ách, Thiên di, Quan lộc, Phúc đức, Phụ mẫu.
Thứ tự các cung đều thuận theo tự nhiên, không hề khiên cưỡng. Cuộc sống của con người lấy thân mệnh làm chủ nên lấy cung Mệnh làm đầu. Tài là nguồn để dưỡng mệnh nên Tài bạch đứng sau cung Mệnh. Phân chia tài với ta là anh em nên cung Huynh đệ đứng sau Tài bạch. Cung thứ tư là Điền trạch, là chỗ an mệnh, chôn tài. Sau Tài bạch, Điền trạch có con cháu kế thừa, nên cung Tử nữ đứng ở vị trí thứ năm. Con cháu cần nô bộc giúp đỡ nên cung Nô bộc đứng ở vị trí thứ sáu. Thê thiếp sinh con nối dõi, lại đối diện với cung Mệnh, cho nên cung Phu thê đứng ở vị trí thứ bảy. Con người chúng ta ăn ngũ cốc để sống, khó có thể tránh được bệnh tật nên cung Tật ách đứng ở vị trí thứ tám. Thiên di là chỉ tất cả những thứ ở bên ngoài cuộc sống của chúng ta nên đứng ở vị trí thứ chín. Quan lộc là thứ mà trời ban tặng, rất cần thiết với vận mệnh nên đứng ở vị trí thứ mười. Cung thứ mười một là cung Phúc đức. Phúc đức là sự an hưởng của con người. Phụ mẫu (hay còn gọi là cung Tướng mạo) có nguồn gốc từ cha mẹ sinh ra, đứng ở vị trí thứ mười hai.
Các cung Phụ mẫu, Phúc đức, Quan lộc được hình thành từ trời nên thường đứng trước cung Mệnh.
Các cung Tài bạch, Huynh đệ, Điền trạch thường ẩn dưới đất nên đứng ở phía sau.
Các cung Thiên di, Tật ách, Phu thê đều có hạn số chặt chẽ, như Thái dương quá Ngọ nên có Phụ mẫu mà sau gặp Phúc đức, có Phúc đức mà sau gặp Quan lộc, có Quan lộc mà sau gặp Thiên di, có Thiên di mà sau gặp Tật ách. Từ Phụ mẫu đến Tật ách đều là chỗ nhật nguyệt thích thăng lên mà ghét bị chìm xuống. Có Tài bạch mà sau có Huynh đệ, có Huynh đệ mà sau có Điền trạch, có Điền trạch mà sau có Tử nữ, có Tử nữ mà sau có Nô bộc. Từ Tài bạch đến Nô bộc đều là nhật nguyệt chuyển vòng sang phải mà phân bố. Cho nên 12 cung đủ để phản ánh hết những chuyển biến của cuộc sống con người. Được mang thân mệnh là nam hay nữ (Tử nữ), có được Huynh đệ hòa lạc, Phu thê và Nô bộc hòa mục. Phúc đức của con người thật khó có được.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
---------------------------------------
Tướng tùy tâm chuyển, mệnh do trời định
Suy nghĩ trong lòng đều có thể hiển thị qua tướng, sự biểu hiện bên ngoài đều phản ảnh nội tâm, tâm thiện thì ánh mắt hiền từ, tâm xấu thì ánh mắt hung ác, mặt nhiều nếp cơ nhăn dọc ngang không vất vả thì cũng là người có tâm không tốt.
"Thiên" là chỉ vũ trụ hoặc điều kiện của thế giới tự nhiên mà con người sinh sống. Điều kiện tự nhiên đó thường không giống nhau dẫn đến hoàn cảnh sống khác nhau, như người ở Đài Bắc và Cao Hùng không đồng nhất với nhau, vùng nông thôn và thành thị có hoàn cảnh khác nhau. Vì hoàn cảnh sống khác nhau nên hạnh phúc và mức độ hưởng thụ cuộc sống cũng không thể giống nhau được.
Mệnh tốt không bằng vận tốt, vận tốt chẳng bằng cơ hội tốt, cơ hội chính là "duyên", sự tổ hợp giữa không gian và thời gian là cơ duyên. Cho nên con người cần phải biết nắm lấy và vận dụng như thế nào cho hợp lý. Người "tri thiên mệnh" chính là có thể hiểu và nắm bắt được cơ duyên. Vậy khi nào và vị trí nào thi cơ duyên diễn ra, đây chính là mục đích để chúng ta nghiên cứu mệnh lý.
Biết thiên mệnh chẳng bằng, việc hiểu rõ bản thân mình, đây chính là điểm quan trọng. Thân nặng hơn mệnh mà vận lại nặng hơn thân. Mệnh là Tiên thiên, thân thuộc vào Hậu thiên. Từ xa xưa con người sống trong hoàn cảnh tự nhiên và xã hội đều khó tránh khỏi quy luật: Trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng.
(Tử vi đẩu số giải mã đời người - Phan Tử Ngư)
---------------------------------------
Trước nghèo sau giàu, trước giàu sau nghèo
Rất nhiều người trong mệnh bàn có cát tinh và hung tinh đồng cung thì không phân biệt được thế nào là tốt, thế nào là xấu? Cung Mệnh có cát tinh lại có hung tinh là biểu thị người đó trước nghèo sau giàu, hoặc là trước giàu sau nghèo.
Vậy làm thế nào để phân biệt được trước nghèo sau giàu, hoặc là trước giàu sau nghèo?
Khi đó cần phải xem mệnh này sau đại hạn có hung tinh hay cát tinh? Nếu sao sau đại hạn là cát tinh thì anh ta trước nghèo sau giàu. Ngược lại nếu sao sau đại hạn là hung tinh thì anh ta trước giàu sau nghèo.
Cung Phúc đức của mệnh nữ có thể xem được sự quý tiện. Cung Mệnh không tốt, cung Phúc đức tốt thì trước nghèo sau giàu, ngược lại cung Phúc đức không tốt thì trước giàu sau nghèo.
Ví dụ về mệnh nữ trước giàu sau nghèo như sau:
Mệnh này có Tử vi, Thiên tướng, Hữu bật tọa Mệnh, là bậc quý phu nhân, dung mạo xinh đẹp, thích đồ cao cấp. Mệnh nữ rất ưa có Hữu bật tọa thủ cung Mệnh, tiếc là mệnh này có Thất sát độc thủ cung Phúc đức. Sách xưa có câu: "tiện vô dị" (không gì ngoài sự nghèo), lại có Tham lang tọa thủ cung Phu thê, về sau sinh ly tử biệt, tuy có gia đình mỹ mãn nhưng không biết đủ, ra ngoài ăn chơi, tìm người lắm tiền có thể cung phụng cho cô ta hưởng thụ, thật không biết năm tháng vô tình, ngày ngày trôi qua, năm lại tiếp năm. Nay đã 36 tuổi, nhạt phấn phai hương, thay đổi nhân tình, cùng chung sống một thời gian lại có mới nới cũ, người này bần cùng rồi thì lại muốn tìm người khác lắm tiền hơn. Khi đại hạn có sát tinh, ví dụ như đại hạn 32 - 41 tuổi có Linh tinh, Thiên không; đại hạn 42 - 51 tuổi có Dương nhẫn; đại hạn 52 - 61 tuổi có Hỏa tinh; đại hạn 62 - 71 tuổi có Đà la, vận mệnh ngày càng đi xuống, cảnh già thật đáng thương.
Lại nói, mệnh nữ tối kỵ cung Phu thê và cung Tử nữ có sát tinh, ắt có sự thương tâm tràn lệ. Nếu cung Phu thê không có sát tinh nhưng cung Tử nữ có Địa không, Linh tinh thì người đó với con cái duyên phận mỏng bạc; lại có Vũ khúc, Thiên phủ tọa cung Tài bạch ắt phát tài lớn, tiếc là có Dương nhẫn đồng cung nên tài của không tụ mà còn vì của cải mà chịu thương tổn.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
----------------------------------------
Vạn vật tương sinh tương khắc
Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo nguyên tắc tương sinh, tương khắc, "khắc" ở đây ý là khắc chế. Dưới đây đưa ra một vài hiện tượng kỳ lạ để thuyết minh:
Rắn gặp rết sẽ tự động mở rộng miệng để cho rết tiến vào trong miệng. Cho nên rắn tuy đáng sợ nhưng rết có thể khắc nó.
Ếch gặp rắn sẽ bị rắn "hút vào trong", nên nhớ rắn ăn ếch là dùng phương phá "hút".
Sau khi rắn chết, xương của nó không dễ tiêu hủy, nhưng ếch lại thích tiểu lên trên xương rắn. Xương rắn gặp nước tiểu của ếch lập tức hóa, vì sao vậy? Là vì nước tiểu của ếch khắc chế xương rắn.
Chúng ta nếu như bị rết cắn bị thương, chỉ cần bôi nước dãi của gà lên sẽ khỏi. Tại sao bôi nước dãi của vịt lại không khỏi, nước dãi của người cũng không khỏi, nguyên nhân là vì nước dãi của gà khắc chế rết.
Chuột ở trên xà nhà, mèo ở dưới xà nhà, mèo ở dưới xà nhà chỉ kêu "meo meo" 1 tiếng thì chuột đã sợ hãi 4 chân run rẩy mà rơi xuống. Điều này chúng ta có thể gọi là "uy của mèo", tại sao người và chó cũng làm như vậy mà chuột không rơi xuống? Nguyên nhân bởi vì mèo khắc chế chuột.
Lại ví dụ, chúng ta e ngại trước bọn lưu manh, xã hội đen là bởi vì họ là những kẻ liều mạng, hung hãn tàn bạo. Chúng ta không dám gây sự với chúng, nhưng tại sao những kẻ đầu trộm đuôi cướp, tai to mặt lớn vẫn bị người ta đánh đập, có thể thấy cũng sẽ có người khắc chế lưu manh.
Có người sợ án thịt mỡ, có người lại thích ăn thịt mỡ.
1 vật sợ 1 vật, 1 vật kỵ 1 vật, 1 vật khắc 1 vật, đây là nguyên lý sinh khắc của vạn vật trong vũ trụ.
Ví dụ thực tế về việc vợ chồng tương khắc như sau:
Ông A và bà B trước khi đính hôn, theo phong tục trước tiên đem bát tự hợp hôn hỏi người đoán mệnh, người đoán mệnh nói: Mệnh của hai người này có thể tương phối, nhưng sau 25 nữa thì vợ chồng tương khắc, một trong hai người sẽ qua đời. Cha mẹ hai bên lúc này vì quen biết mà hứa hôn, vẫn cho phép hai người lấy nhau, vậy chuyện của 25 năm sau thế nào?
Thòi gian trôi qua, một năm nọ, ông A bị bệnh bướu cổ dùng Đông y hay Tây y cũng không khỏi, mà khi đó, bà B không biết mắc bệnh gì mà toàn thân nổi phù, ngày nào cũng chỉ nằm trên giường uống thuốc mà không thấy thuyên giảm. Tình trạng này kéo dài hơn một tháng thì ông A qua đời, điều kỳ lạ là ngay sau đó bà B khỏi bệnh, bà ấy cuối cùng cũng xuống được giường trị liệu để làm tang sự cho chồng. Lời tiên đoán sau khi kết hôn được 25 năm quả nhiên ứng nghiệm.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
----------------------------------
Số phận chẳng phải do mình
Trên thực tế có nhiều người đặt ra những mục tiêu, kết quả đều không được như vậy. Nguyên nhân là vì có rất nhiều việc sẽ biến hóa ngoài ý muốn, không phải tất cả mọi việc sẽ tuân theo chủ ý của con người.
Ví dụ về trưòng hợp của ông V, năm Dân quốc thứ 68 mua được 1 căn phòng và tốn rất nhiều tâm huyết để thiết kế, bố trí, ví dụ như rèm của sổ dùng lụa trắng, lại in thêm hoa văn trúc biếc trên nền trắng khiến cho người ta cảm nhận được luồng khí tươi mát, hơn nữa lại có thể tiêu trừ sự mệt mỏi. Ông ấy vốn nghĩ được sống yên ổn ở đây trong những tháng ngày cuối đời, nào ngờ ý trời không như ý người, năm Dân quốc thứ 71 do điều kiện công tác phải chuyển đến nơi khác. Tạm thời ở trong nhà người em, hằng ngày đọc báo, xem quảng cáo tìm nhà, có nhà thì địa điểm không đẹp, có nhà thì môi trường xung quanh không tốt, lại có nhà thì tiền thuê quá đắt, có nhà lại không có điện thoại. Sau 1 tháng tìm nhà mà vẫn không có kết quả.
Một hôm, ông xem quảng cáo và đến một căn hộ vốn là của một doanh nhân, hiện tại vì công việc kết thúc nên quyết định nhượng lại. Do giá nhà có phần hơi cao nên ông còn do dự chưa quyết. Lúc ấy những người đến xem nhà còn có 2 người, ông V lại lo lắng bị người khác thuê mất nên đành phải đưa tiền, ngày thứ 2 chuyển đến.
Sau khi chuyển đến mới phát hiện ở đây đối diện với một trường tiểu học nên ông rất lo ngại vấn để tiếng ồn ảnh hưồng đến cuộc sống. Nhưng đã đến rồi thì phải ở, hợp đồng đã ký nên không thể thay đổi quyết định.
Một ngày, ông V nhờ thầy mệnh lý nghiên cứu mệnh bàn của mình mới phát hiện đại hạn ở cung Điền trạch có Văn xương, Văn khúc, định là phải ở gần trường học, thật đúng là "số phận chẳng phải do mình".
Lại có vốn đê thú vị là, đại hạn 56 - 65 tuổi đi đến Thiên phủ, Tả phù cung Điền trạch trên mệnh bàn có Thái dương, Cự môn chủ về chuyển nhà, lần này nhất định là sẽ ở nhà lầu hoặc ven núi hoặc bên cạnh đường tàu hỏa. Mệnh này cuộc đời giống như chiếc thuyền lưu động trên mặt nước, không có cách nào giữ thuyền yên được, đó là "theo dòng nước mà trôi".
Từ đó có thể thấy, cuộc đời chúng ta, mọi việc đều đã được an bài sẵn, nhưng bằng lòng quyết tâm thì tự mình vẫn có thể làm chủ được.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
----------------------------------------
Sự thú vị của tướng mạo
Tử vi đẩu số có thể xem về tướng mạo của con người, ở đây đưa ra ví dụ về ông P. Ông P sinh được 1 người con trai nên nhờ thầy đoán mệnh và chọn tên cho con. Ông P có khuôn mặt dài, nhưng con trai ông ấy có Thái dương tọa ở cung Mệnh, do đó có thể đoán định đứa con này của ông khuôn mặt không giống cha mà có khuôn mặt tròn rất đáng yêu. Ông P vô cùng ngạc nhiên và hết sức cảm phục vì đoán định chính xác này. Căn cứ vào di truyền học, con trai ông ấy đáng lẽ phải giống cha là có khuôn mặt dài nhưng do mệnh bàn có Thái dương tọa ở cung Mệnh nên có khuôn mặt tròn rất đáng yêu.
Vậy làm thế nào để nghiên cứu tướng mạo của một người?
Nên căn cứ vào các bước sau:
Căn cứ vào các sao tọa ở cung Mệnh và cung Thân của họ để nghiên cứu phán đoán.Căn cứ vào các sao toa ở cung Phụ mẫu trên mệnh bàn của họ để nghiên cứu, phán đoán (sách xưa gọi cung Phụ mẫu là cung tướng mạo).Căn cứ vào tổ hợp các sao trên mệnh bàn của họ để nghiên cứu, phán đoán.Căn cứ vào phương vị của các sao trên mệnh bàn của họ để nghiên cứu, phán đoán.
Phàm trên mệnh bàn có các sao sau tọa ở cung Mệnh, cung Thân, cung Phụ mẫu thì người này khi trưởng thành rất anh tú, xinh đẹp, mày thanh mắt tú, môi hồng răng trắng.
Thái dương, Thái âm, Thiên đồng, Thiên tướng, Thiên khôi, Thiên việt, Tử vi, Văn xương, Văn khúc, Tả phù, Hữu bật, Thiên cơ, Thiên phủ, Lộc tồn, Thiên diêu, Hồng loan, Thiên hỷ, Thiên phúc, Thiên quý, Thiên tài.Văn xương, Văn khúc và Thiên khôi hoặc Thiên việt đồng cung, sách xưa gọi là "bất độc thi thư dã khả nhân" (không học hành gì cũng giỏi giang).Mệnh nữ có Thiên đồng, Thái âm tọa ở Tý địa.Mệnh nữ có Thiên đồng tọa ở Tị địa và Hợi địa.Thiên cơ, Thái âm đồng cung ở Dần địa và Thân địa.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
--------------------------------------
Liệu bạn có phát tài?
Thường nói rằng: Đại phú do mệnh, tiểu phú do tiết kiệm. Nhưng có những người tiết kiệm, chi ly từng chút mà cả đời cũng không thể phát tài, do đó có thể thấy thực tế việc phát tài còn do mệnh.
Làm thế nào để phát tài? Có người cung Tài bạch trong mệnh bàn có cát tinh tọa thủ cho nên cả đời nhiều tài lộc. Mà công dụng của Tử vi đẩu số chính là nói cho bạn biết, bạn nên làm việc gì thì có thể phát tài?
Thiên tướng tọa cung Tài bạch: Nên kinh doanh vỉa hè.Thiên lương tại cung Tài bạch: Tại miếu địa chủ đại phúc, tại hãm địa chủ vất vả.Tham lang tại cung Tài bạch: Nên mở quán cơm, tiệm ăn, khu vui chơi, phòng trà, kỷ viện.Thiên cơ tại cung Tầi bạch: Nên buôn bán.Thiên đồng tại cung Tài bạch: Nên kế thừa sản nghiệp cha ông.Liêm trinh tại cung Tài bạch: Mệnh nữ kết hợp với nhà chồng buôn bán hoặc gia công.Phá quân tại cung Tài bạch: Miếu địa chủ đại phúc.Cự môn tại cung Tài bạch: Hợp với làm bảo vệ, nhân viên bán hàng, giáo viên.Dương nhẫn tại cung Tài bạch: Vũ khúc, Thất sát, Tử vỉ, Thiên phủ cùng chầu về sẽ được đại phú.Tà phù, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt: Dựa vào người khác mà được thành công, cho thuê phương tiện.Văn xương, Văn khúc tại cung Tài bạch: Hợp với kinh doanh đồ dùng văn phòng phẩm, văn nghê, đồ họa, nghệ thuật, triển lãm tranh, đồ đồng và bia đá cổ, khắc in, trang sức, thợ may.Linh tinh tọa thủ cung Tài bạch thiên về của cải, nhưng không hợp giữ cho riêng mình.Thất sát tọa thủ cung Tài bạch nhanh phát nhưng cũng nhanh bại.
Ngoài việc xem cung Tài bạch thì cung Điền trạch cũng là nơi chứa tiền tài, cho nên cung Điền trạch cũng cần liệt kê để tham khảo, quan hệ của nó như sau:
Cung Mênh, Tài bạch, Phức đức đểu tốt nhưng cung Điền trạch không tốt; tài tuy vượng nhưng cuối cùng khó giữ.Cung Phúc đức vượng, cung Tài bạch nhược, cung Điền trạch vượng, chủ vất và kiếm tiền nhưng có thể tích tiểu thành đại, có thể tích trữ được.Cung Phúc đức nhược, cung Tài bạch vượng, cung Điền trạch vượng, vì cần kiệm mà thành nghiệp.Cung Phúc đúc và cung Điền trạch đều nhược, cung Tài bạch vượng, cuối cùng vẫn là mệnh khốn cùng.Cụng Tài bạch và cung Điền trạch đều nhược, cung Phúc đức vượng, tuy tiền bạc đến tay cuối cùng cũng mất hết, giống như tài thần qua đường vậy.
Cung Tài bạch và cung Phúc đúc không ưa có sao Hồng loan, Thiên hỷ, chủ về mệnh ham đầu cơ, cờ bạc, kết quả tiền bạc cũng không giữ được.
Cô thần, Quả tú nhập cung Tài bạch: Cuối cùng khó tránh phá sản.
Quan hệ giữa cung Phúc đức với cung Tài bạch như sau:
Cung Phúc đức vượng, cung Tài bạch tốt: Đại phúCung Phúc đức vượng, cung Tài bạch không tốt: Không giữ được tiền tài.Cung Tài bạch vượng, cung Phúc đức không tốt: Tiền tài đến tuy nhiều nhưng cuối cùng vẫn không thành nghiệp lớn.Cung Phúc đức không tốt, cung Tài bạch không vượng: Bần cùng
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
--------------------------------
Duyên phận phu thê
Dân gian có câu: "Cùng thuyền cùng vượt là có duyên phận 500 năm", huống hồ là vợ chồng? Vợ chồng có duyên nợ ba kiếp, "một ngày làm vợ chồng, ân nghĩa trăm năm". Nhưng những người có quan niệm như vậy hiện nay còn rất ít, quan hệ vợ chồng đôi khi biến thành thù địch. Xét về nguyên nhân không ngoài những điều dưới đây:
Một trong hai người cá tính mạnh mẽ cố chấp, không biết tha thứ cho đổi phương hoặc không biết chiều lòng đối phương.Không biết tự xét lỗi bản thân, trái lại còn oán trách đối phương.Coi thường đối phương, hoặc ngược đãi đối phương.Chỉ nhìn thấy khuyết điểm của đối phương mà không chú ý đến ưu điểm của họ. Con người chẳng phải là thần thánh, không ai tránh khỏi lỗi lầm? Nên tán thưởng những điểm tốt đẹp của đối phương mà nên bao dung với những thiếu sót của họ.
Trong Tử vi dẩu số việc xem về quan hệ vợ chồng tương đối đơn giản:
Phàm cung Phu thê có Tham lang, Phá quân, Cự môn, Tả phù, Hữu bật, Linh tinh, Hỏa tinh, Đà la, Dương nhẫn, Địa kiếp, Địa không; hoặc có tổ hợp sao Thiên cơ, Cự môn; Vũ khúc, Phá quân; Vũ khúc, Thiên tướng; Liêm trinh, Thất sát; Liêm trinh, Phá quân; Liêm trinh, Tham lang, vợ chồng đều không thể bách niên giai lão; lại có 3 cung trước đại hạn có những sao đã kể trên cũng dễ dẫn đến cách cục chia tay.
Nếu như vợ chồng đã đến mức không thể không chia tay thì đau một lúc còn hơn đau cả đời, càng ly hôn sớm càng tốt, nếu để muộn e sẽ làm ảnh hưởng đến đối phương "Trong thiên hạ không có bữa tiệc nào mà không tàn", người kia nên sớm liệu trước tương lai, tự tìm hạnh phúc.
Răng của chúng ta sẽ có lúc cắn phải đầu lưỡi mình, cho nên vợ chồng mâu thuẫn là điều khó tránh khỏi, nhưng cần dựa vào thái độ của nhau mà nhưòng nhịn hóa giải mọi chuyện. Dưới đây chính là một số thái độ nên có của vợ chồng:
Trong cơn nóng giận không nên nói lời cay nghiệt, làm tổn thương đối phương mà nên chú ý giữ bình tĩnh, sau khi nội tâm an định có thể hóa giải mọi mâu thuẫn, tìm được tiếng nói chung.Không nôn làm kho hoặc trêu tức đối phương.Tránh xô xát.Không nên dừng lời lẽ cay độc nhục mạ đối phương.Gặp lúc đối phương có phần vô lý thì cần tìm hiểu nguyên nhân để có cách xử lý thỏa đáng, nên nhớ nguyên tắc "dĩ hòa vi quý".Vợ chồng nên cùng nhau bồi dưỡng những sở thích chính đáng như sưu tập tem, đọc tiểu thuyết, xem phim ...Nếu như vợ chồng kết hôn đã lâu mà không sinh con nên tìm thầy chữa bệnh hoặc nhận con nuôi, bởi vì có một đứa trẻ đáng yêu sẽ tăng thêm không khí hạnh phúc của gia đình, cũng có thể tăng thêm trách nhiệm đối với gia đình của cả hai bên.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
-------------------------------------
Tránh bị "tẩu hỏa nhập ma" mà làm điều sai trái
Tử vi đẩu số rất uyên thâm, thú vị, cũng rất vi diệu. Nhưng chỉ đáng tiếc là những điều then chốt trong Tử vi đẩu số trước kia chưa được trình bày một cách rõ ràng. Vì thế, Tử vi đẩu số được người đời sau lưu truyền, thiếu sót không đầy đủ, kỳ thực trong đó có rất nhiều ẩn ý khó giải thích.
Nói về Tử vi đẩu số, bạn có thể tùy theo ý muốn mà sử dụng. Nếu như bạn là người tốt hoặc ứng dụng vào phương diện tốt, như vậy không có gì để nói, nhưng nếu như bạn là người xấu hoặc ứng dụng vào việc xấu, vậy hậu quả là không thể lường được.
Ví như một người trên người chỉ có 50 USD liền dựa vào Tử vi đẩu số mà có lộ phí và có thể đi khắp 6 châu lục, sau đó tới Đông Bắc Mỹ.
Lại có một thương nhân, ban đầu chỉ có 25 tờ chi phiếu, nhưng chớp mắt chi phiếu đã đáo hạn, trong ngân hàng cũng không có một khoản tiền tiết kiệm nào. Ông găp khó khăn về tài chính, bị thua kiện, bị đòi tiền phạt, thậm chí là sẽ phải ngồi tù. Lúc này ông ta liền dựa theo Tử vi đẩu số nhờ cậy họ hàng có quyền thế nên lấy lại được những chi phiếu đã mất.
Lại nói, nếu như có một người muốn truy cứu tội danh của người khác. Dựa theo Tử vi đẩu số có thể đoán ra lúc nào có thể truy cứu. Nhưng nếu phương pháp này bị kẻ xấu học được, vậy thì hậu quả là rất khó lường.
Nếu như một tên trộm nào đó cũng lợi dụng Tử vi đẩu số để tính toán giờ nào nên ra tay hành động, giờ nào không nên xuất đầu lộ diện, như vậy há chẳng phải sẽ ảnh hưởng đến vấn để trị an của xã hội hay sao?
Vậy nên, hy vọng rằng các độc giả có hứng thú với Tử vi đẩu số không nhất thiết cử phải học đến một trình độ nào đó, nếu không thì dễ "tẩu hỏa nhập ma", đến lúc đó thì e rằng sẽ "hại người mà cùng hại mình", như vậy chẳng phải là tội lỗi hay sao?
Về điểm này hy vọng các bạn hãy suy nghĩ kỹ trước khi bắt tay vào làm.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)
--------------------------
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip