★ CHAPTER 19
Chấp nhận.
Việc ấy dễ hơn Wallace tưởng.
Dù hắn đã cảm thấy thế nào trước khi gặp Quản Lý, dù hắn cam chịu với những gì, tình trạng ấy không hề giống bây giờ.
Đầu hắn giờ đã thanh tỉnh.
Hắn không nghĩ cái mình đang cảm nhận là sự thanh thản, ít ra là chưa phải. Hắn vẫn còn sợ. Dĩ nhiên là vậy rồi. Những điều chưa biết luôn khiến con người ta sợ hãi. Cuộc đời hắn, những gì đã từng diễn ra, đều được tổ chức một cách nghiêm ngặt. Hắn thức dậy. Hắn đi tắm. Hắn mặc quần áo. Hắn uống hai tách cà phê dở tệ. Hắn đi làm. Hắn gặp đối tác. Hắn gặp khách hàng. Hắn ra tòa. Hắn chưa bao giờ là kiểu người thích diễn kịch. Chỉ là sự thật thôi, thưa bà. Hắn thấy thoải mái khi đứng trước thẩm phán. Trước bên đối lập. Hầu như hắn đều thắng. Đôi khi thì không. Có thăng thì cũng có trầm, có lui binh và có vinh quang. Khi hắn về tới nhà thì một ngày đã trôi qua từ lâu. Hắn ngồi trước ti vi ăn bữa tối đông lạnh. Nếu hắn cảm thấy đặc biệt ăn chơi, hắn sẽ uống một ly vang. Rồi hắn sẽ vào văn phòng ở nhà và làm việc tới đêm. Khi xong việc, hắn sẽ tắm lần nữa rồi lên giường.
Hết ngày này qua ngày khác.
Đó là cuộc đời mà hắn quen thuộc. Cuộc đời hắn sống một cách thoải mái, cuộc đời hắn tự tạo dựng cho bản thân. Ngay cả sau khi Naomi ra đi và hắn cảm thấy như tất cả đang sụp đổ, hắn vẫn giữ vững đời mình chỉ bằng sức mạnh của ý chí. Thiệt cho cô ta thôi, hắn tự nhủ. Là lỗi của cô ta mà.
Hắn đã chấp nhận cuộc đời ấy.
“Anh là một gã da trắng,” thư ký của hắn đã nói với hắn như vậy ở tiệc Giáng Sinh của công ty, má cô ta đỏ bừng sau bao nhiêu ly Manhattan. “Anh sẽ thăng tiến thôi. Sẽ luôn là vậy.”
Hắn khiến cô ta giật mình khi bật cười ầm ĩ. Bản thân hắn cũng có chút chuếnh choáng. Cô nàng có lẽ chưa bao giờ thấy hắn cười trước đó.
Giá như cô ta thấy được hắn lúc này.
Ở đây, ở Bến Đò Charon với ba ngày còn lại tới khi Quản Lý quay lại, Wallace chạy ngang dọc sân sau khi màn đêm dần nhường chỗ cho mặt trời đang mọc, Apollo đuổi theo hắn như kiểu chơi đuổi bắt, vui vẻ sủa lên. Trong giây lát Wallace lo rằng họ sẽ làm ảnh hưởng đến đám cây trà, nhưng hắn và Apollo đã chết rồi. Đám cây sẽ không bị quấy phá nếu hắn không muốn vậy.
“Bắt được mày rồi nhé,” hắn hô lên, mấy ngón tay niết đầu Apollo rồi lại vùng chạy.
Hắn cười phá lên khi Apollo nhảy lên người mình, chân đạp lên lưng, đẩy hắn ngã sóng xoài. Hắn chạm đất cái bịch và kịp lăn ngửa ra để mặt mình bị liếm một cách ngoạn mục. “Ặc!” hắn kêu lên. “Hơi thở mày hôi quá.”
Apollo có vẻ như chẳng hề để bụng chuyện ấy.
Wallace cho phép chú chó tiếp tục liếm mặt mình thêm lát nữa rồi đẩy nó xuống. Apollo nhún hai chân trước xuống, tai giật giật, sẵn sàng chơi tiếp.
“Cậu có từng nuôi chó không?” Nelson hỏi hắn từ chỗ đang ngồi trên thềm sau nhà.
Wallace vừa lắc đầu vừa chống tay đứng dậy. “Quá bận. Nuôi chó mà chỉ để vắng nhà phần lớn thời gian trong ngày thì có vẻ hơi ác. Đặc biệt là ở trong thành phố.”
“Khi cậu còn bé thì sao?”
“Cha tôi bị dị ứng. Chúng tôi có một con mèo, nhưng con mèo ấy khốn nạn lắm.”
“Lũ mèo thường vậy. Đứa này ngoan lắm. Ta đã lo lắng, khi chúng ta biết nó sắp đi rồi. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra với chó khi chúng qua đời. Chúng mang theo một phần linh hồn của chúng ta khi ra đi. Ta tưởng... ta không biết việc ấy sẽ ảnh hưởng thế nào tới Hugo.” Ông cụ hất cằm về phía vườn trà. “Vào những ngày cuối, Apollo hầu như không đi được. Hugo đã phải lựa chọn một cách khó khăn. Cứ mặc nó sống như vậy, trong đau đớn, hay tặng nó món quà cuối cùng. Quyết định đó dễ dàng với thằng bé hơn ta tưởng. Thú y tới đây, và họ trải một tấm chăn ra trong vườn. Việc ấy cũng nhanh thôi. Hugo nói lời tạm biệt. Apollo mỉm cười theo cách của loài chó, như thể nó biết chuyện gì đang diễn ra. Nó hít một hơi, rồi một hơi, rồi lại một hơi nữa. Và rồi... nó không thở nữa. Mắt nó nhắm lại. Thú y nói vậy là xong rồi. Nhưng cậu ta không thấy được những gì chúng ta thấy.”
“Chú chó vẫn còn đó,” Wallace nói khi Apollo dụi đầu lên đầu gối hắn, cố gắng khiến hắn chạy tiếp.
“Đúng vậy,” Nelson gật gù. “Tràn trề sinh lực như thể tất cả những bệnh tật và gánh nặng của cuộc sống đã bay biến. Hugo thử dẫn nó lên cánh cửa kia, nhưng Apollo từ chối siêu thoát. Cứng đầu thật, cái thằng bé này.”
“Nghe khá giống một người tôi quen đấy.”
Nelson bật cười. “Chắc vậy, dù chúng ta cũng có thể nhận xét tương tự về cậu.” Nụ cười của ông nhạt đi. “Hoặc ít ra là từng có thể. Wallace, cậu không phải—”
“Tôi biết chứ,” Wallace nói. “Nhưng tôi có lựa chọn nào đâu?”
Nelson giận dữ gõ gậy lên thềm. “Cậu có mọi lựa chọn trên đời. Quản Lý cho cậu cái hạn chót không có nghĩa là chúng ta phải tuân thủ theo đó. Thằng cha đó không thể ép cậu làm gì hết.”
Wallace nhớ lại cảm giác quyền lực lạ kỳ và khủng khiếp tỏa ra từ thằng bé cài hoa trên tóc. “Tôi nghĩ ông ta có thể đấy, nếu ông ta thật sự muốn vậy.”
“Đây có phải điều cậu muốn không?”
“Tôi không biết nữa,” Wallace thú nhận, “Tôi không giống cụ. Hugo là cháu cụ. Cụ có mọi lý do để muốn ở lại.”
“Còn cậu thì không à?” Mắt ông cụ liếc xuống ngực Wallace.
“Kề cả tôi có lý do, thì cũng chẳng quan trọng gì.”
Nelson im lặng một lúc lâu, và suýt nữa thì Wallace thuyết phục được bản thân rằng cuộc trò chuyện này đã kết thúc. Nhưng không. Nelson mỉm cười buồn bã và nói, “Chẳng bao giờ là đủ, phải không? Thời gian ấy. Chúng ta luôn nghĩ mình có rất nhiều thời gian, nhưng vào những lúc thật sự quan trọng, chúng ta hoàn toàn chẳng có đủ.”
“Chúng ta phải tận dụng nó thôi,” Wallace nói khi Apollo nhảy cỡn lên quanh mấy cây trà. “Chúng ta làm những việc có thể làm với những gì mình có?”
“Như vậy có đủ không?”
Wallace nhún vai. “Tôi không biết nữa. Chắc là cũng phải đủ thôi, phải không?”
Nelson không trả lời hắn.
✽
Hắn dành cả ngày trong bếp với Mei. Hắn đã hồi phục sau cuộc gọi hồn với Nancy, đủ để có thể lấy những khay bánh ra khỏi lò và xách ấm xuống khỏi mặt bếp. Nếu có ai nhìn qua ô kính, họ sẽ thấy một đống dụng cụ làm bếp trôi lơ lửng trong không trung một cách vô cùng thong thả.
“Tại sao mọi người không đơn giản là đun nước trong lò vi sóng?” hắn hỏi, rót nước vào trong một ấm trà.
“Ôi trời ơi,” Mei nói, “Đừng bao giờ để Hugo nghe thấy anh nói vậy. Không, biết gì không? Tôi đổi ý rồi. Cứ bảo anh ấy đi, nhưng hãy đảm bảo rằng tôi có mặt ở đó khi anh nói vậy. Tôi muốn thấy biểu cảm trên mặt anh ấy.”
“Sẽ không vui vẻ cho lắm, hở?”
“Nói giảm nói tránh đấy. Pha trà là một công việc nghiêm túc, Wallace ạ. Anh không đun nước pha trà trong lò vi sóng chết tiệt được đâu. Phải sang lên chứ anh bạn ơi.” Cô bưng khay trà Wallace chuẩn bị nãy giờ và bước lùi ra cửa. “Nhưng thật đấy, bảo anh ấy đi. Tôi muốn quay lại phản ứng của anh ấy.” Hai cánh cửa bật khép lại sau lưng cô.
Hắn tới chỗ ô kính, nhìn ra ngoài tiệm trà. Tiệm vẫn đông khách như mọi khi. Đám người nghỉ ăn trưa đã tới, và hầu hết các bàn đều kín chỗ. Mei di chuyển một cách điệu nghệ qua đám đông rồi đặt khay trà lên một bàn. Hắn liếc ra góc đối diện. Bàn của Nancy đang trống. Hắn không ngạc nhiên. Hắn nghĩ bà sẽ quay lại đây thôi, nhưng có lẽ cho tới khi hắn đi thì không. Hắn không biết liệu những gì họ làm đã đủ chưa. Hắn không ngu ngốc đến mức nghĩ rằng mình đã khiến nỗi đau của bà nguôi ngoai, nhưng hắn hy vọng rằng ít ra bà sẽ có một cơ sở để bắt đầu gây dựng lại cuộc sống nếu muốn.
Hugo đứng sau quầy thu ngân, mỉm cười dù nụ cười trông thật xa xăm. Sáng hôm đó anh khá im lặng, như thể đang đắm chìm trong suy tư. Wallace không muốn thúc ép. Hắn để Hugo được yên.
Cửa trước tiệm trà mở ra, và một cặp đôi trẻ bước vào, tóc rối tung vì gió, mắt sáng lấp lánh. Họ từng tới đây trước kia, chàng trai đã nói rằng đó là cuộc hẹn thứ hai của họ, trong khi thật ra đó là lần thứ ba. Chàng trai giữ cửa mở cho bạn gái mình, và cô gái bật cười khi anh chàng hơi cúi mình. Ngay cả qua tiếng người xôn xao, Wallace vẫn nghe được cậu ta nói gì. “Mời em, nữ hoàng của tôi.”
“Anh kỳ quá à,” cô nàng âu yếm nói.
“Chỉ dành những điều tốt đẹp nhất cho em thôi.”
Cô gái nắm lấy tay chàng trai, kéo cậu tới trước quầy. Cậu hôn lên má cô và cô gọi đồ cho cả hai người.
Và Wallace đã biết việc tiếp theo hắn cần làm với khoảng thời gian còn lại.
✽
“Anh có chắc không đấy?” Hugo hỏi sau khi tiệm trà đã đóng cửa buổi tối. Wallace đã thỉnh cầu Mei và Nelson cho họ chút thời gian riêng tư. Họ đã đồng ý, dù lông mày Nelson ngọ nguậy ra vẻ gợi ý trong khi Mei kéo ông cụ vào bếp, Apollo tung tăng đi theo họ.
“Chắc chứ,” Wallace nói. “Gần như là vậy.”
“Anh không phải làm việc này đâu.”
“Có lẽ vậy. Nhưng tôi nghĩ là tôi cần. Nếu anh không giúp được, tôi có thể gọi Mei—”
Hugo lắc đầu. “Không. Tôi sẽ làm. Anh muốn tôi nói gì?”
Wallace nói với anh. Những lời ấy ngắn gọn và đơn giản. Hắn không nghĩ như vậy là đủ. Hắn không biết phải nói thêm điều gì.
Nếu hắn vẫn còn một trái tim đang đập, hắn nghĩ nó sẽ vọt lên tận họng lúc Hugo bật loa ngoài sau khi đã bấm số điện thoại Wallace cho anh. Hắn không biết liệu có ai nhấc máy không. Đây sẽ là một dãy số lạ xuất hiện trên màn hình điện thoại của cô, và cuối cùng cô hẳn sẽ lờ cuộc gọi này đi như hầu hết những người khác.
Cô đã nhấc máy.
“Xin chào?”
Hugo nói, “Tôi có thể nói chuyện với Naomi Byrne được không?”
“Là tôi đây. Xin hỏi ai đang gọi đấy?” Những chữ cuối câu nghe bé hơn, và Wallace biết cô đang giơ điện thoại ra xa để nhìn số người gọi, vừa nhìn vừa cau mày. Hắn có thể thấy cô rõ như ban ngày trong đầu.
“Chào cô Byrne, tên tôi là Hugo. Cô không quen tôi, nhưng tôi quen chồng cô.”
Một khoảng lặng dài. “Chồng cũ chứ,” cuối cùng cô nói. “Nếu ý anh là Wallace.”
“Đúng vậy đấy.”
“Chà, tôi rất tiếc vì phải là người báo cho anh tin này, nhưng Wallace đã qua đời vài tháng trước rồi.”
“Tôi biết mà,” Hugo nói.
“Anh... biết rồi ư? Anh dùng thì hiện tại để nói về anh ta, nên tôi cứ tưởng— thôi không sao. Tôi giúp gì được cho anh, Hugo? E là tôi không có nhiều thời gian đâu. Tôi có cuộc hẹn ăn tối phải tham dự.”
“Tôi sẽ không chiếm nhiều thời gian của cô đâu,” Hugo nói, ngẩng lên nhìn Wallace, hắn gật đầu.
“Anh là khách hàng của anh ta à? Nếu có vấn đề pháp lý gì, anh phải gọi văn phòng ấy. Tôi chắc chắn là họ sẽ rất vui lòng trợ giúp—”
“Không,” Hugo nói. “Tôi không phải là khách của anh ấy. Tôi nghĩ cô có thể nói rằng anh ấy là—”
“Từng là,” Wallace rít lên. “Từng.”
Hugo đảo mắt. “Anh ấy từng là khách hàng của tôi, theo cách của riêng anh ấy.”
Một khoảng lặng dài hơn. “Anh là bác sĩ tâm lý của anh ta à? Tôi không nhận ra mã vùng cuộc gọi. Anh đang gọi từ đâu thế?” Rồi, “Và tại sao anh lại gọi tôi?”
“Không,” Hugo nói. “Tôi không phải bác sĩ tâm lý. Tôi là chủ tiệm trà.”
Naomi phá lên cười. “Tiệm trà ư. Và anh nói rằng Wallace từng là khách của anh. Wallace Price ấy à.”
“Phải.”
“Tôi nghĩ mình chưa từng thấy anh ta uống một tách trà nào trong đời anh ta. Xin lỗi nếu giọng tôi nghe có vẻ hoài nghi, nhưng anh ta không hẳn là kiểu người thích trà.”
“Tôi biết mà,” Hugo nói trong khi Wallace rên rỉ. “Nhưng tôi nghĩ cô sẽ ngạc nhiên khi nghe rằng bất chấp điều ấy anh ấy đã học được cách thưởng trà.”
“Thật ư? Thế thì... lạ quá. Tại sao anh ta— thôi không quan trọng. Anh muốn gì, hả Hugo?”
“Anh ấy từng là khách của tôi. Nhưng cũng là bạn của tôi. Tôi rất tiếc vì sự mất mát của cô. Tôi biết chuyện này hẳn đã khó khăn lắm.”
“Cảm ơn anh,” Naomi cứng nhắc đáp lời, và Wallace biết là cô đang xóc não, cố nghĩ xem Hugo đang giở trò gì. “Nếu anh biết anh ta, tôi tin là anh biết chúng tôi đã ly dị.”
“Tôi biết rồi,” Hugo nói.
Cô bắt đầu khó chịu. “Cuộc trò chuyện này có mục đích nào không? Hay chỉ có vậy? Nghe này, tôi cảm kích vì anh đã gọi điện, nhưng tôi—”
“Anh ấy yêu cô. Nhiều lắm. Và tôi biết mối quan hệ đã trở nên trục trặc, và hai người đã đường ai nấy đi vì những lý do thích đáng, nhưng anh ấy chưa từng hối tiếc một giây phút nào ở bên cô. Anh ấy muốn cô biết vậy. Anh ấy hi vọng cô sẽ lại tìm thấy hạnh phúc. Rằng cô sẽ có một cuộc đời trọn vẹn, và anh ấy rất tiếc về những gì đã xảy ra.”
Naomi không nói gì. Wallace nghĩ rằng cô đã cúp máy, nhưng hắn vẫn nghe thấy tiếng thở của cô.
“Kể chuyện kia đi,” hắn thì thầm. “Xin anh đấy.”
Hugo nói, “Anh ấy đã kể với tôi về ngày cưới của hai người. Anh ấy nói thế gian chưa từng có ai đẹp hơn cô vào giây phút ấy. Anh ấy đã hạnh phúc. Và dù mọi chuyện đã thay đối, anh ấy không bao giờ quên cách cô mỉm cười với mình trong nhà thờ nhỏ ấy.” Anh khẽ cười. “Anh ấy kể rằng mình đã hoảng loạn ngay trước hôn lễ. Cô phải nói chuyện với anh ấy qua cánh cửa để cố gắng khiến anh ấy bình tĩnh lại.”
Im lặng. “Anh ta... anh ấy nói mình không thắt được cà vạt. Rằng chúng tôi nên dừng hết vụ cưới xin này lại thì hơn.”
“Nhưng cô đã không dừng lại.”
Naomi sụt sùi. “Không. Chúng tôi không dừng lại, vì đó là một việc đậm chất Wallace đến nỗi tôi... Trời ạ. Anh nhất định phải gọi tới và phá hỏng lớp trang điểm của tôi, phải không?”
Hugo bật cười. “Tôi không cố ý đâu.”
“Phải, tôi cũng nghĩ vậy. Tại sao bây giờ anh lại gọi tôi cùng với câu chuyện này?”
“Vì anh ấy nghĩ cô xứng đáng được nghe chuyện ấy. Tôi biết hai người đã không nói chuyện với nhau một thời gian dài trước khi anh ấy mất, nhưng con người tôi biết— từng biết, khác với con người cô nhớ. Anh ấy đã học được cách tử tế với người khác.”
“Việc ấy nghe chẳng giống Wallace chút nào?”
“Nhỉ,” Hugo nói. “Nhưng người ta có thể thay đổi khi đối mặt với cõi vĩnh hằng.”
“Anh nói vậy là có ý gì?”
“Ý tôi là vậy đó.”
Giọng cô có vẻ lưỡng lự khi cô nói, “Anh từng quen anh ấy à.”
“Phải.”
“Quen thật à.”
“Ừa.”
“Và anh ấy kể cho anh nghe chuyện giữa chúng tôi.”
“Đúng vậy.”
“Nên anh đơn giản là quyết định tự nhiên gọi điện cho tôi, với tấm lòng thiện lương của chính mình.”
“Phải.”
“Nghe này. Hugo, phải không? Tôi không biết anh đang nhắm vào cái gì ở đây, nhưng tôi không—”
“Không gì cả. Tôi không muốn gì hết. Tất cả những gì tôi muốn là nói với cô rằng cô quan trọng với anh ấy. Ngay cả sau khi tất cả đã kết thúc, cô vẫn quan trọng.”
Cô không trả lời.
“Chỉ có vậy thôi,” Hugo nói. “Đó là tất cả những gì tôi cần nói. Tôi xin lỗi vì đã quấy rầy buổi tối của cô. Cảm ơn vì—”
“Anh quan tâm tới anh ấy.”
Hugo giật mình. Anh liếc Wallace rồi nhìn ra nơi khác. “Đúng vậy.”
“Bạn bè ư,” cô nói, giọng nghe gần như thích thú. “Chỉ là bạn bè thôi à?”
“Cúp máy đi!” Wallace cuống cuồng ra lệnh, “Ôi trời ơi, cúp điện thoại đi!” Hắn cố vớ lấy điện thoại, nhưng Hugo đã nhanh tay hơn, nhặt nó lên khỏi quầy và giơ ra ngoài tầm với của hắn.
“Chỉ là bạn thôi,” Hugo nói, vội vã vòng qua quầy để ngăn không cho Wallace lấy điện thoại. Wallace gầm ghè với anh, sẵn sàng làm bất cứ việc gì hắn phải làm để chấm dứt màn tra tấn mới chớm này càng nhanh càng tốt.
“Anh chắc chứ? Vì— và tôi không thể tin được là mình biết việc này— giọng anh nghe giống kiểu người mà anh ấy sẽ chấm đấy. Anh ấy tưởng tôi không để ý, nhưng anh ấy sẽ ngất ngây mỗi khi—”
“Tôi không ngất ngây đâu nhé!” Wallace rống lên.
“Thật ư?” Hugo nói vào điện thoại. “Cô nói sao, ngất ngây à?”
“Phải. Mất mặt lắm. Tôi có anh bạn ăn nói khá giống anh, cùng một tông giọng— mà Wallace hay xun xoe xung quanh. Anh ấy sẽ chối bay việc ấy đi, dĩ nhiên là vậy, nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu với anh cũng vậy?”
“Tôi nghĩ ra những ý tưởng tệ hại nhất,” Wallace lầm bầm. “Tất cả đều thật khủng khiếp.”
“Thật vui khi được nghe chuyện ấy,” Hugo nói với Naomi. “Nhưng không, chúng tôi chỉ là bạn mà thôi.”
“Nhưng giờ cũng chẳng quan trọng gì nữa, phải không,” Naomi hỏi. “Vì anh ấy mất rồi.”
Watlace khựng lại, hai tay chống lên mặt quầy. Hắn cúi đầu, nhắm nghiền mắt lại.
“Tôi không biết liệu anh ấy có thật sự biến mất không nữa...” cuối cùng Hugo trả lời. “Tôi nghĩ phần nào đó của anh ấy vẫn còn đây.”
“Suy nghĩ dễ thương đấy, ngoài ra chẳng là gì khác. Anh...” Cô thở hắt ra. “Anh từng yêu anh ấy phải không? Trời ạ, không thể tin nổi là tôi đang thảo luận chuyện này. Tôi không biết anh. Tôi còn không quan tâm nếu anh và anh ấy từng—”
“Chúng tôi không phải đâu,” Hugo ngắn gọn trả lời.
“Đó không phải câu trả lời cho câu hỏi của tôi.”
“Tôi biết,” anh nói, và Wallace thấy nóng người và lạnh người, thấy cả hai cùng lúc. “Tôi không biết trả lời câu hỏi đó thế nào nữa.”
“Có hoặc không thôi. Không khó đâu. Nhưng việc anh không nói không là toàn bộ câu trả lời tôi cần nghe.” Cô lại sụt sịt. “Anh không đến dự đám tang.”
“Tôi đã không hay tin.”
“Chuyện ấy diễn ra... nhanh lắm. Đối với anh ấy. Người ra bảo tôi rằng anh ấy đã không đau đớn gì. Đang còn đó mà đã mất đi, như thể chưa từng sống.”
“Nhưng anh ấy đã từng sống,” Hugo nói, và anh chưa từng rời mắt khỏi Wallace. “Đã từng.”
Cô bật cười, dù âm thanh ấy nghe như tiếng nức nở. “Đã từng, nhỉ? Dù tốt hay xấu, anh ấy cũng đã từng có mặt trên đời. Hugo, tôi không biết anh là ai. Tôi không biết làm thế nào mà anh quen Wallace, và tôi không tin dù chỉ trong giây lát rằng đó là nhờ trà. Tôi... rất tiếc. Về những mất mát của anh. Cảm ơn anh, nhưng xin đừng gọi tôi nữa. Tôi đã sẵn sàng đi tiếp rồi. Tôi đã đi tiếp rồi. Tôi không biết phải nói gì khác.”
“Cô không cần nói gì nữa đâu,” Hugo nói. “Tôi rất cảm kích thời gian cô dành cho tôi.”
Điện thoại kêu tút tút khi cô cúp máy.
Sự im lặng ngập tràn khắp các ngõ ngách trong tiệm trà.
Wallace suy sụp. “Anh không thể... Hugo.”
“Tôi biết chứ,” Hugo nói, giọng nghe yếu ớt đến lạ. Wallace ngẩng lên và thấy anh đang mân mê khăn đội đầu, màu xanh lá in hoa văn chó trắng. “Nhưng câu chuyện này là của tôi. Là cho tôi. Và anh không thể cướp đoạt điều ấy được.”
“Tôi không định làm vậy đâu,” Wallace cáu kỉnh. “Việc ấy— anh...” ngực hắn nấc lên. Lưỡi câu có cảm giác nóng như kim loại nung chảy. “Anh đang làm mọi chuyện khó khăn hơn đấy. Xin đừng làm vậy với tôi. Tôi không chịu được đâu. Thật sự không chịu được mà.”
“Tại sao?” Hugo hỏi. “Như vậy thì có gì không tốt kia chứ?”
“Vì tôi chết rồi!” Wallace hét lên. “Tôi là một cái bóng. Là một tiếng vọng mà thôi.”
Và Hugo thì thầm, “Anh chưa bao giờ thật hơn lúc này.”
Hắn bỏ Hugo đứng trong phòng chính của tiệm trà, khi những cái bóng đang mỗi lúc một đổ dài.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip