Giao thời - 14
14.
Gió trên biển mặn và ẩm ướt. Những con sóng dữ dội quét về phía boong tàu, biến biển cả bao la thành một con quái vật há to cái miệng đầy máu. Ánh sáng của ngọn hải đăng trên bờ không thể chiếu đến vùng biển xa xôi này, điều này khiến hai chiếc tàu chiến trông cô đơn như hai chiếc thuyền con. Chúng soi sáng cho nhau, nhưng tiếc thay vì sương mù và mưa, sức xuyên thấu của tia sáng đã bị suy yếu đi không ít. Trận mưa lớn này ập đến quá bất ngờ, khi những con sóng từng đợt từng đợt bị gió quật lên trời, rồi lại bị những đám mây đen dày đặc trút xuống, dội lên đỉnh đầu mọi người.
Thời tiết khắc nghiệt khiến nhiệm vụ của tàu Mauritius và Leander trở nên khó khăn. Chúng đang vì thế mà di chuyển chậm chạp, thậm chí còn xoay vòng trên một vùng biển, khiến người ta nghi ngờ hệ thống định vị của chúng đã bị cơn mưa lớn chết tiệt làm hỏng hoàn toàn. Dĩ nhiên điều đó là không thể.
"Trung tá Kirkland, chúng ta còn phải dừng lại ở đây bao lâu nữa?"
Một thanh niên mặc quân phục hải quân vẫn luôn lặng lẽ ngồi trong phòng điều khiển, anh ta bất động nhìn chằm chằm vào bảng điều khiển. "Đợi thêm một lát nữa."
Lúc này ở bên kia đại dương, Alfred đứng trước cửa sổ sát đất của phòng khách sạn, nhìn bầu trời phủ đầy mây đen và gió mạnh. Chiếc điện thoại bên cạnh hắn nháy đèn đỏ, vẫn luôn trong trạng thái kết nối. Moisiu và Muhammad với tư cách là chỉ huy tối cao đã theo quân đến Eo biển Corfu, nhưng bây giờ họ vẫn đang chờ đợi Hải quân Hoàng gia Anh trên biển. Alfred giơ tay liếc nhìn đồng hồ đeo tay, kim giây từng chút một tiến gần đến khoảng thời gian tấn công của quân đội Anh...
Ba, hai, một.
"Radar không có phản ứng, thưa đại tá." Người lính nhìn chằm chằm vào bảng điều khiển và báo cáo bằng giọng run rẩy. Anh ta không thể tin vào mắt mình, kim giây đang chậm rãi nhảy từng nhịp, thời gian của họ không còn nhiều. Chiếc tàu chiến do Muhammad chỉ huy đã rời Eo biển Corfu theo kế hoạch từ nửa tiếng trước. Foster đã đùa rằng Muhammad đi để nhặt xác cho quân đội Anh, vì khi họ đến nơi chôn quả thủy lôi đầu tiên, họ sẽ kinh ngạc phát hiện ra một đội quân Anh đã bị nổ tan xác.
Nhưng nếu quân đội Anh trì hoãn thời gian, kẻ chạm vào thủy lôi trước sẽ biến thành hải quân Albania. Một quả thủy lôi không thể vô duyên vô cớ xuất hiện ở vùng biển này, đặc biệt là khi không có bất kỳ tàu chiến nào của phía Anh đi qua. Về công, điều này sẽ khiến Albania thua trận quan trọng nhất, về tư, nếu quả thủy lôi bị phát hiện là do Moisiu và một tay buôn vũ khí người Mỹ cùng nhau chôn, vậy thì ông ta không chỉ bị xử tử vì tội phản quốc, mà cả gia đình của ông ta cũng sẽ bị hủy hoại.
Moisiu không thể để tình huống đó xảy ra. Ông ta thầm cầu nguyện với Thượng đế trong lòng, thành tâm hơn bao giờ hết, nhưng lúc này Thượng đế lại không thể đáp lại lời cầu nguyện của ông ta.
Quân đội Anh vẫn không có bất kỳ động tĩnh gì. Trong tay Moisiu đã rịn ra một lớp mồ hôi lạnh mỏng. Ông ta bắt đầu chửi rủa tên buôn vũ khí người Mỹ chết tiệt Foster, tiện thể chửi rủa cả chính bản thân mình đã bị quyền lực và tiền bạc làm cho mờ mắt. Người ta chỉ khi nước đến chân mới nhận ra mình đã phạm phải sai lầm ngu ngốc đến mức nào, nhưng lúc này họ chỉ còn một con đường chết.
Không, ông ta tuyệt đối không cho phép. Ông ta không thể để một tên buôn vũ khí chó má hủy hoại mình!
Mặt Moisiu đỏ bừng, phắt một cái bật dậy khỏi chỗ ngồi làm cho những người xung quanh giật mình. Ông ta lao ra khỏi phòng điều khiển tàu chiến và đến phòng tác chiến ngầm, bây giờ bên trong không có một ai. Ông ta run rẩy nhấc điện thoại lên, tạ ơn trời, tín hiệu không bị giông bão làm nhiễu hoàn toàn.
Điện thoại được gọi đi, đối phương gần như ngay khoảnh khắc chuông reo đã nhấc máy: "Mời nói."
"Foster!" Moisiu nghiến răng gầm gừ. "Quân đội Anh bây giờ căn bản không có ý định tiến vào Eo biển, anh cho tôi một lời giải thích đi! Tôi không biết cái thời gian tác chiến chết tiệt kia của anh có phải là thật hay không, tôi chỉ biết quân đội Anh căn bản không xuất hiện ở cửa eo biển, điều này hoàn toàn khác với cái thời gian biểu chết tiệt của anh! Một trong những đội hải quân của chúng tôi đã xuất phát rồi, nếu thủy lôi của anh nổ không phải người Anh, thì sẽ là chúng tôi đấy!"
"Bình tĩnh đi, tôi biết hậu quả."
"Mày biết cái con mẹ gì! Mày gài tao, Foster. Mày sẽ hại chết tao mất!"
"Vậy sao, tôi sẽ sao?" Giọng của Alfred vẫn bình tĩnh đến mức khiến người ta tức điên. Hắn nghe thấy bên kia truyền đến tiếng thủy tinh bị đập vỡ. "Bình tĩnh, tôi vẫn đang tìm cách."
"Cách? Còn cách gì nữa! Giờ tao chỉ thấy một con đường, đó là con đường chết giẫm dẫn xuống địa ngục do mày đã trải ra cho tao! Rốt cuộc mày là ai, là do Anh phái đến à? Chúng ta là châu chấu trên cùng một sợi dây, mày đã nói thế mà! Nếu tao tiêu đời, mày cũng xong đời! Tao vẫn còn gia đình và những người tao yêu thương, còn mày thì sao? Mày thì sao!!" Moisiu tức giận đấm hết lần này đến lần khác vào mặt bàn, khớp tay của ông ta bị trầy xước, lời nói của ông ta bắt đầu trở nên lộn xộn, như một con thú bị vây khốn hoàn toàn phát điên – nhìn mình sắp bị cắn chết mà bất lực.
"Câm miệng lại." Giọng của Alfred trầm xuống, nghiến răng sau nói: "Ông muốn thế nào, dùng âm lượng này để tuyên bố với thế giới rằng thủy lôi ở Eo biển Corfu là do ông và tôi cùng nhau chôn, ông đã hại chết quân đội của mình sao? Chúng ta vẫn còn cơ hội chiến thắng, nếu ông phát điên ở đây, vậy thì chúng ta sẽ hoàn toàn thua cuộc, mục đích của nước Anh cũng sẽ đạt được."
"Tao hại chết quân đội của tao? Không, Foster, là do mày hại, mày đã hại chết họ! Tuyến đường đó không chỉ là con đường mà quân đội Anh nhất định phải đi qua, mà cũng là con đường mà chúng tao nhất định phải đi qua. Tao thật ngu ngốc, sao tao lại có thể tin tưởng vào tình báo của mày đến vậy chứ! Đám người Mỹ chúng mày chính là thích đến khuấy đảo vũng nước đục này, lũ cỗ máy chiến tranh đáng ghét chúng mày! Mày hủy hoại tao, chẳng lẽ không sợ tao sẽ hủy hoại mày sao? Vợ con mày, gia đình mày, đều sẽ có kết cục giống như tao thôi!"
Alfred cắt ngang lời Moisiu. Hắn thực sự không muốn nghe những lời lên án này, hắn đã nghe đủ rồi, nhiều đến mức hắn đáng tiếc là chẳng quan tâm chút nào: "Muốn nghĩ thế nào thì tùy ông. Tiện thể nói cho ông biết một điều, mấy quả thủy lôi đó là hàng của Đức mà Anh trục vớt được sau chiến tranh, họ phá sản rồi, cho nên muốn bán nhanh mấy thứ vũ khí này đi, thế là bán cho tôi. Hơn nữa những giao dịch này đều dùng vàng, không ai có thể tra ra được là tôi đã mua hai quả thủy lôi này. Ngay cả khi Albania muốn thanh toán ông, ông cảm thấy họ có bản lĩnh tìm đến tôi không?"
Bên kia hoàn toàn im lặng. Câu nói này của Alfred đã hoàn toàn đập cho Moisiu tỉnh táo. Moisiu lúc này mới nhận ra tên buôn vũ khí giả dối này chưa từng đứng về phía ông.
"Ông không uy hiếp được tôi đâu, bạn của tôi. Tôi không có gia đình, không có vợ con, chỉ cần tôi muốn, cả đời này ông cũng không thể gặp lại tôi. Mà người tôi yêu bây giờ đang ở trên biển chờ đợi trúng thủy lôi, khó thoát khỏi cái chết. So với việc quan tâm làm thế nào để hủy hoại tôi, ông vẫn nên nghĩ xem nên làm thế nào để cứu lấy chính mình trước đi."
Alfred quả quyết dập máy, chộp lấy áo khoác trên lưng ghế rồi xông ra ngoài. Thời gian tác chiến là giả, thật nực cười. Hắn đã bị chơi xỏ, và bây giờ hắn mới nhận ra điều đó, Arthur đã làm xáo trộn tất cả kế hoạch của hắn. Khi hắn mở cửa, cửa phòng đối diện ở hành lang cũng mở ra. Daniel từ sau cửa bước ra, im lặng chờ đợi mệnh lệnh của Alfred.
"Alice Davis đâu rồi?"
"Kế hoạch tác chiến của quân đội Anh là thứ cuối cùng bà ta đưa cho chúng ta. Bây giờ bà ta và các con của mình nên đã lên chiếc tàu hàng đến California rồi."
Alfred lắc đầu, hắn siết chặt nắm đấm, hoàn toàn không cảm nhận được cơn đau do móng tay cắm vào lòng bàn tay. Hắn chỉ cảm thấy tức giận, ngọn lửa giận dữ liếm láp trái tim hắn, thiêu cháy lý trí của hắn. Hắn ra sức kiềm chế hthôi thúc muốn chửi ầm lên. "Bà ta đã phản bội chúng ta."
Daniel khẽ nhíu mày: "Ai? Ai dám để bà ta làm vậy?"
Câu trả lời quá rõ ràng, chỉ có thể là – "Arthur Kirkland."
Trên radar xuất hiện một chấm đỏ, đó là tàu chiến của Albania.
Người lính trẻ tuổi đang canh gác radar bật dậy khỏi chỗ ngồi, gương mặt non nớt lộ rõ sự mong đợi đối với chiến tranh. Khi chưa nhập ngũ, cậu ta vẫn luôn nghe những câu chuyện về các bậc tiền bối dũng cảm giết giặc trên chiến trường Thế chiến, bây giờ cuối cùng cũng đến lượt cậu ta đóng vai chính trong câu chuyện đó.
"Đến giờ rồi, chuẩn bị sẵn sàng."
Arthur nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Tầm nhìn xung quanh cực kỳ kém, chỉ có thể nheo mắt mới thấy được một chấm nhỏ đang lắc lư tiến về phía trước trong sương mù và mưa. Sóng biển ập xuống, phải mất một lúc mới có thể nhìn thấy lại chấm đen đó. Đó là tàu chiến của Albania, bây giờ đã tiến vào tầm tấn công của quân Anh. Anh vừa định ra lệnh chuẩn bị tấn công thì đột nhiên từ phía xa truyền đến một tiếng nổ lớn, sóng biển bắn lên tung tóe, chẳng khác nào một trận động đất trên biển.
"Đã xảy ra chuyện gì!" Thân tàu bị sóng biển đập vào nghiêng sang một bên, Arthur chỉ có thể bám chặt vào tay vịn để đảm bảo mình không bị ngã. Nước biển làm nhòe cửa sổ khiến anh không thể nhìn rõ bên ngoài. Tiếng nổ inh tai nhức óc quen thuộc đến mức khiến Arthur nhận ra ngay lập tức: đó là tiếng thủy lôi nổ, nhưng vụ nổ không xảy ra trên quân hạm của họ.
"Báo cáo trung tá, có một quả thủy lôi đã nổ! Ở đây có thủy lôi!"
Những tiếng nổ nối tiếp nhau khiến phòng điều khiển tràn ngập không khí căng thẳng. Trong khoảng thời gian này các binh lính không ngừng ra vào phòng điều khiển để báo cáo tình hình trên boong tàu. Tầm nhìn ở đó rộng hơn, họ có thể xác định chính là tàu chiến của Albania đã va phải thủy lôi trên biển. Thủy lôi đã trực tiếp làm nổ tung tàu chiến của họ thành hai nửa, thân tàu vì tự cháy nên vẫn tiếp tục phát nổ. Chấm đen nhỏ ngoài cửa sổ lúc này đã biến thành một quả cầu lửa bùng cháy dữ dội, gió mưa có lớn đến đâu cũng không thể dập tắt được thân tàu đang không ngừng rò rỉ dầu làm bùng lên ngọn lửa.
"Chúng ta phải làm gì, thưa trung tá? Có cần phái đội cứu hộ không?"
"Không, đội cứu hộ không qua được, có qua cũng không cứu được người. Gió lớn quá." Arthur vẫn đang sắp xếp lại mọi thứ trước mắt. Anh rất kinh ngạc, vùng biển này không nên có thủy lôi, nước Anh đã dọn sạch thủy lôi ở đây từ sau chiến tranh rồi. Anh nhớ lại bản kế hoạch tác chiến giả mà anh đã để bà Davis gửi cho Alfred, siết chặt nắm đấm. Nếu sớm hơn một chút, người trúng thủy lôi sẽ là anh, chứ không phải Albania.
America à America, đúng thật là khiến anh phải phải nhìn bằng con mắt khác.
Arthur cười khổ, đáy mắt tràn đầy bi ai và mỉa mai. Lớp sương trên kính tan đi, Arthur lại một lần nữa nhìn về phía quả cầu lửa đang lóe sáng kia. Đây là gam màu ấm áp duy nhất trên đại dương lạnh lẽo, nhưng sự ấm áp này lại trong khoảnh khắc xóa đi sinh mạng của hàng trăm người, còn nhanh hơn cả biển cả, còn lạnh lùng vô tình hơn.
Từng chiếc xuồng cứu sinh được hạ xuống từ xung quanh tàu chiến của Albania, nhưng người thoát khỏi biển lửa chẳng có bao nhiêu. Đối với những binh lính này, tàu chiến của đối phương là phương pháp sống sót duy nhất của họ lúc này, nhưng so với việc làm tù binh, họ thà bị sóng biển nuốt chửng còn hơn. Arthur nhìn những chiếc xuồng nhỏ bé này vật lộn với những con sóng dữ dội, một con sóng ập xuống, xuồng cứu sinh biến mất trên mặt biển.
Arthur nhắm mắt lại, rời khỏi cửa sổ. "Rời khỏi vùng biển này, ở đây có thủy lôi."
Trận mưa lớn kéo dài gần ba tiếng đồng hồ mà không có dấu hiệu ngớt. Rất nhanh, các tàu cứu hộ của Albania lần lượt đến vùng biển này, nhưng họ đã đến quá muộn. Con tàu do Muhammad chỉ huy chỉ còn lại một biển lửa và một mảng lớn nước biển bị dầu ô nhiễm.
"Còn ngây ra đó làm gì, tôi bảo nhắm vào con tàu Anh kia! Khai hỏa! Khai hỏa!"
"Thưa đại tá, chúng ta không cần thả xuồng cứu sinh sao?"
"Nhìn biển lửa kia đi!" Sau khi Moisiu hoàn toàn mất liên lạc với Alfred, ông cảm thấy nỗi sợ hãi về cái chết đang từng chút một leo lên cột sống của mình, tham lam gặm nhấm lý trí của ông. Cả người ông toát mồ hôi lạnh, cứ như một thanh niên chưa từng thấy chiến trường. Ông túm lấy cổ áo của người lính đặt câu hỏi, loạng choạng kéo đối phương đến cửa sổ, chỉ vào ngọn lửa lớn đáng sợ ở không xa kia. "Cứu viện? Cậu đi sao! Toàn là dầu đấy! Ngay cả biển cũng không dập tắt được, cậu đi cứu? Toàn là chuyện tốt mà lũ người Anh làm đấy! Nhắm nòng pháo vào chúng nó!"
"Vâng... vâng!"
Ầm!
Trong một khoảnh khắc, Arthur cảm thấy tàu chiến đã hoàn toàn lật úp và chìm xuống dưới nước. Kính bị chấn động nứt ra thành những vết rạn như mạng nhện, chỉ cần sóng biển lại một lần nữa ập lên, anh không thể đảm bảo kính sẽ không vỡ. Đợi đến khi anh từ dưới sàn bò dậy ổn định lại cơ thể, cả phòng điều khiển đã trở nên vô cùng căng thẳng vì tiếng còi báo động và đèn đỏ. Một sĩ quan đang cố gắng khởi động lại hệ thống chống thủy lôi. Tiếng còi báo động chói tai của thân tàu báo cho họ biết rằng một vật thể không xác định đã tấn công họ, đuôi tàu bị hư hại nghiêm trọng dẫn đến hệ thống chống thủy lôi không thể khởi động bình thường.
"Trung tá, là thủy lôi!"
"Quay đầu! Tránh khỏi nơi này!" Arthur vất vả lắm mới vịn được vào bàn thì một đợt rung chuyển dữ dội hơn cả động đất lại khiến anh ngã trở lại mặt đất. Sau đầu đau nhói, Arthur bò dậy dùng tay dụi mắt, phát hiện mọi thứ trước mắt đều trở nên mơ hồ. Trên sàn nhà trước mặt anh đột ngột xuất hiện vài giọt máu. Arthur dùng tay chạm vào mũi, máu chảy xuống nhân trung bị lau lên mu bàn tay.
Ầm!
Lại một tiếng nổ inh tai nhức óc. Arthur lắc đầu, vết nứt trên cửa sổ ngày càng lớn. Thân tàu đột nhiên nghiêng đi, nước biển tràn qua lớp kính không chịu nổi mà ùa vào phòng điều khiển.
"Trung tá, thủy lôi gây ra vụ nổ thứ hai, đây là ở giữa tàu, boong tàu đã bốc cháy rồi, rất nhanh sẽ lan đến phòng điều khiển!"
Arthur đứng dậy, vịn vào cạnh bàn, nhìn vào vị trí bị hư hại mà quân hạm cảnh báo: "Chuẩn bị xuồng cứu sinh, nhanh lên!"
Một người đàn ông trung niên mặc quân phục quân y hốt hoảng chạy đến. Khi chạy đến phòng điều trị, ông ta cũng bị thương không nhẹ, trán đang chảy máu, nhưng ông ta đã không thể quan tâm đến vết rách trên trán nữa. Ông ta nói năng lộn xộn, mang đến một tin dữ khác: "Cửa phòng điều trị bị kẹt rồi, thưa trung tá! Các y tá và bác sĩ bị mắc kẹt bên trong rồi!"
Phòng điều trị nằm dưới mực nước biển, là một nơi tương tự như tầng hầm. Ở đó có khoảng một trăm giường bệnh, gần ba mươi bác sĩ y tá. Điều kiện không được tốt cho lắm, ánh sáng cũng không đủ. Chỉ có một cánh cửa sắt được lắp trên trần nhà và một cái thang dẫn đến cánh cửa sắt để làm lối ra của phòng điều trị, mà bây giờ cánh cửa sắt này bị ngọn lửa sắp cháy đến phong tỏa. Bánh răng của cửa bị những mảnh sắt vỡ sau vụ nổ đầu tiên làm kẹt, người bên trong hoàn toàn không ra được.
Alice Davis là một trong số các bác sĩ y tá ở đây. Nước biển đang dần dâng lên sắp qua đầu gối của bà. Những người bị mắc kẹt trong phòng điều trị đều là phụ nữ, sức lực của họ hoàn toàn không đủ để cạy những mảnh vụn đang kẹt cứng trong bánh răng kia ra. Ngoài tiếng nước biển từ từ chảy vào phòng qua khe hở và tiếng còi báo động không ngớt, trong phòng yên lặng đến kỳ lạ. Nhiệt độ ngày càng nóng, không bao lâu nữa, họ hoặc là sẽ bị chết đuối, hoặc là sẽ bị thiêu chết, hoặc nhanh gọn hơn một chút, vụ nổ sẽ khiến họ tan xương nát thịt.
"Để tôi thử."
Alice đột nhiên đứng dậy, đi về phía cái thang.
"Cô làm gì vậy? Cô điên rồi à?" Một y tá có dáng người nhỏ nhắn đứng chắn trước mặt bà. Cô ấy đã khóc một trận, mắt sưng đỏ. "Ngoài cửa toàn là lửa, sẽ làm cô bị bỏng chết đó!"
"Để tôi thử, Linda." Alice đưa tay ôm lấy cô, nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc vàng của cô như bà đã làm với cô con gái nhỏ của mình. Bà đi qua người thiếu nữ vừa mới thành niên này. Cô gái thấy không thể ngăn cản bà, đôi mắt to của cô sưng lên, lại sắp rơi nước mắt.
Linda cố nén nước mắt lại, như một người chạy trốn đột nhiên nhìn thấy một tia hy vọng sống sót, dùng hết sức lực toàn thân mà hét lên: "Có ai không! Chúng tôi bị mắc kẹt ở đây! Đến cứu chúng tôi với!"
Tiếng kêu gào này đã đánh thức những người khác đang bị dọa cho ngây ngẩn. Họ cùng nhau kêu cứu bằng giọng lớn nhất có thể, âm thanh inh tai nhức óc lẫn vào trong những tiếng nổ không ngớt.
Da của Alice bị bỏng cháy. Tuy nhiên bà không dám dừng lại. Bà cầm một dụng cụ hình chữ L, chống nó vào mảnh vụn đang làm kẹt cửa, bà dùng hết sức lực toàn thân mà mảnh vụn vẫn không hề nhúc nhích. Sự giãn nở của kim loại đã làm cho trục cửa bị biến dạng, việc cạy nó ra dần trở thành chuyện viển vông. Vài người phụ nữ khác đứng trên những chiếc hộp hoặc giường bệnh lung lay, dùng những mảnh kim loại nhặt được cùng nhau giúp Alice cạy trục cửa. Cái nóng của ngọn lửa để lại những dấu ấn vĩnh viễn trên làn da của họ.
Đau quá, thực sự đau quá.
Lẽ ra bây giờ bà nên cùng các con của mình đến California, nhưng bà lại đang ở đây. Không biết đã kiên trì bao lâu, chịu đựng sự đau đớn của nhiệt độ cao và bỏng, Alice cuối cùng cũng mệt đến kiệt sức. Dụng cụ kim loại một tiếng động rơi xuống mặt nước biển cao đến nửa người. Cánh cửa sắt càng lúc càng nóng, những người phụ nữ bắt đầu từ bỏ. Họ cắn chặt môi dưới, nỗ lực kiềm chế để tiếng khóc tuyệt vọng không trào ra khỏi kẽ môi, đây là tiếng kêu của sự tuyệt vọng.
Arthur chạy một mạch xuống tầng dưới nước, nhìn thấy cánh cửa biến dạng đến kinh hoàng kia. Lửa xung quanh hành lang không ngừng cháy, không biết vụ nổ tiếp theo sẽ đến lúc nào, là ở trên đầu họ, hay là ngay dưới chân họ. Da anh đang chảy máu vì bỏng và bị thương do vụ nổ, cánh tay phải đã hoàn toàn mất cảm giác. Anh chạy đến trước cửa phòng điều trị, ra sức đập vào cánh cửa sắt nóng như lửa: "Có ai ở trong không?"
Bên trong cửa truyền đến giọng của Alice: "Có! Có! Chúng tôi đây! Ngài Kirkland!"
Ầm!
Lần này vụ nổ xảy ra ở bên phải họ. Toàn bộ thân tàu đã nghiêng sang một bên, nước biển len lỏi vào thân tàu từ mọi khe hở nhỏ, khiến tàu chiến từng chút một chìm xuống dưới nước. Nước biển đã ngập đến ngực của Alice, bà bây giờ ngay cả thở cũng khó khăn.
Arthur tùy tiện nhặt một mảnh kim loại lên, cũng không quan tâm lòng bàn tay bị bỏng đến bong cả một lớp da, phần thịt dưới da tiếp tục chịu đựng sự đau đớn của bỏng rát. Anh dùng sức cắm mảnh kim loại này vào khe cửa đã bị chèn ép không còn lại bao nhiêu, nghiến chặt răng cố gắng cạy mở cánh cửa sắt dưới cơn đau dữ dội. Thử mấy lần, đều là vô ích.
Những người phụ nữ đã hoàn toàn tuyệt vọng, bây giờ ngay cả khóc họ cũng không khóc nổi.
Alice ôm lấy chút hy vọng cuối cùng sắp chết đi, dùng lưng chống vào cửa, ra sức đẩy ra ngoài, ngay lập tức cả lưng của bà đều bị bỏng. Bà ngửa đầu lên, cũng không thể ngăn được nước mắt do đau đớn sinh ra. Bà thực sự không còn sức lực nữa, cái chết đã cận kề, và mọi nỗ lực mà họ và Arthur đã làm chỉ là châu chấu đá xe. Bà không thể phân biệt được trong lòng mình rốt cuộc là gì, hối hận? Cắn rứt? Sợ hãi? Kinh hoàng? Đều có cả, phức tạp đến mức bà khó có thể nói rõ, nhưng tất cả những điều này đều sẽ kết thúc bằng cái chết.
Đây là chiến tranh, đây cũng được gọi là cái giá phải trả.
Bà lục trong túi ra một cái ví nhỏ, từ trong đó lấy ra một tấm ảnh. Người phụ nữ và người đàn ông trong ảnh đang nở nụ cười hạnh phúc nhất, trong lòng ôm con của họ. Người đàn ông đã chết trận trong Thế chiến, cô bé đáng yêu kia mắc một căn bệnh hiếm gặp. Tấm ảnh này được chụp không lâu trước đây, chưa đủ lâu để Alice quên đi sự ngọt ngào lúc đó.
Bà bình tĩnh nói: "Ngài Kirkland, ngài chạy đi, cửa không mở được đâu."
Arthur vừa định phản bác thì Alice đã đưa qua khe cửa ngày càng hẹp một tấm ảnh, đây là thứ duy nhất có thể ra khỏi phòng điều trị. Bà nói: "Tôi không biết nên nói gì, thưa ngài. Tôi muốn xin lỗi, nhưng tôi biết xin lỗi cũng vô ích. Tôi luôn đưa ra những quyết định sai lầm, cho nên Thượng đế luôn trừng phạt tôi, trừng phạt chồng tôi chôn thân trong biển lửa, trừng phạt con gái tôi mắc bệnh. Tôi rất ích kỷ, tôi rất đáng ghét, ngài đều biết tôi đã làm những gì rồi, tôi không biết ngài có hận tôi không... nhưng hãy tha thứ cho tôi, tôi chỉ muốn đưa cho ngài thứ này thôi. Tôi cầu xin ngài hãy mang nó ra ngoài, nếu có cơ hội, hãy gửi nó đến Los Angeles."
"Đây là yêu cầu duy nhất của tôi."
Ầm—!
Arthur nhận lấy tấm ảnh, liền bị một người từ phía sau đánh ngất, mang ra khỏi tàu chiến.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip