Giao thời - 28
Nhiều giọng nói lao xao, nhiều gương mặt ngẩng lên nhìn, nhiều bước chân chen lấn tiến gần từ vòng ngoài của đám đông khiến một làn sóng người tràn tới, rồi vụt biến mất. Hai mươi ba.
——《Hai Kinh Thành》
28.
Ngày 12 tháng 2 năm 1947.
Một chiếc máy bay từ Athens, Hy Lạp đến London, Anh đã hạ cánh xuống Sân bay Quốc tế Heathrow. Arthur chỉ ngủ được ba tiếng trên máy bay. Nói là ngủ nhưng thực ra chỉ là nhắm mắt nằm đó, trong đầu vẫn còn vô số âm thanh ồn ào giày vò anh đến suy nhược thần kinh. Vừa xuống máy bay, anh không nghỉ ngơi lấy một giây, đi thẳng đến Bộ Ngoại giao Anh.
Anh đẩy cửa phòng họp, bên trong chỉ có Thủ tướng Clement Attlee đang ngồi, những ghế khác đều trống. Arthur đứng ở cửa một lúc, cho đến khi Attlee ngẩng đầu lên khỏi bức thư và nói: Mời vào, thưa Tổ quốc. Arthur mới bước vào và đóng cửa lại.
Cách bày trí của căn phòng họp này rất giống với phòng họp Nội các ở số 10 Phố Downing, cũng có thể nói phòng họp của tất cả các cơ quan chính phủ ở Anh đều na ná nhau. Arthur từ từ đi đến trước một chiếc ghế, anh không định ngồi xuống, có lẽ cuộc nói chuyện giữa họ còn chưa kịp để mông anh chạm ghế thì đã nên kết thúc rồi. Hết thảy đã thành kết cục đã định, anh không có cơ hội để phản đối, càng không còn sức lực, cũng không có lý do.
"Nếu ngài đã suy nghĩ kỹ rồi, thì hãy ký vào đây." Attlee đưa cho anh một cây bút máy. Cây bút máy này vẫn còn hơi ấm, có thể thấy Attlee vừa mới cầm nó rất lâu. Arthur không trả lời, anh chỉ nhận lấy cây bút, giống như một cỗ máy được nhập mã lệnh, rút nắp bút ra, đọc nội dung bức thư mà anh đã sớm thuộc lòng. Phía dưới tờ giấy chừa chỗ trống, trên đó đã có chữ ký của ba người – Thủ tướng Attlee, Bộ trưởng Ngoại giao Ernest Bevin và Bộ trưởng Quốc phòng Albert Alexander. Chỗ trống còn lại là dành cho Arthur.
Đầu bút của Arthur dừng lại trên không trung một giây, nhưng cũng không ai quan tâm trong giây đó anh đã nảy sinh bao nhiêu ý nghĩ. Arthur nhanh chóng ký tên vào chỗ trống đã được chừa ra.
"Cảm ơn ngài."
Attlee gật đầu với anh, Chánh Văn phòng Thủ tướng cầm lấy bức thư vừa ký xong rồi lần lượt cùng Attlee rời khỏi phòng họp, chỉ để lại một mình Arthur ở tại chỗ. Arthur thở ra một hơi nặng nề, lúc này anh cảm thấy gánh nặng trên vai mình đột nhiên trút xuống một chút, không còn nặng nề đến như vậy nữa.
Nhưng tình hình cũng không dễ thở hơn được bao nhiêu. Những người thất nghiệp xuống đường, họ giơ cao biểu ngữ phản đối trên đầu, la hét bảo hãy cho họ một công việc để kiếm sống. Họ không mua nổi bánh mì, không uống được sữa, không thể sắm thêm quần áo. Họ muốn chính phủ giúp họ, nếu không thì để cái chính phủ này cuốn gói đi cho xong.
Bây giờ Arthur đứng trong phòng họp này vẫn có thể nghe thấy tiếng phản đối trên đường phố. Những tiếng phản đối này y hệt như những âm thanh xuất hiện trong giấc mơ của anh, khiến anh không thể nào yên ổn.
Alfred ngồi bồn chồn không yên trên ghế sofa trong phòng tiếp khách của Nhà Trắng. Thỉnh thoảng hắn lại liếc nhìn những người qua lại, hy vọng trong đám khốn mặc vest chỉnh tề này sẽ có một người nói cho hắn biết khi nào có thể gặp Truman. Hắn liếc nhìn đồng hồ đeo tay, kể từ lúc hắn ngồi ở đây đã gần hai mươi phút trôi qua.
Hắn đứng dậy chuẩn bị lập tức rời đi. Cứ để kẻ khác làm thằng ngu bị làm lơ đi, hắn bây giờ một chút cũng không muốn quay lại cái nơi chết tiệt này nữa. Alfred bước nhanh đến cửa lớn, trông thấy một hàng xe Lincoln đen đang đậu ở bên ngoài. Vài người vệ sĩ mặc vest đen đứng ở hai bên xe, cửa ghế sau của một chiếc xe mở ra, Byrnes bước xuống, tiếp theo đó các bộ trưởng khác cũng lần lượt từ xe riêng của mình bước ra.
"Cái quái gì thế này?" Alfred nhíu mày, muốn chuồn đi mà không gây ra bất kỳ sự chú ý nào. Tuy nhiên ngay khi hắn đứng đó, tất cả ánh mắt của các bộ trưởng đồng loạt chiếu về phía hắn, khiến Alfred muốn trốn cũng không trốn được.
Byrnes tiến lại gần, liếc nhìn tấm thẻ khách đang đeo trước ngực Alfred, vỗ vai hắn nói: "Có một lá thư từ Bộ Ngoại giao Anh gửi đến, là về Hy Lạp."
Byrnes không quan sát biểu cảm đặc sắc của Alfred, ông ta cùng các bộ trưởng khác sau lưng đi vào Nhà Trắng, vội vã bước lên bậc thang, đi thẳng đến văn phòng tổng thống ở tầng hai.
Alfred hét lên từ sau lưng ông ta: "Khoan đã, Byrnes!"
Nhưng tốc độ của Byrnes chỉ nhanh hơn chứ không chậm lại. Các bộ trưởng khác đều vô cùng ăn ý mà không quay đầu lại nhìn Alfred, thậm chí không một ai chào hỏi hắn.
"Chết tiệt."
Alfred nghiến răng, sau khi chửi rủa đám người này trong lòng, hắn giật phăng tấm thẻ khách có chữ "V" to đùng trước ngực quăng xuống đất. Khi hắn vội vã bước qua còn không thèm chú ý rằng mình đã vô tình giẫm lên tấm thẻ đáng thương này.
Cánh cửa văn phòng tổng thống đóng chặt, từ bên ngoài không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào, lúc này cuộc họp đã bắt đầu rồi. Alfred đâu còn quan tâm đến lễ nghi gì nữa, đẩy mạnh cánh cửa màu trắng của văn phòng tổng thống ra, Truman đang ngồi trên chiếc ghế sofa đối diện với cửa, những người khác thì ngồi ở hai bên. Lúc này mỗi một người trong số họ đều đồng loạt nhìn về phía Alfred, trong đó có vài người đang dùng ánh mắt dò xét từ trên xuống dưới cái gã quá trẻ tuổi và có phần thô lỗ này, nhướng mày để thể hiện sự không hài lòng của họ.
Truman hoàn toàn không ngạc nhiên hay tức giận vì Alfred đột ngột ngắt ngang cuộc họp như vậy. Ông chậm rãi đứng dậy và mỉm cười: "Chào mừng trở về, ngài America."
Đây là lần đầu tiên Alfred đọc lá thư này, thứ sẽ thay đổi hoàn toàn vai trò của Hoa Kỳ tại Hy Lạp. Trong thư, Thủ tướng Attlee hy vọng Hoa Kỳ có thể tiếp nhận nhiệm vụ còn dang dở của Anh ở Hy Lạp, bảo vệ chính phủ Hy Lạp. Sau khi đọc xong lá thư này, có người đã trực tiếp chất vấn, rằng liệu đây có phải là cái bẫy để Anh lôi kéo Mỹ cùng mang tiếng xâm lược không? Nhưng Alfred lập tức cắt ngang: "Trước khi nội chiến bắt đầu, Đảng Cộng sản Hy Lạp đã giết hại một số giáo viên đại học người Anh chỉ vì họ là những người kiên định theo chủ nghĩa Marx nhưng lại không công nhận Stalin. Cộng sản Hy Lạp còn đánh bom Đại sứ quán Anh và đồn cảnh sát ở Hy Lạp. Nếu Hy Cộng giết hại những công dân Mỹ bình thường của chúng ta ở Hy Lạp, đánh bom đại sứ quán của chúng ta, các vị còn cảm thấy Mỹ tuyên chiến là hành động xâm lược sao? Và xin nhắc thêm, Hy Lạp là nước được Anh bảo hộ, khi chính phủ hợp pháp của Hy Lạp bị đe dọa, nước Anh có quyền giúp họ."
"Bất kể thế nào, hiện tại nước Anh thực sự đang sa lầy trong vũng bùn chủ nghĩa thực dân và xâm lược. Ngài America, lời vừa rồi của ngài thật sự khiến tôi bất ngờ. Cái danh nước bảo hộ chẳng qua là một hình thức khác của việc đô hộ, căn bản không thể thay đổi được sự thật rằng Anh là một nước thực dân ngoan cố hết thuốc chữa, chính ngài cũng từng bị những kẻ thực dân Anh áp bức cơ mà, bây giờ lại đang bào chữa cho người Anh sao?"
"Không có ý xúc phạm, tôi không hề có ý định bào chữa cho nước Anh. Những cáo buộc 'xâm lược' kia hoàn toàn là do các người gán lên họ, còn việc Anh có phải là một nước thực dân ngoan cố hết thuốc chữa không, nếu hỏi tôi, tôi chắc chắn sẽ nói phải. Quốc gia đó vẫn luôn như vậy, từ chính khách đến người dân đều cảm thấy tự hào vì từng là một phần của Đế quốc Anh. Nhưng ông muốn nhìn thấy Hy Lạp, hay Thổ Nhĩ Kỳ, thậm chí toàn bộ khu vực Balkan đều rơi vào tay lũ Liên Xô chết tiệt kia à?"
Giọng nói của Alfred càng lúc càng dồn dập, hắn liếc nhìn những người xung quanh, rõ ràng thấy trên mặt họ đều viết: để Liên Xô giành được vùng đất màu mỡ đầy dầu mỏ này còn tệ hơn cả xuống địa ngục. Hắn tiếp tục nói: "Nếu chúng ta không muốn để doanh nghiệp dầu mỏ Mỹ bị đám Liên Xô đánh sập, không muốn người Mỹ lái xe từ New York về Iowa phải gánh cái giá xăng chết tiệt tăng gấp mười lần, nếu các vị, nếu chúng ta, nếu cả nước Mỹ còn muốn kiếm lời từ dầu mỏ, còn muốn phát tài nhờ chiến tranh, thì lúc này chính là cơ hội tốt mẹ nó nhất. Thế mà giờ ông lại đang phản đối, đúng không?"
"Tôi không...", người này nghẹn lời một lúc, "Tôi chỉ muốn đảm bảo rằng người khác sẽ không lấy lý do này để công kích chúng ta."
"Trong mắt tôi, nếu chúng ta có thể vắt ra lợi ích khổng lồ từ chuyện này, thì cái giá đó chẳng đáng là gì. "Chủ nghĩa xâm lược", "chủ nghĩa thực dân" cái gì, cứ kệ xác chúng đi, mấy cái từ đó là vũ khí ta dùng để tấn công kẻ khác, chứ không phải để đối phó chính mình." Alfred gõ đốt ngón tay giữa xuống mặt bàn, "Khi chúng ta giành được Balkan, các vị thắng được cuộc tranh cử tiếp theo, người dân được hưởng lợi, chúng ta sẽ có thể dùng thành quả của mình vả vào mặt đám chống đối, để bọn chúng phải tự tay cắt nát cái mũ xâm lược và thực dân ra mà nuốt vào bụng. Nhưng trước hết, chúng ta cần phải chấp nhận bức thư này."
Sau khi tan họp, Truman giữ Alfred lại một mình trong văn phòng. Ông đi vòng ra sau bàn làm việc của mình, ở đó có một ô cửa sổ hình chữ nhật và một bệ cửa sổ hẹp. Trên bệ cửa sổ bày ảnh của gia đình Truman và ảnh lễ nhậm chức tổng thống, ông đứng ở đó một lúc rồi hỏi Alfred: "Nếu ngài ngồi ở vị trí của tôi bây giờ, ngài muốn đặt thứ gì ở đây?"
Ông chỉ vào bệ cửa sổ này.
Alfred trả lời thẳng thừng: "Tôi không thể làm tổng thống."
Truman nói: "Nếu tôi là ngài, tôi sẽ đóng khung cái này lại rồi đặt ở đây, để qua đây xem."
Trên bàn của Truman là vài tờ giấy chi chít nét bút và dấu vết chỉnh sửa, đó là bản thảo của một bản công văn.
"Ngay cả khi hôm nay có người lấy lý do chủ nghĩa xâm lược để phản đối Mỹ viện trợ cho Hy Lạp, tôi cũng sẽ phản bác lại. Nhưng những gì ngài nói rất hay, hơn nữa có lẽ còn có sức thuyết phục hơn lời của tôi. Tôi đã sớm biết nước Anh định yêu cầu chúng ta viện trợ Hy Lạp, Nhà Trắng bao gồm cả Cục Tình báo Mật của Mỹ ở Hy Lạp cũng đã lên kế hoạch cho việc này từ khi ngài còn ở Hy Lạp rồi, tôi tin ngài cũng đã biết. Tôi sẽ đọc thông điệp này trước nước Mỹ và toàn thế giới trong cuộc họp chung của Quốc hội năm nay, trước tiên làm rõ chúng ta muốn viện trợ cho Hy Lạp, sau đó phải khiến cả thế giới tin rằng Liên Xô là một chính quyền độc tài toàn trị. Đúng vậy, chúng ta phải để tất cả mọi người tin vào điều đó. Cũng phải để họ biết bất kỳ cuộc nổi dậy vũ trang nào tương tự Đảng Cộng sản Hy Lạp đều là phi nhân tính. Tôi đưa bản thảo này cho ngài, vì ngài đã đích thân đến Hy Lạp, tôi muốn nghe ý kiến của ngài, chúng ta sẽ cùng hoàn thiện nó." Truman đẩy bản thảo về phía Alfred, "Chúng ta phải đánh bại chế độ toàn trị đó, chúng ta phải giành được thế giới. Thông điệp này sẽ mở ra một trang sử mới, một chương hoàn toàn thuộc về ngài, thuộc về nước Mỹ."
Alfred nhìn Truman, ký ức của hắn trôi về rất lâu trước đây, khi họ thảo luận về việc viện trợ cho nước Anh, Truman đã nói với hắn: Chiến tranh đã bắt đầu, nguyện Chúa phù hộ nước Mỹ.
Người và cảnh trong ký ức dần dần trùng khớp với tất cả những gì trước mắt, hắn nghe thấy Truman nói: "Tiếng kèn chiến tranh đã vang lên, nguyện Chúa ở cùng chúng ta."
Arthur đi bộ từ Phố Downing về nhà, anh cần phải bắt tay vào viết ngay một bản diễn văn. Ba ngày nữa, anh sẽ đứng trước toàn dân, thay mặt Phố Downing đáp trả làn sóng chỉ trích việc Anh tuyên chiến. Thế nhưng đến giờ, bản thảo anh vẫn chưa viết được chữ nào. Anh biết rõ mình không thể nào hoàn thành một bản thảo trong vòng mười phút trước khi diễn thuyết như Churchill được. Nhưng càng nghĩ, đầu óc Arthur càng rối, chút ý tưởng ban đầu cũng tan biến hết. Anh đã từng thực hiện vô số bài diễn văn, viết vô số bản thảo diễn thuyết, nhưng chưa từng có lần nào khó khăn như lần này.
Anh rời khỏi Đường Whitehall và Phố Downing mình quen thuộc nhất, rẽ vào Đại lộ The Mall. London lúc bấy giờ hiện ra vẻ điêu tàn, nhưng so với thời kỳ chiến tranh thế giới thì đã được sửa chữa không ít. Đại lộ The Mall về đêm không còn tràn ngập đám đông biểu tình như ban ngày, những người vô gia cư cũng đã tìm được chỗ ngủ tạm trong công viên gần đó. Mọi thứ đều thật yên tĩnh và hài hòa, đến mức khó tin nổi ban ngày nó vừa mới phải hứng chịu cơn thịnh nộ từ những người biểu tình.
Đột nhiên Arthur bị va phải, anh mới để ý thấy vừa rồi có một cậu bé lướt nhanh ngang qua. Cậu bé gần như chạy nhưng không phát ra tiếng bước chân nào, nếu vai cậu bé không đụng vào tay Arthur, hẳn anh cũng chẳng phát hiện ra.
"Này, nhóc." Arthur đột ngột quay người, túm lấy cánh tay gầy gò của cậu bé khiến nó giật mình hoảng hốt. "Trả ví cho ta đi chứ?"
Cậu bé không đủ sức vùng ra khỏi tay Arthur. Biết là không thể thoát, nó im re rút ra chiếc ví hơi to so với túi quần của mình. Vừa rút ví ra còn định chạy nhưng lại bị Arthur giữ chặt. Tay nó đẫm mồ hôi lạnh, chắc chắn là đang lo sợ cực độ, sợ bị giao cho cảnh sát vì tội ăn cắp, rồi cảnh sát sẽ dùng dùi cui đánh nó một trận, hoặc chính Arthur sẽ đánh nó ngay trên phố.
Cậu bé đợi một lúc, phát hiện Arthur dường như không có ý định đánh mình, lại nghi ngờ nhìn Arthur lấy mười đồng shilling từ trong ví ra đưa cho nó rồi nói: "Ta muốn nhờ nhóc làm một việc, đây là 10 shilling trả trước, làm xong – sẽ nhanh thôi, đừng lo – quay lại đây gặp ta, ta sẽ trả thêm 10 shilling nữa."
Cậu bé há hốc mồm ngạc nhiên nhìn nắm tiền xu nặng trĩu trong tay. Chưa bao giờ trong đời nó có nhiều tiền đến thế, nếu bảo nó mô tả khoảnh khắc hạnh phúc nhất từng trải qua thì chính là lúc này đây. Chừng ấy tiền đủ cho nó ăn uống cả tuần, thậm chí còn có thể tìm được một chỗ an toàn để ngủ!
"Đến hòm thư gần nhất rồi bỏ chúng vào." Arthur đưa cho cậu bé hai lá thư rất mỏng đã dán sẵn tem có hình nhà vua, phần địa chỉ của một trong hai lá thư viết một con phố nào đó ở Los Angeles, California, Mỹ, lá thư còn lại thì gửi đến Washington.
"Vâng thưa ngài, cảm ơn ngài! Nguyện Chúa phù hộ ngài!"
Cậu bé cẩn thận nhét những đồng xu vào túi quần, cầm hai bức thư rồi vọt đi như bay lao về phía hòm thư gần nhất. Chờ đến khi bóng dáng cậu bé hoàn toàn biến mất ở ngã rẽ, Arthur ngẩng nhìn bầu trời. Bất chợt anh nhớ tới đêm ở Athens, ánh trăng ở đó sáng hơn, có những vì sao lấp lánh và những đám mây lúc tụ lúc tan. Thực ra quãng thời gian của anh ở Hy Lạp không chỉ toàn đau đớn và dày vò, mà còn có những ký ức quý giá hơn nhiều.
Anh ngân nga một khúc Sonata Ánh trăng, suy nghĩ đã theo giai điệu quen thuộc này từ từ bay đến Hy Lạp xa xôi, trở về phòng tiệc tầng ba của khách sạn Grande Bretagne.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip