Việt Bắc
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ.."
"Con người từ chân lý sinh ra" ấy, dáng vóc ấy lẽ nào là Tố Hữu? Một nhà thơ Cách Mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng thời với Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng... Với Chế Lan Viên đã cất lên lời ca tán dương người nghệ sĩ: "Nhà Thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần". Và bằng cái biệt tài của mình, "Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến rất đỗi trữ tình"(Xuân Diệu). Việt Bắc là một trong những tác phẩm điển hình của Tố Hữu cho câu nói đó. "Mình đi... vơi đầy" là phần thơ thể hiện nỗi nhớ của người ở lại và lời đáp gọi của kẻ đi.
Ở trong vòng nhân sinh khó chuyển dời quy luật của cuộc đời hay điều đó là không thể. Có những cái cúi chào gặp mặt và rồi cũng có những cúi chào ra đi. Chế Lan Viên có viết:
"Nhớ bản sương giăng
Nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn"
(Tiếng hát con tàu)
Người dù đi hay ở lại, dù chỉ là ghé ngang, ở lại, sinh hoạt trên mảnh đất lạ cũng sẽ có cảm giác gắn bó chí ít. Tháng 7, năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc nước ta được giải phóng, bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Đến tháng 8, năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. "Việt Bắc" được sinh ra từ ngòi bút của Tố Hữu để gợi nhắc ân tình thuỷ chung, trên dưới một lòng giữa người ra đi và kẻ ở lại. Đoạn trích đã đề cập thuộc phần đầu của tác phẩm: tái hiện những kỉ niệm Cách Mạng và kháng chiến.
Xuyên suốt tác phẩm "Việt Bắc", cách xưng hô "Ta mình" thực chất là cách gọi đối đáp mang đậm tính ca dao dân gian cho tình nghĩa gắn bó, sắt son, chung thuỷ giữa nhân dân Việt Bắc và Cách Mạng kháng chiến. Mở ra dòng thơ vẫn là cách xưng gọi ấy:
"Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?"
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già."
Con người Việt Bắc hiện lên trong khổ thơ thật đẹp và bình dị, một lòng một dạ, mang nghĩa tình sâu nặng với Cách Mạng, với kẻ đã rời đi. Tình cảm của con người nơi đây bộc lộ qua những nỗi nhớ khôn nguôi, cứ như nỗi nhớ "chơi vơi" của "Tây Tiến" lan toả mãi trong không gian, đượm buồn thấm vào cảnh vật, như thể vừa đã mất đi điều gì quan trọng ở quá khứ.
Câu hỏi tu từ thốt lên như dò xét chính tâm tình của đối phương "có nhớ" và phép điệp cấu trúc đã xây dựng nên khổ thơ giàu nhịp điệu và làm người đọc bị ấn tượng bởi nguồn cảm xúc khó phôi phai, chất trữ tình hoà vào dòng thơ Cách Mạng sôi sục. Người ở lại chẳng rằng hỏi lại kẻ đi với biết bao kí ức của quá khứ, những ngày ấy là "mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù", mưa xuống xối xả, những cơn lũ hung dữ hiên ngang hoành hành, những bản làng u uất bao phủ bởi mây mù cùng cái tiết trời lạnh giá, hơi sương bủa vây dày đặc. Quay trở về với chiến khu, chỉ có "miếng cơm chấm muối", vốn dĩ là hình ảnh tả thực sự cơ cực, thiếu thốn của cái ăn cái mặc của con người trong chiến tranh, càng làm cho lòng người không thể nguôi ngoai mối thù của dân tộc, với tấm lòng, lời thề quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, như được gợi nhắc trong Tây Tiến - Quang Dũng:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dánh kiều thơm"
Ban ngày là chiến trường, ban đêm là giấc mộng giai nhân. Nói về ngày là chiến trường súng đạn, ta căm phẫn trước hành động tàn ác của bọn thực dân, " mắt trừng" cùng "mối thù nặng vai" đã in sâu vào tâm trí người làm Cách Mạng, những người lính với tuổi đời còn trẻ đã không tiếc đời mình mà đóng góp vào tương lai thắng lợi vẻ vang của đất nước:
"Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc
(Khúc bảy - Thanh Thảo)
Ngoài ra, "rừng núi nhớ ai" một phép nhân hoá. Phải chăng "rừng núi" ấy là nhân dân Việt Bắc? Vậy thì sự hụt hẫng trong lời nói, "nhớ ai" hay không còn ai để nhớ vì người muốn nhớ đã đi rồi, bỏ lại chốn Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội yêu kiều, bỏ lại thiên nhiên núi rừng, bỏ lại " trám bụi để rụng, măng mai để già", không còn ai để hái, để tâm nữa. Nỗi nhớ bất giác chìm trong không gian vô tận của núi rừng, như làn gió tốt lành vừa mới ghé qua đây một đoạn đường rồi lại rời đi.
Dù vậy, con người Việt Bắc nồng hậu vẫn thuỷ chung, son sắt với tình nghĩa đã cũ:
"Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thưở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?"
Nhớ những ngày đầu kháng chiến ấy, những căn nhà thô sơ, mộc mạc ẩn sau rặng lau, nét côi cút, ảm đạm bao trùm, thật rằng, cái nghèo cái thiếu thốn vẫn còn đó nhưng Việt Bắc "đậm đà lòng son". Đó là lối so sánh có ý nghĩa biểu trưng: Việt Bắc có thể khốn khó vật chất nhưng tình cảm con người thì không. Để làm rõ nét hơn, gợi nhắc lại những gian nan đã trải, đi ngược lại về những ngày đầu kháng chiến: thưở Việt Minh (1941) và Kháng Nhật (1945). Cùng các địa danh lịch sử như Mái Đình Hồng Thái, tại đó, Đại hội Quốc dân phát động lệnh Tổng khởi nghĩa Toàn Quốc; như ở cây Đa Tân Trào, làm lễ xuất quân của Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tiền thân của Quân đội Nhân Dân Việt Nam sau này. Thủ pháp liệt kê vạch trần những kỉ niệm
của quá khứ gian lao, đã gắn bó cùng mảnh đất Tây Bắc. Suy cho cùng, lời nhắc nhở của đồng bào đồng thời cũng là lời cán bộ miền xuôi tự nhắc mình rằng: không bao giờ được phép quên đi Việt Bắc, cội nguồn, cái nôi của Cách Mạng!
Trong nghệ thuật thơ ca của Tố Hữu, thật sự đặc biệt khi tác giả sử dụng cách nói ca dao đồng điệu, có người nói cũng sẽ có người vọng lại trả lời, khổ thơ dưới đây là sự cất tiếng đáp lại lời người ở xa của người ra đi:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu."
"Ta với mình, mình với ta" đảo vị trí thành hai vế tiểu đối, tạo cảm giác cuộc trao đổi thân mật, gần gũi giữa người đi và kẻ ở. Đến câu thơ thứ ba, hai chữ "ta","mình" đã xoắn quyện, hoà nhập thành một từ duy nhất, mình cũng vừa là người đi nhưng mình cũng là kẻ ở, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Thêm nữa, "Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh" ngắt nhịp 2/2/2 thể hiện nhịp thơ chắc, khoẻ như một lời thề quyết không thay lòng đổi dạ. Người về xuôi khẳng định tình nghĩa vô cùng sâu nặng, với cách so sánh nhiều tầng nghĩa của nhà thơ, tình nghĩa thuỷ chung son sắt của người miền xuôi không bao giờ vơi cạn bởi nguồn nước bao giờ cũng chảy đổ xô, không cạn kiệt và thứ tình cảm ấy cũng tương xứng, to lớn như nghĩa tình mà nhân dân Việt Bắc đã dành cho Cách Mạng.
Sáu câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ của người ra đi với khoảng khắc thanh bình của Việt Bắc:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy."
Bằng biện pháp so sánh kết hợp lặp lại từ "nhớ" hai lần trên cùng dòng thơ, tác giả cho thấy được nỗi nhớ của người về xuôi đối với người ở lại cũng da diết, cháy bỏng, thường trực như nỗi nhớ đôi lứa yêu nhau. Nỗi nhớ lan toả theo thời gian: sáng trưa chiều tối, nỗi nhớ bồng bềnh trong không gian: từ đầu núi đến lưng nương, rừng nứa đến bờ tre, Ngòi Thia đến suối Lê. Gắn với không gian khác nhau là những khung cảnh đầy thi vị, đặc trưng của miền núi Việt Bắc, ánh trăng treo đầu núi, nắng chiều vàng giữa lưng nương, khó sương huyền ảo, bếp lửa ấm áp, những con suối róc rách điệu nhạc rừng, phép liệt kê Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê gợi những kỉ niệm cũ cùng những con người đã đồng cam cộng khổ.
Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý. (Chế Lan Viên - "Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu"). Bằng các biện pháp so sánh, điệp cấu trúc, nhân hoá, liệt kê, thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái nhân gian, nhà thơ Cách Mạng đã vẽ nên một bản hùng ca của dân tộc, không hề kém cạnh Tây Tiến nhưng cũng bằng một cái nét rất riêng, rất trữ tình, rất "Cách Mạng". Tác giả thật sự hoà mình vào tâm tình của người ở lại và tiếng lòng của kẻ rời đi.
Rồi mai sau sẽ liệu còn có một Xuân Diệu ham sống cuồng nhiệt, một Huy Cận buồn bã u sầu giữa vạn vật tịch mịch, một Hàn Mặc Tử điên đảo trong vòng luân thế? Và một Tố Hữu tình cảm hoá những vần thơ Cách Mạng đầy ấn tượng mà ấm áp, da diết. Có ai đó đã nói rằng sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự. Thơ của ông và Việt Bắc - bản hùng ca mãi đi vào năm tháng!
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip