Vũ Trọng Phụng - Vuictm17

                        VŨ TRỌNG PHỤNG

I.      Những chi tiết về tiểu sử và con người ảnh hưởng tới sáng tác của VTP

1.     Xã hội- lịch sử

2.     Gia đình

3.     Môi trường sống

4.     Con người

II.   Đặc điểm sáng tác của VTP

1.     Đặc điểm phóng sự VTP

1.1.Tính thời sự và tính chân thực của hiện thực phản ánh.

1.2.   Tính chiến đấu.

2.     Đặc điểm tiểu thuyết

2.1.   Nội dung , đề tài , cảm hứng

a.     Tiểu thuyết VTP có khả năng bao quát hiện thực

b.     Cảm hứng phê phán và tính chiến đấu mạnh mẽ

2.2.      Nghệ thuật tiểu thuyết VTP.

a.     Nghệ thuật xây dựng nhân vật

b.     Nghệ thuật lựa chọn chi tiết , xây dựng cốt truyện

c.      Khả năng tổng hợp lớn về mặt thể loại và các sắc thái thẩm mĩ

III.           Tiểu thuyết “ Số đỏ”

1.     Đối tượng trào phúng

2.     Cung bâc tiếng cười

3.     Nghệ thuật trào phúng.

I.Những chi tiết về tiểu sử và con người ảnh  hưởng tới sáng tác của Vũ Trọng Phụng.

1.     Xã hội – lịch sử

-         Với sự khủng hoảng kinh tế lớn 1929 – 1930 và những năm thoái trào cách mạng sau 1930- 1931 với những cuộc khủng bố cách  mạng hết sức tàn bạo của bọn đế quốc đã làm cho thế lực của bọn thống trị và của đồng tiền lạnh lùng , dường như có thể bè đẹp mọi ý chí phản kháng của con người . Lúc này với các trí thức tiểu tư sản nói chung và Vũ Trọng Phụng nói riêng ,thì mọi con đường đều trở nên bế tắc .

ðVũ Trong Phụng đã thấy được cái “vô nghĩa lý” của cuộc đời , sự thắng thế của cái đen tối và phi nghĩa trong xã hội. Nhưng đồng thời cũng cho ông thấy sự bất lực của con người trước thực tế xã hội.

2.     Gia đình

-         Sinh năm 1912 tại Hà Nội trong một gia đình dân nghèo (Cha mất sớm, một mình mẹ tần tảo và tận tụy nuôi Vũ Trọng Phụng) . Mà theo Ngô Tất Tố nhận xét đó là một cái “ nghèo gia truyền”.  Vũ Trọng Phụng phải sớm bỏ học đi làm để kiếm sống. Nơi này sa thải , nơi kia xua đuổi , một nhân viên chức mạt hạng với đồng lương chết đói không xoay sở được , cuối cùng phải sống thực sự với cái nghề làm văn , viết báo chuyên nghiệp , mà lúc đó là cái nghề mà nhà văn gọi là “khổ như chó” .

-         Mẹ Vũ Trọng Phụng là người có lối sống khuôn phép mực thước, bà giáo dục Vũ Trọng Phụng theo lễ giáo phong kiến. Vì thế mà ông phản ứng gay gắt với lối sống Âu hóa rởm đang diễn ra , một xã hội đồng tiền.

ðChính cái nghèo cha ông để lại ấy cùng với những trắc trở , tủi cực trong cuộc đời đã làm cho Vũ Trong Phụng  sớm bất mãn với cuộc đời . Người tài hoa và sắc sảo thì chịu cảnh sống khổ cực còn những thằng bất tài và bất nhân thì cứ phất lên như diều .Ông căm ghét cái xã hội đồng tiền – đồng tiền làm đạo lộn mọi giá trị, tạo ra đủ thứ nhố nhăng , bỉ ổi , trái tai gai mắt...

3.     Môi trường sống

-         Vũ Trọng Phụng chỉ sống ở Hà Nội và hơn hết lại ở đúng nơi trung tâm buôn bán và ăn chơi của nó . Cuộc đời ngắn ngủi của ông chủ yếu gắn với một căn xép ở quãng giữa phố Hàng Bạc . Cuộc sống ở phố Hàng Bạc vô cùng phức tạp , nhốn nháo và xô bồ với nhan nhản những tiệm ăn , tiệm hút , nhà thổ, rạp hát...với đầy rẫy những me Tây , lưu manh , gái điếm và những kẻ có tiền ngang nhiên sống xa hoa, trụy lạc ..

-         Mặt khác , vì sống ở Hà Nội nên ông không có điều kiện tiếp xúc với đời sống chất phác ,  lành mạnh của nhân dân lao động , ông không thấy được bản chất tốt đẹp của người lao động  như những cây bút hiện thực phê phán khác, nhất là Ngô Tất Tố , Nguyên Hồng ... Quanh ông chỉ toàn những hạng bịp bợp , dâm ô , ăn chơi trụy lạc : Giàu thì là con buôn các loại , me Tây thượng lưu , công tử bột ăn chơi ...; Nghèo thì lưu manh , gái điếm , ma cô, bồi săm...

ðMôi trường sống đã tạo điều kiện cho Vũ Trọng Phụng cảm nhận sâu sắc về sự bất công trong xã hôi đương thời . Ông thấu hiểu sâu sắc nỗi thống khổ của nhân dân lao động , sự tàn bạo giả dối của giai cấp thống trị . Với xã hội đương thời – một xã hội “chó đểu” của những kẻ thống trị tàn bạo ,ông bày tỏ niềm căm phẫn , uất ức tột độ . Còn với những người nghèo khổ, những con người dưới đáy , ông bày tỏ sự cảm thương nhưng ông không tin vào bản chất tốt đẹp của tầng lớp “hạ lưu” , dưới đáy của xã hội này.

èNgoài những tác động mang tính cục bộ như trên , thì các yếu tố xã hội –lịch sử, gia đình , môi trường sống  cùng với sự ảnh hưởng của “tư tưởng duy tâm thần bí” của Pháp (đang có sức ảnh hưởng mạnh mẽ thời bấy giờ) còn tác động tới Vũ Trọng Phụng , làm hình thành ở ông cái gọi là “ chủ nghĩa định mệnh” . Trước thực tế cuộc sống bất công và ngang trái , Vũ Trọng Phụng dường như bất lực trên con đường đi tìm nghĩa lý cuộc đời của mình . Để giải đáp mọi sự vô lý trên đời mà ông không giải thích được , ông tìm đến cái gọi là “ Số mệnh xui ra thế” . Ông thừa nhận có một sức mạnh siêu hình an bài ra mọi phúc họa ở đời , nhưng là một sức mạnh mù quáng đẻ ra toàn những cái bất công , ngang trái . Ngay từ việc ông lấy một bút danh khác là Thiên Hư ( Thiên Hư, Thiên Khắc là những ngôi sao số mệnh trong kho tử vi) cũng cho thấy ông rất tin vào tướng số.

Ta cũng có thể thấy yếu tố này đè nặng lên các nhân vật của Vũ Trong Phụng với sự xuất hiện của các thầy tướng , thầy bói (Giông tố - lời tiên tri của ông già Hải Vân...) , hay ở hình thức những điềm báo , may rủi ( Dứt tình – hình ảnh con chim chết cóng sa trước mắt Tiết Hằng báo trước số phận éo le và đau khổ của nàng..) , báo trước số phận của nhân vật.

4.     Con người

-         Vũ Trọng Phụng là con người mang cái nhạy bén của nghề làm báo, có một cái nhìn thấu suốt hiện thực . Đọc văn ông , người đọc dường như tưởng tượng ra tác giả là một tay sành sỏi và thạo đời , đã từng lăn lóc trong các hang ổ cờ bạc , gái điếm... bao năm. Nhưng trên thực tế , Vũ Trọng Phụng ở ngoài đời lại là một con người sống hết sức mực thước và khuôn phép . Điều đó cho thấy tài năng phản ánh chân thực hiện thực của Vũ Trọng Phụng.

Mặt khác Vũ Trọng Phụng lại luôn mang trong mình tâm trạng phẫn uất , phản kháng mãnh liệt – đó là tâm trạng của một thanh niên vừa hăm hở bước vào đời , đã cảm thấy bị vùi dập phũ phàng bởi xã hội bất công , tàn bạo dự trên thế lực của đồng tiền .

ðTrong tác phẩm của Vũ Trong Phụng miêu tả hết sức chân thực và toàn diện một xã hội “chó đểu” và “vô nghĩa lý”. Ông viết tạo ra tình huống và nhân vật trong tác phẩm của mình bằng sự phẫn uất và để trả thù . Ông tô đậm cái ác , cái dâm , cái giả tạo lố bich của chúng  ( tên bạo chúa Nghị Hách , sự dâm ô của mụ Phó Đoan... ) nÔng tạo ra những nhân vật chửi đời (Tú Anh trong “giông tố” , Phúc trong “trúng số độc đắc”...). Hay các nhân vật của ông luôn hằn học đời , uất ức và sôi sục ý nghĩ trả thù ( Long trong “giông tố”, Ấm B trong “cạm bẫy người”...).

-         Vũ Trọng Phụng là người mê tín và rất tin vào tướng số ( Như đã phân tích ở trên) . Quan niệm về tướng số đã xuất hiện trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là một sự lý giải của hiện thực mà ông không giải thích được. Nó đã hình thành ở ông cái tư tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa.

-         Về trình độ học vấn :Vũ Trọng Phụng có hoàn cảnh vô cùng nghèo khó, học hết tiểu học ông phải đi kiếm sống. Chính vì thế mà sự tiếp thu các yếu tố của văn học Pháp của Vũ Trọng Phụng không được qui củ và có hệ thống. Con đường tiếp thu ảnh hưởng ngôn ngữ, tư tưởng và văn học Pháp của ông chủ yếu từ sự tự học và tiếp xúc rộng rãi với các hoạt động báo chí chính trị, văn học sôi động ở nước ta từ những năm hai mươi trở đi. Con đường tiếp thu ấy có nhiều mặt thuận lợi nhưng cũng có nhiều điểm hạn chế.

Thuận lợi là ông có thể độc lập tìm tòi học hỏi những điều gì bổ ích nhất, thiết thực nhất cho nghề văn ông sớm chọn. Ông có thể ham thích một số nhân vật nào đó, một số khía cạnh nào đó, có thể say mê học tập nghiên cứu và tiếp nhận ảnh hưởng một cách nhuần nhị sâu xa trên căn bản không xa rời tinh thần truyền thống và dân tộc. Ông không phải chịu những thứ văn chương áp đặt trong nhà trường thực dân để có thể nhận thức và cảm hứng phóng khoáng hơn.

Nhưng việc tiếp thu như thế cũng dẫn đến một số hạn chế như: Thiếu tính hệ thống, thiếu tính  căn bản sâu xa và vững chắc về triết học để định hướng cho bản thân mình một cơ sở triết học nào đó . Vì thế nên thế giới quan của nhà văn chắc chắn không tránh khỏi những mâu thuẫn phức tạp và nhất là sự biểu hiện tư duy triết học đó trong các tác phẩm văn chương vẫn còn lộn xộn, non nớt và không nhất quán qua các hình tượng trung tâm.

II.               Đặc điểm sáng tác của Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, tuy mất sớm nhưng Vũ Trọng Phụng đã kịp để lại nhiều tác phẩm giá trị. Ông thành công hơn cả ở hai thể loại : phóng sự và tiểu thuyết. Ở mỗi thể loại, ông lại ghi một dấu ấn nhất định. Vì thế khi phân tích đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng thì chúng tôi sẽ phân tích trên hai thể loại chính là Phóng sự và Tiểu thuyết . Thể loại phóng sự gắn chặt với giai đoạn đầu sáng tác  của Vũ Trọng Phụng (1930-1915) còn về thể loại tiểu thuyết thì gắn chặt với giai đoan sáng tác về sau của ông và nổi bật là (1935- 1936) .  Ngoài ra chúng tôi cũng xét tới mối quan hệ gắn bó khăng khít của hai thể loại này trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng .

1.     Đặc điểm phóng sự của Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng thành công với mảng thể tài phóng sự . Ngay từ khi mới ra mắt với hai phóng sự “ Cạm bẫy người” (1933) và “Kĩ nghệ lấy Tây” (1934) , Vũ Trọng Phụng đã gây được tiếng vang lớn và được dư luận phong tặng danh hiêu là “ông vua phóng sự đất Bắc” . Sau này, tài năng ấy tiếp tục được phát triển và khẳng định với sự ra đời của nhiều phóng sự mang giá trị cao , mà tiêu biểu và xuất sắc hơn cả là phóng sự “ Cơm thầy cơm cô”(1936) . Phóng sự của Vũ Trọng Phụng   kết tinh của lối viết vừa có giá trị phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội, vừa thể hiện một trình độ nghệ thuật cao.

1.1                          Tính thời sự, chân thực của hiện thực phản ánh  :

-    Đặc điểm của thể loại phóng sự : Phóng sự đòi hỏi nhiều thời gian và công sức để điều tra, thâm nhập thực tế và phỏng vấn nhiều người. Phóng sự cung cấp cho người đọc một cái nhìn cận cảnh và toàn cảnh về một hiện tượng, thường là đặc biệt, diễn ra trong xã hội. Thông qua những ghi chép cụ thể, sinh động tình hình một vấn đề, một sự việc nào đó đang là vấn đề thời sự mang tính bức xúc, phóng sự thể hiện tính chiến đấu cao độ, dùng sự thật để bác lại những nhận thức còn sai lệch, lấy sự thật đời sống để ảnh hưởng đến nhận thức của xã hội. Do đặc thù thể loại, tính chân thực về thời gian, địa điểm, sự kiện, con người và chi tiết là những yếu tố cốt lõi của phóng sự. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng, cũng như ý thức của ông về tiểu thuyết, luôn đề cao “sự thực ở đời”.

-   Là một người mà môi trường sống, làm việc là xã hội trưởng giả, thị dân giàu có, xa hoa, phè phỡn, đầy tệ nạn, đi kèm với mặt trái là đời sống của người lao động cơ cực, khó khăn, Vũ Trọng Phụng đã phản ánh những vấn đề nóng hổi của hiện thực vào phóng sự của mình. =>  Đây cũng là đặc trưng của báo chí và sự thu hút của phóng sự Vũ Trọng Phụng : nói tới vấn đề mà người đọc quan tâm, những góc khuất cần được phanh phui.

èVũ Trọng Phụng “tả chân hiện thực” – đó là hiện thực về sự tha hóa của đời sống con người thành thị.

Vũ Trong Phụng phơi bày những mặt trái thối tha, ghê tởm của cái ung nhọt xã hội thành thị những năm 30, một xã hội “toàn là quân khốn nạn, quan lại tham nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ, xảo quyệt mà cái xa hoa chơi bời của bọn nhà giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê thợ thuyền, bị lầm than, bị bóc lột” [76]. Hà thành đầy ắp những phường lưu manh, trộm cắp, nhan nhản những trẻ em bị đọa đầy trong kiếp tôi đòi.

Các phóng sự nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng như Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, có sức tổng hợp và khái quát cao độ, động chạm tới những vấn đề có tính qui luật, tính thời đại: Quy luật tha hoá của con người trong xã hội thực dân phong kiến, quy luật thống ngự của đồng tiền, quy luật cạnh tranh gay gắt “cá lớn nuốt cá bé” đến cạn kiệt cả nhân tính, v.v...Ông gọi cái xã hội Âu hóa, văn minh xung quanh mình là xã hội “chó đểu”, “khốn nạn” với  đầy đủ cái lố lăng, xấu xa, đồi bại, con người trong những mối quan hệ cha – con, vợ - chồng, chủ - tớ bị tha hóa, lung lay. Mọi giá trị trở nên vô nghĩa lý trước sức chi phối mạnh mẽ của đồng tiền.

·        Sự ra đời và lên ngôi của nghề gái mại dâm ở thành thị :

Lục xì- thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng ra đời năm 1937, miêu tả nạn mại dâm từ một góc độ khái quát của một công trình điều tra khoa học về tệ nạn này. Thông qua hàng loạt tư liệu được thu thập chính xác và công phu, nhà phóng sự khảo sát toàn bộ nạn mại dâm của thủ đô Hà Nội. Ngay từ những dòng đầu tiên, tác giả đưa chúng ta tới một nhận thức kinh hoàng về tình trạng trầm trọng của nó. Đó là con số 5.000 gái điếm chính thức trong một thành phố chưa đầy 18 vạn dân, nghĩa là chiếm tỉ lệ 3% dân số.

Từ sự phân tích cụ thể và khoa học bằng các con số điều tra, thiên phóng sự nêu ra hậu quả ghê gớm của tệ nạn mại dâm: “Năm 1934, bảy mươi tư phần trăm (74%) binh lính Pháp ở Bắc Kỳ mắc phải bệnh hoa liễu... trong số những người chột và mù của dân mình 70% là do vi trùng lậu mà ra”, “Cứ 4000 trẻ mới đẻ mà chết, thì trung bình chừng một nghìn đứa trẻ, theo lối nói kiêng của người là sài đẹn, là bỏ, là mất, là khó nuôi, nhưng theo khoa học thì chết, vì bố mẹ có bệnh giang mai, hoặc những biến chứng của bệnh ấy” [52]

Rõ ràng, Vũ Trọng Phụng không nhìn nhận mại dâm như một tệ nạn thông thường, cao hơn, là một “quốc nạn” đang hoành hành, từng giờ, từng phút đe dọa, hủy diệt giống nòi. Đây là biểu hiện tầm vóc hơn hẳn của tác phẩm về mặt nội dung.Vũ Trọng Phụng chỉ rõ hậu quả khôn lường của sự tha hoá, sự băng hoại trên phương diện đạo đức, xã hội, nhân phẩm và giống nòi. Tệ mại dâm là một căn bệnh trầm kha, kinh niên, lây lan trong xã hội với một tốc độ chóng mặt, khó lòng ngăn chặn được. Một xã hội nhan nhản những nhà săm, ổ chứa như thế, sự tha hoá, sa đọa của con người là điều khó tránh. Chưa có thời kỳ nào trong lịch sử nước ta, nạn mại dâm lại hoành hành ghê gớm đến như vậy.

Trong “Kĩ nghệ lấy Tây” thì cái nghề lấy Tây thực chất cũng là nghề gái mại dâm – đó là nghề gái mại dâm trá hình , gái mại dâm dài hạn . Vũ Trọng Phụng đã ghi chép về cuộc sống của những “me Tây” xung quanh trại lính lê dương vùng Thị Cầu Bắc Giang với “cái nghề lấy Tây” của họ . Vũ Trọng Phụng đã phơi bầy cuộc sống tạm bợ , ăn xổi của những cặp cợ chồng mà “ người đàn bà chỉ nghĩ tới tiền , người đàn ông chỉ nghĩ tới nhục dục”. Ông cũng cho thấy bản chất của con người ngay trong cái cuộc sống được xem là thiêng liêng “vợ chồng” . Người chồng – những gã lê dương coi lấy vợ bản xứ “cũng như thuê gái trong một hạn dài ngày” còn người vợ - các “ me” thì anh nào đưa nhiều tiền hơn thì là chồng , hết tiền thì cũng hết vợ hết chồng.

·        Sự hoành hành của tệ nạn cờ bạc – một căn bệnh vô phương cứu chữa.

Trong “ Cạm bẫy người” , Vũ Trọng Phụng đã tái hiện chân thực hoạt động cờ bạc bịp có tổ chức dưới sự chỉ đạo của của tên trùm bịp bợm là Ấn B. Bộ máy cờ bạc bịp ấy được tổ chức một cách chặt chẽ và công phu với những “tên chạy viêc” , những “khí giới” , những món nghề và bộ mấy ấy được hoạt động rất sôi nổi và nhộn nhịp . Vũ Trọng Phụng đã lên lỏi vào từng ngóc nghách , phanh phui mọi manh khóe , những món nghề lọc lừa ấy .

 Cũng như nghề mại dâm, nạn cờ bạc lây lan mạnh mẽ dưới sự chi phối, thống trị của đồng tiền trong xã hội thực dân, tư bản. Nó có sức mạnh vô hình ghê gớm. Bất kỳ một đối tượng nào, một khi rơi vào ổ nhện với những mạng lưới tổ chức, với các chân rết giăng “thiên la địa võng” khắp Hà thành, lập tức sẽ bị sa lưới, bị ăn sống, nuốt tươi. Đặc sắc của thiên phóng sự này ở chỗ tác giả không miêu tả thuần túy các sự kiện, không chỉ cung cấp cho độc giả hàng đống tư liệu về nghề cờ bạc như một cuốn bách khoa của nghề mà còn nhìn thấy bản chất sự tha hoá của con người trong xã hội trước sức mạnh đồng tiền mà chưa xã hội nào, một thời đại nào lại có sức tàn phá, huỷ hoại mạnh mẽ, nhanh chóng như vậy

·        Sự bần cùng và tha hóa của những con Sen , thằng ở.

Trong “ Cơm thầy cơm cô” , Vũ Trọng Phụng phời bày bản chất mặt trái của xã hội ( cái xã hôi mà nông thôn thì nghèo đói không kiếm nổi miếng ăn còn nơi Hà Thành thì đầy rẫy những chợ bán người , bị ngược đãi và đày đọa ) , làm thui chột đi bản tính lương thiện của con người , làm tha hóa con người . “Nó làm cho bọn trẻ đực vào hỏa lò với bọn trẻ cái làm nghề mại dâm”. Nó làm ra những “cơm thầy cơm cô” đáng thương trong sự bóc lột của ông chủ bà chủ , nhưng cũng tạo ra những kẻ mạt hạng như lời Vũ Trọng Phụng đã tổng kết ở chương cuối :

Tôi có thể đưa cho các ngài đủ những mẫu hạng về giới cơm thầy cơm cô

Có những đứa đầy tớ bị chủ nhà đánh chết

Có những con Sen được ông chủ quý hơn vợ

Có những thằng nhỏ định bỏ thuốc độc giết cả nhà chủ nhà

Có những thằng bếp nhổ đờm vào nồi cá kho

Có những vú già quyền hành như mẹ “cậu mợ”

Có những thằng xe được ngủ giường Hồng Kông với bà chủ

Có những đứa lúc chủ nhà chết khóc như khóc bố mẹ

Có những đứa liều mạng cứu chủ

Có những quân đốt nhà cứu chủ

Hoặc dắt cướp vào nhà

Hoặc thư đi thư lại , làm nghề ma cô

Có những thằng nhỏ hiếp con gái ông Phán

Có những con Sen bị ông Tham hiếp dâm

Có nhiều.

ðVũ Trong Phụng với khả năng tái hiện chân thực đời sống hiện thực với tất cả những mặt trái của nó .Cách tiếp cận hiện thực trong phóng sự Vũ Trọng Phụng rất thông minh và sáng tạo . Ông đi trực tiếp vào cốt lõi của sự thật và bản chất của hiện thực . Ông phanh phui , mổ xẻ , phơi bày toàn bộ sự thật một cách chân thực , cho dù đó có là sự thật đau đớn nhất của loài người . Vì thế mà phóng sự của ông mang khuynh hướng “tả chân” rất rõ nét , đã khiến người ta không thể không “hãi hùng kinh ngạc về loài người”.

Song đây cũng chính là một hạn chế của ông . Hình ảnh rõ nét nhất của thực tại chỉ được ông thu hẹp trong tình trạng cùng quẫn của những tầng lớp tiểu tư sản và dân nghèo thành thị dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1930 mà chưa đi vào được hiện thực rộng lớn điển hình . Vũ Trọng Phụng gần như có cái nhìn hoàn toàn bi quan, tiêu cực về con người, ông chỉ nhìn thấy trong họ sự tham lam, dâm dật, tráo trở, từ người giàu có, quyền thế đến người nghèo mà chưa nhìn rõ được nguyên nhân sâu xa của những hiện tượng con người ấy.

- Tuy tả chân thực nhưng thiên hướng của nhà văn luôn luôn có xu hướng bộc lộ trực tiếp chủ quan cá nhân của mình , vì thế mà xen vào những cảnh đời, những sự kiện có thực là những hình ảnh chi tiết , nhân vật tưởng tượng thêm một cách phóng túng , đặc biệt là sự xuất hiện của người dẫn truyện. Điều này khiến cho phóng sự của ông bao giờ rất gần với bút pháp tiểu thuyết. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Phóng sự của Vũ Trọng Phụng thường có chất tiểu thuyết, nghĩa là có sáng tạo nhân vật với những số phận

1.2  Tính chiến đấu :

-   Phóng sự của Vũ Trọng Phụng luôn mang tính chiến đấu mạnh mẽ, ông đề ra trong phóng sự của mình những luận đề xã hội lớn lao. Phản ánh hiện trạng xã hội bằng góc nhìn phê phán là tính chiến đấu trong phóng sự của ông.

-   Vũ Trọng Phụng khi viết về các vấn đề xã hội luôn mang một cảm quan, giọng điệu phê phán mạnh mẽ. Ông tìm hiểu sâu sắc nhất là những vấn đề tiêu cực, mặt trái của xã hội, ví dụ như trong “Cơm thầy cơm cô”, ông tiếp cận hiện thực xã hội thị dân Hà Thành hoa lệ không phải từ ánh sáng, sự giàu có mà từ “cổng hậu” tối tăm, hôi hám. Ở đây có chợ bán người với những mụ chủ thầu hết sức xảo quyệt. Bọn này bầy ra hè phố đủ thứ “hàng tươi sống” nam , phụ, lão, ấu rách rưới đói khát để chào hàng với giá rẻ mạt nhất. Cạnh đó là bãi chứa “hàng tồn kho”  vì ế ẩm : nơi sân sau của những quán cơm mạt hạng, người ta phải nằm, ngồi, bên nhưng cống rỗng, đờm dãi hôi hám… Ông nói lên hiện trạng tha hóa về đạo đức từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, trong gia đình thì con khinh thường bố, vợ “chửi chồng như hát hay”, chồng lừa gạt vợ ( “Cơm thầy cơm cô”), mối quan hệ chủ - tớ đen tối nhập nhèm : “có những thằng nhỏ được kì lưng cho cô chủ”, “có những phu xe được ngủ chung giường Hồng Kông với bà chủ”, “có những ông Tham cưỡng hiếp con sen” ; Còn ra đến ngoài xã hội thì nạn mại dân ăn mòn tới 9/10 xã hội, nạn cờ bạc bịp tràn làn với đủ mọi mánh khóe (“Lục xì”, “Cạm bẫy người”)

-    Lên án xã hội, Vũ Trọng Phụng cũng thể hiện sự “không đội trời chung” với thế lực đồng tiền. Theo ông, đồng tiền khiến cho trắng đen lẫn lộn, những phường cướp của giết người nhờ có tiền mà trắng án, những mụ me Tây nhờ có tiền mà được phong đủ loại danh hiệu… Và đồng tiền khiến cho giá trị của con người bị hạ thấp, khiến con người hư đi, tha hóa đi, bất chấp mọi thủ đoạn để có tiền.

- Ông phẫn uất sâu sắc và phản ứng lại cái xã hội ấy bằng ý thức đấu tranh , dù chưa có hình thức cụ thể . Ta có thể thấy nhân vật của Vũ Trọng Phụng luôn sục sôi một khát vong trả thù , nhưng lại là một thái độ trả thù liều lĩnh ( đó cũng là thể hiện sự bất lực trước sự “vô nghĩa lý” của xã hội lúc đó) chưa xác định được kẻ thù đích thực của mình .Trong “Cạm bẫy người” Ấm B đe dọa “ cái bọn làm tôi hư hỏng” , nhưng cái bọn đó là ai và trả thù như thế nào thì đó lại là một câu hỏi chưa có lời giải đáp.

-   Viết lên thứ “văn chương căm hờn” trong phóng sự của mình, Vũ Trọng Phụng thường có cách kết cấu chặt chẽ, cách tràn thuật linh hoạt, phóng túng. Nhiều trang phóng sự như những thước phim tài liệu sinh động, quay từ toàn cảnh đến cận cảnh rồi đến đặc tả. Ngôn ngữ trong phóng sự thường dồn dập, tiết tấu nhanh, gấp gáp như đuổi theo dòng sự kiện, tạo nên sức ép tâm lý, sự hồi hộp theo dõi cho độc giả. Phóng sự của ông là kiểu :phóng sự tiểu thuyết – nghĩa là có thiên hướng tiểu thuyết hóa và giàu kịch tính, bên cạnh nguyên mẫu ông cũng quan tâm đến phần hư cấu nhân vật, khắc họa chân dung nhân vật.

-    Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, : “Điều quan trọng nhất đối với một cây bút hiện thực chủ nghĩa không phải là đi thực tế dài hay ngắn, được “tham quan” nhiều hay ít,. Điều quyết định là tấm lòng có nhập cuộc hay không, tâm huyết có để vào điều mình tìm hiểu và thuật kể hay không”, dù viết bằng một giọng căm hờn, phẫn uất, ta vẫn thấy đôi khi trong phóng sự Vũ Trọng Phụng thể hiện tấm lòng xót thương phảng phất trước số phận của những cô gái làng chơi, những đứa trẻ nghèo bị xã hội thành thị vùi dâp. Vũ Trọng Phụng viết phóng sự vừa như để nói lên một sự thật đau đớn bên trong cái “văn minh” rởm hợm, vừa để thức tỉnh con người, tuyên chiến với cái xấu, cái ác, cái phi nhân tính.

2.     Đặc điểm tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng

    Vũ Trọng Phụng là cây bút lớn của văn học Việt Nam, ít người thành công trên cả 2 thể loại : tiểu thuyết và phóng sự như ông. Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng gây ấn tượng mạnh với độc giả bằng phong cách viết hiện đại, đầy cái nhìn thực tế, có khả năng phanh phui những góc khuất của cuộc sống và thể hiện một hoạt động nghệ thuật nghiêm túc khi quan sát hiện thực ở cả bề rộng lẫn bề sâu rồi mới tích hợp thành những trang viết có giá trị.

2.1 Nội dung, đề tài, cảm hứng :

a.  Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng  có khả năng bao quát hiện thực rộng lớn

-   Vũ Trọng Phụng đưa vào tác phẩm những không gian mang tầm vĩ mô rộng lớn, tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng không dồn nén không gian, thời gian như tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Nam Cao mà lựa chọn tái hiện những mảng hiện thực lớn của đời sống, từ nông thôn đến thành thị,  con người từ những kẻ nắm quyền hành đến tầng lớp dưới đáy xã hội

Ví dụ: Trong “Giông tố”

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung khẳng định: “Qua giông tố, Vũ Trọng Phụng muốn dựng lên bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam đương thời”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng đồng ý với quan điểm trên: “Đọc giông tố, thấy gần như toàn bộ xã hội Việt Nam thời Pháp thu nhỏ lại, thu hình lại”

    Không gian phạm vi rộng lớn : Đó là không gian trải dài từ nông thôn tới thành thị, từ đồng bằng đến vùng rừng núi. Các cảnh không chỉ giới hạn trong cái ấp Trường thành của Nghị Hách và những chuyện sâu mọt trong huyện đường và sau nghị trường, cảnh “xôi thịt ở làng Quỳnh Thôn”, cuộc sống lay lắt  sau lũy tre làng của những người dân nghèo khổ, không khí tởm lợm của những nhà chứa, những tiệm hút

    Nhân vật: Khá đông nhân vật, đủ các tầng lớp khác nhau trong xã hội

+ Những người nông dân : dân chúng làng Quỳnh Thôn

+ Quan lại : Quan huyện Liên, quan tổng đốc, nghị viên

+ Bọn thương nhân giàu có, ăn chơi, trác táng:

Nghị Hách

Ông chủ sòng mà sở liêm phóng không thương hại, mấy cậu học trò vừa ra khỏi lớp đã oán giận xã hội không trọng nhân tài, cụ phán già không được cưới thêm vợ lẽ, ông nhà văn có sách mới bị cấm,tay chủ báo bị kiện vì tội phỉ báng, tay phóng viên thiếu đầu đề, cô gái nhảy vừa đánh mất nhân tình, nhà tài tử cả lương không có người bao trong “Làng bẹp” trên tiệm hút mã tây “Một xã hội thất vọng, trụy lạc, muốn làm cho những điều thất vọng phải tan ra thành khói”,

Đám khách của Nghị Hách “Bọn người mà bề ngoài đủ tỏ ra vẻ doanh nghiệp, vẻ sắc xảo, gian dùng….. trong bọn đấy coi đời như canh bạc lớn, làm việc thiện là để quảng cáo cho mình, làm điều ác mà bắt mọi người phải nhớ ơn, đọc đủ các thứ báo chí mà không biết gì về văn chương hay mĩ thuật”

+ Bọn thượng lưu trí thức, trưởng giả quý phái

Các quan chứ Pháp- Nam trong tỉnh, đám thực khách sang trọng trong bữa tiệc linh đình ở phòng đại sảnh Tiểu vạn trường thành lập vào dịp chủ nhân nhận thưởng bộ tinh

Hội ăn chơi trong một trầu hát xóm khâm thiên, gồm toàn nhưng thiếu niên trí thức, cử nhân, tú tài, giáo sư..mà lăn lóc trong “1 cuộc cuồng dâm dữ dội, một bữa dạ yến long trời lở đất”

+ Những con người có chí hướng, mục tiêu, lí tưởng cao đẹp

Ông già Hải Vân ,Tú Anh

-          Hiện thực trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng còn bao quát được các mối quan hệ trong xã hội, trên mọi bình diện : trong và ngoài mỗi gia đình để thấy được sự phi lí, đảo điên, vô luân của nó : đó là mỗi quan hệ chủ tớ, vợ chồng, cha con đang ngày một một tha hóa,đầy những lừa gạt, loạn luân. Và đó cũng là mối quan hệ đầy mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị với nhân dân lao động.

Vụ kiện giữa Thị Mịch, gia đình và làng Quỳnh Thôn (Nghèo khó, yếu thế) với Nghị Hách (luồn cửa nọ, xoay cửa kia, dùng mưu kế làm hại đối phương). Cuối cùng dù gia đình Thị Mịch được quan tổng đốc giúp đỡ thì Nghị Hách vẫn không sao và Thị Mịch phải về làm vợ lẽ nhà Nghị Hách

Gia đình Nghị Hách: 1 gia đình loạn luân. Cha hiếp dâm vợ chưa cưới của con, con thông dâm với vợ lẽ của cha, anh trai lấy em gái, bà chủ thông dâm với thằng cung văn...

ðXây dựng 1 thế giới nhân vật với những mối quan hệ phức tạp cùng 1 không gian rộng lớn, VTP vạch trần sự thối nát, chó đểu của xã hội đương thời. Thông qua các tình huống truyện đặc sắc VTP đã tố các sự nhố khăng, khốn nạn của tầng lớp trưởng giả thượng lưu, và những áp bức bất công sâu sắc trong xã hội

  “Giông tố”, “Vỡ đê”, “Số đỏ” – là ba tác phảm có khả năng bao quát hiện thực một cách khủng khiếp . Mỗi tác phẩm tập trung vào một mảng hiện thực khác nhau gộp thành bức tranh liên hoàn về toàn cảnh xã hội Việt Nam đương thời.

èTiểu thuyết Vũ Trọng Phụng có cách nhìn nhận hiện thực độc đáo, phát hiện mặt trái của xã hội với trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo :

-  Vũ Trọng Phụng có một khả năng nắm bắt cuộc sống tinh nhạy, biết chắt lọc từ lượng thông tin khổng lồ mà mình thu nhặt những gì là tiêu biểu, nổi bật nhất . Với Vũ Trọng Phụng, “tiểu thuyết là sự thực ở đời”, mà hiện thực đối với ông toàn là những cái xấu xa, tiêu cực, là môi trường tụ tập những “hội chứng” của cái ác, cái dâm, cái đểu, cái rởm…vv, ông gọi nó là xã hội “khốn nạn”, “chó đểu”.

 Cái nhìn ấy thống nhất từ quan điểm nghệ thuật đến sáng tác văn học, hết sức nhất quán từ “Giông tố”, “ Vỡ đê” đến “Số đỏ”, Vũ Trọng Phụng dõng dạc tuyên bố : “Xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn : quan ham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn nhà giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê, lầm than, bị bóc lột…”.

 Quan điểm của nhà văn được cụ thể hóa qua lời Tú Anh trong “Giông tố” : “Văn chương sách vở khiêu dâm, phim ảnh khiêu dâm, phòng khiêu vũ, nhà xăm, những phu xe bảo ông chủ lấy đi trinh tiết của mọi hạng phụ nữ bằng năm đồng, ba đồng, âm nhạc cũng khiêu dâm, những mốt y phục càng nagỳ càng khiêu dâm, nói tóm lại thì bao nhiêu cái xô đẩy người ta vào vòng thương luân bại lí”. Tiếng nói của Tú Anh vừa vang lên thì bắt gặp ngay sự ho ứng đồng vọng của Minh trong  “Vỡ đê” : “Gớm! Sao mà ăn chơi phóng đãng thế! Sao mà xa hoa đàng điếm thế! Cứ như những cái tôi trong thấy ngày hôm nay thì thật là một triệu chứng diệt vong! Hầu hết những nam nữ thiếu niên gnười nào cũng vô lo, vô lự, mặt mũi lại hí ha hí hửng, dương dương tự đắc lắm, đi chơi, đi nhảy mà mặt mày vênh váo làm sao! Thật là một điều sỉ nhục cho một dân tộc mất nước”

Trong tiểu thuyết “Số đỏ” lại hiện ra một xã hội trưởng giả, bịp bợm và lố lăng, với những cô “gái mới” ăn mặc hở hang tự hào vì giữ được “một nửa chữ trinh”, phụ nữ “tiết hạnh khả phong” thủ tiết với hai đời chồng, mọt thằng ma cà bông nhặt ban quần trở thành nhà cải cách, anh hùng cứu quốc…

ð  Trong hiện thực xã hội bấy giờ, cái nhìn của Vũ Trọng Phụng là cái nhìn tích cực, tiến bộ, phê phán mặt trái xã hội, phù hợp với tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động.

     Vũ Trọng Phụng luôn nhìn thấy cái dâm ở mọi đối tượng trong xã hội và miêu tả nó bằng nét bút méo mó, đặc tả : Nghị Hách dâm, sẵn sàng cưỡng bức con gái trên xe, trước mặt tài  xế, Thị Mịch dâm, bà Phó Đoan (“số đỏ”) thì phát sốt lên trước tin đồn về một bác sĩ cưỡng bức bệnh nhân, ra sức ve vãn khêu gợi Xuân Tóc đỏ, thậm chí ông nhìn thấy cái dâm ở một đứa trẻ lên mười là cậu Phước….

Ông bị ám ảnh bởi những vẫn đề tính dục. Cái nhìn của ông bị chi phối bởi quan điểm: “định mệnh sinh lý”, coi cái đó là quyền của tạo hóa, đến cả đạo lý nhân phẩm cũng không có giá trị gì trước những đòi hỏi của bản năng. Cái nhìn này có thể lí giải từ môi trường sống và thể trạng của nhà văn.

    Vũ Trọng Phụng khi miêu tả sự dâm dật như một căn tính, phù hợp với đối tượng xã hội là tầng lớp trưởng giả thì ông đã tạo ra những điển hình bất hủ : như Tuyết với bộ áo “Ngây thơ” với những cử chỉ sỗ sang cùng Xuân, bà Phó Đoan, Xuân tóc đỏ… Tuy nhiên đôi khi quá đề cao tính dục, ông trở nên xa ròi hiện thực, có những kết luận tiêu cực, bảo thủ, một chiều về con người : “Cái tính ăn gian ăn cắp là cái tính của loài người”. “Đã là người thì ai cũng dâm”, “đã là đàn bà thì ai cũng hư hỏng ráo, cũng đáng ghét đáng khinh hết”. Ông có cái nhìn quá khắt khe, nghiệt ngã với xã hội trưởng giả thành thị.

-      Trọng Phụng có một sức sáng tạo độc đáo, phi thường, ông khai thác những nguồn thông tin từ sách báo, từ cuộc sống và thăng hoa cảm xúc, nâng chúng thành các mảng hiện thực lớn, những bức tranh u tối và trần trụi. Ông là bậc thầy trong việc khai thác cuộc sống gián tiếp, khai thác đến mức tối đa và hiệu quả.

 Các nhân vật của Vũ Trọng Phụng có nguyên mẫu ngoài đời nhưng ông không sao chép lại nguyên mẫu đó mà phóng đại, tô đậm, biểu hiện những khuynh hướng mang ý nghĩa chung mà chúng chứa đựng. Chính sức tưởng tượng độc đáo đã giúp Vũ Trọng Phụng tạo nên những hình tượng tiêu biểu, có sức sống như Nghị Hách, Xuân tóc đỏ… Ông đã phát triển hình tượng phù hợp với quy luật và logic đời sống.. Trí tưởng tượng của Vũ Trọng Phụng cũng tuân thủ triệt để nguyên tắc hiện thực.

  b. Cảm hứng phê phán và tính chiến đấu mạnh mẽ :

-  Cảm hứng phê phán trước hết thể hiện ở việc xây dựng nhân vật của Vũ Trọng Phụng : những nhân vật chính, có sức sống trong tác phẩm của ông đều là nhân vật phản diện, ông đã dụng công nghệ thuật,, dùng ngòi bút sắc sảo linh hoạt để thể hiện nhân vật trong sự tương tác với hoàn cảnh sống.

 Theo cái nhìn của Vũ Trọng Phụng, những ông chủ, bà chủ sống trong môi trường trưởng giả đều bất nhân, độc ác, giả dối, lừa bịp (như Nghị Hách, Phó Đoan,Xuân tóc đỏ…) và những người lao động nghèo, những con người ở tầng lớp thấp khi sa vào cái môi trường ấy cũng trở nên đánh mất cái tính thiện trong mình .

-          Vũ Trọng Phụng cũng thể hiện sự thương xót đồng cảm trước số phận những con người nhỏ bé . Trong các tác phẩm của mình, không phải  ông cũng xây dựng được các nhân vật có tính cách tốt đẹp. Ông già Hải Vân- người đại diện cho tư tưởng chính trị. Tú Anh – nhà cách mạng đại diện cho phát ngôn  về quan điểm đạo đức, luân lí của VTP. Thị Mịch – cô gái xinh đẹp, nết na

ðTuy cảm thông nhưng không tin vào bản chất tốt đẹp của tầng lớp hạ lưu dưới đáy xã hội này

Nhưng những con người ấy không thể thoát ra được những vòng xoáy của tiền bạc, của xã hội đen tối tăm.

Dù mang trong mình những lí tưởng cao đẹp, vì Đảng vì giai cấp vô sản toàn thế giới được VTP xây dựng theo bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nhưng rồi cuối cùng trong kết chuyện, ông vẫn chưa thể làm gì để thay đổi xã hội. Kết chuyện mở bởi hình ảnh ông Hải Vân lên tàu ra đi. Có lẽ, đó vẫn chỉ là 1 ước mơ thay đổi mà thôi

Những con người như Thị Mịch, Tú Anh Long .Tuy ông xây dựng họ là những con người có bản chất đẹp đẽ. Nhưng 1 cô Mịch con gái ông đồ, hiền lành ngây thơ, quê mùa, đã hứa hôn với Long – 1 thanh niên trí thức. Sau khi bị Nghị Hách hiếp dâm và phải làm vợ lẽ của hắn thì Mịch thay đổi. Một bước lên bà lớn, Mịch cảnh vẻ, quát tháo con ở, ngoại tình với Long, dâm đãng như 1 người đàn bà có tiền, có thế lực. Ông bà đồ, Cha mẹ Mịch ngày trước thanh bần trong sạch, tôn trọng đạo đức thánh hiền, nay vênh váo trong chiếc xe hơi Nghị Hách, dạo phố Hà Nội, như những kẻ giàu mới phất, mặt mũi phởn phơ, không kém gì hạng người ngày trước ông bà từng khinh bỉ

è   Đối với Vũ Trọng Phụng, cái xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỉ không chỉ là mảnh đất phát triển của cái xấu, cái ác mà còn là mảnh đất làm thui chột đi tính thiện, phẩm chất của con người.Tuy nhiên, ông đã tuyệt đối hóa vai trò của hoàn cảnh mà xóa nhòa đi vai trò của ý thức con người trong cuộc sống, vừa lên án đanh thép cái ác, lại vừa bào chữa, biện hộ cho cái ác.

-    Vũ Trọng Phụng tìm tòi mặt trái xã hội , phê phán nó kịch liệt, từ đó chiến đấu với cái xấu, cái ác. Tiểu thuyết của ông luôn giàu chất phóng sự, người ta gọi đó là những tiểu thuyết phóng sự, do sự mở cửa chào đón hiện thực nóng hổi của đời sống, phanh phui cái xâu xa, cái tồi tệ cũng là biểu hiện của việc ủng hộ cái tốt đẹp, đấu tranh cho tiến bộ xã hội – tiếng nói phù hợp với nguyện vọng thời đại.

2.2                         Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng :

a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật :

-   Nét hấp dẫn nhất trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng có lẽ là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Các nhân vật của ông mang tính chất điển hình rõ rệt : Nghị Hách là đại diện cho tầng lớp đại tư sản hiện đại, hắn vừa có nét giống với một lãnh chúa, vừa có nét tiêu biểu của một gã tư sản : từ việc sống xa hoa trụy lạc trong tòa “lâu đài” nguy nga Tiểu vạn trường thành, đến việc nuôi mười một nàng hầu trong nhà, việc ăn chơi phóng túng và ngông ngạo, nhân vật này vượt xa hơn hẳn đẳng cấp của những Nghị Quế, Nghị Lại, Bá Kiến… Xuân tóc đỏ thì được miêu tả như điển hình của bọn lưu manh từng bước tiến lên địa vị cao trong xã hội thượng lưu.

-   Khi miêu tả nhân vật, Vũ Trọng Phụng sử dụng nhiều bút pháp ngoại hiện : nhân vật không mấy khi hiện lên qua nội tâm, dòng suy nghĩ mà qua của chỉ, hành động... để bật lên tính chất lố lắng, kệch cỡm. Bà phó Đoan lúc nào cũng rêu rao về việc thủ tiết,  nhưng không bỏ qua cơ hội “dâm”, luôn muốn tiếp xúc với phường cưỡng bức, dâm loạn  như tay bác sĩ cưỡng hiếp bệnh nhân, Xuân tóc đỏ… đến cách phục sức của bà cũng mang tính chất hài hước : sự hở hang thái quá đối với một góa phụ thượng lưu, những trang phục Âu hóa kệch cỡm không phù hợp… Hay Xuân tóc đỏ đã bước chân vào thế giới trưởng giả nhưng vẫn nói tục “mẹ kiếp”, “thế thì được nước mẹ gì?”… với những hành động của một thằng lưu manh, nhìn trộm bác gái tắm, phụ nữ thay đồ, “sờ soạng”, “ôm xốc lấy”, “phóng tay”…Nghị Hách thì nhà văn lần theo dấu vết của từng bước tính toán của hắn, những hành động và lừoi nói tráo trở, hắn sẵn sang làm bất cứ việc gì mà hắn thích, có lợi cho hắn như cướp của, vu khống, giết người…

-   Vũ Trọng Phụng thường xuyên sử dụng thủ pháp phóng đại, tô đạm nhân vật, làm cho nhân vật mới lạ so với nguyên mẫu, tuy nhiên đó là sự phóng đại hợp lí để khái quát lên bản chất của những nhóm người, lớp người có chung hoàn cảnh, tư tưởng, lối sống.

b.  Nghệ thuật lựa chọn chi tiết, xây dựng cốt truyện :

-   Vũ Trọng Phụng thành công trong việc lựa chọn chi tiết và xây dựng cốt truyện giàu kịch tính, hài hước, châm biếm sắc sảo, ông hay lấy từ cuộc sống những yếu tố ngẫu nhiên, bất thường để thể hiện cái lố lăng mà đôi khi chính người văn không giải thích được,nên đã mượn tới lời phán của các thày bói, thày tướng dự báo số phận con người : như Xuân tóc đỏ xuất thân chỉ là một thằng bán thuốc lậu, nhặt ban quần, vậy mà từ cuộc gặp gỡ với bà phó Đoan dâm đãng, nó tham gia vào thế giới thượng lưu, hại danh tiếng của Tuyết và đàng hoàng thành rể của cụ cố Hồng, vo tình giết cụ cố cha của cụ cố Hồng mà trở thành ân nhân với gia đình, đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã tạo nên tình huống độc đáo để lần kượt từng nhân vật trong gia đình Văn Minh bộc lộ sự xấu xa,toan tính của mình.

-   Các chi tiết Vũ Trọng Phụng chọn đều rất toàn diện, tự nhiên, phù hợp với nhân vật : vừa có yếu tố ngoại hình, vừa có cử chỉ, hành động, lời nói. Thể hiện tài quan sát, tưởng tượng vượt trội

c. Khả năng tổng hợp lớn về mặt thể loại và các sắc thái thẩm mĩ :

+   Về mặt thể loại :

-    Tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trọng giàu kịch tính và chất phóng sự : kịch tính ở chỗ xây dựng được tình huống nghệ thuật, sự kiện này chưa qua, sự kiện khác đã tới, gây căng thẳng cho người đọc. Vũ Trọng Phụng tạo sự thu hút tới độc giả bằng nhiều cách, nhiều ngón nghề, đôi khi pha tạp cả chất trinh thám.

-  Ông là người có ý thức trong việc :  đưa thờ sự vào tiểu thuyết và tiểu thuyết hóa các sự kiện chính trọ, xã hội đương thời. Đây không phải thời sự của tin tức, sự việc àm là thời sự của tình cảm, thời đại, thời sự kết tinh thành tâm tính, tâm trạng phẫn uất mãnh liệt của tác giả.Ông đã tạo nên kiểu tiểu thuyết- phóng sự độc đáo, đưa vào nghệ thuật hiện thực xã hội nóng hổi.

+   Về sự tổng hợp các sắc thái thẩm mĩ :

     Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng có sự kết hợp các sắc thái bi – hài một cách hài hòa.Trong “Giông tố”, “Vỡ đê” tác giả nói lên tấn bi kịch nhân sinh sâu sắc mà vẫn phảng phất yếu tố hài hước. Vũ Trọng Phụng có biệt tài trong viết tiểu thuyết trào phúng, tiếng cười của ông đa cung bậc, khi hài hước, nhẹ nhàng, khi sâu cay, đả kích. Từ đó, ông xây dựng nhân vật trào phúng điển hình có sức sống lâu bền trong văn học.

III.           Tiểu thuyết “ Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng bên cạnh phóng sự cũng rất thành công ở thể loại tiểu thuyết, các tiểu thuyết tiêu biểu để đời của ông là “Giông tố”, “Vỡ đê”, “Số đỏ”. Đặc biệt, tiểu thuyết “Số đỏ” được nhiều nhà chuyên môn đánh giá cao, kết tinh  tài năng của Vũ Trọng Phụng trong mảng tiểu thuyết trào phúng.

“Số đỏ” là một tiểu thuyết trào phúng, song cần nhấn mạnh, đó là kiểu trào phúng hiện thực, dùng “tiếng cười để tống tiễn” những cái lạc hậu, lố bịch. Vì thế bên cạnh sắc thái hài hước, mỉa mai, “Số đỏ” cũng mang tính chiến đấu, phê phán mạnh mẽ. Trương Tửu nhận xét : “Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết “tả chân đến tàn ác”, “trào phúng đến chua xót

1.     Đối tượng trào phúng của tiểu thuyết “ Số đỏ”

-   Một trong những vấn dề đặt ra với các cây bút trào phúng là phải xác định chính xác đối tượng trào phúng của mình. Qua “Số đỏ”, có thể thấy Vũ Trọng Phụng Đã ý thức khi lựa chọn đối tượng trào phúng.

-    Trong “Số đỏ” Vũ Trọng Phụng nhạo báng, chế giễu hai tầng lớp trong xã hội :

  Thứ nhất, ông chọn đối tượng trào phúng là giới trưởng giả, thượng lưu trí thức:

 Vũ Trọng Phụng chọn bối cảnh xã hội là Hà Thành những năm mưa Âu gió Mĩ, trong cuộc cải cách xã hội của những nhà trí thức, những ông chủ, bà chủ đầy tính chất giả dối, lố lăng, bịp bợm, một xã hội “chó đểu” mà Vũ Trọng Phụng luôn bất mãn, căm hờn.

    Mỗi nhân vật trong xã hội ấy được miêu tả như những hình mẫu quái thai, dị hợm, vô nghĩa lí, từ những nhân vật chính cho tới những nhân vật thoáng qua ( mà những nhân vật này là hình mẫu mà tác giả gặp rất nhiều trong đời thực ) : đó là nhà cải cách TYPN, tạo ra đủ các mốt quần áo Âu hóa hở hang, nhưng lại cấm vợ mình được cải cách, tân thời; Cụ cố Hồng mới ngoài 50 nhưng đã tỏ ra mình già nua lắm, luôn chìm trong khói thuốc phiện và lải nhải một câu : “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”;    Phó Đoan là một mụ góa dâm đãng nhưng được phong là “Tiết hạnh khả phong” vì đã thủ tiết với hai đời chồng, Xuân tóc đỏi một kẻ hạ lưu hãnh tiến một bước thâm nhập vào thế giới thượng lưu giàu sang… Còn các nhân vật phụ như cảnh sát Minđơ, Mintoa, các cụ lang thì nhố nhăng, hám lợi, bon chen kệch cỡm.

Vũ Trọng Phụng đả kích xã hội thượng lưu rởm ấy từ sở thích, thú vui, lời nói, đến hành động : toàn một bọn ăn chơi đàng điếm, cổ vũ Âu hóa, cải cách xã hội, văn minh, thể thao…chung quy chỉ là sự ba hoa rỗng tuyếch cốt thu vén lợi lộc và khuyếch trương thanh thế, thủ đoạn làm tiền của chúng cũng phi nhân tính.

  Thứ hai, Vũ Trọng Phụng đả kích những tầng lớp khác trong xã hội, cái phong trào “bình dân” mà chúng khởi xướng lên nhưng không hiểu gì về nội hàm của từ “bình dân” :

 Vũ Trọng Phụng cười trên những cái ngô nghê, nhếch nhác, ngớ ngẩn của những tầng lớp dưới trong xã hội ấy, “bình dân” được khởi xuống chỉ như một cái mốt thời bấy giờ mà bọn trí thức phải đeo vào cho mình như đeo một cái “mề đay” vô hình, theo lời của nhà “cách mệnh xã hội” Văn Minh : “Bây giờ nói đến quý phái, trưởng giả là cổ hủ, là không đúng mốt nữa, Khắp thế giới, đâu người ta cũng chỉ coi trọng bình dân thôi! Để chỗ cho bình dân, bình dân vạn tuế”. Cảnh tức cười ở ngay phần đầu tác phẩm, khi hai người thợ làm biển quảng cáo loay hoay “cái thẹo chổng lên”, “cái thẹo chúc xuống” còn Xuân tóc đỏ thì nghĩ đến những cái xấu xa khi nghe chỉ thị treo biển. Bà vú già của phó Đoan thì nhầm lẫn cái sân quần là “sân phơi quần” nên phơi ở đấy đủ các mốt quần đùi tân thời của bà Phó trong hôm khai trương sân khiến bà được một phen đỏ mặt.

   Như vậy, bên cạnh tầng lớp trưởng giả, Vũ Trọng Phụng nhìn thấy xã hội Hà Thành là một cái nôi phát triẻn, ươm mầm những cái lố lăng, nên mọi người, mọi vật đều đáng cười, đều hài hước. Cần nhấn mạnh nhân vật Xuân tóc đỏ, hắn vốn chỉ là một thằng ma cà bông chuyên nhặt ban quần, bán thuốc lậu, trèo me trèo sấu, được sự cứu vớt của phó Đoan, hắn đàng hoàng bươcs vào thế giới thượng lưu, và được ủng hộ nhờ có học thứ, địa vị, hiểu biết về văn minh nhưng cốt cách lại rất “bình dân”. Bọn thượng lưu trí thức đánh đồng cái xấu xa, cặn bã, vô học của Xuân trong những tiếng chửi “mẹ kiếp!”, “nước mẹ gì!” với “bình dân” thực sự, và màu tóc đỏ quạch của nó do dãi nắng cũng được người tà hỏi thăm để đi nhuộm cho hợp mốt.

-   Vũ Trọng Phụng đã lột trần bản chất tuy hai mà một của xã hội thượng lưu : vẻ ngoài hào nhoáng, xa hoa, văn minh nhưng bên trong thì rỗng tuyếch, thô kệch, nực cười, nó cũng chỉ là một dạng tồn tại của xã hội hạ lưu thô bỉ mà thôi. Vì vậy Xuân tóc đỏ đã diễn rất đạt vai diễn của mình ở cả hai thế giới, song suy cho cùng nó chỉ là một tê lưu manh gặp thời, việc gia nhập thế giới thượng lưu không làm thay đổi bản chất của nó.  Tiếng cười từ đó bật ra : từ mâu thuẫn đối lập giữa hình thức bên ngoài và nội dung bản chất  bên trong.

2.     Cung bậc tiếng cười trào phúng trong “Số đỏ” :

-   “Số đỏ”  là một tràng cười dài, đa cung bậc. Trong một tác phẩm trào phúng, cũng bậc trào phúng thường gắn liền với đối tượng trào phúng, nhà văn không thể tủy tiện dùng vũ khí trào phúng,. Đối tượng trào phúng của “Số đỏ” rất đa dạng, vì thế tiếng cười của nó cũng đa cung bậc, tác giả không chỉ sử dụng một loại tiếng cười: “Trong trường hợp này, cái cười có tính chất tiêu diệt không thương xót, trong trường hợp khác lại là chế giễu khinh miệt, và có khi thì hiền từ, có khi thì dữ dội, khi thì nhỏ nhẹ, khi thì ồn ào”.

    Tiếng cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giễu cợt :

-   Đó là tiếng cười đối với tầng lớp bình dân, lao động trong tiểu thuyết : cười sự ngô nghê của hai người thợ làm biển, sự ngớ ngẩn của bà vũ già nhà phó Đoan, những hành động lời nói của chị bán mía, cười sự thật thà của lão thầy số… Lúc này, tiếng cười bật lên nhẹ nhàng trước sự ngu dốt, khờ khạo thể hiện qua những suy nghĩ, hành động vụn vặt, ngờ nghệch của họ.

    Tiếng cười châm biếm đả kích sâu cay :

-   Cung bậc tiếng cười này, Vũ Trọng Phụng dành cho giới “ông chủ, bà chủ”, “thượng lưu trí thức” nó nghe như lời nói đùa, nhưng thực chất thâm hậu và sâu cay, đi đến bản chất tận cùng cái lố lăng mà chúng muốn che giấu : bộ mặt đạo đức giả, lấy văn minh, cải cách, đạo đức, tiến bộ để che giấu cái tham, cái dâm, cái độc ác bên trong.

-   Văn Tâm trong “Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực” cho rằng : “Cái cười xã hội tư sản trong “Số đỏ” không phải là tiếng cười rúc rích, rải rác , mà chính là tiếng cười lớn bùng lên như một lời gầm thét phẫn nộ”. Những căm phẫn uất ức, ông dồn lên đầu ngọn bút, đánh chúng bằng ngón đòn điêu luyện  và một nghệ thuật sắc sảo.

3.      Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết “Số đỏ” :

-  Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo nên tiếng cười mang ý nghĩa phê phán. Nhà văn trào phúng tài năng là người có con mắt sắc sảo phát hiện mâu thuẫn trào phúng, dựng nên tình huống trào phúng độc đáo và sử dụng ngôn ngữ trào phúng để tô đậm, nhấn mạnh cái đáng cười của nhân vật.

-    Theo lí luận về nghệ thuật trào phúng và mĩ học về cái “hài”, sự hài hước, tiếng cười được bật lên từ mẫu thuẫn , đối lập giữa cái bên trong với cái bên ngoài, giữa hình thức với nội dung, bản chất.

-    Bằng cảm quan tính tế và sự quan sát, cọ xát thực tế cuộc sống, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện ra mâu thuẫn của tầng lớp thượng lưu trưởng giả giữa bản chất xấu xa, dâm ô, hèn hạ, tham lam với lớp men tráng bóng bẩy hào nhoáng.

          Nghệ thuật xây dựng tình huống trào phúng :

 

-  Để làm nổi bật mâu thuẫn trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã tạo nên một loạt các tình huống trào phúng độc đáo . Đó là những tình huống phản ánh sự đảo ngược của những quan hệ logic thông thường nhằm giễu nhại tính chất vô nghĩa lý của đời.

- Có những dạng tình huống trào phúng “vô nghĩa lý” như sau:

·Tình huống phi lý : Chẳng hạn trong tác phẩm số đỏ có tình huống cảnh sát phạt lẫn nhau cho có đủ năm nghìn đồng theo chỉ tiêu trên giao, cảnh sát mong có người để chó sổng ra đường, hoặc cãi lộn nhau, đi xe đạp không đèn, để nhà cửa mất vệ sinh và đái bậy…để được biên phạt( chương II); tình huông viên quan ở đồn cảnh sát phạt Xuân, thả ông thầy số vì ông này đoán tướng cho hắn hay( chương II); tình huống cụ tổ ốm, Xuân Tóc Đỏ chữa trị cho cụ bằng cách cho ăn rau sam, rau thài lài và uống nước ruộng mà cụ tổ lại khỏi bệnh(chương VII);Tình huống nhà cải cách y phục Týp-phờ-nờ bắt gặp vợ mặc tân thời đã nổi khùng mắng vợ, dồn vợ là “đồ lãng mạn”, “đồ đĩ” (chương V)…

·         Tình huống rủi hóa may: Bị chi phối bởi tư tưởng định mệnh chủ nghĩa, nhà văn đã tạo ra hang loạt tình huống rui hóa may, đày tính chất ngẫu nhiên. Nhân vật trung tâm là Xuân Tóc Đỏ thường được đạt vào tình huống này để bộc lộ tính cách, để thể hiện cái “số đỏ” của nó. Có thể dẫn ra nhiều dẫn chứng: Xuân Tóc Đỏ đang bị giam ở bóp thì tự nhiên được bà Phó Đoan “có long thương người” đến nộp phạt cho và rước về nhà(chương II); không tỏ ra là người thông minh, Xuân bị bà phó Đoan tống sang nhà may Âu hóa, nhưng chính vì thế mà hắn lại được ném vào xã hội thượng lưu và dự vào cuộc cải cách xã hội với một vai trò càng ngày càng quan trọng( chương IV); Xuân cùng Tuyết lên chơi khách sạn Bồng Lai bị nhiều người trông thấy là điều rủi vì sẽ tai tiếng nhưng chính vì sự kiện này mà gia đình cố Hồng đã phải gả cô Tuyết gái mới lãng mạn “còn trinh một nửa” cho Xuân(chương IX); là thủ phạm chính gây ra cái chết của cụ Tổ, Xuân tóc Dổ rất sợ vì biết tội của mình nhưng chính việc này lại đặt Xuân lên địa vị một ân nhân của tất cả những người sống trong cái gia đình “ thượng lưu” này (chương XIV)…

·         Tình huống hiểu lầm:Chẳng hạn cảnh Xuân đọc thơ cảm cúm nhức đầu(mà nó tưởng là thơ thật) mà vị hôn phu của Tuyết phải bái phục như bái phục một thi sĩ trào phúng đích thực(chương X); cảnh Xuân làm cụ Tổ uất lên mà chết, nó sợ phải bỏ chạy nhưng mọi người tưởng nó làm cao và tức giận nên không nhận chữa cho cụ Tổ nữa( chương XIV)….

·         Tình huống đấu khẩu: Để bóc trần cái mặt nạ trò hề ấy của cuộc đời không gì bằng tạo ra những tình huống làm nảy sinh sự cãi cọ để các nhân vật tự bóc mặt nạ. Chẳng hạn, tình huống ông thầy số đấu khẩu với Xuân Tóc Đỏ trong trại giam(chương II);tình huống nhà mỹ thuật TYPN cãi nhau với vợ vì chuyện ăn mặc tân thời của vợ ông ta(chương IV); Tình huống dẫn đến sự trang cãi giữa cụ Hồng ông và cụ Hồng bà về việc con gái của họ cùng Xuân đi thuê phòng ngủ ở khách sạn Bồng Lai( chương XI)…

          Nghệ thuật khắc họa nhân vật :

   Nghệ thuật khắc họa, châm biếm nhân vật của Vũ Trọng Phụng đã đạt đến trình độ tinh vi, xây dựng nên những nhân vật điển hình có sức sống lâu bền. Bút pháp chủ yếu mà tác giả sử dụng là ngoại hiện và điển hình hóa.

·       Bút pháp ngoại hiện

-   Khi xây dựng nhân vật trào phúng, các nhà văn thường sử dụng bút pháp ngoại hiện : “tính chất hài của các tính cách được bộc lộ chủ yếu ở những nét bề ngoài và ở hành vi của con người : ngoại hình, cử chỉ, điệu bộ, hành động,lời nói. Các nhà văn hài hước và các nhà văn châm biếm hầu như không thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật ( hoặc chỉ thể hiện ở mức độ ít ỏi ), nhưng trong tác phẩm của mình, họ lại nêu bật và tô đậm chất hài của những chi tiết tạo hình bên ngoài ( chân dung, miêu tả lời nói của các nhân vật, các cảnh có tình tiết) .

Trong “Số đỏ”, bằng con mắt quan sát sắc sảo và những nét vẽ có thần, Vũ Trọng Phụng đã làm nổi bật những cái phản tự nhiên trong hình dáng, cử chỉ, điệu bộ, cách ăn mặc và những nét thiếu hài hòa, cân xứng trong hình thức của các nhân vật :  Đó là chân dung bà Phó Đoan : “Một bà trạc tứ tuần mà y phục còn trai lơ hơn cả các thiếu nữ, mặt bự ra những son và phấn, tóc đen lay láy nhưng mà quăn quăn, cả người nặng ít ra cũng phải bảy mươi cân, nhưng cái khăn vành dây đúng mốt hết sức thì lại nhỏ xíu và ngắn ngủn có một mẩu” – thể hiện một người đàn bà thích “cưa sừng làm nghé” một cách lố lăng và không phù hợp, cậu Phước “em chã” con bà thì lớn rồi nhưng vẫn tồng ngồng vẫy nước, mặc áo mà không mặc quần, vẫn đòi chị giúp việc phải cõng vào và mặc quần áo cho; Cho đến cụ cố Hồng còn trẻ mà lúc nào cũng chống gậy, ho lụ khụ, mặc áo bông kín mít…

-               Vũ Trọng Phụng còn tập trung khắc họa những hành động, cử chỉ lố lăng quái gở của nhân vật một cách đậm nét,

 Đặc biệt là nhân vật phó Đoan, cái dâm, sự thèm khát tìm  kiếm để thỏa mãn dâm đãng của bà được miêu tả bằng những chi tiết rất “đắt”, bà trợn trừng mắt lên hỏi dồn : “Ai? Ai? Ai thế?” khi Văn Minh kể chuyện một bác sĩ toan cưỡng hiếp bệnh nhân. Bà vào buồng tắm thử Xuân tóc đỏ, dùng"đủ các chiêu khêu gợi “thỉnh thoảng lại vỗ vào bụng, vào đùi bì bạch” rồi “nhìn qua lỗ khóa xem có động tĩnh ra sao”. Còn Văn Minh thì tìm đến Xuân tóc đỏ, thuê hắn chỉ để cứ gặp mình ở đâu, Xuân lại hô to “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng...

 Nhân vật trong Số đỏ cung là những kẻ thích khoe khoang lố bịch .Nhân vật cụ cố Hồng thì rất thích khoe cái sự già yếu của mình, mặc dù “cụ” chưa đến tuổi năm mươi, thích khoe đến cái mức chỉ mong thân sinh của mình chết để được “mạc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy,vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Đọc số đỏ ta thấy không chỉ một cá nhân thích khoe mà đôi khi cả một xã hội thích khoe. Đó là cái đám đông “ngày hội” đám ma cụ cố tổ, đử các kiểu khoe của đủ loại người: cố Hồng ông khoe sự già lụ khụ, cố Hồng bà khoe đám ma to,vợ Văn Minh khoe cái mũ mấn trắng viền đen, cô Tuyết khoe cái áo dài voan mỏng, trông như hở cả nách và nửa vú, bạn bè của cụ cố Hồng thì đủ loại huy chương và đủ kiểu râu ria, cậu Tú Tân thì khoe các lọa máy ảnh và tài chụp ảnh có đạo diễn…

·       Bút pháp điển hình hóa :

-  Đặc biệt ở nghệ thuật xây dựng nhân vật: Vũ Trọng Phụng tỏ ra thành công hơn Nguyễn Công Hoan. Nhân vật của ông tuy được phóng đại đến kỳ quái, phi lý nhưng vẫn chân thật bởi tác giả luôn giữ được cái hạt nhân hiện thực, nhiều nhân vật của số đỏ đã trở thành những điển hình của chủ nghĩa hiện thực , nhằm mục đich phê phán.

-   Ở nhân vật Xuân tóc đỏ, nghệ thuật điển hình hóa của Vũ Trọng Phụng đã đạt đến trình độ bậc thầy. Bằng nhiều chi tiết, tác giả tô đậm bản chất lưu manh, bịp bợm của Xuân tóc đỏ. Lúc mới 9 tuổi, Xuân bị bác nó đánh một trận và đuổi ra khỏi nhà vì dám khoét vách nhìn trộm bác gái nó tăm. Lớn lên, đi nhặt ban quần ở sân vợt, nó lại chứng nào tật nấy, đi nhìn trộm một cô đầm lúc cô này thay váy. Xuân có những hành động tán tỉnh, sàm sỡ hết sức hạ lưu như “phóng tay”, “cấu véo”,  “ôm sốc lấy”… Câu của miệng của Xuân là “nước mẹ gì!”, “mẹ kiếp” khi hắn đã bước chân vào giới thượng lưu trí thức. Xuân không hiểu gì về văn minh, Âu hóa song như một con vẹt, hắn nhắn đi nhắc lại lời người khác đã nói, những phát biểu vô hồn : “…Tôi, từ hôm nay trở đi là đã dự một phần vào cải cách xã hội rồi”, “chúng tôi rất được hân hạnh”…, chẳng biết gì về tiếng Tây thì hắn xem như ta coi thường những kẻ lai căng, chỉ muốn đề cao tiếng mẹ đẻ.

Xuân tóc đỏ không từ một thủ đoạn nào để đoạt được mục đích, hắn dám đe dọa gia đình cụ cố Hồng : “Tôi mà xấu thì chẳng ai đẹp được”, bỏ truyền đơn vào túi hai nhà thể thao Hải và Thụ để họ bị bắt và Xuân giật giải quán quân…

-    Nhân vật Xuân tóc đỏ đã đạt tới giá trị điển hình hiện thực chủ nghĩa xuất sắc. “Số đỏ” là câu chuyện về một thằng lưu manh gặp may mắn hết lần này đến lần khác, và cuối cùng, “một bước lên trời” hắn ngồi ở đỉnh cao danh vọng : có địa vị, tiền bạc, vợ đẹp và danh giá… Bên cạnh lời giải thích mang tính chất duy tâm được gửi trong lời phán của thày bói, ta phát hiện ra sự may mắn đó không mang tính chất ngẫu nhiên mà thuộc về quy luật, bản chất của Xuân thống nhất với bản chất của giai cấp thượng lưu trí thức rởm hợm nên hắn điềm nhiên được cất nhắc vào thế giới ấy mà không gặp bất kì trở ngại nào : vì Xuân là một kẻ dâm đãng nên được bà phó Đoan cứu vớt về nhà, thực chất là chờ cơ hội lợi dụng. Vì hắn hại tiếng tăm của Tuyết nên Văn Minh phải luôn đi theo, tạo cho hắn một bộ mặt danh giá, tốt đẹp… Xã hội ấy đã phát hiện và phát triển tính cách lưu manh vô lại trong Xuân, dẫn dắt hắn từng bước chủ động nắm lấy cơ hội, thậm chí tạo ra cơ hội leo lên tột đỉnh vinh quang.

-  Vũ Trọng Phụng tô đậm nhân vật, song không vì thế mà làm cho nhân vật xa rời cuộc sống, thậm chí Xuân tóc đỏ trở thành tiêu biểu cho loại người hạ lưu, vô học, cặn bã của xã hội, đầy hãnh tiến, nhờ gặp may mà phất lên trong môi trường giả dối và bịp bợm thống nhất với tính cách của chúng, loại người này rất nhiều và ở đâu cũng có. Vũ Trọng Phụng đã giải quyết tài tình mối quan hệ giữa cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên, giữa cái vô lí và cái có lý, giữa cái may rủi cá nhân và cái mang tính quy luật của xã hội “khốn nạn”, “chó đểu” bấy giờ.

=>  Kế thừa và tiếp nối tiếng cười dân gian Việt Nam theo quy luật “tiếp nối và đứt đoạn”, đồng thời cũng mang yếu tố hiện đại của tiếng cười trong văn hóa phương Tây, Vũ Trọng Phụng đã viết nên một tác phẩm trào phúng độc đáo “vô tiền khoáng hậu”,  không quá lời khi Nguyễn Khải đã đánh  giá về “Số đỏ” như là một trong những “cuốn sách ghê gớm” “có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”.

    Ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng:

-         Dựng màn đối thoại vô nghĩa lý: cũng như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thường khắc họa tính cách của nhân vật trào phúng bằng bút pháp ngoại hiện nhưng Nguyẽn Công Hoan thiên về kể, tả những hành động của nhân vật còn Vũ Trọng phụng thiên về miêu tả ngôn ngữ nhân vật. Đặc biệt lầ ngôn ngữ đối thoại. Đọc Số đỏ ta thấy tác giả đã dựng được những màn đối thoại vô nghĩa lý của các nhân vật trào phúng. Đó là những lời đối thoại hoặc là trống rỗng, hoặc là bộc lộ tính phi lý, phi logic nào đó của sự việc, con người. Chẳng hạn, ở chương III, trước sự chứng kiến của ông thầy số và Xuân Tóc Đỏ, hai mẹ con bà phó Đoan đã nói với nhau những lời lẽ thế này: bà phó Đoan “ vừa đặt con chó xuống, vừa nhanh nhảu nói:

- à cậu tắm! Cậu của me ngoan. Me đi vắng, ở nhà có đứa nào đánh cậu không?(…)cậu này đang bần thần vầy nước cho bắn tung tóe ra chung quanh chậu, thấy thế thì quay mặt, ngẩy đầu một cái mà rằng:

             -Em chã!

             -Thế thôi me xin lỗi cậu vậy! Me thơm cậu nhé!

              -Em chã

   Màn đối thoại này tức cười ở chỗ ngôn ngữ đối thoại cứ va vào nhau không tạo được hiệu quả của sự giao tiếp giữa bà Phó Đoan và cậu con trai( cậu Phước)

-         Giọng điệu trào phúng : số đỏ có nhiều giọng điệu trào phúng nhưng giọng chủ đạo là giễu nhại. Thể hiện tập trung ở sự giễu nhại ba phong trào tư tưởng văn hóa đang lên cơn sốt ở xã hội thành thị lúc bấy giờ, những phong trào đã trở thành “mốt thời đại” của cá xã hội nửa Tây, nửa Ta:

+ phong trào Âu hóa:

+ phong trào thể dục thể thao: số đỏ đã giễu nhại một cách sâu cay phong trào thể dục thể dục thể thao, nhất là phong trào phụ nữ tập thể thao, thể ục. Linh hồn của phong trào này trước hết phải kể đến Văn Minh, người hô hào thể thao nhuwg không bao giờ thể thao bởi…”không có thì giờ”. Sau đến vợ ông: bà Văn Minh, một mẫu mực của phong trào thể dục thể thao, “tinh thần thể dục” của bà được thể hiện bằng những hành động thực tế. Với chiếc quần sóc trắng rất đúng mốt, rất “hợp thời trang”, bà say mê đánh quần vợt.Thầy dạy không ai khác chính là Xuân Tóc Đỏ….

+ Phong trào văn chương lãng mạn: trong số đỏ tác giả đã dựng lên chân dung một thi sĩ lãng mạn (vị hôn phu của Tuyết) , nhưng những vần thơ của anh ta không có nghĩa lý gì khi đem ra so sánh với  thơ cảm cúm nhức đầu của “thi sĩ” Xuân Tóc Đỏ, những vần thơ mà khi đọc lên, Tuyết phải reo lên “giời anh là một bậc kỳ tài!Thật là xuất khẩu thành chương. Mà thơ như thế thì thật là trào phúng lắm không kém gì Tú Mỡ.” Còn nhà thi sĩ lãng mạn thì chỉ còn một cách là” than phục” và “cúi đầu” kính cẩn chào Xuân rồi chuồn mất với cái mặt đỏ những hổ thẹn.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #123456