Nam Phương Hoàng Hậu (1914-1963)
Khuê danh là Nguyễn Hữu Thị Lan, tên thánh Marie-Thérèse, sinh ngày 14 tháng 12, 1914 tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang), xuất thân trong một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ. Bà là con gái thứ hai của Nguyễn Hữu Hào, mẹ là Lê Thị Bính, con gái của Lê Phát Đạt ở Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20.

Năm 1926, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, khi đó 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng ở Paris do các nữ tu điều hành. Tháng 9 năm 1932, sau khi thi đậu tú tài toàn phần, bà về nước trên con tàu D'Artagnan của hãng Messagerie Maritime. Vua Bảo Đại hồi loan cũng đi cùng chuyến tàu đó nhưng hai người không gặp nhau.
Về Việt Nam được gần một năm, khi vua Bảo Đại lên nghỉ mát tại Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace do Toàn quyền Đông Dương Pasquier và viên Đốc lý thành phố Đà Lạt Darle sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.
Bảo Đại hỏi cưới bà và hôn lễ được tổ chức ngày 20-3-1934 ở Huế. Khi đó Bảo Đại hoàng đế đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 20 tuổi. Ngay ngày hôm sau, lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Hoàng đế phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu.


Nam Phương hoàng hậu cùng Bảo Đại hoàng đế có tất cả 5 người con:
- Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh năm 1936, tước phong Hoàng thái tử.
- Phương Mai công chúa, sinh năm 1937.
- Phương Liên công chúa, sinh năm 1938.
- Phương Dung công chúa, sinh năm 1942.
- Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh năm 1943, Nhị hoàng tử.

Một biến cố quan trọng đã xảy ra trên đất nước, tiếng súng bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Pháp vào ngày 19 tháng 12 năm 1946, ngay từ tờ mờ sáng, Bảo long đã dời cung An định đến trú ẩn nơi nhà các cha đòng Chúa Cứu Thế, gốc người Gia nã đại. Sau cùng thì cả Hoàng Hậu và các con cũng chạy sang nhà dòng CCT. Nhà dòng dành 4 buồng cho gia đình Hoàng Gia. Trong nhà dòng gồm có 60 linh mục và tu sĩ cộng thêm 130 chủng sinh và hàng chục gia đình Việt Pháp cũng xin vào trú ẩn cùng với Hoàng Hậu Nam Phương và các con.. Không có nước, không có điện, các công chúa hoàng tử đành đánh răng , rửa mặt với một ly nước mà thôi. Để tránh lộ tông tích, Bảo long phải cắt tóc trọc đầu như các chú trong dòng.
Ngày 1 tháng 1 1947 Nam Phương hoàng hậu cùng các con sang Pháp.
Sau đó, vào năm 1947, Hoàng Hậu và các con đã quyết định dời bỏ nhà dòng CCT và đến trú ngụ một nơi an toàn hơn tại nhà một Giám đốc nhà băng người Pháp. Ông Fatard. Một chiếc xe hơi đã đến đón bà chạy dọc theo sông Hương, rồi đến đại lộ Clémenceau cũ, rồi đại lộ Julkes Ferry. O đây cũng đầy người và thiếu thốn đủ thứ, chặt chội hơn ở bên nhà dòng. Tầng hầm có rất nhiều người ở và dùng những tấm màn ngăn cách giữa gia đình này với gia đình kia. Đó là cảnh thời lọan mà gia đình bà cũng phải c hia xẻ với số phận đất nước.
Năm 1950, gia đình bà một lần nữa dời Việt Nam sang Pháp.. Bà chọn ở Cannes trong " lâu đài Thorenc".. Các con, nhất là Bảo Long được gửi đi học nội trú trường Trung học Roches. Bảo long là một học sinh giỏi, thường đứng đầu lớp. Cậu rất giỏi về các môn văn chương, sinh ngữ ngay cả những sinh ngữ cổ như tiếng Hy Lạp. Nhưng có phần kém về toán và khoa học. Dầu vậy, cậu thấy khổ sở vì xa gia đình, xa các em..
Có một biến cố là hôm mồng 4 tháng ba , năm 1950, tên của Thái Tử lọt ra bên ngoài, đăng trang đầu của các báo địa phương nói tới một âm mưu bắt cóc thái tử . Lúc đó dân chúng Pháp mới biết là có một thái tử, con Bảo Đại ở đó. Thế là vùng Masslacq tự nhiên nhốn nháo cả lên. Hiến binh, cảnh sát đầy đường đi lục lọi từng bụi cây để tìm dấu vết.. Người ta cho hay rằng có một nhóm Việt Nam có liên hệ đến những đảng tả phái cực đoan tìm cách bắt cóc Bảo Long.. Tin loan truyền về đến Paris và tờ Rạng đông L!Aurore, số ra ngày 4-3-1950 đã quả quyết là có những phần tử thân Việt Minh tìm cách bắt cóc Bảo Long làm con tin.. Những kẻ định bắt cóc Bảo long đã dùng một chiếc xe để về Cannes mà bảng số xe hơi đã bị cơ quan an ninh nắm rõ. Bảo Long lúc đó mới 14 tuổi, một học sinh nhút nhát nay hình ảnh được đăng trên hết các báo.
Nhưng sau đó, các tin đồn trên xẹp như quả bóng hơi khi tờ báo Buổi Chiều Le Soir, một tờ báo Cộng Sản xác nhận rằng toàn bộ câu chuyện chỉ là chuyện thổi phồng vô căn cứ. Tờ Le Soir đã đi điều tra và xác nhận rằng Cảnh sát ở Cannes chẳng biết gì về vụ này.
Nhưng vụ này đã gây ra hậu quả nặng nề đối với Bảo long. Xe Cảnh sát đã đến đưa cậu đi một cách bí mật khỏi trường nội trú và gửi cậu vào Tu viện dòng Bê nê đíc tô Mandiran, trong vùng Brasses-Pyrénées. O đây, cậu hoàn toản bị cô lập, không ai biết cậu là ai và luôn luôn có một cảnh sát bên cạnh cậu.. ngày đêm được canh chừng , không được bước ra sân và cái thú vui duy nhất là đọc sách, dĩ nhiên là sách đạo đức.
Sau hai tháng khổ nạn, cậu được trả về trường nội trú ít lâu, rồi lại chuyển đến một trường Roche khác ở Norrmandie. Ở đây Bảo Long đã đỗ tú tài vào năm 17 tuổi và cũng vẫn luôn luôn có một cảnh sát bên cạnh. Cậu không có bạn, chỉ có sách. Không có đàn bà. Không giống cha cậu. Chán cảnh sống , lúc nào cũng bị canh chừng. Cậu quyết định xin với Bảo đại về học trường Sĩ quan Đàlạt vừa mới được thành lập ở Đàlạt theo thỏa ước được ký kết giữa Bảo đại và Tổng thống Vincent Auriol.. Bị từ chối và từ đó, cậu đã không bao giờ có dịp về Việt Nam nữa.
(phần viết về Bảo Long trên đây được lấy lại từ cuốn Bảo đại của Daniel Grandclément)
Phần Bà Nam Phương, từ năm 1950 khi sang Pháp, dòng họ Nguyễn với Bảo Đại kể như không còn ở trong mắt Bà nữa.
Năm 1950, con gái út mới 8 tuổi, ai có thể chia xẻ nỗi đau của Bà. Bà có thể làm gì được để gánh nổi cái gia tài Bảo Đại đã để lại. Bà quyết định mang các con sang Pháp, phần lo chuyện học hành của chúng là chính, phần tránh xa những nhớp nhúa của dư luận. Bạn bè cũ nay còn ai. Gần như không còn ai.
Bà ra đi, Bảo Đại càng đi xuống. Nay thì có những tôi thần như Bảy Viễn, Phan Văn Giáo cung cấp cho ông tất cả những gì cần thiết ở đời: tiền bạc và gái đẹp.
Phải chăng, ông chán ngán thế sự để buông rơi vào chỗ bê tha. Phải chăng ông chán ngán tình đời đi tìm quên đời bằng thân xác người phụ nữ. Lấy cái gì để bào chữa cho ông trong việc phẩy tay chuyện đất nước. Viết về ông thấy cả đời ông chẳng làm đuợc tích sự gì, ông chỉ làm được một điều tốt là cả đởi làm chính trị ông chẳng làm hại ai bao giờ, dù là những người đã bỏ ông như Ngô Đình Diệm và nhất là Hồ Chí Minh. Cả cuốn sách ông viết, chẳng bao giờ thấy ông hạch tội hay nặng nhẹ với những người như ông Ngô Đình Diệm. Vậy mà tôi vẫn oán giận ông, chắc là tôi không cần nói ra, ông vẫn khắc hiểu hơn ai hết. Nhưng dù sao, mọi chuyện cũng đã quá muộn rồi. Nói gì nữa bây giờ cũng vô ích.
Riêng Hoàng Hậu, tháng ngày còn lại ở bên Pháp đã từng bước, bước đến chỗ để về. Bà đã chọn chốn nới an nghỉ cuối cùng của đời bà tại Chabrignac, cách Brive-la-Gaillarde khoảng chừng 30 cây số. Một cái làng hẻo lánh với dân số chưa tới 400 người với những ngọn đồi và những căn nhà mái ngói sạm. Đó là nơi để an nghỉ, để về, về thật. Nó chẳng có chút dấu vết gì của Cannes hay đàlạt, ngoại trừ vài cây thông như núi rứng Đàlạt..
Bà đã chán thế sự, chán cái đời sống của một gia đình Hoàng Gia với những lễ nghi, những thù tiếp. Chán tất cả. Bà đã mua một dẩy nhà bằng đá, dựa vào lưng chừng đồi nhìn ra quang cảnh đồng quê trải ra với những cánh đồng ruộng và ao hồ... Khác với chồng bà ăn tiêu xài phí, túi lúc nào cũng nhẵn. Bà có một sản nghiệp riêng như ở Neuilly, nhà cửa ở Maroc, một căn nhà ở đại lộ Opéra, một lãnh địa ở Congo và những đồ vật quý giá. Tất cả nhửng chi tiết viện dẫn này chỉ được viết ra một cách dè dặt, vì chẳng dễ gì, người ta có thể biết được đích xác những tài sản của bà.
Lãnh địa Chabrignac gồm 160 mẫu đất và hằng trăm bò sữa. Căn nhà gồm 32 phòng, 4 buồng khách. Bà có vẻ thích hợp vớ nơi ở mới này. Những người phục dịch nhớ lại bà tươi cười, ca hát và ham sống khác hẳn trước. Ba tự đi mua sắm một mình trên chiếc xe Dauphine luôn luôn có một người đàn bà hầu cận. Tất cả nhửng người phục dịch cũng như 4 người nhà nông đều được bà quý mến, quà cáp. Bảo Đại có đến đây 3 lần trong suốt 5 năm trời Bà ở đây.
Điều trớ trêu của lịch sử đến kỳ diệu là cũng ở đây là nơi cư ngụ của hai nhân vật nữ hàng đầu của Việt Nam : Hoàng Hậu Nam Phương và công Chúa Như Lý, con vua Hàm Nghi. Thời trẻ, công chúa theo vua cha bị đầy sang Algérie rồi sau đó về cư ngụ ở đây. Nhưng hai bà không có giao thiệp với nhau.
Tuy vậy mỗi ngày, mỗi năm tháng cứ héo mòn đi như cái cây không có nước, cứ ủ rũ cho đến lúc tàn lụi. Ngày một, ngày hai, mỗi ngày vẫn phải chạm chán với cuộc sống thực bên ngoài và nỗi cô đơn bên trong. Nổi cô đơn từ mọi phía, nỗi cô đơn cã đời. Đến như tôi có thể dám thốt ra lời này: Chỉ nhìn con mắt, cảm nghiệm được đời bà là một niềm cô đơn. Đừng ai hạch hỏi tôi tại sao nói thế?
Tháng ngày vẫn trôi qua, dần dần những trông đợi thù đáp nơi người, niềm hy vọng có ngày trở lại bị xói mòn sẽ dấy lên những câu hỏi về cuộc đời, về cớ sự đa đoan, về tình người và cuối cùng về tình vợ chồng.
Ngày 13 tháng 9 năm 1963, bà từ Brive trở về thấy đau cổ. Hôm sau, bà thấy khó thở. Những người bồi phòng kêu bác sĩ tới, nhưng không có ai. Bà cứ thế thở dốc lên, mệt nhọc như tắc thở. (Bà vốn bị bệnh suyễn nặng). Cảnh sát, lính cứu hoả đến làm hô hấp nhân tạo. Nhưng đều quá trễ. Bà chết nghẹt thở vào lúc mới có 49 tuổi. Bà sống cô đơn thế nào thì mất im lặng như thế ngày 14-9-1963 tại làng Chabrignac. Bên cạnh chỉ có hai hoàng tử và ba công chúa sau mới về. Thực sự chỉ có hai người giúp việc bên cạnh lúc Bà mất.
Ngôi mộ của Bà ở một nghĩa địa nhỏ, gần như bị che lấp bởi những ngôi mộ đồ sộ khác có ghi bằng tiếng Pháp:
" Nơi đây an ngh Hoàng Hậu Annam, tự Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào"
( Ici repose l!impératrice d!Annam née Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào ).
Đặc biệt trong buổi lễ, có bà Công Chúa vừa là hàng xóm, vừa là bà con với Hoàng Hậu mà trong năm năm, họ chưa hề bao giờ gặp nhau.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip