Chap 30: HỈ ( 囍)

Viết cho người đã khuất nhưng trong lòng chẳng vơi chấp niệm trần thế. Trúc Dịch-Quân Nhạ. Nhưng nỗi oan chưa thể gột rửa.

"Một chải chải tới đuôi
Tình duyên vẫn đứt đoạn
Hai chải răng long đầu bạc
Chẳng phải cùng người trong tâm
Ba chải con cháu đầy nhà
Ngươi đoán xem sao nàng khóc rồi lại cười?"
-Chấp niệm nhất sinh-

Đã qua một mùa Trúc Dịch mất, người ta luôn nghĩ hồn nàng vẫn phảng phất đâu đó nơi Thiên Kịch Rạp. Cả đời nàng sống trong sự bao bọc của Bất Nhiễm Vương, cuối cùng lại chết dưới tay một tên lính hèn làm nhục.

Có lẽ Trúc Dịch cố gắng chống cự đến ngày hôm đó để sinh được Bất Quân ra đời. Đứa bé sống sót, nàng mới có thể ra đi thanh thản. Cuối cùng Trúc Dịch có thể vẹn tròn xuống suối vàng thăm Quân Nhạ được rồi...

Câu chuyện bắt đầu từ đám cưới đầu tiên của Tranh Tịch và Thanh Vấn. Trúc Dịch là một trong những vũ cơ chính được Thiên Kịch chọn để biểu diễn khúc "Sứ Thanh Hoa" trong yến tiệc.
Với vẻ ngoài như sánh với vạn châu sa, đôi mắt lấp lánh ánh lên sự sắc sảo. Đôi môi ngọt được lớp trang điểm dày cộp đè lên.

Khi ấy Quân Nhạ-vị tướng quân tài ba song hành với Thanh Vấn, lập lên nhiều chiến công trong nhiều trận chiến cũng đến dự tiệc. Ngay ánh mắt đầu tiên, người chàng đưa tia sáng đến là Trúc Dịch.

Có lẽ cả cuộc đời này, chàng chẳng bao giờ gặp được một thiếu nữ mảnh mai đến thế. Người yêu từ khuôn tay mềm như lụa, đến mái tóc đen tỏa ra mùi hương nhẹ hoa cúc.

Sau khi buổi tiệc kết thúc, Quân Nhạ vào trong phòng trang điểm của Trúc Dịch, gói một bức thư hẹn hồi âm. Những rung cảm đầu tiên vội chớm nở bắt đầu cho câu chuyện tình yêu của người tướng quân mang danh sử sách. Từ khi đó cũng ám chỉ nhiều bi kịch bí ẩn xảy ra...

Họ gặp nhau vào Tết Trung thu dưới chân kinh thành. Hẹn ước dưới ánh trăng, mắt chạm mắt, môi chạm môi đầy e ngại. Lúc đó Trúc Dịch mới chỉ là nữ nhân gần mười tám chưa biết gì về cái gọi như tầng lớp bình dân và thượng đẳng.

Quân Nhạ cũng vì tình yêu quá hoa bướm và bỏ xa những thứ chia rẽ tưởng chừng rất quan trọng.

Chàng dẫn Dịch nhi về Nhạ gia, ngay từ khắc chạm mặt đầu tiên, Nhạ phu nhân đã cho nàng cái tát thật đau đớn:

-Ngươi nghĩ mình cao thượng lắm sao?

Ánh mắt Trúc Dịch long lanh, với nét ngây thơ đến đau lòng, chỉ biết bật khóc rồi quỳ xuống.

Nhạ phu nhân gieo bao nhiêu cau nói cay độc lên tinh thần của cô nương vừa tròn mười tám.

-Ngươi nghĩ với thân phận vũ cơ hát trong rạp kịch của mình có thể một bước vào Nhạ gia làm chính thất được sao? Rốt cuộc là phải vô liêm sỉ đến mức nào?

Bà nói với vẻ ngậm cay nuốt đắng.

Quân Nhạ bị phu nhân ngăn cản không được động đến ả ta dù chỉ một bước.

-Nếu con còn có ý định mang nó về đây thì đừng bao giờ gọi ta là mẫu thân nữa. Cả cuộc đời này, ta chỉ có một người con dâu là Nguyệt Kiều. Gió tầng nào gặp mây tầng đó, ngươi nghĩ mình là ai?

Sau đó bà ta ra lệnh cho quân lính đến đưa Trúc Dịch cút khỏi Nhạ gia với ánh mắt cay nghiệt, coi nàng như cái gai trong mắt, quyến rũ hài nhi của Nhạ phủ.

Trái tim thiếu nữ như vụn vỡ ra từng mảnh, từng vết nứt đã không được nguyên vẹn. Cuối cùng mối tình đầu này cũng bị đáp lại bằng một cái tát.

Hôm ấy trên đường về, Trúc Dịch gặp một cơn mưa rất to rồi ứ thế đi trong vô thức, không thể làm chủ được bản thân. Từng giọt nước mắt cứ tuôn rơi, nhưng trong lòng đã chết được vài khắc.

Từ khi ấy, Quân Nhạ không liên lạc được với Trúc Dịch nữa. Rồi ngày cuối cùng đến, nàng biết tin chàng chuẩn bị thành thân với Nguyệt Kiều-đại tiểu thư của Nhược tể tướng. Trúc Dịch có ý định vùi mình dưới đại dương sâu thẳm. May mắn được Tranh Tịch phát hiện và ngăn cản.

Tranh Tịch đã đến và cho Trúc Dịch một niềm tin mới, chính hoàng hậu đã ban cho nàng sống thêm một kiếp người. Thanh thản chưa được bao lâu thì hai người lại có dịp tương ngộ. Vào một đêm trăng sáng dưới chân kinh thành nơi bọn họ đính ước, khi ấy Trúc Dịch đã tròn hai mươi tuổi.

Nữ nhân ấy đã biết trân trọng những gì mình có, không còn khóc cho những thứ chẳng thuộc về mình. Nhưng cuộc gặp gỡ với Quân Nhạ dưới vầng trăng lại vô tình khiến Trúc Dịch tương tư thêm một lần nữa.

Thiên hạ đồn thổi, Nguyệt Kiều không có khả năng sinh con cho Nhạ gia. Nhạ phu nhân từ khi ấy mà quay lưng, xui khiến Quân Nhạ tiếp cận Dịch nhi một lần nữa để sinh quý tử. Sau khi mọi chuyện nguôi ngoai thì an ủi Nguyệt Kiều bằng cách sẽ đuổi Trúc Dịch ra khỏi phủ.

Quân Nhạ nghe mẫu thân nói mà lòng đau khuôn xiết. Trách sao được khi Nhạ gia chỉ có một người con nối dõi tông đường là hắn? Mặc dù không muốn lợi dụng Trúc Dịch nhưng vì quá thuơng gia đình. Hắn lừa gạt niềm tin người khác không cần biết đúng sai.

Sang mùa đông hôm ấy, tuyết rơi trắng Thiên Kịch Rạp. Quân Nhạ đến và quỳ trước Kịch phủ. Cầu xin Tịch đại nhân cho gặp Trúc Dịch để dãi bày tấm lòng.

Hắn quỳ trước cổng hai ngày hai đêm, đại nhân cũng e ngại, khó nói. Bắt buộc phải cho truyền Trúc Dịch.

Sau cuộc nói chuyện sáng hôm đó, chẳng hiểu Quân Nhạ đã cho Dịch nhi uống thuốc gì, nói những lời gì. Nàng nhất quyết xin Tịch phủ cho thành thân nên vợ chồng với tướng quân.

Tranh Tịch, Xuân Hoa và mọi người trong phủ ra sức ngăn cản nhưng đều bất thành.

-Muội có biết hành động bây giờ là ngu ngốc lắm không?

-Muội tin tưởng huynh ấy, thật ra bao lâu nay muội vẫn còn yêu tướng quân rất nhiều. Tỷ tỷ, muội chỉ còn cách tin vào tỷ thôi...

Trúc Dịch vừa cầu xin Tranh Tịch vừa khóc.

Hòang hậu cũng vì lòng thương người mà không còn ngăn cản. Sáng đầu đông hôm ấy, Nhạ gia mang sính lễ đến cầu hôn Trúc Dịch. Kể từ lúc ấy, được phong làm thiếp của Nhạ tướng quân-Trúc di nương.

Tưởng hạnh phúc được nhường nào, từ khi về phủ, cuộc sống nàng giống như nô tỳ trong hoàng cung. Sáng sớm hôm nào cũng phải xách nước, giặt giũ, nấu cơm cho Nhạ gia.

Nếu có gì sơ suất sẽ bị mắng chửi, hơn thế dưới cái nhìn được khắc nghiệt của chính thất Nguyệt Kiều, Trúc di nương bị đày đọa sống không bằng chết.

Khi có Quân Nhạ, Nhạ phu nhân sẽ tỏ ra hết sức tử tế. Nhưng khi tướng quân lên triều, nàng sẽ bị hãm hiếp, đánh đập. Có khi còn nhốt trong điện bên cạnh phòng đọc sách của tướng quân. Nhiều nhất là một mùa, ít nhất là mười đêm.

Có nhiều lúc muốn về Thiên Kịch Rạp thăm đại nhân và tỷ muội, nhưng đều bị Nhạ gia ngăn cản.

-Ngươi nghĩ ngươi có huyết thống với gia phủ đấy à? Ngươi nghĩ mình cao sang lắm sao? Được làm thiếp ở đây đã là điều phi thường rồi, lo mà biết thân biết phận của mình đi. Trước khi ta giết chết ngươi trước mắt Quân Nhạ!

Bi thương vội chảy ngược, hóa thành dòng sông cuộc đời. Thân phận ca nhi bé nhỏ chẳng đủ sức cứu Trúc di nương ra khỏi hôn nhân đầy cám rỗ. Những đêm thức trắng ngắm nhìn vì sao trên bầu trời lại thổn thức nhớ đến quê nhà.

Nhớ những ngày êm đềm trôi như cánh diều trước gió, những ngày ca múa chẳng biết đường đi lối về.

Có lẽ đó là lúc Trúc di nương cảm thấy nàng đang được làm chính mình chứ không phải như bây giờ làm mục đích hưởng lợi cho người khác.

Cuộc đời người mĩ nhân phải nhục nhã đến nhường nào mới chịu đựng thân phận thê thiếp. Phải đau đớn đến nhường nào để gánh chịu muôn lời của thiên hạ.

Mĩ nhân cũng có lòng tự tôn, nhưng vì sự nghiệp lớn buộc phải buông bỏ để dành lấy hạnh phúc của đời mình.

Ngờ đâu tất cả đều hóa lừa dối, chính cái buông bỏ của lòng tự tôn đã đẩy di nương xuống vực thẳm của chế độ, mãi mãi không thể ngẩng đầu, ngang nhiên nhìn thiên hạ được nữa.

Nguyệt Trang phủ, đêm nay trăng sáng, có thiếu nữ nhỏ nhìn ngắm thế gian. Cái lạnh Thành Đô bao trùm lên hình hài mĩ nhân nhỏ nhắn, lộ vài vết sẹo do bị đánh đập.

-A Hiền, muội thấy không? Hôm nay tuyết rơi rồi...

Trúc Dịch nói chuyện với một nô tỳ thân cận.

-Mùa này Thành Đô năm nào cũng lạnh cóng, di nương vào trong khỏi cảm...

A Hiền nhắc nhở.

-Đúng là có lạnh nhưng không bằng lòng người được...

Di nương thở dài.

-Dạo này nghe nói giặc trong, giặc ngoài vẫn lan man, dân di cư khắp nơi, thiên tai lọan lạc.

-Tướng quân lại phải ra chiến trận một lần nữa. Lần này sợ không đơn giản...

Ánh mắt Dịch nhi ánh lên sự lo sợ.

-Di nương yên tâm, mọi chuyện rồi sẽ ổn...

A Hiền cố gắng an ủi.

Trúc Dịch đứng gọn vào gốc đào xơ xác. Lặng lẽ ngắm tuyết trong sự bồn chồn tột cùng.

Sáng hôm sau ở Phi Hoang Điện,

-Tướng quân, Trúc di nương đến.

Một thị vệ thân cận bẩm báo.

-Được, cho nàng ấy vào.

Bước chân Dịch nhi cẩn trọng, bàn tay trắng mềm pha trà. Vài ba cọng đào thả bay bay.

-Hôm nay thiếp đặc biệt chuẩn bị trà hoa Giang Nam. Mong người thích.

Giọng nói nhẹ nhàng, thoang thoảng.

-Vẫn là nàng chu đáo nhất!

-Thiếp nghe nói, tình hình dân chúng ngày càng loạn..."

Nói đến nửa chừng vội dừng lại.

-Đúng vậy, sáng hôm sau, ta phải lên đường. Chuyến đi này e là khó hơn tưởng tượng. Nếu như...

-Xin chàng đừng nói nếu như, thiếp tin chàng sẽ bình yên vô sự. Dù có chuyện gì, thiếp vẫn trung thành theo chàng đến địa tào âm phủ.

Trúc di nương quỳ xuống.

-Trời lạnh lắm, nàng mau đứng dậy khỏi ốm.

Tướng quân vội chạy đến nâng Trúc Dịch dậy.

-Dịch nhi, cả đời này ta có lỗi với nàng, ta đã mang nàng vào cuộc hôn nhân này... Nếu có chuyện gì sơ suất, ta viết đơn hòa ly này để nàng có thể bình yên về Thiên Kịch Rạp. Mẫu thân sẽ không thể làm khó.

Quân Nhạ đưa bức hòa ly đến trước mắt.

Nước mắt Trúc Dịch rơi lả tả, cũng giống như từng cánh đào ngoài kia bay phất phới, rồi thản nhiên rơi xuống.

-Dịch nhi không cần về nhà, thiếp chỉ cần chàng thôi, làm ơn...

Đôi mắt đỏ hoe với nỗi niềm khó nói cứ thế mả đỏ dần.

Hai người họ ôm nhau trong cái giá lạnh của Thành Đô. Ngươi có tin vào sống chết không? Có thể thiên hạ nói Trúc Dịch hoàn toàn sai, sai vì rung động Quân Nhạ, sai vì bước chân vào Nhạ gia-cái nôi địa ngục sống không bằng chết.

Nhưng có nhiều chuyện người trong cuộc mới hiểu, buộc phải chịu đựng được-đấy mới là tình yêu. Chỉ cần có tình yêu, thì tất cả đều đúng. Nếu nói Trúc di nương sai thì tất cả mĩ nhân Thành Đô đều ngu ngốc hay sao? Cuộc tình đau nhất không phải là yêu chẳng được đáp trả, mà là âm dương cách biệt. Sống chết khác nhau, mãi mãi không được gặp lại.

Hai tháng sau, cuối mùa đông, Thành Đô càng lạnh lẽo. Di nương ngồi trong phủ ngắm tuyết qua khung cửa may áo cho tướng quân nơi chiến trận. Đã mấy tháng rồi, chẳng có tin tức người tình từ phương xa, lòng chẳng tránh được thấp thỏm.

-Tối nay người lại mất ngủ à?

A Hiền thẩn thơ trước cửa.

-Em nói chiến trường đang thức trắng đêm vì bảo vệ giang sơn, người ở nhà sao mà dám ngủ?

Giọng nói mất hồn, bàn tay đang đan áo mà cứ run run theo nhịp nói.

-Di nương đừng lo lắng, em nghe nói mọi thứ đã yên ổn được mấy phần rồi. Chỉ là giờ ở An Dương, mấy cuộc khởi nghĩa nông dân vẫn diễn ra. Được lệnh triều đình, tướng quân buộc phải dẹp lọan hết mới có thể trở về.

Bất ngờ Trúc Dịch bị một mũi kim trọc vào tay, như có điềm xấu chẳng lành. Nàng ngước lên nhìn A Hiền.

-Di nương bị chảy máu rồi...

-Ngươi, mau mang giấy bút lại đây, ta nghĩ mình nên viết thư cho tướng quân.

-Tuân lệnh.

Từng nét chữ gọn gàng trên mặt giấy. Trúc Dịch là người ít học nhưng thuở nhỏ cũng được Tịch đại nhân kèm cặp rất chu đáo. Nàng cũng có thể coi là tiểu thư của nhà họ Tịch chứ chẳng phải ca nhi như thiên hạ đồn đại...

Trong thư viết:

"Thiếp nói hậu phương ngày đêm mong ngóng. Phúc Kiến bốn mùa lạnh lẽo, vốn không kẻ đi kẻ về. Mà giờ lại náo nhiệt, lọan lạc như thế. Tướng quân ở phương xa nhớ giữ gìn sức khỏe. Thành Đô vẫn như vậy, bốn mùa trăng gió, bốn mùa tuyết rơi, bốn mùa nhớ người nơi tiền tuyến..."

Ở An Dương,

-Bẩm báo tướng quân, có thư của Trúc di nương đặc biệt gửi đến.

Quân Nhạ bây giờ đã rất yếu, chàng bị trúng mũi tên độc gần ngực. Có thể chẳng cầm cự được bao lâu nữa...

-Mau ...đọc n...ó lên...

Hơi thở người càng yếu hơn, nhưng ánh mắt vẫn mong chờ. Dường như đang cố gắng nán lại trần thế vài phút để nghe nốt lời nương tử muốn nhắn nhủ...

....

Nước mắt cũng tuôn rơi từng giọt, mái tóc ngày nào còn xanh giờ đã xác xơ, bờ môi tím tái.

-Tướng quân, giờ người có thể nhắm mắt thanh thản được rồi...!

Đôi môi cố gắng nở nụ cười, chàng thì thầm vào câu gì đó rất dài, nhưng người ta chỉ nghe được:

-Kiếp.. này... ta... nợ... nàng một gia đình hạnh phúc...

Trút hơi thở cuối cùng, Quan Nhạ ra đi. Hôm ấy trời mưa tuyết xối xả... Được nghe tin báo:

-Tướng quân qua đời rồi.

Bọn họ đã nói dối nguyên do cái chết, chỉ báo về rằng, do mải đọc thư của di nương mà không để ý trúng tên của giặc.

Trúc Dịch hoảng lọan, đôi mắt đỏ au, con tim thắt lại.

-Tất cả là do ta, ta đáng chết.

Nàng điên cuồng đạp phá đồ đạc. Mặc A Hiền ra sức ngăn cản.

-Nô tỳ xin người, xin người. Không phải lỗi của người, thế giặc vốn khó, tướng quân ra đi là chuyện có thể xảy ra. Người không có lỗi, em xin người...

A Hiền cũng òa khóc, nắm chặt lấy chân váy Trúc di nương.

Trúc Dịch khóc cạn nước mắt, bàn tay run cầm khung cửa sổ chẳng vững.

-Tại sao? Cuộc đời ta vẫn chưa đủ đau khổ hay sao?...

Nàng chất vấn chính mình...

"Không nguyện nhuốm đời thị phi, sao liệu được sự đời ngang trái

Đóa hoa trong lòng đã héo khô, thời gian đã qua chẳng thể quay trở lại

Hồi ức trăn trở ngược xuôi, cũng không đau đớn bằng trái tim này

Chỉ nguyện quãng đời còn lại không hối hận, theo hương hoa bay đi thật xa

Một bình rượu nhạt, một thân nhuốm bụi trần

Nhớ nhung chẳng dứt độ quãng đời còn lại chẳng hối hận

Một trận xuân thu, sinh sinh diệt diệt, phù hoa thị phi

Đợi thời khắc hoa nở ta lại say một lần nữa"

-Bất Nhiễm-

Nhạ phu nhân nghe tin con trưởng ra đi nơi chiến trận cũng ngất xỉu, đứng không vững.

-Tất cả là do con hồ ly kia, ta phải giết nó để trả thù cho Nhạ nhi... Ả ta phải chết...

Từ hôm đó, Trúc Dịch bị Nhạ gia đuổi ra khỏi nhà, không bao giờ được quay lại một lần nữa. Đám tang hôm ấy, nàng không được tham dự...

Trời mưa tuôn lạnh ngắt... A Hiền thì bị phu nhân đem đi bán, mãi mãi không được quay về Thành Đô nửa bước...

Sau lúc ấy, không còn ai thấy Trúc Dịch cười nữa, không còn ai thấy nàng dịu dàng như trước. Chỉ còn một cô nương giả điên giả điếc. Thái y nói vì cú sốc quá lớn, không thể trở về hình người được nữa...

Mãi mãi sẽ tự chất vấn bản thân trong sự đau đớn tột cùng, mãi mãi phải sống chung với cái điên cái loạn, thi thoảng thì biết buồn biết khóc... Không chết-đó là sự từ bi cuối cùng của ông trời cho di nương cũ rồi...

Thiên hạ thuơng tiếc cho cái chết Quân Nhạ, thử hỏi đã có ai thương xót một kiếp người của Trúc Dịch hay chưa? Người ra đi thì được cả nhân gian thờ cúng, người ở lại sống chẳng bằng chết...

Mà có chết, cũng âm phủ lạnh ngắt, chẳng ai đưa tang... Hỏi công bằng ở đâu? Thành Đô vốn dĩ không có công bằng...

"Nhất niệm thiên vạn lý, nhất nhãn thiên vạn niên."

Dịch nghĩa:

"Nỗi nhớ nhung trải dài ngàn vạn dặm, một ánh nhìn lướt qua ngàn vạn năm.

Nếu không có chàng ở bên cạnh, ta làm thế nào có thể vượt qua trời xanh...

Quân Nhạ, chờ một chút, ta sẽ đến với chàng, nhưng ở một thời điểm khác. Thời điểm bớt đau đớn hơn, chẳng còn nuối tiếc với cuộc đời..."

Tạm biệt.

-Đông Phong Tư Hoài-

_Mỗi chương một bài nhạc: Hỉ_

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip