Chương 1: BIẾT NHAU GIỮA ĐỘ TRĂNG TRÒN

"Cô đò ở với cái nghề này đã bao lâu rồi?" Một trong ba người đàn ông vạm vỡ cất tiếng hỏi tôi, chẳng biết là thắc mắc thật hay cố tình bắt chuyện.

"Mười năm có hơn các ông ạ!" Ừ thì tôi cũng mỉm cười đáp. Tôi chẳng biết nên gọi là "anh" hay "ông" thì mới phải, một người trông khoảng hơn tứ tuần, hai người còn lại có lẽ chỉ hơn tôi vài tuổi.

Tôi đã hăm bảy cái xuân xanh, cũng xem như là gái lỡ thì, quanh năm cũng có lắm người với câu hỏi tương tự, khách nghe đoán tuổi tôi, tưởng tôi chồng con đề huề rồi nên chẳng hỏi thêm nữa. Khác với trai làng Trạch, lộ Hải Đông rõ chuyện tôi chưa yên bề gia thất, dăm ba hôm lại sang ngỏ lời ướm hỏi. Nhưng cuối cùng bao nhiêu người đến cũng bị cha tôi một mực khước từ.

Mặt trời hạ cái thân tròn ĩnh xuống về phía cánh đồng bạt ngàn trải dài ở phương tây. Chốc chốc gió lại lùa khiến thân lúa nghiêng về cùng phía, nhẹ mượt như thể vuốt lông con mèo. Tôi rít một hơi khí trời, bỗng thấy thân mình nhẹ bẫng muốn cất cánh bay cao. Tôi chưa bao giờ ngừng mộng mơ trở thành một người dị biệt mà người khác phải ngước nhìn.

"Cô đò có tiện chỉ dẫn cho chúng tôi đường đến gặp ông Yến Phong không ạ?" Lại người khác lên tiếng, người này đã đắn đo từ lúc vừa lên đò, đến giờ mới dám mở miệng, cắt ngang dòng suy tưởng của tôi.

"Hả? Ông gì cơ?"

Gió chiều thổi rất khẽ trên sông nhưng tai tôi lại chỉ nghe loáng thoáng cái tên ấy. Hình như đó là tên cha tôi. Tôi chưa bao giờ thấy một người ngoài làng nào đến tìm cha tôi cả.

"Ông Yến Phong." Người đàn ông trông có vẻ lớn nhất trong cả ba trả lời tôi, tay chắp sau lưng, mắt vẫn đăm chiêu hướng về mấy quả dừa cạn đang loáng thoáng nghịch đùa với thủy triều. Ông ta đã nhìn dừa cạn từ lúc mới lên đò. Đầu tôi thoáng hiện lên một tia tội nghiệp. Hẳn là phải thèm dừa cạn lắm!

Câu đầu tiên mà chỉ nói có ba chữ, lại còn chẳng buồn nhìn tôi để trả lời. Hơi thất lễ nhỉ?

Dĩ nhiên là tôi chỉ càu nhàu trong đầu chứ chẳng dám thốt ra. Ba người kia không phải tướng lĩnh thì cũng cốt cán trong triều, phách lực sáng ngời trong đáy mắt, tôi thứ dân sao dám đắc tội. Cả ba vận giao lĩnh. Người lớn nhất mặc giao lĩnh màu chàm, hai người đi cùng mặc màu nâu gụ. Đứng từ trên bờ mà trông xuống đò, có lẽ khá đối xứng, chỉ thừa ra cô đò là tôi thôi. Mặc dù tôi có chút võ mèo cào nhưng lúc nhận lời đưa họ sang sông, trước cái khí thế, thân hình lực lưỡng và làn da rám nắng đó tôi vẫn thấy sợ hãi nhiều phần. Họ mà hợp sức bóp cổ tôi hoặc vốc ngược tôi xuống dòng chảy, mang tiếng con nhà đò mà chết vì ngạt nước thì nhục nhã lắm!

"Ừ... Các ông tìm cha tôi chẳng hay vì việc chi ạ?" Đắn đo hồi lâu tôi quyết định xác nhận.

"Cô là con gái ông ấy? Thế thì may rồi, may quá! Cô dẫn chúng tôi đến gặp ông ấy nhé? Chúng tôi đương cần gặp ông ấy để bàn việc quan trọng."

Những tưởng người đàn ông khó ở kia sẽ đáp lời tôi, nhưng vẫn là hai người trẻ tuổi hăm hở.

Tôi vẫn thấy lạ lắm, chuyện cần tìm cha tôi, lại không thể nói cho tôi sao? À... có lẽ vì tôi phận gái.

Mải nghĩ nên tôi lạc mất tay chèo... Ráng chiều tạt ngang làm bóng bốn người chúng tôi trải dài, loe lóe trên sông Ngàn, hình như ráng chiều cũng gián tiếp đè tâm trạng người nọ xuống nặng trĩu.

Người trạc tứ tuần thở dài thườn thượt, nhếch mép khẽ buông lời trêu chọc:

"Mười năm lái đò là lái đò giấy chăng?" Người ấy dừng một đoạn, nghiêm giọng tiếp: "Chúng tôi cần sắt."

***

Cha con tôi dạo trước mỗi người lái một con đò, thế nên tôi cũng thấy vui hơn. Nhưng dạo năm năm gần đây, cha cứ đau yếu liên miên sau cái tuổi lục tuần, khi trái gió trở trời, cha chỉ cần nghiêng mình thì tôi cũng nghe tiếng xương kêu răng rắc. Tiền kiếm được của cái nghề này cũng không gọi là nhiều, tôi luôn cố gắng chỉ để mua thuốc về giã cho cha uống chứ chẳng mong làm lợi gì thêm cho cái thân mình. Ngày nhỏ nuôi tôi cha cũng vất vả như thế.

Về đến cổng nhà tôi thì ông trăng đã treo cao trên nền trời vẩy mực. Hóa ra hôm nay là ngày rằm, trăng tròn như chiếc gương, sáng trong như mặt hồ thu. Tôi vô ý quá nên quên mất.

Vừa bước tới bậu cửa xập xệ đã nghe tiếng cha tôi ho khù khụ. Nhác thấy bóng tôi cùng mấy người trai lạ, ông xẵng giọng nói: "Không gả!"

Chắc ông lại tưởng có người đến hỏi cưới tôi đây mà. Nhưng cha ơi, đây không phải...

Tôi đành cười gượng với ba người đàn ông cho qua chuyện, đoạn đưa hai cánh tay vào trong mời họ vào nhà.

"Cha. Ba người từ... Thăng Long..."

"Vạn Kiếp." Người đàn ông tứ tuần chỉnh tôi.

Tôi che mặt, toan nhìn sang chỗ khác vì nói sai. Đoạn lại chạy nhanh đến chõng tre chỗ cha nằm, nửa đứng nửa ngồi khẽ nói vào tai cha:

"Họ muốn bản đồ sắt."

"Thưa ông Phong, chúng tôi ngược về lộ Hải Đông tìm kiếm tung tích ông đã ba tháng rồi, nay mới được gặp..." Cả ba người ôm quyền cúi chào, người trẻ tuổi nhất lên tiếng.

"Tôi đúng là Yến Phong. Khụ... khụ... nhưng tôi không biết có bản đồ sắt nào hết... khụ. Các người lầm rồi! Đi đi!" Tôi đỡ cha ngồi dậy, nói đoạn cha tôi phẩy tay ý không muốn tiếp.

"Thế..."

"Thưa ông, chúng tôi là người của Hưng Đạo vương, chắc ông đã từng nghe qua? Tôi là gia nô của vương, ông có thể gọi tôi là Yết Kiêu, hai vị này dưới trướng tôi. Cao. Hiên." Vừa nói vừa lần lượt đưa bàn tay giới thiệu. Người nhỏ tuổi nhất tên Hiên, cũng là người năng nổ, giỏi bắt chuyện nhất từ lúc gặp nhau tới giờ, gương mặt luôn tươi cười mặc dù có chút gượng gạo, ánh mắt lúc nào cũng sáng rực. Người còn lại tên Cao, tên cũng như người, cao ráo nhất cả, khuôn mặt ưa nhìn, chiếc mũi to phình dễ gợi ấn tượng, có phần điềm đạm hơn nhưng cũng không so nổi với sự kiệm lời của ông Kiêu - người đàn ông dừa cạn.

Hóa ra, người đàn ông ngoài tứ tuần đó là Yết Kiêu - tướng đắc lực dưới trướng Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn với tài bơi lội "nhập thủy như phúc bình địa hỹ" lập nhiều công lao lớn, được ngự ban danh hiệu "Trần triều hữu tướng, Đệ nhất đô soái thủy quân". Tôi sững người há hốc mồm nhìn ba ông tướng kia. Nhà tôi lại có phúc phần đón tướng tài của Đại Việt cơ đấy! Không vẽ ngay một tấm bảng treo trước nhà gọi mọi người đến xem trả tiền cũng uổng! Tính đi tính lại ba người họ cũng là người quý, người tài của quốc gia kia mà!

Cha tôi nghe danh thì cũng như tôi, ngây người chốc lát. Nhưng ông khác tôi bởi vì ông đang chau mày suy nghĩ xem có thật như thế hay không. Dù gì chúng tôi cũng không cách nào chứng thực bọn họ thực là người của Hưng Đạo vương. Bỗng ông cúi người nói:

"Các ngài thứ lỗi, tôi thực sự không biết bản đồ mà các ngài nói đến."

Xem ra cha vẫn hồ nghi bọn họ. Tôi thoáng thấy mặt ba người kia đanh lại, nhưng cũng không có vẻ gì sẽ bỏ cuộc, cứng rắn kiên trì cũng là một cái cốt yếu làm nên bậc danh tướng.

Phần tôi thì vẫn đang soi xét cái người tự xưng là danh tướng Yết Kiêu nọ. Nom cũng ra vẻ "rất Yết Kiêu" đấy chứ. Nước da rám nắng như chực chuyển cháy đen, cơ tay cơ ngực cơ đùi đều nở nang thấy rõ, tóc đen nhánh dày cộm búi gọn gàng. Gương mặt mang vẻ quân tử chọc trời khuấy nước, hàng mày rậm, môi mím chặt.

Không để râu? Đàn ông tuổi tứ tuần lại không để râu nhỉ? Tuy nhiên tôi sẽ bỏ qua suy nghĩ ấy của mình, từ ánh mắt đến dáng hình con người này đều toát lên vẻ cứng cỏi, thực sự tạo được cảm giác đáng tin. Hình xăm thủy quái nom hung ác lộ ra cả mu bàn tay, tôi có nên vờ giật mình?

Yết Kiêu đánh mắt qua thì ngay lập tức bắt gặp ánh mắt săm soi của tôi. Lại một lần nữa tôi phải đảo mắt đổi hướng nhìn. Có cần dữ tợn nhe nanh với tôi như thế không hả ông-dừa-cạn?

Ông ấy không có ấn tượng tốt với đàn bà con gái lắm hay chăng mà tôi cảm thấy ông cứ lườm nguýt tôi mãi? Hoặc cũng có thể là vì tôi săm soi khiến người ta khó chịu ra mặt. Thôi thì cứ xem như lỗi ở tôi vậy, tôi không có gan phàn nàn.

Yết Kiêu không chịu bỏ cuộc, lại ôm quyền cúi người thấp hơn nữa:

"Xin nhờ cậy sự giúp đỡ của ông! Nay giặc Thát lại lăm le bờ cõi ta lần nữa, chúng ta cũng phải nghĩ đối sách mới để chặn đường bọn chúng, giúp dân thoát nạn, bảo vệ đất nước. Quân ta thực sự cần đến sắt, xin nhờ ông chỉ dẫn."

Đáy mắt ông Yến Phong nhà tôi thoáng hiện lên vẻ lưỡng lự. Tin thì chưa thể, mà không tin cũng chẳng đặng. Không biết nên làm gì với ba người trước mặt.

"Nếu tôi đoán không nhầm thì nay mai chúng sẽ lại cử người sang biên giới do thám. Đến lúc ấy, chúng sẽ chứng minh tôi là Yết Kiêu. Mong ông cho chúng tôi lưu lại vài ngày." Yết Kiêu ôn tồn thưa.

Đã nói đến mức đó, đương nhiên cha tôi cũng không cớ gì từ chối. Chỉ có điều, nhà chúng tôi nghèo quá, đong gạo còn thường thiếu tiền nhà bán gạo, rau trồng ở mảnh vườn phía sau, có thêm mấy con gà thỉnh thoảng cho trứng ăn hoặc bán. Lấy gì tiếp đãi? Nếu muốn, chắc tôi thật sự phải bày ba người ra cho dân làng chiêm ngưỡng để lấy tiền...

Thấy cha tôi ra chiều băn khoăn, Yết Kiêu hiểu ý nói:

"Ông Phong yên tâm, chúng tôi có mang tiền, một phần tự chu cấp, một phần gửi ông hậu tạ." Nói đoạn đưa tay vào sau lớp áo.

Cha tôi can ngăn:

"Không không... Ở thì cứ ở. Hậu tạ thì không cần. Các ngài có thể tự lo ăn uống nghỉ ngơi cho bản thân là được. Tôi đã nói rồi chỗ tôi không có bản đồ. Các ngài cứ đinh ninh thế thì đến chịu..."

Yết Kiêu nghe thế cũng gật đầu không thiết lấy ra nữa. Tôi nhìn bàn tay ấy trong tiếc nghẹn. Tôi buồn lắm, thực buồn lắm. Tuổi nào mà chẳng tham tiền, trước đây, bây giờ hay sau này thì cũng thế thôi. Ôi cha ơi, phải rất lâu mới có mấy cục tiền hậu hĩnh như thế này, sao cha nỡ? Quan trọng hơn cả, phải có tiền chữa khỏi bệnh cho cha.

Tôi đoán giờ mặt mình có lẽ đang nhăn nhúm như giẻ nhàu rất khó coi.

"Thế nhà ông Phong có nơi nào cho chúng tôi tạm tá túc?" Anh Hiên dáo dác nhìn quanh, căn nhà nhỏ xập xệ này có vẻ không làm anh chê bai.

"Khô..."

"Nhà kho!" Tôi biết không hỏi mà trả lời là không đúng, biết cướp lời cha là không đúng, nhưng không phải nếu ở nhà tôi thì chúng tôi có thể dễ dõi theo hành tung của ba người họ hay sao? Tôi chỉ tay về cái nhà tranh nhỏ xập xệ hướng Đông Bắc cách nhà tôi chừng mươi bước chân.

Nhà kho còn tàn tạ hơn gian nhà tôi và cha ở nhiều lần, dùng để vật dụng nhà nông. Trước đây khi còn khỏe cha tôi vừa lái đò vừa đi cuốc mướn cày thuê nên có dùng đến, còn bây giờ thì không, đành để chỏng chơ ở đấy. Còn có một vài cái rương cũ chứa đồ của ông nội, những thanh gỗ mục, mấy tấm phên... chẳng để làm gì. Nơi đó vừa hay nhét đủ ba người cao to này vào. Đề nghị thế thôi mà bản thân tôi cũng không chắc họ sẽ ở lại. Tôi lâu không dọn nên nhà kho ẩm thấp, u tối là chuyện khó tránh.

Đoạn, Yết Kiêu gật đầu:

"Vâng. Cảm ơn ông Phong, cảm ơn cô..."

Thế mà họ lại ở thật!

"Vân. Hoa Vân... ạ!" Biết ngân dài câu ra cốt để hỏi tên mình nên tôi nhanh nhảu thưa, tôi cúi đầu để người ta không trông mình dưới con mắt thất lễ, có khi lại đâm ra nghĩ tôi trái tính trái nết nên tới giờ vẫn không lấy được chồng.

Thấy ba người đi ra, lúi húi dọn nhà kho cho gọn ghẽ, cha tôi kéo tay áo, trút tiếng thở dài nén tự ban nãy:

"Nếu tin lầm người, vừa mất nước, vừa mất danh tiết của con!"


Lộ Hải Đông: Quảng Ninh. Làng Trạch là địa danh hư cấu.

Quả dừa cạn: Một loại quả hư cấu. Nguyên mẫu là dừa nước.

Sông Ngàn: Địa danh hư cấu.

Nhập thủy như phúc bình địa hỹ: Đi trong nước như trên đất bằng.

Yết Kiêu và Dã Tượng làm gia nô phủ Hưng Đạo vương, mà gia nô cả đời không được làm quan, không mang danh tước rõ ràng.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip