I.
1
Thành Dương Châu có một thiếu phụ, người An Nam. Đồn rằng, nàng có đôi mắt phượng dài, sâu mà sầu.
2
À ơi...
Ngủ thôi con tôi
...
À ơi... à ơi...
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha, thăm mẹ, cò về thăm anh...
Thiếu phụ âu yếm vỗ về đứa con gái nhỏ trên tay, ru con bằng chất giọng, bằng thứ tiếng vừa ngọt ngào tha thiết vừa bùi ngùi một thứ trăn trở không tên. Thứ tiếng tưởng chừng như quen thuộc, tựa hồ lại nghẹn đắng từng chữ, từng thanh âm nơi cuống họng.
Nàng ngẩng đầu, đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Trời đang độ thu, khéo gieo rắc cái tiết trời ảm đạm, vấn vít nơi thềm nhà bậu cửa. Ngoài hiên, vài nhánh hải đường đã chớm nụ, chỉ đợi đến khoảnh khắc được phun sắc đưa hương. Giữa không gian tĩnh tại, đôi lúc lại nghe thấy tiếng chốc chốc của đàn cá trong hồ nhàn hạ quẫy đuôi, dưới những tầng lá sen, đài sen xanh màu yên ả. Nhưng duy chỉ có một điều là lẩn quẩn mãi trong một không gian, không thể cựa mình thay đổi.
Ngày đó, cũng trong tiết thu, nàng cùng Trấn Nam vương chuyển đến thành Dương Châu theo ý chỉ của hoàng đế, không náo nhiệt, không trống kèn như mỗi dịp thân vương xuất hiện ngoài cung. Hẳn vì vương phi ưa lặng lẽ, mà người chồng lại chiều chuộng ý trung nhân...
"Nàng lại nhớ phương Nam à?"
Cắt ngang những suy tưởng mông lung của nàng, người chồng mở cửa đi vào phòng thật khẽ, khép hờ cánh cửa vì sợ con quấy khóc. Hắn thấp giọng hỏi cùng với đôi mắt tràn trề nỗi thất vọng xa xăm. Cảnh huống năm ấy vừa hay lại tái hiện trọn vẹn như những vết thương từ chiến trận hãy còn chằng chịt trên da thịt hắn. Bao nhiêu chấp niệm trong lòng, cứ như thể hắn không giấu được, cũng chẳng buồn giấu.
Hắn đợi mãi một thứ giao cảm...
Thấy nàng dửng dưng giữ nguyên góc nhìn, tựa hồ có hay không có người khác ở đây cũng chẳng có gì khác biệt. Hắn đành bỏ lại một nụ cười nhạt, thất vọng đi ra ngoài:
"Thôi vậy..."
Hắn biết có lẽ với nàng mọi biến động cảm xúc dần trở thành một điều gì xa xỉ. Lồng ngực vẫn phập phồng theo nhịp thở, tuy nhiên bên trong lại chứa cả một miền núi vời vợi cô liêu.
Thiếu phụ đặt con gái vào chiếc nôi, rồi nhẹ bước tiến ra cửa. Vóc dáng mảnh mai tựa hạc đầu đình, nghiêng hẳn cả thân mình vào khung cửa. Nhìn con trai cùng cha nó nô đùa thích chí trước khoảng sân rộng, tâm trí nàng bất giác lại bị một nỗi lửng lơ treo gảy.
Hoa nhài nở từng đóa trắng muốt, hương hoa như đan cài, như quện đặc trong không khí, dật dờ len lỏi vào cánh mũi. Từ khi nàng vô tình nói mình thích hoa nhài, hắn làm cho cả viện đâu đâu cũng mang hình bóng của niềm yêu thích ấy. Song nàng vẫn nhìn hắn bằng đôi mắt ráo hoảnh như đang đứng trên bờ vực tiến thoái lưỡng nan. Để "giết" bớt đi những vẩn vơ yêu thích, lâu dần, nàng còn học được cách ướp trà hoa nhài phơi khô với mật ong tươi hắn đem từ bên ngoài về. Trà hãm xong mang vị mật ngọt se se, cùng một ít dư vị cay nhàn nhạt còn sót lại từ những cánh hoa nhài. Ngọt, mát, thanh thản. Giá như nàng là một chén trà như thế.
Đáng lẽ nàng nên thấy hạnh phúc khi có một gia đình hoàn mỹ, có chồng hết mực yêu thương, có con trai dù tuổi nhỏ nhưng đã thông minh lễ độ, con gái bụ bẫm đáng yêu, sống ở vùng đất ngập tràn nắng ấm. Nhưng tiếc thay, bao giờ mới đến cái ngày ngừng gọi về khói lửa bể dâu? Chừng ấy u hoài cái ngày bồ liễu nát thân, há có thể vơi đi trong tiếng vọng?
Nàng trải dài ánh nhìn trên những lớp hoa nhài dường như đã tự mọc thành một hàng rào quanh viện, rồi lại phóng ánh mắt về dãy núi xa tít phương Nam.
...Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha, thăm mẹ, cò về thăm anh...
3
U tôi lại đang ra đứng bờ ao trông về hướng Thăng Long. Nhiều năm trước, khi còn ngây ngô tôi đã hỏi lý do sao u cứ trông mãi trong khi chẳng có mục đích gì, nhà tôi đâu có họ hàng gì ở xứ đó, hay từ trong vô thức, u muốn vậy? U dịu dàng xoa đầu tôi, ngồi xuống nhấp chén trà, chầm chậm kể tôi nghe câu chuyện đời trước.
U nói tôi được sinh ra với tất cả tình thương của thầy u nhưng không may, thầy tôi khuất. Giữa khi thân cô thế cô ở cái đất kinh kỳ, u tôi lại may mắn gặp một anh học trò nghèo hiếu học cưu mang. Mà thực ra cũng chẳng biết là ai cưu mang ai, chỉ biết sau khi dùng hết tiền của u cho việc học, đến khi đỗ đạt làm quan, người ấy chỉ quan tâm con đường tiến thân mà chẳng buồn đoái hoài u con tôi chi thêm nữa. Dẫu sao tôi cũng đâu phải con đẻ của người ta.
Mà trong câu chuyện của u tôi, điều làm tôi chú ý nhất chính là thân thế của thầy, cứ thoắt ẩn thoắt hiện như một lớp sương mờ, chưa bao giờ u thực sự kể cho tôi tường tỏ. Thầy chỉ xuất hiện trong lời kể của u, không một bằng chứng, không một nhân chứng, không một vết tích nào để tôi tin rằng thầy từng tồn tại. Và đương nhiên điều đó dẫn đến cho tôi một suy nghĩ, u nói dối tôi, bà vốn chửa hoang và tôi là một đứa ất ơ không cha ở đầu đường xó chợ... Suy nghĩ ấy quấn lấy tôi liền một khoảng thời gian dài không buông, khiến tôi đâm ra bực dọc, bứt rứt không sao yên được.
Nhà tôi thì mở một hàng nước dưới chân đồi, ngay gốc đa có lẽ già hơn đời người, khuất chợ không quá xa do đó cũng không quá vắng khách. Hàng bán trà tươi, nước vối và đôi lúc có rượu hoa cúc. Khách lữ hành, khách vãng lai cứ tiện chân là ghé quán tôi xơi vài bát trà, bát nước, thi thoảng mua về vò rượu vì nể người ướp ra cái vị thơm ngon. Cuộc sống cũng vì thế mà lắm an yên, ít sóng gió.
Ngay trước cửa nhà, u đặt một chiếc chõng tre, một chiếc khay gỗ úp ba bốn cái bát sẵn và ngay kế bên là chiếc ấm đất lớn ủ trong thúng trấu đậy buồm, phía trên úp thêm một chiếc gáo dừa mà tôi chăm chút đậy làm sao cho thật ngay ngắn, vừa mắt. Sự thực thì thứ ấy để trong nhà vẫn được, nhưng tôi thấy để không chiếc chõng tre thì nhìn cứ trống hoác, thành ra tôi đặt sẵn cái khay trà đó cho đỡ trống chứ ngoài ra chẳng có ý nghĩa gì.
Sau nhà tôi trồng hai cây vối, bẻ cành ngâm nước, ủ bốn năm ngày rồi phơi khô là lại có nước vối để bán cho khách lữ hành. Thông thường u đảm việc ủ vối.
U tôi ngày xưa vốn người lộ Trường Yên, nơi có thứ kim cúc ở Thúy Sơn, Bích Động không hoa cúc ở đâu là bằng. Giờ thì đã thay chốn ở, nhưng chí ít u biết cách ủ làm sao để ra một vò rượu cúc thơm ngon đậm vị, khó có hàng nước nào lân cận cạnh tranh được với tài ủ rượu cúc của u.
Ấy thế, u chỉ biết ủ độc một loại rượu hoa cúc, thành thử tôi cũng chẳng biết nhiều hơn. Tôi từng muốn rong ruổi đây đó học cách ủ nhiều loại rượu, nấu nhiều món ngon, song u tôi không cho phép, nhất quyết bắt tôi chỉ được ở lộ Như Nguyệt Giang cho bằng được. Tôi không thể làm gì khác.
Lại nói, từ nhỏ tôi đã thường chạy tới chạy lui gánh nước đỡ đần u. Tôi thường lên giếng trên đồi gánh hai cữ nước mỗi ngày, vào sáng sớm khi mặt trời chưa lên và vào buổi chiều khi mặt trời chưa lặn. Tiện thể dừng đôi chân một chút, phóng tầm mắt và ngắm cảnh núi non. Tôi thấy mình yêu những ngọn núi nhấp nhô trùng điệp, yêu từng cánh chim chiều sà vào thửa ruộng cày chăm, yêu gốc đa đầu làng thỉnh thoảng có trâu già ngoe nguẩy như tự đắc, cả mái đình đo đỏ như chóp mũi u khi vô tình cắn phải ớt thấu cay.
Có một dạo, tôi thực muốn thoát ly khỏi u, sống cuộc đời của mình. Nhưng ngẫm lại, u đã có một tuổi trẻ không trọn vẹn, đáng ra tôi nên giúp u an hưởng đời sau. Nghĩ thế, tôi lại gạt phăng cái ý nghĩ đó đi và trở lại là một Thuận Kỷ ngoan hiền.
À, tên tôi. U thích cái tên Thuận Kỷ lắm, thường gọi tôi bằng giọng dìu dịu, dạt dào yêu thương. U ít khi gọi tôi là Bình, tên tục của tôi. Tôi họ Chử, chắc vì thầy tôi họ Chử, hoặc tôi được sinh ra ở cạnh bờ sông.
Năm chín tuổi tôi đã gặp một con người kỳ lạ ở quán nước của mình. Người ấy mang dáng vẻ của một bậc trượng phu, toát ra khí khái cao quý vương giả hơn người, ngoài diện viên lĩnh màu nâu gụ, trong vận giao lĩnh, đầu búi chuy kế mà toàn thân lại mang phong thái bất phàm.
Tôi tự khắc nhìn lại mình, từ nhỏ cho đến bây giờ cứ ăn diện đơn giản hết mức có thể, tôi sợ người ta bảo mình con nhà nghèo học đòi làm sang... À, nhưng nói đúng hơn thì, tôi đã có tiền để sắm sửa quần là áo lụa như những bậc tài tử giai nhân đâu?
Đoạn, người ấy xoa đầu tôi, nhìn tôi bằng ánh mắt đong đầy thương yêu, liên tục khen tôi ngoan ngoãn dẫu tôi chỉ đứng đực ra đấy chẳng làm chuyện tốt đẹp gì cho cam.
Tôi bị bắt tránh mặt đi. Nhưng tôi cố tình nấp sau nghe lén họ nói chuyện, cũng chính người đó lại đối xử vô cùng hà khắc với u tôi, khiến bà luôn phải nín nhịn mà cúi đầu. Thoáng chốc tôi đã tự đặt ra một câu hỏi: Người ấy... liệu có phải thầy tôi? Tuy nhiên, tôi không dám trực tiếp hỏi u, sau khi u gặp riêng ông ta thì sắc mặt không được tốt. Hình như phần nhiều là gay gắt, phần còn lại, tôi nghĩ là uất ức, điều đó chứng tỏ chuyện tôi muốn hỏi, tốt nhất đừng.
Từ đó đến nay, tôi không còn gặp ông ta thêm một lần nào nữa.
***
Như thường lệ, mỗi xế chiều tôi mang hai vò rượu lên bán cho một quán rượu trên đường lớn. Từ nhà tôi muốn đi đến quán thì phải băng qua một con suối chảy xiết vắt ngang. Giữa dòng, có một đường đi với độ nông vừa phải, những gò đá tạo thành đoạn đường ẩn dưới lòng con suối.
Ông chủ quán quen trả cho chúng tôi tiền rượu năm ngày một lần, tức tiền của mười vò rượu, hôm nay lại đến cữ nhận được tiền nên tôi vui lắm. Trong thời buổi này, tôi cảm thấy vẫn nên tiết kiệm tiền nong phòng những ngày giông bão.
Lấy được tiền, tôi nhanh chóng trở về nhà trước khi trời xẩm tối. Đang muốn lắc lư cả người vì vui sướng, tôi lại trở nên dè dặt khi nhìn thấy con suối trước mặt. Lần nào đi ngang qua đây, đầu tôi cứ tự tưởng tượng ra cảnh tiền trong tay rơi hết xuống suối, bị dòng nước chảy xiết cuốn đi, tiếng cây lá xào xạc mà tôi cứ tưởng là chúng nó đang tấu một điệu buồn thảm thiết.
Tôi xắn ống quần, bỏ túi tiền vào trong giao lĩnh, ôm chặt, rít một hơi rồi cẩn thận bước xuống dòng nước lạnh ngắt.
Đi đến giữa dòng, tôi trông thấy một người phụ nữ quý tộc độ tứ tuần nhưng vẫn rất xinh đẹp, mặt mày hớn hở đứng bên kia bờ vung tay gọi với:
"Nhanh lên kẻo muộn."
Ngay lập tức có ai đó va mạnh vào vai tôi từ phía sau, làm tất cả chỗ tiền của tôi bị hất văng, rơi tõm xuống nước. Tôi hốt hoảng theo phản xạ với tay chụp lấy. Ôi trời! Tiền! Tiền rượu năm ngày của tôi với u! Thế là xong, có lẽ sẽ mất hết cả. Tôi nhăn nhó mặt mày, lửa giận bốc lên tận óc, toan quay lại sống mái với cái tên mắt để đằng mông vừa va vào mình thì đã nghe được y nghêu ngao:
"Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng."
Tôi chợt đờ ra mất một lúc, phần vì giọng y hay quá, phần vì nom phong thái lẫn cách ăn mặc phỏng chừng chẳng phải hạng dễ xơi. Quần là áo lụa phẳng phiu thế kia chắc không quyền cũng quý, ngữ dân đen bần tiện như tôi nào có sức cự kình. Ngẫm thấy không thể vênh mặt chửi thẳng, tôi ra bộ ỉ ôi:
"Lạy ông, tôi chẳng phường sang
Công cầm tôi tiếc, tiếc vàng phần hơn!"
Thú thật, đấy là do tôi vờ vịt thôi, chứ tôi sớm đã nắm chặt túi tiền đang nằm bên dưới mặt nước kia rồi. Cũng may nó khá nặng nên không đến độ bị cuốn đi.
Người nọ phụt cười, cụp mắt nhìn xuống bàn tay phải còn đang ngâm lì trong nước của tôi. Chắc có lẽ thấy điệu bộ mất tiền vừa thảm hại vừa buồn cười hoặc y sớm phát hiện tiền rơi nhưng chưa bị cuốn phăng đi mất.
"Đi thôi." Người phụ nữ kéo vạt áo y, giục.
Nhưng trước khi rời đi, y ngoảnh đầu, mỉm cười nói với tôi:
"Ngày mai, giờ này, tại đây, ta mang vàng trả lại cô."
Bóng lưng che khuất quả cầu lửa phía xa xa, vừa hay trông như cả người phát ra một vầng hào quang ấm áp. Mặt nước sóng sánh ánh hoàng hôn hắt lên khuôn mặt ôn hòa điềm đạm tôi chưa kịp trông rõ giữa trời chiều, song lại gợn lên trong lòng tôi một nỗi ngổn ngang không rõ.
Hoàng hôn năm ấy, đẹp đến lạ.
Xuân kia qua bạc mái đầu - Văn Bạch Yến
Tri ân độc giả yêu mến và chờ đợi tác phẩm "Xuân kia qua bạc mái đầu", Nhà sách Tri Thức Trẻ mở bán 100 bản đặc biệt với nhiều quà tặng cực hấp dẫn.
- 1 cuốn sách "Xuân kia qua bạc mái đầu"
- 1 bookmark 2 mặt bồi cứng
- 1 móc khóa 2 mặt mica
- 1 postcard cán màng cát kim tuyến
- 1 thư tay của tác giả Văn Bạch Yến (số lượng giới hạn chỉ dành cho 20 độc giả đặt sớm nhất)
(hoặc ibox cho fanpage Nhà sách Tri Thức Trẻ)
"Xuân kia qua bạc mái đầu" là tập truyện ngắn lấy cảm hứng từ các nhân vật lịch sử: Công chúa An Tư hy sinh lòng riêng vì non sông đất nước. Là giai thoại về Yết Kiêu - người góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3 của vua tôi nhà Trần. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương - người phụ nữ kiêu hãnh, không bị ràng buộc bởi định kiến thời thế.
Ba lát cắt lịch sử mềm mại mà mạnh mẽ như nước, nơi thân phận con người được nhìn bằng ánh mắt cảm thông và tự hào sâu sắc. Tác giả không kể chuyện theo lối sử thi hoành tráng, mà chọn cách thì thầm lặng lẽ, nữ tính, đầy chất thơ. Đây cũng là cuốn sách đánh dấu hành trình văn chương đầy hứa hẹn của cây bút trẻ Văn Bạch Yến.
Tên sách: Xuân kia qua bạc mái đầu
Thể loại: Tập truyện ngắn lấy cảm hứng lịch sử
Tác giả: Văn Bạch Yến
Khổ sách: 14,5x20,5cm
Số trang: 238 trang
Hình thức: bìa mềm, tay gấp
Số ISBN: 978-604-4998-91-6
Barcode: 8936107814344
Đơn vị liên kết: Tri Thức Trẻ Books & NXB Phụ nữ Việt Nam
Ngày phát hành dự kiến: tháng 12/2025
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip