Yamamoto va nhung tran danh tai TBD P3
Với sự chuyển hướng vừa nói, địch quân cho phép chúng tôi mua thời gian. Lúc ấy khoảng cách giữa hai lực lượng là 36.000 thước. Khi nhìn thấy hiện tượng nầy đề đốc Takagi vui mừng: "Bây giờ các chiến hạm của chúng ta có thể tóm lấy các chiến hạm của địch quân." Lúc 5 giờ 46, lịnh chiến đấu của Takagi được ban ra: "Triển khai thành ba hàng dọc, tiến về hướng 170 độ (tức hướng Nam)."
Một phút sau đó, tuần dương hạm Naka khai hỏa vào địch quân với khoảng cách 22.000 thước, quá xa đối với các trọng pháo 140 ly. Chứng tỏ sự bối rối, Takagi thay đổi lịnh nhanh chóng: "Giữ hướng song song với địch.". Tuần dương hạm Jintsu và các khu trục hạm cùng nhóm được lịnh tách ra và di chuyển dọc theo lực lượng chánh về hướng Tây, cách khoảng 10.000 thước. Các pháo khẩu 140 ly của Jintsu khai hỏa vào chiếc De Ruyter khi còn cách mục tiêu 18.000 thước. Phí đạn vô ích. Bốn khu trục hạm có vẻ nôn nóng, và vẩn với khoảng cách đó các khẩu 127 ly của chúng lên tiếng, nhưng cũng vô hiệu. Các trọng pháo 200 ly của Nachi và Haguro xuất trận, trong khoảng cách 25.000 thước, nhưng chẳng hơn gì các đàn em.
Nhóm chiến hạm của Đồng Minh lại chạy lãng ra xa về hướng Tây Nam, gia tăng khoảng cách với các chiến hạm của chúng tôi. Trọng pháo địch quân bây giờ mới lên tiếng, nhưng chúng cũng không có khả năng hơn trọng pháo của chúng tôi. Lúc 6 giờ 05, đề đốc Shoji Nishimura, tư lịnh Phân đội 4 khu trục hạm, có vẻ như không còn kiên nhẫn trước cuộc đấu súng vô bổ giữa đôi bên.
Tuần dương hạm Naka, soái hạm của Nishimura và 7 khu trục hạm khác của ông cùng phóng một lượt 43 quả thủy lôi vào các chiến hạm địch, với khoảng cách độ chừng 15.000 thước. Các thủy lôi oxygen vũ khí kiêu hành của Hải Quân Hoàng Gia, có thể hướng về mục tiêu cách xa 40.000 thước với tốc độ 36 hải lý. Nhưng với khoảng cách xa như thế, loại thủy lôi khó thể hy vọng trúng các mục tiêu di động. Những thủy lôi của Nishimura bổng nhiên nổ tung khi lướt đi một vài ngàn thước. Không thể giải thích được tại sao chúng lại nổ? Có tể là do trục trặc kỹ thuật, hoặc một số nầy va chạm vào một số khác gây ra tiếng nổ dây chuyền. Lại hoang phí thêm. Nhưng ít ra tầm xa và tốc độ của những trái thủy lôi loại mới đã này cũng đã gây kinh ngạc cho các sĩ quan Đồng Minh, khiến cho tinh thần của họ sút giảm trầm trọng.
Sau các đợt tấn công thủy lôi của chúng tôi, các chiến hạm Đồng Minh xoay hướng về Nam. Vào lúc 6 giờ 27, tám phi cơ Đồng Minh xuất hiện, ở độ cao 20 dậm, hướng về phía các chuyển vận hạm của chúng tôi. Nhưng 12 chiến đấu cơ của Nhật, được chúng tôi gọi từ khi các chiến hạm tách rời khỏi đoàn tàu chuyển vận, cất cánh từ phi trường Balikpapan và đến kịp lúc để chận đầu tám oanh tạc cơ địch. Cả 8 oanh tạc cơ đều bị chiến đấu cơ Nhật bắn hạ mà không kịp thả một trái bom nào.
Trời u ám, chỉ thỉnh thoảng một vài tia nắng xuyên qua các đám mây. Hoàng hôn đến thật nhanh, và mặt trời khuất dạng hẳn vào lúc 7 giờ 50. Vào lúc 6 giờ 33, đề đốc Takagi quyết định phải tiết kiệm đạn dược và ông cũng đoán có thể địch quân lợi dụng đêm tối để tẩu thoát nếu trận chiến cứ tiếp tục trong tình trạng nầy. Ông ra lịnh cho tất cả chiến hạm của ông "tiến sát và đánh dàn mặt với địch quân".
Hạm đội của địch quân lại xoay về phía tả và bây giờ chạy theo hướng chánh Tây. Chiến hạm Nhật cũng xoay về hướng Tây, với các trọng pháo bắn không ngừng nghỉ. Bốn phút sau, tuần dương hạm Exeter của Anh phát hỏa, gây hổn loạn trong hàng ngủ địch quân. Các chiến hạm Đồng Minh bị màn khói dày đặt che khuất hẳn. (Sau này chúng tôi biết được một quả 200 ly của tuần dương hạm Nachi hoặc Haguro đã trúng hầm chứa đạn của chiếc Exeter). Exeter ở vị trí thứ hai trong đoàn tàu của Đồng Minh giảm hẳn tốc độ, và chậm chạp lê thân ra khỏi nhóm tàu bạn, hiển nhiên là để tránh va cham với tuần dương hạm Houston của Hoa Kỳ đang chạy phía sau nó.
Một hiện tượng đã gây ngạc nhiên là khi chiếc Houston xoay mũi về phía trái, tất cả các chiến hạm khác của địch cũng làm theo, nhưng soái hạm De Ruyter vẫn tiếp tục chạy thẳng về phía trước. Một vài phút sau, chiếc De Ruyter mới biết là đã chạy đơn độc nên quay lại, và lúc xả hết tốc lực để kết hợp với các tàu bạn, chiếc tàu nầy đã đụng phải một khu trục hạm.
Diễn biến bất ngờ nầy gây rối loạn hàng ngủ địch quân, và cho phép chúng tôi tiến đến gần hơn. Tám khu trục hạm Nhật, trong đó có tàu của tôi, đổ xô về phía nhóm tàu Đồng Minh với tốc độ 30 hải lý. Địch quân tổ chức lại hàng ngủ, bỏ mặc chiếc Exeter chạy khập khểnh ở phía sau, tất cả các miệng súng đều khai hỏa về phía chúng tôi. Còn cách hạm đội 7.000 thước, khu trục hạm Tokitsukaze, chạy phía trước Amatsukaze một chút, đã lãnh một quả đại bác. Khói trắng từ chiếc Tokitsukaze bốc lên bao phủ hoàn toàn chiếc Amatsukaze của tôi. Đạn rơi chung quanh như mưa, những cột nước mọc lên mọi phía, nhưng không quả nào trúng tàu của tôi. Tôi nghiến răng và ra lịnh hướng thẳng Amatsukaze vào tầm súng địch quân. Tôi phải tiến sát hơn, vì như vậy mới mong các quả thủy lôi của tôi hữu hiệu.
Hạm đội địch lúc đó vẫn chạy hướng Tây Bắc, tức đâm thẳng vào chúng tôi. Đây là hành động có tánh cách tấn công đâu tiên trong ngày của địch quân. Bây giờ tôi chỉ còn cách mục tiêu 6.000 thước, tay vịn trên chấn song đài chỉ huy, mồ hôi ướt đẩm mặt tôi. Chưa được, hay thêm nữa, phải cách mục tiêu ít nhứt 5.000 thước. Tàu của tôi lúc ấy đã áp sát tầm súng của địch quân và không biết chìm lúc nào.
Lúc 7 giờ 27 tối, đề đốc Raizo Tanaka ra lịnh chiếc tuần dương hạm Jintsu của ông phóng tám thủy lôi. Khi các con cá của Jintsu thoát ra khỏi ống, tôi đã cố gắng lắm mới không ra lịnh khai hỏa. Một quả đạn địch nổ gần đã chạt nước khắp mặt tôi. Tôi cảm thấy hoàn toàn bất an, ngay cả hiện tại tôi vẫn còn mang cảm giác nầy. Sự bất an không giống thái độ hèn nhát, nhưng giống như giòng máu lạnh trong tôi tự nhiên tan loãng dưới hỏa lực của các tàu chiến địch quân.
Tôi nhìn thấy 16 thủy lôi của hai khu trục hạm Yukikaze và Tokitsukaze lướt trên mặt nước. Tôi bị kích thích và hét to: "Thủy lôi! phóng!" Bốn khu trục hạm khác cũng bắt chước theo Amatsukaze. Tôi đã tính toán nhiều điều kiện chính xác của thủy lôi và nhận thấy ở 6.000 thước rất khó trúng một trăm phần trăm, nhưng theo tôi chỉ sai chạy dưới 5 phần trăm là cùng, nghĩa là 72 trái thủy lôi chỉ có khoảng 3 quả ra ngoài mục tiêu. Nhưng tính toán nầy của tôi đã sai lầm biết bao.
Hạm đội địch đã nhanh nhẹn xoay về hướng Tây, và tôi nhận thấy ít ra hết phân nữa số thủy lôi do tàu của tôi phóng ra đã xuyên qua khoảng trống mà các chiến hạm địch lướt qua. Các quả còn lại đến mục tiêu, nhưng chỉ có một quả hữu hiệu. Quả nầy trúng khu trục hạm Kortenaer của Hòa Lan. Chiếc tàu chìm cấp kỳ. Như vậy cứ 64 quả thủy lôi của chúng tôi chỉ có một quả chính xác. Phóng tệ như thế là cùng. Chiến thuật tránh né của tàu địch quả tuyệt vời.
Tuần dương hạm Naka và 7 khu trục hạm của đề đốc Shoji Nishimura hiện đã đến và đồng loạt phóng 64 quả thủy lôi. Hạm đội địch lại xoay hướng 90 độ về phía Bắc, qua một lối di động kì dị và không đúng qui tắc, nhưng khiến cho tất cả 64 thủy lôi đều lạc hướng. Bây giờ địch quân lại xoay thêm 90 độ nữa và cả hạm đội của họ đều ẩn trong một màn khói nhân tạo dày đặt. Chiến pháp nầy của địch không hề nghe nói đến trong Hải Quân Hoàng Gia Nhựt. Tôi đứng bất động và sửng sờ.
Một quả trọng pháo của địch trúng khu trục hạm Asagumo khiến 5 thủy thủ thiệt mạng và 19 người bị thương, chiếc tàu nầy bị loại khỏi vòng chiến một thời gian.
Sau khi phóng thủy lôi, Phân đội 2 của chúng tôi và Phân đội 4 của đề đốc Nishimura, mỗi phân đội tẻ ra mỗi hướng, chạy theo hình vòng cung. Khoảng cách giữa chúng tôi và địch quân nới rộng. Tuy nhiên hành vi của Đồng Minh đêm nay đã gây khó hiểu cho chúng tôi. Sau khi đã xoay hẳn 360 độ, tàu địch bây giờ gia tăng tốc độ và chạy dưới sự bao che của các màn khói nhân tạo dày đặt, nhưng sau đó lại xoay thêm hai lần 90 độ nữa và chạy thẳng về phía Bắc. Ý định của hạm đội Đồng Minh không thể nào đoán nổi. Có lẽ họ vẫn còn mưu định tấn công đoàn tàu chuyển vận của Nhật Bản.
Hai tuần dương hạm Nachi và Haguro, lẻo đẻo phía sau hai phân đội khu trục hạm, nhìn thấy hạm đội địch nên đã xoay lại. Khoảng 8 giờ tối, hai tuần dương hạm Nhựt đã phóng 16 thủy lôi vào mục tiêu cách 16.000 thước. Khoảng cách nầy quá xa. Hạm đội Đồng Minh lại xoay 360 độ khiến các quả thủy lôi nầy đều vô hiệu và xã hết tốc lực chạy về hướng Nam, tức hướng Surabaya.
Hai tuần dương hạm Nhựt không truy đuổi. Lúc ấy có một loạt 12 tiếng nổ phát ra ở hướng Nam. Các sĩ quan tham mưu trên hai tuần dương hạm không thể đoán được lý do, và họ độ chừng tiềm thủy đỉnh địch đang tấn công các khu trục hạm Nhựt. Sau đó có sự xác nhận những tiếng nổ nầy là do các thủy lôi của hai tuần dương hạm phóng ra đã lướt 40 cây số về hướng Nam và chạm vào bờ biển. Trong bóng đêm, chúng tôi có thể thấy những ánh đèn ở Surabaya, cách xa 30 dậm.
Lúc 8 giờ 30 tối, Takagi ra lịnh cho tất cả chiến hạm Nhựt ngừng cuộc truy đuổi và qui tụ về gần đoàn tàu chuyển vận. Trận chiến vừa qua thật sự cả hai phía đều vấp phải nhiều lỗi lầm. Hầu hết những người ở Phân đội 2 đều tỏ vẻ bực tức lịnh ngừng truy đuổi của Takagi. Còn tàu của tôi không được ra tay nhiều bằng các tàu khác nên tôi cũng cảm thấy tiếc rẽ đã mất dịp may tham dự vào một cuộc truy đuổi sôi động và quần thảo với địch quân một lần nữa.
Khi Takagi thấy tất cả các khu trục hạm Nhựt quay mủi về hướng Bắc, ông ra lịnh cho hai chiếc Nachi và Haguro ngừng lại để mang hai chiếc thủy phi cơ quan sát đã cất cánh từ đầu trận đánh lên tàu. Takagi đã suýt chết vì quyết định nầy, may mà địch quân vụng về nên mạng ông còn tồn tại. Việc mang 2 thủy phi cơ lên tàu là cả một công việc đầy gian nan. Sau nầy trong cuộc chiến, nhiều chiến hạm Nhựt chỉ sử dụng phi cơ thám thính một lần rồi bỏ hẳn, không trục chúng lên tàu nữa. Tuy nhiên, đó là thời gian Nhật Bản đang chiến thắng, các vị Tư Lịnh không nhẩn nại trong việc thâu hồi loại phi cơ nầy. Hiện tại, sơ khởi của cuộc chiến, Takagi hoàn toàn đúng khi đưa ra lịnh vừa rồi. Tuy nhiên ông hoàn toàn sai khi nghĩ rằng hạm đội Đồng Minh đã chạy thẳng về Surabaya rồi.
Lúc 20 giờ 50, khi chiếc Nachi đang trục chiếc phi cơ cuối cùng, trong số năm chiếc do tàu nầy thả lên, có tin báo: "Hải đội 3 thiết giáp hạm đến!" Trung tá Ishikawa nhìn qua ống viễn kính đã nói to: "Các chiến hạm có ba cột buồm. Phải, hình như chiếc Haruna và Kirishima."
"Làm sao hai chiếc tàu nầy ở đây được? Hai ngày trước chúng ở Ấn Độ Dương..." sĩ quan tin tức đứng trên đài chỉ huy của tuần dương hạm Nachi tỏ vẻ ngờ vực.
Ba mươi phút sau, Trung Tá Ishikawa hét to: "Trời hại rồi! Nhiều tàu chiến địch! Bốn chiếc trong số đang hướng thẳng đến chúng ta. Chỉ còn 12.000 thước nữa thôi."
Náo động khắp nơi trên tàu. Hai tuần dương hạm lúc nầy đang nằm như hai cái xác chết, thủy thủ đoàn lại chưa sẵn sàng trong vị trí chiến đấu, làm sao xoay sở đây? Tàu địch đang tiến đến và bắn hàng loạt trái chiếu sáng lên trời. Đề đốc Takagi bậm môi đến rướm máu. Ông ta đang hấp hối.
"Thâu hồi phi cơ nhanh lên!" ông ra lịnh. "Tất cả sẵn sàng chiến đấu". Một phút, hai phút, ba phút. Thật ớn xương sống.
"Phi cơ bị kẹt rồi!" Một nhân viên cần trục la to.
Takagi hét: "Nổ máy, lùi hẳn về phía sau."
Động cơ Nachi đã chạy lại, và bắt đầu chậm chậm lùi về phía sau với chiếc phi cơ còn đang treo lủng lẳng trên dây cáp ở bên cạnh. Các tuần dương hạm địch khai hỏa và đạn rơi xuống chung quanh chiếc tàu của chúng tôi. Takagi ra lịnh phản pháo khi hai chiếc Nachi và Haguro đã đạt được tốc độ 18 hải lý, tốc độ chiến đấu tối thiểu. Cả hai chiếc tàu cùng khai hỏa, cấp bách đến nổi không kịp sử dụng đèn rọi tìm địch. Cuộc đấu súng tiếp tục ở khoảng cách chừng 12.000 thước và cả hai bên đều phí đạn vô ích. Sau 10 phút. Nachi và Haguro không còn nhín thấy dạng các địch thủ đâu nữa. Náo loạn đã vượt qua.
Nhưng một nổi lo âu khác lại đến. Takagi nói: "Chiến hạm địch có thể hướng về đoàn tàu chuyển vận của chúng ta." Hai tuần dương hạm Nhựt lại được phái đi tìm kiếm các chiếc tầu đã gây kinh hoàng cho chúng tôi 20 phút trước đây. Takagi ra lịnh cho tuần dương hạm Jintsu của Đề Đốc Tanaka chạy cách đó khoảng 5.000 thước, cho thủy phi cơ bay lên, để tiếp tay với Nachi và Haguro. Đề đốc Tanaka nhanh chóng đáp ứng lịnh của Takagi.
Lúc 21 giờ 45, phi cơ của Jintsu báo cáo: "Một nhóm tàu địch gồm 4 tuần dương hạm và 2 khu trục hạm đang trực chỉ về phía Nam." Tin nầy đã khiến cho các sĩ quan trên hai chiếc Nachi và Haguro thở phào nhẹ nhõm.
Trong cuộc đối đầu vừa qua, hai tuần dương hạm của chúng tôi đã phản pháo khi vừa xoay xong 90 độ nữa. Đồng Minh không còn hy vọng gặp lại chúng tôi trong tình trạng bối rối nầy lần thứ hai, nên họ đã đi thẳng về phía Nam. Họ đã để mất một dịp may bằng vàng. Nếu họ quyết tâm chắc chắn hai chiếc Nachi và Haguro đã bị xóa tên, và họ có thể làm cỏ đoàn chuyển vận hạm như cua mất càng của chúng tôi.
Tóm lại, trận đánh vừa qua lực lượng hải quân Đồng Minh đã chịu đựng thiệt hại nặng nề: tuần dương hạm Exeter của Anh bốc cháy và lê thân về Surabaya. Ba khu trục hạm bị đánh chìm hẳn. Sáu chiếc tàu nầy lại có quyết định dũng cảm tiến về phía Bắc, mưu đánh đoàn tàu chuyển vận của Nhựt một lần nữa, như đã thấy, không may là chúng đã để mất cơ hội thuận lợi nhất. Trên đường rút chạy về hướng Nam, khu trục hạm Jupiter của Anh trong nhóm đã đụng phải một quả thủy lôi của Đồng Minh và chìm cấp kỳ. Nhưng năm chiếc tàu còn lại vẫn chưa chịu rút lui hẳn. Chúng đã quay trở lại, chạy thẳng về hướng Bắc, lẻo đẻo dòm ngó đoàn tàu của chúng tôi, thoạt ẩn thoạt hiện dưới ánh hỏa châu do phi cơ thám thính của tuần dương hạm Jintsu thả xuống.
Trăng sáng nhưng thỉnh thoảng vẫn bị các đám mây che khuất. Năm chiến hạm Đồng Minh đưa ra cố gắng cuối cùng, chạy xuyên qua bóng tối và từng khoảng sáng của ánh hỏa châu soi trên mặt biển, hướng về phía chúng tôi.
Các chiến hạm Nhựt cũng chỉnh đốn hàng ngủ và sẵn sàng dạ chiến. Tất cả đều hăng hái chuẩn bị đánh trận quyết định. Hai tuần dương hạm hạng nặng Nachi và Haguro luôn luôn canh chừng ở hướng Bắc và theo sự hướng dẫn của phi cơ thám thính. Quá nửa đêm ngày 8 tháng 2 Nachi phát hiện năm tàu địch đang hướng thẳng về phía Bắc. Cả hai chiếc Nachi và Haguro lập tức đuổi theo, song song với năm chiếc tàu của Đồng Minh và sau đó chạy chậm lại để tìm cơ hội tấn công. Tiết kiệm nhiên liệu và đạn dược là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chiến hạm Nhựt, do đó hỏa lực của chúng tôi giới hạn và chỉ bắn khi nào cần thiết.
Lúc 0 giờ 53, Nachi đã phóng 8 thủy lôi và Haguro 1 quả vào các tàu địch chạy ở 60 độ tả mạn, khoảng cách 40.000 thước. Lúc đó mưa mù bổng che phủ mặt đại dương, chiến hạm Nhựt hy vọng tàu địch không thấy thủy lôi để né tránh. Lúc 1 giờ 6 phút, ánh sáng bùng lên trong đêm tối và một cột lửa bốc cao ở hướng Đông Nam. Một thủy lôi đã trúng tuần dương hạm Java. Bốn phút sau, một tiếng nổ khác phát ra cùng hướng, và chiếc soái hạm De Ruyter của địch quân bùng cháy như một cây đuốc. Thủy thủ trên hai chiếc Nachi và Haguro reo hò vang dậy. Họ ôm nhau nhảy múa.
Đề đốc Takagi lạnh lùng nói: "Cuộc chiến đã chấm dứt." Hai tuần dương hạm Nachi và Haguro xả hết tốc lực chạy về hướng Đông Bắc xuyên qua các vùng mưa luồng trên đại dương. Không gặp chiến hạm nào của địch quân, cả hai chiếc tiến sát đến hai chiến hạm đang bốc cháy. Takagi nói: "Đừng phí đạn với hai chiếc tàu nầy. Để chúng tự hủy lấy!" Cuộc truy lùng chấm dứt lúc 5 giờ 30.
Nghi vấn xảy ra trong ngày là sự di chuyển của tuần dương hạm Houston của Hoa Kỳ và Perth của Úc đại Lợi. Cuộc tìm kiếm vô hiệu quả của Tanaka xa về phía Bắc có thể là lầm lẫn cuối cùng của Nhật Bản trên mặt trận Thái Bình Dương. Khi hai chiếc Java và De Ruyter bốc cháy, cả hai chiếc tàu nầy đã bỏ đi lập tức về hướng Đông Nam, dọc theo bờ biển, nghĩa là không trở về hướng xuất phát cuộc tấn công. Đó là điều kỳ lạ.
Sau 90 phút giữa đêm ngày 01 tháng 3, khu trục hạm Fubuki đã phát hiện hai chiếc tàu mà họ không rõ xuất xứ chạy cách 10.000 thước phía Đông đảo Babi, gần vịnh Banten, và xa trận đánh biển Java vừa xảy ra 500 hải lý. Trung Tá Yasuo Yamashita, hạm trưởng của Fubuki không hiểu hai chiếc tàu bí mật nầy định làm gì nên ông đã cho quay tàu lại và lẻo đẻo theo cách phía sau 8.000 thước. Đó là hai chiếc Houston và Perth. Nhưng có điều khó hiểu là tại sao hai tàu nầy di chuyển trên một hải trình kéo dài 24 giờ mà không bị phi cơ thám thính bay suốt ngày của Nhựt nhìn thấy?
Sau trận đánh biển Java, Houston và Perth còn rất ít đạn dược, và sau khi vượt 500 dậm nữa, với tốc độ 26 hải lý, nhiên liệu cũng gần cạn. Trên đường đến một căn cứ tiếp tế, hai chiếc tàu địch đã kinh ngạc khi nhận thấy đoàn tàu chuyển vận thứ hai gồm 56 chiếc của Nhựt tụ hợp ở vịnh Banten và đang chuẩn bị đổ bộ. Không sợ sệt, cả hai đã khai hỏa vào đám tàu chuyển vận nầy, lúc ấy vào khoảng hơn nữa đêm.
Khu trục hạm Harukaze của Nhựt đã vội vàng tung một màn khói bao che. Cùng lúc ấy, khu trục hạm Fubuki vừa chạy đến, đã phóng 9 quả thủy lôi. Mười hai chiến hạm của đề đốc Akisaburi Hara rối loạn, cho dù trước đó Fubuki đã gọi vô tuyến báo cho các chiến hạm nầy biết có "hai chiếc tàu bí mật đang tiến vào Vịnh", nhưng ở đây vẫn không chuẩn bị tiếp chiến, rõ ràng họ khinh thường hai tàu chiến đơn độc của Đồng Minh. Sau nầy, một số hạm trưởng cho biết họ dành cả thời giờ để tránh né đạn và thủy lôi của tàu bạn.
Tuy nhiên trong vòng một giờ, cả hai chiếc tàu Đồng Minh đều bị đánh chìm. Ba chuyển vận hạm của Nhựt thiệt hại trầm trọng và chiếc tàu chỉ huy của đoàn chuyển vận bị đánh chìm, khiến đại tướng Lục Quân Hitoshi Imamura bị văng ra ngoài, nhưng sau đó ông đã bơi được vào bờ biển. Thương vong của Nhật tương đối nhẹ.
Một ủy ban điều tra đã nghiên cứu cuộc loạn đấu nầy, nhưng không đưa ra kết luận tại sao các chuyển vận hạm Nhựt bị thiệt hại. Có nhiều ý kiến cho rằng chúng bị thủy lôi do chiếc Fubuki phóng ra ở khoảng cách 7.000 thước.
Trong khi đoàn tàu chuyển vận hoàn tất cuộc đổ bộ thành công ở Surabaya, hai tuần dương hạm Nachi và Haguro đụng địch. Vào buổi trưa cùng ngày, cả hai đã phát hiện ba tàu chiến khác của địch quân gần đảo Bawean và đang hướng mũi về Bắc. Nachi và Haguro, được hai tuần dương hạm Ashigara và Myoko trợ lực, đã đánh chìm cả ba chiếc tàu trong vòng hai giờ, từ 13 giờ 30 đến 15 giờ 30, gồm một tuần dương hạm và một khu trục hạm của Anh, và một khu trục hạm của Hoa Kỳ. Đồng thời, phi cơ thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm của Phó Đô Đốc Nagumo cũng đã đánh chìm 4 khu trục hạm Hoa Kỳ trong tổng số 8 chiếc thoát ra từ eo biển Bali để chạy về hướng Nam.
Sau khi hoàn tất cuộc đổ bộ, kiểm điểm lại đoàn tàu chuyển vận của Takagi không thiệt mất một chiếc nào. Ông đã hoàn thành sứ mạng của ông. Tóm lại, trận hải chiến Java phần thắng lợi ngã về Nhật Bản.
Tuy nhiên, "một loạt sai lầm" của Takagi trong trận đánh nầy đã bị chỉ trích dữ dội. Việc hoang phí đạn dược và khai hỏa ở khoảng cách 28.000 thước của ông lúc trận đánh vừa phát khởi, là bị đả kích nhiều nhất. Khi trận đánh kết thúc, chiếc Nachi chẳng hạn, 10 khẩu 200 ly của nó chỉ còn mỗi khẩu 7 quả đạn. Soái hạm Jintsu của Tanaka lúc đó đã cạn nhiên liệu và hầu như thả trôi trên mặt biển. Sĩ quan pháo binh có vẽ khinh thị Takagi khi nói: "Ông ta là một sĩ quan tiềm thủy đỉnh, làm sao ông ta biết sử dụng trọng pháo".
Takagi và phụ tá của ông là Nagasawa đã bác bỏ các lời tố cáo. Nhưng không lâu sau đó, ông được chuyển đến chỉ huy một hạm đội tiềm thủy đỉnh, còn Nagasawa trở về Đông Kinh và được bổ nhiệm vào một chức vụ bàn giấy.
Trận hải chiến Java đã dạy cho tôi nhiều bài học. Sau trận nầy, cũng là trận đánh lớn đầu tiên của chiếc Amatsukaze, chúng tôi đứng bên ngoài các trận đụng độ chánh yếu trên Thái Bình Dương. Trận đánh nầy còn có ý nghĩa hơn hàng ngàn buổi diễn tập mà tôi từng tham dự trước đây.
6
Trưa ngày 28 tháng 2, Đề đốc Raizo Tanaka ra lịnh cho khu trục hạm của tôi đến Bandjermasin để tái nhận nhiên liệu, khi ông tin chắc rằng tất cả chiến hạm đối nghịch trên hải phận gần Surabaya đã được dọn sạch. Tôi được chỉ định hộ tống chiếc tàu bịnh viện Hòa Lan mà chúng tôi đã chận bắt trước khi trận đánh Java mở màn, đến một căn cứ Nhật Bản gần nhứt ở Borneo.
"Khi trở về, tàu của anh phải chở dầu đến mức tối đa," Tanaka dặn "bởi vì các chiếc khác sẽ lấy dầu từ tàu của anh" Phân đội của tôi đã xuất phát từ Timor để tham dự vào cuộc hành quân nên tiêu thụ quá nhiều nhiên liệu và hiện thời thiếu hụt trầm trọng.
Chiếc Amatsukaze của tôi chỉ còn đủ nhiên liệu đến Bandjermasin với tốc độ tiện tặn 18 hải lý. Tanaka biết các tàu khác không có khả năng để hoàn tất nhiệm vụ nầy.
Ngang qua đảo Bawean, chúng tôi nhìn thấy cả trăm người đang vùng vẫy trên mặt nước. Tiến gần hơn, chúng tôi biết đó là thủy thủ đoàn của những chiến hạm Đồng Minh bị Nhựt đánh chìm giữa đêm hôm qua. Một rừng tay cầu cứu giơ lên và tiếng kêu vang dậy: "Nước! Nước!".
Tình cảnh đáng thương tâm. Tôi không thù hằn những đối thủ đã ngã ngựa, nhưng tôi có thể làm gì, khi mà chiếc tàu của tôi chỉ có thể chở bốn năm chục người là cùng. Tôi không thể chỉ cứu phân nửa số người sống sót nầy. Vả lại tàu của tôi cần phải chạy nhanh để lấy nhiên liệu, hơn nữa nếu tôi ngường lại có thể tạo cơ hội cho tiềm thủy đỉnh tấn công.
Tôi chỉ đành biết vẩy tay, và nhắm mắt trước những kẻ sắp chết đuối. Tôi ra lịnh gởi một công điện về Đề Đốc Tanaka: "Hơn 100 địch quân sống sót đang trôi dạt cách đảo Bawean 60 dậm, hướng 270 độ, khẩn nổ lực tiếp cứu."
Hoa tiêu cẩn thận lái chiếc tàu vượt qua những nhóm người ở dưới nước. Một trong những đại úy của tôi rành tiếng Anh đã la thật to: "Cố gắng! Cố gắng! Một tàu cứu hộ sẽ đến ngay."
Sau khi nhận nhiên liệu ở Bandjermasin, chúng tôi trở về Surabaya vào ngày 1 tháng 3. Ngang qua Bawean, tôi nhìn quanh, nhưng không còn thấy bóng dáng một thủy thủ sống sót nào của Đồng Minh trên mặt nước. Ngày hôm qua chúng tôi không nghe một hoạt động tiếp cứu nào trong khu vực nầy. Trái tim tôi bổng nhiên chùn xuống.
Trên hải trình tiếp tục trở về Surabaya, chúng tôi phát hiện một tiềm thủy đỉnh địch quá trể, lúc tàu chúng tôi đã vượt qua khoảng cách quá xa. Tôi bỏ quyết định quày lại để tấn công. Chúng tôi kết hợp với Phân đội của Tanaka vào ngày hôm đó, và đến 20 giờ 30, tất cả các chiến hạm hoàn tất việc tái tiếp nhận nhiên liệu. Tuần dương hạm Jintsu và bốn khu trục hạm phối hợp, mở ngay một cuộc săn tiềm thủy đỉnh địch quân mà chiếc Amatsukaze đã phát hiện. Đêm hôm đó, trời u ám, tầm quan sát bị giới hạn, nhưng mặt biển lặng sóng nên chúng tôi hy vọng có thể khám phá ra các mục tiêu dễ dàng.
Một cuộc săn đuổi tiềm thủy đỉnh không có ra đa là một trò chơi đầy kiên nhẫn đối với các chiến hạm Nhật. Mọi khám phá đều tùy thuộc cả vào đôi mắt thường của quan sát viên và dụng cụ sonar không mấy hiệu quả của chúng tôi. Năm chiếc tàu chạy với tốc độ 18 hải lý theo hình chữ chi, nhưng suốt 6 giờ vẫn không tìm thấy một dấu vết nào. Mọi người tỏ vẽ chán nản và mệt mõi.
Sáng sớm ngày 2 tháng 3, bổng quan sát viên Migita la to: "Một điểm đen, 40 độ tả mạn. Hình như một tiềm thủy đỉnh!" mọi người trên đài chỉ huy đều dõi mắt nhìn. Tôi dùng ống nhòm, nhưng vẫn không thấy gì trên mặt biển đầy sương mù lúc ấy. Migita lại nói: "Điểm đen bây giờ giống như một mảnh rác." Mọi người thất vọng. Riêng tôi, hiện tại qua ống nhòm đã nhìn thấy điểm đen giống như mảnh vở của một chiếc xuồng. Chán nản mệt mỏi lại ùa đến qua các phát hiện ấy.
Lúc 8 giờ 40, quan sát viên hữu mạn Bumichi Ikeda kêu lên: "không biết vật gì, hướng 30 độ... có thể là một tiềm thủy đỉnh." Tất cả các cặp mắt đều mở bét ra để nhìn. Ikeda lại la: "Đúng là tiềm thủy đỉnh."
Đôi mắt sắc bén của Iwata, quan sát viên có thể nhìn xa 20.000 thước trên mặt biển, gấp đôi các quan sát viên khác, nhìn chăm chú về phía trước, xoay lại nói một cách khoan khoái: "Tiềm Thủy Đỉnh không còn nghi ngờ gì nữa."
Tôi bước đến ông nhắm của khẩu đại bác 127 ly và quan sát. Một chiếc tiềm thủy đỉnh không sai, ở xa khoảng 6.000 thước. Tôi ra lịnh: "Tốc lực chiến đấu số 2 (26 hải lý), 50 độ phải. Mọi người vào vị trí chiến đấu. Xạ thủ sẵn sàng hành động. Bật đèn dò tìm tàu địch! Chuẩn bị thủy lôi nổ ngầm!."
Hoạt động nhộn nhịp và chiếc tàu gia tăng tốc độ. Khu trục hạm Hatsukaze cho biết là đang theo sau chúng tôi. Tôi ra lịnh bật "đèn xanh" (tức tốc độ 26 hải lý)
Iwata bây giờ la lên: "Tiềm thủy đỉnh trồi lên mặt nước xa 3.500 thước."
Đại úy Akino trên đài kiểm soát hỏa lực nói lớn: "Các pháo khẩu sẵn sàng khai hỏa, thưa hạm trưởng."
Tôi đáp: " Chúng ta sẽ khai hỏa khi mục tiêu còn cách 2.500 thước, 60 độ hữu mạn." Tiềm thủy đỉnh địch nổi hẳn trên mặt biển. Sáu khẩu 127 ly và đèn rọi tìm tàu địch của chúng tôi xoay một góc 60 độ.
Amatsukaze vẫn tiếp tục chạy thẳng đến mục tiêu và khi còn cách 2.700 thước chiếc tàu quanh trái, xoay tất cả họng súng vào tiềm thủy đỉnh địch quân. Một phút sau, hai trọng pháo khai hỏa, và các trọng pháo kế tiếp. Chiếc tiềm thủy đỉnh trúng hai quả đạn trực tiếp, bừng cháy, chìm thật nhanh và biến mất giữa các lượn sóng nước trước khi chúng tôi chạy đến. Chúng tôi thả thêm 2 khối chất nổ ngầm cho chắc ăn trước khi rời mục tiêu. Các sonar của chúng tôi không phát hiện được dấu vết nào khác ngoài vết dầu nổi lên mặt nước.
(Đây là tiềm thủy đỉnh Perch (SS.176) chưa bị hủy diệt trong cuộc tấn công nầy. Perch xuất hiện lại vào sang ngày 3 tháng 8 (tức ngày hôm sau cuộc tấn công của Amatsukaze), lần nầy nó đụng đầu với hai khu trục hạm Nhựt và mới bị loại khỏi vòng chiến thực sụ)
Hai giờ sau chúng tôi quay lại khu vực, vì chỉ một vài sĩ quan và thủy thủ đứng phía trên nhìn thấy chiếc tiềm thủy đỉnh bốc cháy, nên còn nhiều người khác tỏ vẻ nghi ngờ. Dầu vẫn tiếp tục trồi lên ở khoảng nước mà tiềm thủy đỉnh đã chìm. Bây giờ toàn thể thủy thủ đoàn mới thực sự tin tưởng.
Đêm kế đó chúng tôi tiếp tục cuộc săn đuổi, mặc dù thời tiết quá xấu và mưa lớn liên miên khiến mọi dụng cụ quan sát đều vô dụng.
Khoảng 20 giờ 30 đêm đó, tôi nhìn thấy một đốm sáng mong manh cách nhiều ngàn thước trước mũi chiếc Amatsukaze. Đóm sáng chỉ lóe lên một lần rồi tắt ngấm, giống như một diêm quẹt. Phải, có lẽ một người đã quẹt diêm để hút thuốc trên sân tàu. Tôi ước lượng ánh sáng lóe lên ở khoảng cách 4.000 thước chánh Bắc, tức hướng tiến của Amatsukaze.
Tôi cho tàu gia tăng tốc lực chạy thẳng đến mục tiêu. Đó là một chiếc tiềm thủy đỉnh địch nổi lên mặt nước và đang di chuyển khá mau về phía Đông. Amatsukaze gia tăng tốc lực lên 26 hải lý và đảo về phía trái để chạy song song với chiếc tiềm thủy đỉnh ở khoảng cách 2.300 thước. Qua ánh đèn rọi, chúng tôi thấy tàu địch có kích thước trung bình.
Khẩu đội thứ nhứt khai hỏa, nhưng không trúng mục tiêu. Ngay lập tức tôi nhìn thấy hai làn trắng xóa vạch trên mặt nước vượt cách mũi chiếc Amatsukaze một vài thước. "thủy lôi !" Một thủy thủ la lên. Xương sống tôi ớn lạnh. Nổi sợ hải của tôi biến mất một vài giây sau đó khi hai quả đạn của khẩu đội thứ hai trúng mục tiêu. Và hai quả đạn của khẩu đội thứ ba biến chiếc tiềm thủy đỉnh thành ngọn lửa, và ngọn lửa nầy từ từ biến mất trong làn sóng.
Chúng tôi rời khỏi khu vực vào lúc 23 giờ 45 sau khi các máy sô na của chúng tôi không khám phá được dấu vết nào chứng tỏ mục tiêu còn tồn tại.
Ngày hôm sau thời tiết trong sáng, và đêm đến chúng tôi trở lại khu vực cũ. Nơi đây, chúng tôi chú ý đến một vệt dầu nổi trên mặt nước, giống như khói tuôn ra từ một miệng núi lửa ngầm dưới biển. Thủy thủ đoàn được gọi ra để nhìn thấy kết quả của việc làm đồng đội của họ. Không lộ hẳn sự thích thú như đêm trước, nhưng mọi người đều tỏ vẻ hài lòng. Thừa dịp thủy thủ đoàn tụ hợp trên sân tàu, tôi nói với họ: "Các bạn đã nhìn thấy sức mạnh của việc phối hợp đã đưa đến kết quả tốt đẹp như thế nào. Các bạn làm tròn bổn phận, tôi rất hài lòng. Từ khi khởi đầu cuộc chiến, chúng ta đã trãi qua nhiều tháng quây quần bên nhau mà không mất mát một người nào. Chúng ta hãy hy vọng sẽ luôn luôn được sự may mắn nầy. Các bạn đã làm tròn nhiệm vụ trong những ngày đã qua, nhưng tôi chắc chắn các bạn sẽ làm tốt hơn trong những ngày sắp tới."
"Hãy nhìn dòng dầu nổi lên mặt nước kia! Nó phát ra từ một chiếc tiềm thủy đỉnh địch và cũng là chiếc mồ khổng lồ chon hơn 100 người. Những người nầy chết chỉ vì sự dại dột của một đồng đội, hắn ta đã hút thuốc trong đên tối lúc chiếc tàu nổi lên mặt nước. Tôi đã nhìn thấy que diêm lóe sáng và hậu quả xảy ra."
"Thủy thủ địch được huấn luyện kỷ, nhân viên thủy lôi của họ tài ba, nên mặc dù chúng ta chiến thắng nhưng chiến thắng đó rất chật vật. Nếu không vì một thủy thủ của chiếc tiềm thủy đỉnh dại dột, chiếc Amatsukaze nầy sẽ là mồ chôn 250 người chúng ta. Chiến tranh là như vậy. Từ đó, tôi tin rằng mỗi người trong các bạn đã rút tỉa được một bài học."
"Các bạn cũng nên biết tôi là một tay nghiện thuốc là nặng từ hai mươi năm nay. Nhưng đêm vừa rồi, khi chúng ta đánh chìm chiếc tiềm thủy đỉnh nầy, tôi đã bỏ hút. Tôi làm như vậy không phải để các bạn bắt chước theo tôi nhưng để mỗi lần nhớ đến tôi, các bạn sẽ nhớ đến câu chuyên mà tôi vừa nói. Trong tư cách hạm trưởng của các bạn, tôi có trách nhiệm đối với mạng sống của các bạn, và vì vậy tôi phải nêu gương trước."
"Bây giờ chúng ta hãy dành một phút mặc niệm cho những người đã chết. Mặc dù họ là kẻ thù, họ đã chết cho xứ sở của họ, và vì vậy đáng cho chúng ta dành cho họ phút giây ngắn ngủi nầy."
Sau khi mặc niệm, tôi gọi Ikeda, quan sát viên đã phát hiện chiếc tiềm thủy đỉnh vào ngày 2 tháng 3, móc túi thưởng cho anh ta 10 yên (khoảng 2.500 VN theo thời giá), kèm theo một gói tặng phẩm và 10 ngày phép đặt biệt. Buổi họp chấm dứt với lời hoan hô của mọi người dành cho Ikeda.
Vào ngày 6 tháng 3, Amatsukaze và Hatsukaze trở về Bandjermasin để tái nhận nhiên liệu, đạn dược và đồ tiếp tế. Trong lúc ở đây, tôi đến viếng chiếc tàu bịnh viện Hòa Lan để dò hỏi tin tức số thủy thủ địch mà chúng tôi gặp trôi nổi gần đảo Bawean một tuần trước đây. Tôi hêt sức vui mừng khi biết được hầu hết số người nầy đã được giải cứu, và hiện có mặt trên chiếc tàu bịnh viện, cùng với 1.000 tù binh khác. Nhìn đám đông dồn chung trêm một chiếc tàu nhỏ bé, tôi nhớ lại những ngày còn là sinh viên sĩ quan và chuyến huấn luyện ở Mỹ Châu và Âu Châu. Trong nhóm tù binh nầy chắc có một số tôi đã từng gặp. Hoàn cảnh hiện tại của họ thật đáng buồn, và tôi thầm nhủ là không bao giờ nên để rơi vào tay địch quân.
Những ngày còn lại của tháng 3, không có gì đáng nói. Vào ngày cuối cùng của tháng nầy, khu trục hạm Amatsukaze tham dự vào cuộc chiếm đảo Christmas, cách Java khoảng 200 dậm. Hòn đảo lẻ loi nầy không chỉ là một địa điểm chiến lược mà còn có nhiều quặng sắt. Cuộc hành quân nầy suông sẽ nhứt so với các cuộc hành quân khác mà tôi từng tham dự trước đây. Cuộc đổ bộ được hơn một chục oanh tạc cơ, hai tuần dương hạm, bốn khu trục hạm Nhựt oanh tạc và pháo kích dọn đường. Bảy giờ sáng hôm đó, hơn 100 quân phòng thủ người Anh đã đầu hàng ngay trước khi cuộc đổ bộ hoàn tất, tất cả bị bắt làm tù binh và trở thành phu khuân vác các tài nguyên của hòn đảo xuống bến tàu.
Có một việc cần nói vào ngày thứ hai của cuộc hành quân êm đẹp nầy. Lúc 8 giờ 05 phút tôi nhìn thấy một làn nước sủi bọt giống như mũi tên lao đến tuần dương hạm Naka, soái hạm của chúng tôi. Đó là một trái thủy lôi được phóng ở khoảng cách không hơn 700 thước và một góc 50 độ phía hữu mạn của chiếc Naka. Soái hạm vội xoay hướng nhưng không kịp. Thủy lôi trúng giữa thân tàu và phá vở một lổ hỏng 5 thước, nhưng không có thủy thủ nào thiệt mạng. Đó là một phép lạ.
Bốn khu trục hạm Nhựt và tuần tiểu đỉnh xông ra và thả xuống nước nhiều khối chất nổ ngầm để hủy diệt chiếc tiềm thủy đỉnh địch vừa phóng thủy lôi, nhưng nó đã cao bay xa chạy (Sau nầy chúng tôi biết đó là chiếc Seawolf của Hoa Kỳ đã liều lĩnh len lỏi vượt qua mũi súng của bốn khu trục hạm Nhựt để mưu đánh chìm cho được soái hạm Naka).
Mặc dù 800 tấn nước tràn vào, nhưng chiếc Naka vẫn không chìm vì đóng chặt các ô riêng rẻ trong tàu kịp thời. Được 7 khu trục hạm hộ tống, soái hạm lê lết trở về Nhựt để sửa chửa lại mất nhiều tuần lễ. Đó là cái giả phải trả cho tánh tự mãn. Tất cả chúng tôi đều chia sẽ lỗi lầm nầy, và riêng tôi lại học được một bài học nữa.
(Tuần Dương Hạm Naka là chiếc cuối cùng của class tuần dương hạm nhẹ Sendai, lớp nầy gồm 3 chiếc: Sendai, Jintsu và Naka, trọng tải 5195 tấn, đóng năm 1922 hoàn tất trang bị và sử dụng vào tháng 10 năm 1925. Lớp tuần dương hạm Sendai thường được dùng làm soái hạm cho các phân đội khu trục hạm. Trang bị 7 pháo khẩu 140 mm, 4 ống phóng thủy lôi, tốc độ chạy tối đa gần 36 hải lý, và mang theo được một thủy phi cơ thám thính. Chiếc tuần dương hạm nầy tuy già nua nhưng tham dự hầu như các cuộc hành quân lớn từ khi bắt đầu cuộc chiến Thái Bình Dương cho đến năm 1944, Naka bị đánh chìm gần quân cảng Truk do các oanh tạc cơ SB2C Helldiver và máy bay phóng thủy lôi Avenger từ hai hàng không mẫu hạm Bunker Hill và Cowpens không tập Truck vào ngày 2 tháng 2 năm 1944, 210 người sống sót trong đó có hạm trưởng cuối cùng của Naka, Đại Tá Yoshimasa Sutezawa)
PHẦN BA
CHUYẾN XE LỬA TỐC HÀNH ĐÔNG KINH
Cuộc đổ bộ đảo Christmas đánh dấu sự kết thúc giai đoạn đầu tiên các cuộc hành của Nhật Bản ở Đông Nam Á. Mặt trận Thái Bình Dương cũng lắng dịu hơn một tháng sau ngày đổ bộ,
Vào ngày 3 tháng 4, chúng tôi được lịnh rời bỏ nhiệm vụ hộ tống soái hạm Naka gần Surabaya và kết hợp với hạm đội ở biển Java. Ngày kế, chúng tôi đến Batavia và trưa đó lên đường đến Macassar. Nơi đây chúng tôi lưu lại năm ngày để kiểm soát lại máy móc và vũ khí. Thành phố nầy nhộn nhịp, cửa hàng buôn bán tấp nập với mọi loại nhu yếu phẩm khó tìm thấy ở Nhựt trước đây.
Đa số dân chúng Nhựt đều tin tưởng Nhật Bản se tự tìm kiếm một nền hòa bình vào mùa xuân năm 1942, thay vì cho đợi các điều kiện hòa binh do Đồng Minh đưa ra sau khi chúng tôi vẫy những lá cờ trắng. Nhưng những tháng đầu năm 1942 trôi qua, và Chánh Phủ Nhật không hề mưu tìm một nền hòa bình nào hết. Thật vậy, các chính trị gia và các nhà lãnh đạo quân sự Nhựt đều khăng khăng tin tưởng việc chiếm đóng Đông Nam Á trở thành vĩnh viễn, với nguồn tài nguyên vô tận của khu vực vĩ đại nầy, Nhật Bản sẽ không thể nào bị đánh bại.
Từ Macassar chúng tôi chạy đến Surabaya, và cuối cùng vào ngày 17 tháng 4, chúng tôi được lịnh quay về Nhật Bản. Mọi người đều hớn hở, những thủy thủ bị động viên mơ mộng được giải ngủ. Họ cũng hy vọng chiến tranh chấm dứt. Nhiều sĩ quan có thể không nhìn thấy các viễn cảnh màu hồng nầy, nhưng được dịp trở về quê hương đã khiến họ vui mừng không kém gì binh sỹ.
Chúng tôi rời khỏi Surabaya để trở về Macassar, và ngày hôm sau chúng tôi kết hợp với một nhóm khu trục hạm hộ tống một đoàn tàu chuyển vận đồng, dầu hỏa và thực phẩm về Nhựt. Chuyến đi bình thường nhưng đầy hân hoan. Khi tiến vào hải phận của xứ sở, và nhìn thấy bóng dáng các hòn đảo Nhật Bản thấp thoáng ở chân trời, mọi người đều nhảy nhót vui mừng. Ngày 2 tháng 5, Amatsukaze và các khu trục hạm khác lặng lẽ chạy vào hải cảng Kure. Biển Nhật Bản với nhiều trăm hòn đảo lấm tấm là một quang cảnh chào đón đầy êm ả. Lũ hải âu dậy tiếng như chào mừng ngày chúng tôi trở về.
Nhật Bản không giống những xứ nóng khác. Vùng biển ở phía Nam như một rừng hoa rực rỡ dưới ánh nắng nung nấu và vạn vật đều óng ả. Trở về quê hương, tất cả màu sắc có vẻ dịu dàng, ve vuốt. Chúng tôi mất dịp ngắm mùa hoa anh đào nở vào đầu tháng 4, nhưng những lá non xanh mướt trên cành đối với chúng tôi chẳng khác nào những nụ hoa.
Ngày hôm sau, tôi ra lịnh mở rộng quầy hàng trên tàu, và mọi người muốn mua sắm bao nhiêu tùy ý. Đại úy Noro Iwabuchi, phụ tá của tôi, lên bờ để sắp xếp một bữa tiệc cho thủy thủ đoàn. Sau khi đặt 240 phần ăn ở nhà hàng Morisawa. Iwabuchi báo cáo với tôi rằng: "Nhà hàng cho biết là không chắc cung cấp đầy đủ phần ăn cho tất cả chúng tôi, bởi nhiều chiếc tàu bạn cũng mở tiệc tại các nhà hàng trong thành phố khiến thực phẩm trở nên khan hiếm, nhưng bù lại nhà hàng có rất nhiều rượu ngon."
Khi bữa tiệc nầy được thông báo, thủy thủ đoàn Amatsukaze đều nhảy nhót vui mừng. Chỉ mười thủy thủ đoàn kém may mằn vì phải ở lại tàu đảm trách việc canh gác, tât cả số còn lại lên bờ vào lúc 17 giờ. Thành phố Kure phồn thịnh đầy dẫy thủy thủ, các nẽo đường hầu như bị họ dẫm nát.
Để hổ trợ nhà hàng, chúng tôi mang theo nhiều đồ ăn hộp. Chỉ có năm geisha phục dịch cho cả bữa tiệc hơn 200 người của chúng tôi, nên họ phải chật vật lắm mới cung phụng thức ăn và uống đầy đủ. Một vài cô geisha trong số nầy cũng đem vui vẻ thêm cho bữa tiệc qua các màn ca múa của họ. Rượu uống tự do làm bừng chí thực khách, nhiều thủy thủ của tôi nhảy ra tiếp tay bưng dọn với năm cô geisha, và họ còn ca múa nữa.
Tôi được mỗi thuộc cấp mời một ly rượu. Tôi không từ chối một ai. Tôi không biết mình đã uống bao nhiêu ly sake từ đầu cho đến khi bữa tiệc chấm dứt vào lúc nữa đêm, nhưng tôi cảm thấy còn đứng vững.
Ngày hôm sau, mỗi thủy thủ được cấp từ ba đến sáu ngày phép. Đi phép đợt ba, tôi đáp chuyến xe lửa đêm để về nhà. Tim tôi đập rộn ràng khi xe lửa tiến vào thành phố Kamakura vào sáng ngày 4 tháng 5. Những rặng thông bao phủ thành phố cổ 800 năm nầy đang thì thầm trong gió biển.
Vợ tôi và ba con ra chờ đón tôi ở sân ga. Tất cả đều hân hoan thấy tôi trở về. Nhà tôi chỉ cách ga xe lửa 20 phút đi bộ, nhưng tôi cảm thấy lần trở về nầy là lần trở về vinh quang, và tôi gọi ngay một chiếc taxi.
Vào nhà, tôi mở ngay gói quà mà tôi đã mua từ miền Nam. Nhưng sô cô la làm cho các con tôi hớn hở vì ở đây hiếm khi có loại nầy. Buổi chiều hôm đó, ông bạn láng giềng lâu năm của chúng tôi là Tanzan Ishibashi sang thăm. Chúng tôi nhận lời mời dùng cơm tối với ông. Ishibashi là chủ nhiệm kiêm Chủ Bút Tạp Chí Toyo Keizai. Theo tôi, ông là một người thông thái và khôn khéo hiếm có, nhưng tôi không bao giờ tưởng tượng có một ngày ông cầm đầu Nội Các Nhật Bản.
Bữa cơm hoàn toàn vui vẽ. Sau đó, tôi với ông ngồi nhấm nháp sake. Là một kinh tế gia, ông muốn nghe tình hình ở Đông Nam Á. Ông hỏi: " hải quân của chúng ta có đủ khả năng kiểm soát khu vực rộng lớn nầy và bảo vệ nguồn tài nguyên phong phú ở đó, để cung ứng cho các cơ xưởng kỹ nghệ Nhật Bản hay không?"
Với một người nhìn xa hiểu rộng như ông, tôi không thể che đậy sự thật được. Tôi đáp: "chúng ta đã đạt được một số chiến thắng, việc nầy đơn giản là địch quân đã không biết yếu điểm của chúng ta. Cũng như tôi, chức ông biết khả năng sản xuất vô tận của Đồng Minh. Không có một chổ nào dành cho sự lạc quan của Nhật Bản trong cuộc chiến nầy.". Ông chú ý những gì tôi thành thật trình bày. Chế độ kiểm duyệt hiện thời khiến ông không hiểu biết những sự thật của cuộc chiến nầy.
Vào năm 1956, ngay trước khi trở thành Thủ Tướng, cuốn sách viết về kinh nghiệm trong cuộc chiến của tôi ấn hành ở Nhựt đã được ông đề tựa với những lời khen tặng mà tôi nghĩ không xứng đáng nhận lãnh. Trong đó ông viết rằng cuộc đàm đạo buổi chiều vào năm 1942 đã khiến ông xem tôi như là một sĩ quan hải quân phi thường.
Sáu ngày phép trôi qua nhanh chóng. Có lịnh gọi tôi trở về tàu lập tức, để chờ đợi nhận sự bổ nhiệm mới không biết vào lúc nào. Để kéo dài thời gian gần gũi với gia đình, tôi mang tất cả đi theo tôi đến Kure vào ngày 10 tháng 5. Các con tôi tỏ ra thích thú vì được đi xa lần đầu tiên, nhứt là khi chúng tôi vào ngụ trong một khách sạn. Sắp xếp công việc xong xuôi, chúng tôi đi dạo phố hoặc leo núi.
Các bửa ăn ở câu lạc bộ sĩ quan thuộc căn cứ hải quân Kure đã làm cho cả gia đình tôi hài lòng, vì ở đây có những món ăn không thể tìm thấy trong thành phố, và nhiều năm sau nầy các con tôi vẫn còn nhắc nhở, đặt biệt vào những ngày thiếu thốn khi Nhật Bản đầu hàng.
Tôi về Kure được 4 ngày thì có lịnh thuyên chuyển hầu hết các thủy thủ đoàn của tôi. Tất cả các sĩ quan cùng phân nữa hạ sĩ quan và binh sỹ rời khỏi chiếc Amatsukaze. Mỗi ngày, các sĩ quan và binh sỹ đầy kinh nghiệm của tôi lần lượt lên đường sang các tàu mới, nhường tàu cũ cho các sĩ quan vừa ra trường và binh sỹ tân tuyển. Những cuộc hoán chuyển nầy thường xảy ra trong hải quân. Tôi không hiểu Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã nghĩ như thế nào khi cho thi hành việc nầy. Thủy thủ đoàn đã được huấn luyện thuần thục của tôi bị chia manh xẻ mún, thật là một điều đáng tiếc. Các hạm trưởng khác cũng cảm thấy như tôi. Phải mất ít nhất hai tháng mới mong khép những tay lính mới nầy vào qui cũ, những kẻ chưa hề biết làm việc tập thể là gì. Và những gì sẽ xảy ra nếu ngay bây giờ họ được giao phó nhiệm vụ chiến đấu?
Khi kế hoạch hành quân Midway được tiết lộ vào ngày 20 tháng 5, tôi nghĩ Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã mất hẳn khôn ngoan. Tin tức gây ngạc nhiên nầy, tôi đã được đề đốc Raizo Tanaka cho biết riêng ở căn cứ hải quân Kure. Tôi lấp bấp hỏi: "Thưa Đề Đốc, như vậy nghĩa là sao? Chúng tôi sẽ tham dự hành quân với thủy thủ đoàn nầy à?"
Tanaka có vẻ chán nản: "Hừ...! Tôi mong chuyện nầy không có thật."
Phân đội của Tanaka, gồm một tuần dương hạm và sáu khu trục hạm, lặng lẽ rời Kure vào ngày 21 tháng 5. Với tốc độ 20 hải lý, chúng tôi hướng về Saipan, nơi đây những "lịnh đặt biệt" đang chờ đợi chúng tôi. Ngày kế đó, tôi nghe tiếng la hét giận dữ và tiếng vật gì đó va chạm nên tôi bước lên sân tàu để xem. Tôi thấy Đại úy Kazue Shimizu, tân sĩ quan pháo thuật, đang to tiếng với một thủy thủ có lẽ đã phạm phải lầm lỗi, và sau đó Shimizu cung tay thoi anh nầy. Tôi tức giận hỏi: " Gì đó?."
Shimizu xoay lại tôi, đôi mắt vẫn còn hằn học: "Thưa Trung Tá, tên nầy thấy tôi không chào. Tôi trị nó."
Tôi hỏi tên thủy thủ: "Đúng như vậy không?"
"Đúng, thưa Trung Tá." Hắn ấp úng đáp. Mặt hắn sưng phù vì nhận lãnh cái thoi vừa rồi.
Tôi hơi xúc động khi thấy thủy thủ nầy là Ikeda, quan sát viên được ban thưởng vì đã khám phá ra chiếc tiềm thủy đỉnh địch gần Surabaya. Tôi mạnh mẻ cảnh cáo anh ta và yêu cầu Shimizu theo vào phòng riêng của tôi. Hắn thoáng ngơ ngác nhưng vẫn im lặng đi theo tôi. Sau đó, tôi đóng cửa phòng và mời Shimizu ngồi trên chiếc ghế đẫu.
Tôi rất bực cảnh vừa rồi, nhưng tôi đã cố dằn xuống. Tôi nói: "Shimizu, anh có thể hút thuốc, đây là câu chuyện giữa một người và một người, không phải giữa hạm trưởng và sĩ quan pháo thuật. Tôi không muốn chỉ trích anh hoặc bảo vệ người lầm lỗi. Nhưng tôi phải trình bày rõ với anh là tôi không chủ trương duy trì kỷ luật bằng hình phạt thể xác. Tôi không hiểu phương pháp chỉ huy của hạm trưởng trước đây của anh như thế nào, nhưng tôi tin rằng một thủy thủ khu trục hạm phải hoàn toàn duy trì việc làm có tánh cách đồng đội. Đó là lối chiến đấu hữu hiệu nhứt. Tất cả 250 người trên chiếc tàu nầy phải làm việc như một người. Tất cả phải chung lưng đấu cật trong tình chiến hữu và sự hòa thuận"
Shimizu chăm chú lắng nghe, hình như hắn không hài lòng nhưng không nói ra.
"Duy trì việc làm đồng đội tốt và một trật tự thích đáng không phải dễ dàng. Nhưng tôi đã từng làm được mà không cần phải áp dụng hình phạt thân xác. Việc khó, nhưng phải làm cho được. Nếu thấy khó khăn, lần sau gặp trường hợp vừa rồi hãy báo cáo cho tôi biết để tôi quyết định."
Shimizu im lặng nhìn xuống. Tôi nhấn chuông và yêu cầu ba sĩ quan cầm đầu ba ngành khác đến gặp tôi. Tất cả đều là người mới. Đại úy Shigeo Fujisawa, cơ khí trưởng, Trung úy Masatoshi Miyoshi, sĩ quan thủy lôi trưởng, và Đại úy Kinjuro Matsumoto, hoa tiêu trưởng, đến phòng tôi nhanh chóng. Mặt cả ba có vẻ khẩn trương, dĩ nhiên là do lịnh gọi bất thình lình của tôi. Tôi nói ngay: "Tôi vừa thấy Shimizu đánh một thủy thủ một cách ngang nhiên. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối, tôi không muốn cảnh nầy tái diễn trên chiếc Amatsukaze. Tôi không cho phép đánh đập thủy thủ đoàn của tôi. Đó là lịnh cho quí vị."
Tất cả rút lui, và lưỡi tôi như có vị chua chát. Tôi cảm thấy bực bội vô tả. Với một thủy thủ đoàn vá víu thế nầy, tôi làm sao đủ thời giờ khép họ vào qui cũ để tham dự một cuộc hành quân quan trọng sắp xảy ra? Tôi nhớ lại những kinh nghiệm đã trải qua ở Eta Jima những năm trước đây, và tôi vẫn không thể quên được những tên bịnh hoạn được trao quyền tự do đánh đập tôi. Đánh đập người như đánh đập súc vật trên một chiếc khu trục hạm không khác nào tước đoạt sáng kiến của thuộc hạ. Trên một khu trục hạm, mỗi người đều phải đâu lưng làm việc, vì chỉ như vậy mới có thể đòi hỏi một thủy thủ khu trục hạm tận dụng năng lực của mình, thường thường gấp đôi, trong các cuộc hành quân.
Tôi quyết định dành nhiều thời giờ đích thân theo dõi công việc trên tàu. Tôi luôn luôn nghe la hét giận dữ, nhưng không thấy sĩ quan nào đánh đập thuộc cấp nữa.
Chuyến đi dài 1.400 dậm hoàn toàn yên tỉnh, và sáng ngày 25 tháng 5 chúng tôi đến Saipan. Mười sáu tàu chuyển vận khởi hành từ Truk chất đầy 3.000 binh sỹ bộ binh và 2.800 thủy thủ cũng đã đến. Trong hải cảng nầy còn có hơn chục chiếc tàu săn tiềm thủy đỉnh, tuần tiểu đỉnh, trục lôi hạm và tàu chở dầu. Ngày hôm sau, trong một cuộc hợp chiến thuật gồm các vị hạm trưởng, cuộc hành quân Midway được chánh thức công bố. Lịnh hành quân chi tiết được trao cho mỗi sĩ quan. Theo đó, chiếc Amatsukaze lãnh nhiệm vụ hộ tống lực lượng đổ bộ Midway.
Kế hoạch hành quân Midway có hiệu lực kể từ ngày 26 tháng 5 năm 1942. Ngày kế đó, Lực Lượng Đặc Nhiệm của Phó Đô Đốc Nagumo rời khỏi biển Nhật Bản trực chỉ đến Midway. Từ Saipan, lực lượng đổ bộ được các khu trục hạm hộ tống lên đường vào ngày 28 tháng 5. Độ chừng tiềm thủy đỉnh địch thế nào cũng theo dõi, chúng tôi giả vờ chạy về hướng Tây, sau đó quay sang hướng Nam. Đồng thời với cuộc khởi hành của chúng tôi, phân đội của Đề Đốc Takeo Kurita, gồm ba tuần dương hạm và hai khu trục hạm cũng rời khỏi đảo Guam.
Thành phần chánh của Hạm Đội Hổn Hợp do chiếc siêu thiết giáp hạm tối tân Yamato, soái hạm của Đô Đốc Yamamoto, dẫn đầu rời khỏi biển Nhật Bản vào ngày 29 tháng 5. Ngày trước đó là ngày kỉ niệm thứ 37 cuộc chiến thắng hạm đọi Nga Sô ở eo biển Tsushima vào năm 1905 của Nhật Bản. Một điềm lành báo trước, nhưng qua linh tính, tôi cảm thấy có một cái gì sai lầm trong cuộc hành quân nầy và tim tôi như chùng xuống.
Sáu ngày nồi tiếp trôi qua đều đặn. Khoảng 6 giờ sáng ngày 3 tháng 6, một thủy phi cơ địch xuất hiện vài dậm phía trước đoàn tàu chốc lát rồi biến mất. Nhưng chắc chắn chiếc phi cơ nầy đã ghi nhận đoàn tàu của chúng tôi đang hướng về Midway, lúc đó chỉ còn cách phía Đông Nam hòn đảo nầy 600 dậm.
Vào xế trưa, nhiều phi cơ địch bay đến từ phía Nam. Soái hạm Jintsu của Tanaka khai hỏa. Phi cơ địch tránh ra xa, chờ khi tiếng súng dứt chúng quay lại. Jintsu vẫn khai hỏa, nhưng không trúng, và cuối cùng những phi cơ nầy bay mất dạng. Vì không được sự bao che của không quân, nên đoàn tàu của chúng tôi có vẻ nao núng. Nhá nhem tối phi cơ địch quày lại, và lần nầy bay xà thấp nên chúng tôi có thể nhận ra đó là 9 chiếc pháo đài bay B.17.
Tất cả các khu trục hạm đều khai hỏa. Không một phi cơ địch nào trúng đạn, và trước khi bay đi, các oanh tạc cơ 4 máy thả nhiều trái bom, rớt nổ cách chúng tôi 1.000 thước. Quá nữa đêm, bốn oanh tạc cơ địch lại xuất hiện và thả nhiều trái thủy lôi. Một trong những trái thủy lôi trúng ngay chiếc tàu chở dầu Akebono Maru, gây cho 11 người thiệt mạng và 13 người khác bị thương. Nhưng chiếc tàu không chìm vì khu vô nước được ngăn lại kịp thời, và có thể di chuyển theo đoàn tàu chuyển vận chạy chậm chạp.
Chúng tôi hiểu rõ đang phải đối đầu với một địch quân đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng các cố gắng ngăn chặn trước đoàn tàu của chúng tôi như vậy được xem là yếu kém và vụng về. Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo có thể nghiền nát địch quân với các quả đấm ngàn cân của nó.
Bình minh ngày 5 tháng 6, thời tiết u ám, mây giăng kín bầu trời, nhưng đứng gió. Đứng trên đài chỉ huy của chiếc Amatsukaze, mí mắt tôi nặng trĩu sau một đêm không ngủ. Với thời tiết nầy, nếu phi cơ địch thình lình từ trong các đám mây bay thấp xuất đầu lộ diện tấn công, thật khó cho chúng tôi chống đỡ. Tôi thức tỉnh qua tiếng nói từ phòng truyền tin phát ra: "Trung Tá, Lực Lượng Đặc Nhiệm chánh của chúng tôi gởi đi nhiều công điện khẩn cấp."
"Mang tất cả lên đây cho tôi." Tôi ra lịnh.
Vài giây sau, tôi nhìn chăm chú vào một mãnh giấy, tim tôi như ngừng đập. Công điện gởi đi của hàng không mẫu hạm Kaga: "chúng tôi bị bốc cháy."
Những công điện kế tiếp báo cáo các cuộc tấn công có hiệu quả của địch quân vào hai hàng không mẫu hạm Soryu và Akagi, soái hạm của Phó Đô Đốc Nagumo. Sân tàu của ba hàng không mẫu hạm bốc cháy cùng một lúc! Tôi đang đọc những gì đây? Có phải tôi nằm mơ không? Tôi lắc đầu. Không, tôi hoàn toàn tỉnh táo. Tôi kêu trời và trao công điện cho các sĩ quan của tôi. Tay Đại úy Shimizu run rẩy khi lướt mắt trên các giòng chữ. Mặt Đại Úy Matsumoto xanh như tàu lá, trung úy Miyoshi có vẻ nghi ngờ.
Tôi nhìn quanh, đoàn tàu của chúng tôi đang lướt theo hình chữ chi. Tôi chắc các hạm trưởng và sĩ quan trên mấy chiếc tàu khác đã đọc những tin tức gây xúc động nầy. Dù choáng váng, chúng tôi vẫn phải tiếp tục kế hoạch đã sắp xếp, vì chúng tôi không hề nhận được lịnh thối lui.
Tin tức tiếp tục đến, và trong chúng tôi không còn ai nghi ngờ về sự thật đã xảy ra. Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo đã bị cắt nát ra từng mảnh. Nhưng chúng tôi đang muốn gì đây? Cơn buồn rầu của tôi vì sự mất mát ba hàng không mẫu hạm biến thành cơn thịnh nộ. Chúng tôi sẽ rơi vào bẩy nhu lực lượng chánh của chúng tôi?
Cuối cùng lịnh hành quân mang số 154 đến lúc 9 giờ 20 sáng, chỉ thị đoàn tàu chuyển vận của chúng tôi "tạm thời quay mũi về hướng Tây Bắc" và "tất cả các chiến hạm tấn công địch quân từ hướng Tây Bắc Midway.". Các hộ tống hạm nhỏ và 16 chuyển vận hạm xoay chầm chậm theo đội hình, và chạy thẳng về hướng Bắc. Sáu khu trục hạm và một tuần dương hạm thuộc phân đội của chúng tôi gia tăng tốc độ lên 30 hải lý, trực chỉ Midway.
Cho dù hôm nay trời đứng gió, với tốc độ hiện thời, chiếc Amatsukaze lướt sóng ào ạt, tạo một màn mưa và bọt nước che mờ đài chỉ huy. Bây giờ tôi không còn cảm thấy lưỡng lự nữa. Lúc 10 giờ 10, lịnh hành quân 156 công bố "hoãn lại" kế hoạch chiếm đóng đảo Midway, và chỉ thị cho chúng tôi tiến sát vào bờ biển để pháo kích san bằng hòn đảo nầy.
Chúng tôi vẫn còn cách Midway 300 dậm, còn 10 tiếng đồng hồ nữa chúng tôi mới đến mục tiêu. Hình như đó là một thời gian khá dài, đủ để địch quân kịp thời chuẩn bị. Chúng tôi tiếp tục tiến tới, và vẫn tiếp tục nhận được các tin tức không mấy lạc quan. Lúc 14 giờ 30 ngày 4 tháng 6, báo cáo của chiếc Hiryu, hàng không mẫu hạm cuối cùng còn hoạt động của Nagumo, cho biết: "chúng tôi bị oanh tạc và bốc cháy." Và lúc 16 giờ 15, Đô Đốc Isoruku Yamamoto ban ra lịnh thứ ba trong ngày, chỉ thị thành phần còn lại thuộc lực lượng của Nagumo tấn công địch quân vào ngay đêm đó. Lịnh nầy không những không đề cập đến sự mất mát tất cả các hàng không mẫu hạm của Nagumo, nhưng còn nhấn mạnh rằng " hiện thời hạm đội địch đã bị tiêu diệt và tàn quân đang rút về phía Đông."
Cho dù với sự hiểu biết hạn hẹp của tôi về các biến cố trong trận đánh nầy, tôi cũng thấy lịnh của Yamamoto vừa ban ra có vẻ khó hiểu. Tôi nghĩ là ông đã mất sự sáng suốt. Nhưng ngay sau đó tôi hiểu ra, sở dĩ Yamamoto đã ban lịnh nầy đó chỉ là vì ông đang cố gắng ngăn chận sự sụp đổ tinh thần của các lực lượng dưới quyền của ông.
Lúc 21 giờ 30, Nagumo gọi vô tuyến báo cáo một tin tức khiến cho các lịnh đánh lừa của Yamamoto trở thành mỉa mai: "lực lượng của địch quân bao gồm 5 hàng không mẫu hạm, 6 tuần dương hạm và 15 khu trục hạm đang di chuyển về hướng Tây. Chúng tôi đang hộ tống chiếc Hiryu rút lui về hướng Tây Bắc." Hai giờ sau đó, Yamamoto đưa ra một lịnh nữa, và ông vẫn chủ tâm tấn công địch quân. Lịnh nầy đến tay tôi khi toi đang nhìn thấy một chiếc tàu đang bốc cháy dữ dội, cách chiếc Amatsukaze khoảng 5.000 thước về phía Tây. Tôi xem lại hải đồ và xác định chiếc tàu đang bốc cháy là hàng không mẫu hạm Akagi. Tôi nhớ lại quang cảnh một chiến hạm địch bốc cháy ở Java. Bây giờ đây là soái hạm của chúng tôi. Trái ngược biết bao. Trong trận hải chiến ở biển Java, cả hai, Nhật Bản và Đồng Minh đều vấp phải lổi lầm, nhưng ở Midway chỉ có một mình Nhật Bản lổi lầm mà thôi.
Trước nửa đêm không lâu, chúng tôi nhận được lịnh chấm dứt cuộc hành quân Midway, và chỉ thị chúng tôi sáp nhập vào lực lượng chánh của Yamamoto.
(Trận hải chiến Midway Nhật Bản bị đánh chìm 4 trong tổng số 6 hàng không mẫu hạm lớn nhất và hiện đại nhất của Hạm Đội Hổn Hợp các chiếc Akagi, Kaga, Soryu và Hiryu và một tuần dương hạm hạng nặng Chikuma.
Chiếc Kaga tiền thân là một thiết giáp hạm cùng nhưng vì các hiệp ước với Đồng Minh trong thập niên 20 nên được biến cải thành một hàng không mẫu hạm trọng tải 38.000 tấn, thủy thủ đoàn 2016 người. Về trang bị nó vẫn giữ được một phần võ trang của thiết giáp hạm gồm 10 khẩu đại bác 200 ly, 8 khẩu 127 ly và 22 khẩu phòng không 25 ly, nó có thể đạt tốc độ tối đa 29 hải lý, mang được tối đa 90 máy bay gồm 18 Zero, 37 Val và 37 Kate số lượng máy bay có thể thay đổi tùy theo các cuộc hành quân.
Hàng Không Mẫu Hạm Akagi, soái hạm của Phó Đô Đốc Chuichi Nagumo trong suốt các cuộc hành quân của Lực Lượng Đặc Nhiệm từ Trân Châu Cảng đến Midway, tiền thân là một kiểu thiết giáp tuần dương hạm lớp Amagi nhưng cũng vì hiệp ước với Đồng Minh nên cả hai được biến cải thành hàng không mẫu hạm nhưng chiếc Amagi bị động đất chôn vùi năm 1923. Chiếc Akagi hoàn tất vào năm 1935 như là một hàng không mẫu hạm hiện đại của Nhật Bản lúc đó, trọng tải 37.000 tấn, thủy thủ đoàn 2.000 người, võ trang giống như chiếc Kaga và cũng mang được tối đa 90 máy bay.
Hàng không mẫu hạm Soryu, đây là kiểu tàu trọng tải lớn được thiết kế đúng với tính năng của một hàng không mẫu hạm hiện đại, nó chỉ nặng 20.000 tấn quá bé nhỏ so với 2 chiếc Kaga và Akagi nhưng đây là hàng không mẫu hạm chạy nhanh, năm 1935 nó được trình làng và được xem là hàng không mẫu hạm chạy nhanh nhất thế giới lúc đó, nó đạt tốc độ đến 35 hải lý, thủy thủ đoàn 1100 người, võ trang gồm 12 khẩu 127 ly dùng để phòng không lẫn tự vệ chống tàu bé như khu trục hạm chẳng hạn, 26 khẩu phòng không 25 ly và 15 khẩu đại liên 13 ly phòng không, mang theo 57 máy bay nhưng có thể mang tối đa đến 80 chiếc.
Hàng không mẫu hạm Hiryu, chiếc tàu đàn em của Soryu, được cải tiến trên kiểu Soryu, trọng tải 20.000 tấn, nó cũng có những tính năng như Soryu nhưng trang bị đến 31 khẩu phòng không 25 ly và vẫn như Soryu nó cũng mang theo 57 đến 80 máy bay gồm Zero, Val hoặc Kate.
Nhật Bản cũng lên kế hoạch đóng tiếp 6 chiếc hàng không mẫu hạm thuộc lớp Soryu nhưng không hoàn tất được chiếc nào, ngoại trừ chiếc Unryu bị tàu ngầm Redfish đánh chìm trên chuyến hải trình đầu tiên của nó từ Manila về Kure vào ngày 12 tháng 9 năm 1944, vì lúc đó Hoa Kỳ đã tấn công vào Luzon mà công việc hoàn tất Unryu vẫn chưa xong. Unryu chìm mang theo hạm trưởngĐại Tá Kaname Konishi và 1318 sĩ quan và thủy thủ đoàn. Chỉ có 146 người được khu trục hạm hộ tống Shigure cứu sống, lúc nầy Hara đã hết làm hạm trưởng của chiếc Shigure. Các chiếc khác không hoàn tất được là Amagi (khác với Amagi đã bị động đất chôn năm 1923), Katsuragi, Kasagi, Aso, Ikoma vẫn còn nằm trên xưởng và bị phá bỏ vào năm 1946, trừ chiếc Katsuragi hoàn tất tháng 8 năm 1944 và nhận nhiệm vụ tháng 10 năm 1944 nó chở một số oanh tạc cơ B7A và B6N thực hiện nhiệm vụ Kamikaze và sau đó được dùng như là một tàu vận tải lớn để chở binh sỹ vì Nhật Bản đã mất hẳn ưu thế trên biển, sống sót sau chiến tranh và bị phá bỏ ngày 22 tháng 12 năm 1946, chiếc Karuma thì bị hủy bỏ từ năm 1943. Trong suốt cuộc Nhật Bản chỉ hạ thủy được thêm một mẫu hạm hạng nặng và tối tân nhất thế giới lúc đó, chiếc Taiho nhưng cũng bị đánh chỉ chỉ bởi 1 phát thủy lôi ở trận Leyte do thủy thủ đoàn quá thiếu kinh nghiệm điều khiển. Và một con quái vật trên biển nữa nhưng cũng chưa hoàn tất, siêu mẫu hạm Shinano, biến cải từ lớp thiết giáp hạm Yamato, Shinano được đóng ở Đài Loan nhưng tình hình bất lợi cho Nhật Bản nên nó được di dời về Nhật Bản để hoàn tất tiếp trên đường về thì bị tàu ngầm Archer-Fish của Hoa Kỳ đánh chìm ngày 28 tháng 11 năm 1944. Chiếc Shinano, trọng tải 70.000 tấn mang được tối đa 140 máy bay, trang bị cả rừng phòng không 16 khẩu 127 ly, 145 khẩu 25 ly và 12 ống rocket 127 ly. Tiếc là nó chưa có cơ hội chứng tỏ.
Tuần dương hạm Chikuma, 14.000 tấn, đây là một trong hai chiếc thuộc lớp Mogami, tuần dương hạm hạng nặng hiện đại nhất của hải quân Nhật Bản, nó đạt tốc độ 37 hải lý, trang bị 10 trọng pháo 203 ly trong 5 tháp súng, 8 khẩu 127 ly, 8 dàn 25 ly và 4 dàn 13 ly phòng không và 12 ống phóng thủy lôi 610 ly. Bị các oanh tạc cơ SBD của Hoa Kỳ đánh chìm trong trận Midway, Chikuma trúng trực tiếp 6 bom 750 cân Anh, chỉ có 240 người được các khu trục hạm cứu sống gồm có cả hạm trưởng Đại Tá Shakao Sakiyama bị thương nặng và thiệt mạng 3 ngày sau đó trong tổng số 850 thủy thủ đoàn.
Bốn hàng không mẫu hạm Nhật chìm trong trận Midway mang theo 250 máy bay và 400 phi công đầy kinh nghiệm của Nhật Bản qua các trận đánh không hải chiến lớn ở Thái Bình Dương, và hơn 2.000 thủy thủ được tôi luyện trong các chiến dịch lớn trước đó. Thiệt hại nầy không thể bù đắp được
Về phía Mỹ, chỉ mất một hàng không mẫu hạm và một khu trục hạm cùng 175 phi cơ. Hàng không mẫu hạm Yorktown đóng năm 1934 và hoàn tất năm 1937, 25.000 tấn, chở được 90 máy bay các loại, tốc độ 33 hải lý, thủy thủ đoàn 2217 người. Hàng không mẫu hạm Yorktown đã bị thương trong trận hải chiến ở biển San Hô và đưa về Trân Châu Cảng sửa chửa cấp tốc trong ba ngày và quay lại tham chiến ở Midway, đây là một điều bất ngờ dành cho người Nhựt.
Khu trục hạm Hammann, hạ thủy năm 1938, đây là lớp khu trục hạm mới của Mỹ, trọng tải 2.200 tấn, trang bị 4 khẩu 127 ly, tốc độ 35 hải lý, thủy thủ đoàn 192 người. Khu trục hạm Hammann tham dự hầu hết các trận đánh lớn ở Thái Bình Dương và bị đánh chìm ở Midway bởi các thủy lôi do tàu ngầm I.168 phóng đi, một trong những trái thủy lôi đó đã kết thúc luôn chiếc Yorktown đang hấp hối sau cuộc oanh tạc của Nhật Bản và đã di chuyển hết thủy thủ đoàn sang các tàu khác. Trận Midway Mỹ chỉ thiệt mất 307 người trên các chiến hạm, bao gồm cả phi công.)
Trận đánh Midway là điểm xoay chiều giòng thủy triều của cuộc chiến Thái Bình Dương chảy xuôi về phía Đồng Minh. Nagumo bị đánh tơi tả ở Midway, điều nầy ai cũng công nhận, nhưng không có nghĩa là toàn hải quân Nhật Bản sụp đổ. Hạm Đội Hổn Hợp của Yamamoto chưa hề hấn gì, và Nhựt vẫn còn ít nhất bốn hàng không mẫu hạm, đủ sức đương đầu trên phương diện nầy với hải quân Hoa Kỳ.
Những gì sụp đổ thật sự cho Hải Quân Hoàng Gia theo xét đoán của tôi, chính là một loạt sai lầm về chiến thuật và chiến lược do Yamamoto đưa ra sau trận Midway, và qua những cuộc hành quân được Nhựt phát động khi Hoa Kỳ đổ bộ lên Guadalcanal vào đầu tháng 8 năm 1942.
Sau khi bắt buộc kết thúc cuộc hành quân Midway, Yamamoto đưa Hạm Đội Hổn Hợp của ông đến Truk và sau đó trở về xứ. Khi Hoa Kỳ tiến đánh Guadalcanal, lực lượng chánh của hạm đội Yamamoto đang buông neo gần Kure ở bờ biển Nhật Bản, cách mặt trận 2.700 dậm. Trong suốt các cuộc hành quân có tánh cách quyết định quanh Guadalcanal, Yamamoto đã tung hết đơn vị nhỏ nầy đền đơn vị nhỏ khác. Chiến lược của ông có vẻ không mấy sáng suốt. Chiến lược nầy đã phát triển như thế nào?
Tôi lại kết hợp với đoàn tàu chuyển vận vào ngày 10 tháng 6 tại hải vực phía Bắc đảo Midway 600 dậm, trong nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu nầy đến Truk. Ngày 15, chúng tôi hoàn tất nhiệm vụ. Hai ngày sau đó, tất cả chiến hạm trở về Nhật Bản. Chúng tôi đến Yokosuka vào ngày 21 và ba ngày sau di chuyển đến Kure. Mọi người không được phép nói về trận Midway. Các chi tiết thật sự của trận đánh nầy được giữ "Tối mật" ngay đối với các sĩ quan chỉ huy. Một thông cáo chung của Tổng Hành Dinh Quân Lực Hoàng Gia Nhựt được đưa ra, đã thêu dệt quá mức con số thiệt hại của Hoa Kỳ, nhưng không đá động gì đến những mất mát của Nhựt, và thông cáo còn nhấn mạnh rằng trận đánh kết thúc trong sự thắng lợi của Nhật Bản.
Hạm đội hổn hợp đã trở về biển Nhật Bản nhưng không phải để tu bổ. Bởi vì, phải công nhận Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo đã mang những vết thương trầm trọng, nhưng các đơn vị quan trọng khác vẫn còn nguyên vẹn. Yamamoto muốn rèn luyện lại tinh thần binh sỹ của ông, sau khi họ đã nhận một cú đấm choáng váng mặt mày vào tháng trước đó.
Yamamoto và Bộ Tư Lịnh Tối Cao hải quân ở Đông Kinh không hề có chút hồ nghi nào về việc người Mỹ sẽ tung ra một cuộc tấn công quan trọng, nhắm vào Guadalcanal trong vòng hai tháng sau trận đánh Midway. Họ tin rằng Hoa Kỳ nếu có muốn tấn công thì sớm nhứt cũng phải giữa năm 1943 họ mới đủ sức.
Từ ngày 28 tháng 6 cho đến ngày 5 tháng 8, tôi lãnh nhiệm vụ giữ an ninh cho các tàu buôn Nhựt trong khu vực vịnh Đông Kinh. Công việc nầy dễ dàng, và nhờ đó tôi có dịp huấn luyện thủy thủ đoàn mới của tôi.
Việc rút Hạm Đội Hổn Hợp của Yamamoto về hải phận Nhật Bản ở thời gian nầy, quả thật là một sai lầm quá mức. Hầu hết các lực lượng của Hạm Đội nầy bị cầm chân ở Truk. Tuy nhiên chiến lược của Yamamoto không phải hoàn toàn dở. Hầu hết 104 khu trục hạm của ông có thời giờ nghỉ ngơi và tái huấn luyện. Đây là vấn đề tối cần thiết, bởi vì tất cả những khu trục hạm nầy sẽ tham dự vào hàng loạt các trận đánh dữ dội và đẩm máu kéo dài thêm hai năm nữa. Trong các trận đánh nầy, khu trục hạm đã nắm vai trò tiên phong lần đầu tiên, và có thể cũng là lần cuối cùng trong lịch sử.
Một sai lầm to tát khác là việc xé lực lượng khu trục hạm ra từng mảnh nhỏ để sử dụng ở quần đảo Salomon, và thường thường không có sự hổ trợ của các phi cơ hoặc các chiến hạm lớn hơn. Dù vậy, các khu trục hạm nầy vẫn chiến đấu dũng mãnh trước các địch thủ vượt trội. Thêm vào nhiệm vụ chiến đấu, khu trục hạm còn lãnh nhiệm vụ chuyển vận binh sĩ. Những khu trục hạm được xưng tặng là "Chuyến xe lửa tốc hành Đông Kinh" thực sự là những con ngựa hùng hục kéo xe trên Nam Thái Bình Dương, và cũng vì vậy mà sự hao mòn không sao tránh khỏi. Từ khi cuộc hành quân Guadalcanal của Hoa Kỳ phát khởi vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, cho đến trận "Dunkirk" của Nhật Bản (tức trận đánh quyết định trên hòn đảo nầy) vào ngày 7 tháng 12 năm 1943, 12 khu trục hạm Nhựt đã bị địch quân đánh chìm.
Riêng các cuộc hành quân liên tục ở hải phận quần đảo Solomon từ tháng 3 đến tháng 11 năm 1943, tôi có tham dự trong tư cách hạm trưởng khu trục hạm Shigure, con số mất mát của loại tàu này cao hơn 6 tháng trước đó, vì địch quân càng lúc càng nắm ưu thế trên không và ra da của họ cũng được cải tiến. Chiếc Shigure của tôi là "Chuyến Xe Lửa Tốc Hành Đông Kinh" duy nhứt còn tồn tại mà không mất một thủy thủ nào qua các trận đánh ở hải phận nầy. Ba mươi khu trục hạm khác đều bị loại khỏi vòng chiến.
Các chiến hữu hải quân của tôi đã gọi chiếc Shigure (Xuân Vũ) là "Khu Trục Hạm Ma Quái" hoặc "Khu Trục Hạm Kiến Cố" và tôi có biệt danh "Hạm Trưởng Huyền Diệu". Đây có lẽ là giai đoạn thực sự vẻ vang nhất trong đời binh nghiệp của tôi.
Trung Hoa có câu tục ngữ: "Một con sư tử dồn hết sức mạnh để tấn công một con thỏ." Hải quân Hoa Kỳ không khác nào con sư tử trong câu tục ngữ nầy, khi nó cố xé Guadalcanal và Tulagi vào bình minh ngày 7 tháng 8 năm 1942. Điều mỉa mai là phi trường Nhựt ở Tulagi vừa thiết lập xong ngày trước đó. Lực lượng phòng thủ của Nhựt trên đảo Tulagi ngoài 800 binh sĩ hải quân, được trang bị một vài pháo khẩu và một số đại liên, ở đây chỉ có 9 thủy phi cơ chiến đấu và 12 thủy phi cơ quan sát không võ trang.
Lực lượng Hoa Kỳ đã làm cỏ quân phòng thủ Nhựt ở Tulagi trong vòng hai tiếng đồng hồ, và chỉ với một tiểu đoàn quân của họ, quân Nhựt ở Guadalcanal cũng nhanh chóng chịu chung số phận. Lúc đó "Con Sư Tử" Nhật Bản tức Hạm Đội Hổn Hợp đang ngủ kỷ trên biển Nhật Bản cách hòn đảo nầy 2.700 dậm. Nhưng Yamamoto có một "con chó giữ nhà" nằm ở Rabaul. Đó là Đệ Bát Hạm Đội của Phó Đô Đốc Gunichi Mikawa.
Lực lượng của Mikawa, bao gồm 5 tuần dương hạm hạng nặng, 3 tuần dương hạm hạng nhẹ và một khu trục hạm, rời khỏi Rabaul lúc 15 giờ ngày 7 tháng 8, và tấn công lực lượng của Hoa Kỳ vào giữa đêm 8 tháng 8. Các chiến hạm của Mikawa đã đánh chìm 4 tuần dương hạm hạng nặng và gây thiệt hại nặng nề cho một tuần dương hạm và hai khu trục hạm của Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi trong một trận đánh kéo dài 30 phút. Mikawa chỉ thiệt mất tuần dương hạm Kabo (bị tiềm thủy đỉnh S44 của Hoa Kỳ đánh chìm hai ngày sau đó, khi các chiến hạm của ông đang di chuyển gần Kavieng). Mikawa đã đạt được một trong những chiến thắng trên mặt biển vang lừng nhất của cuộc chiến. Tuy nhiên, ông đã sai lầm khi bỏ qua không tìm cách tấn công các đoàn tàu tiếp tế cho Guadalcanal của Hoa Kỳ. Sau chiến tranh, sự sai lầm nầy của Mikawa vẫn còn bị cả hai phía Đồng Minh và Nhật Bản bàn tán chê bai. Tuy nhiên theo tôi, Mikawa đã làm tròn nhiệm vụ "giữ nhà" của ông, và Yamamoto chính là người phải chịu trách nhiệm phần lớn lỗi lầm nầy, vì ông đã trói chân Hạm Đội Hổn Hợp của ông trong hải phận Nhật Bản.
Khi cuộc xâm chiếm của Hoa Kỳ được báo cáo về Nhựt, hai tai của "Con Sư Tử" bị quào, nhưng nó chưa chịu thức dậy. Thiên Hoàng Hirohito, đang nghỉ hè tại dinh thự mùa hè của Ngài ở Nikko, nghe được tin nầy đã lập tức chuẩn bị trở về Đông Kinh, nhưng Đô Đốc Osami Nagano, Tổng Tham Mưu Trưởng Hải Quân, địch thân đến Nikko để bệ kiến.
Nagano giải thích với Thiên Hoàng: "Tâu bệ hạ, chuyện nầy không đáng để bệ hạ lưu tâm." Và ông cho biết, theo tin tức "tình báo" của Tùy Viên quân sự Nhựt ở Mạc Tư Khoa gởi về, chỉ có 2.000 địch quân Guadalcanal. Nhiệm vụ của nhóm quân nầy là phá hủy các sân bay và sau đó đã rút lui khỏi đảo.
Tôi không biết có bao nhiêu loại báo cáo ngu xuẩn như thể đã được cung cấp. Nhưng dù cho có nhận được các báo cáo ngu xuẩn, các sĩ quan cao cấp cũng phải đánh giá bằng cách đối chiếu các nguồn tin tình báo khác mới phải. Cuối cùng, vào ngày 10 tháng 8, ba ngày sau khi cuộc hành quân được phát động, Bộ Tư Lịnh Tối Cao Hoàng Gia Nhựt mới ra lịnh cho 5.800 quân từng tham dự trận đánh Midway, đang nằm chờ ở Truk, tiến về Guadalcanal.
"Con sư tử" Yamamoto lại khép đôi mắt ngủ tiếp sau khi nghe tin cuộc "chiến thắng phi thường" của Mikawa, và nó chỉ từ từ mở mắt ra sau khi biết được lịnh của Bộ Tư Lịnh Tối Cao. Ngày kế đó, 11 tháng 8, Đệ Nhị Hạm Đội của phó Đô Đốc Nobutake Kondo tách rời Hạm Đội Hổn Hợp, di chuyển 2.700 dậm đến Guadalcanal. Lực lượng của Phó Đô Đốc Chuichi Nagumo nằm lại, với lí do những phi công trên hàng không mẫu hạm mới của ông chưa sẵn sàng tham chiến, nhưng với sự thúc giục ông đã gấp rút chuẩn bị để ra đi với lực lượng chánh của Yamamoto vào ngày 16 tháng 8. Vào thời gian nầy các lực lượng của Hoa Kỳ đã đổ bộ lên Guadalcanal.
Qua các thay đổi vào phút chót, chiếc Amatsukaze của tôi được đặt dưới quyền sử dụng của Nagumo, người bạn cũ của tôi. Amatsukaze và 14 khu trục hạm gia nhập phân đội 10, quanh tuần dương hạm Nagara (trở thành soái hạm của Nagumo từ khi chiếc Akagi bị đánh chìm ở Midway). Phân đội do một chuyên viên khu trục hạm chỉ huy, Đề Đốc Susumu Kimura.
Với vận tốc 18 đến 20 hải lý, chúng tôi tiến về phía Nam. Tất cả các khu trục hạm nầy đều có vận tốc tối đa 33 hải lý, nhưng nếu vận tốc càng cao mức độ tiêu thụ nhiên liệu của chúng càng nhiều. Theo chương trình, chúng tôi sẽ đến Truk vào ngày 20 tháng 8, nghĩa là trên hải trình dài 2.000 dậm trong vòng 5 ngày. Sau đó chúng tôi sẽ tiếp tục tiến đến Guadalcanal.
Nửa đường đến Truk, chúng tôi nghe tin Nhật Bản đã mắc một lỗi lầm khác ở Guadalcanal. Vào đêm 18 tháng 8, sáu khu trục hạm Nhựt đã đổ 800 khinh binh lên bờ biển phía Đông Guadalcanal. Những lúc đó không có một ai trong Bộ Tư Lịnh Tối Cao biết được việc người Mỹ đã đổ 20.000 Thủy Quân Lục Chiến với trang bị tối tân của họ lên hòn đảo nầy rồi. Lực lượng Nhựt sau khi đổ bộ đã tiến như vũ bảo xuyên qua rừng rậm, và chỉ sụp bẩy của địch quân hai ngày sau đó. Kết quả, hơn phân nữa lực lượng nầy bị tiêu diệt, thành phần còn lại bỏ chạy tán loạn.
Tin tức nầy đưa đến làm nao núng Yamamoto. Ông lập tức đình chỉ kế hoạch tiến đến Truk và ra lịnh cho hạm đội chỉa mủi thẳng về Guadalcanal. Nhưng hành động nầy đã quá trể. Và Bộ Tư Lịnh Lục Quân Nhựt lúc đó còn nói chuyện hoang đường khi cho rằng hàng ngủ địch đang lung lay vì tinh thần xâm lăng của họ. Sau khi trung đoàn thứ nhứt dưới quyền của Đại Tá bộ binh Kiyanao Ichiki bị đánh tan, Lục quân quyết định tung thêm một trung đoàn nữa. Lực lượng nầy, dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Seiken Kawaguchi, cũng bị đánh tan. Như vậy mà Lục Quân vẫn còn chần chừ rất lâu trước khi tung hẳn một sư đoàn lên hòn đảo nầy.
Tánh tự phụ của Yamamoto hoàn toàn biến mất vào ngày 20 tháng 8. Sáng ngày nầy, một phi cơ quan sát bay cách phía Tây Bougainville 500 dậm đã phát hiện một lực lượng đặc nhiệm của địch quân, gồm có ít nhất một hàng không mẫu hạm và hai khu trục hạm, chạy hướng về phía Bắc với vận tốc 14 hải lý.
Việc các lực lượng Nhựt ghé lại Truk đã được Yamamoto bải bỏ, nhưng lúc ấy tất cả các chiến hạm của ông đều gần cạn nhiên liệu, và phải tái tiếp nhận từ các tàu chở dầu ngay trên mặt biển trước khi di chuyển tiếp. Lấy nhiên liệu trên mặt biển là một việc làm khó khăn và dễ gây sự đụng chạm, và đặt biệt rất nguy hiểm trong thời chiến. Cả hai tàu chở dầu và tàu chiến phải chạy thật chậm, khoảng 6 hải lý và phải tung nhiều khu trục hạm để bảo vệ, đề phòng tiềm thủy đỉnh hoặc phi cơ địch tấn công vào mục tiêu gần như chết đứng. Chúng tôi thực hiện việc tiếp nhiên liệu nầy kéo dài đến 4 giờ sáng ngày 23, ngày lúc chúng tôi tiến vào hải vực cách phía Bắc Guadalcanal 400 dậm.
Hai tàu chuyển vận mang 1.500 binh sỹ khác dưới quyền Đại Tá Ichiki, chạy phía trước chúng tôi 50 dậm với sự hộ tống của 1 tuần dương hạm và 6 khu trục hạm thuộc phân đội 2 khu trục hạm. Theo kế hoạch, phân nữa lực lượng của Ichiki sẽ tấn công Guadalcanal và phân nữa còn lại sẽ tiếp liền theo sau đó, sau khi lực lượng trước đã đổ bộ xong. Thêm vào đó, các đơn vị tăng viện thuộc Lữ Đoàn của Tướng Kawaguchi được chuyển vận từ Truk đến.
Vào ngày 23 tháng 8, Phân đội 2 khu trục hạm báo cáo rằng các chiến hạm thuộc Phân đội bị phi cơ thám thính của địch phát hiện. Do đó, Yamamoto phải tìm cách đối phó. Một giải quyết hợp lý nhứt là tạm đình chỉ cuộc đổ bộ theo thời gian sắp xếp, để nhường hành động quyết định cho hải quân. Tuy nhiên, Yamamoto vẫn ra lịnh cho Phân đội 2 khu trục hạm tiếp tục chuyển trung đoàn của Ichiki đến mục tiêu đúng theo kế hoạch, nhưng ông không đưa ra một lịnh nào cho đoàn tàu chuyển vận Lữ Đoàn của Kawaguchi. Yamamoto quyết định hạ gục lực lượng đặc nhiệm nhỏ của Hoa Kỳ, sau đó sẽ tiếp tục cuộc hành quân đổ bộ theo ngày giờ đã định.
Có những điểm trong quyết định của Yamamoto cần phải giải thích, và nếu giải thích theo sự việc xảy ra vào lúc đó thì không bao giờ lượng định được gánh nặng của người đưa ra quyết định nầy. Từ cuộc chiến tranh Hoa - Nhựt, vấn đề Lục Quân khởi xướng kế hoạch và Hải Quân tiếp tay thi hành đã trở thành truyền thống. Thoạt đầu, theo ý kiến của Lục Quân trong cuộc hành quân Guadalcanal là đổ bộ một tiểu đoàn, sau đó là một trung đoàn và kế nữa là một lữ đoàn. Vì vậy, dù biết là sai lầm, nhưng nếu hải quân yêu cầu sửa đổi lại ý kiến nầy tức là phá bỏ truyền thống.
Tuy nhiên, Yamamoto biết được sức mạnh của địch quân trên đảo Guadalcanal, ông sẽ không ngần ngại phá bỏ truyền thống, nhưng không hiểu sao tình hình thực sự đã không đến được tay ông. Quan tâm ưu tiên của ông lúc ấy là làm cách nào lực lượng bộ binh thiếp lập một đầu cầu ở bờ biển phía Đông Guadalcanal, việc nầy hình như chỉ là vấn đề thời gian, và tìm hết cách giữ cho được đầu cầu đó.
Yamamoto đã vội vã thành lập một lực lượng để đánh lừa địch quân, bao gồm hàng không mẫu hạm nhỏ nhất của Hạm Đội Hổn Hợp chiếc Ryujo 10.150 tấn, tuần dương hạm hạng nặng Tone và hai khu trục hạm Amatsukaze và Tokitsukaze. Bốn chiếc tàu nầy do Đề Đốc Chuichi Hara chỉ huy, giả vờ tấn công Guadalcanal và ngăn lực lượng đặc nhiệm của Hoa Kỳ tiến Bougainville. Lực lượng đặc nhiệm của Nagumo với thành phần chủ chốt là hai hàng không mẫu hạm 40.000 tấn (Shokaku và Zuikaku) được chỉ thị xoay về hướng Đông - Nam, và tấn công vào cạnh sườn các chiến hạm địch truy đuổi lực lượng chim mồi của Đề Đốc Hara.
Chúng tôi xuất quân vào 2 giờ sáng ngày 24 dẫn đầu với tuần dương hạm hạng nặng Tone, một chiếc tàu thoạt nhìn giống một con quái vật với 8 khẩu 203 ly chỉa mũi tua tủa. Theo sau là hàng không mẫu hạm Ryujo, được Amatsukaze hộ vệ bên phải và Tokitsukaze hộ vệ bên trái. Chúng tôi hướng về Guadalcanal với tốc độ 26 hải lý.
Nhiệm vụ không phải dễ dàng và nhiệm vụ quan trọng thực sự đầu tiên của tôi trong cuộc chiến. Tôi đứng trên đài chỉ huy với đầu óc căng thẳng. Đề Đốc Hara, ở soái hạm Tone, là một trong những Tư Lịnh tài ba nhứt của hải quân. Tôi biết ông từ những ngày còn học ở Hàn Lâm Viện hải quân. Lúc đó ông là một huấn luyện viên và tôi đã nể phục sự hiểu biết của ông. Trong trận Trân Châu Cảng, Hara chỉ huy một hải đội hàng không mẫu hạm thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo.
Điều đáng quan tâm hơn hết là chiếc Ryujo. Nhìn chiếc hàng không mẫu hạm 10 tuổi nầy tôi thấy bất an. Các phi công tài ba không bao giờ được bổ nhiệm phục vụ trên một chiếc tàu già nua, và sau khi được nhìn khả năng của các hàng không mẫu hạm trận Midway, chiếc Ryujo đối với tôi thật đáng bi quan. Tôi xem "con chim mồi" nầy chắc không sống sót nổi qua phát đạn đầu tiên.
Lúc 7 giờ 13, khi bình minh tỏa rộng trên Nam Thái Bình Dương, kẻ thù đầu tiên chúng tôi nhìn thấy là một chiếc thủy phi cơ, nó đã bay theo sau chúng tôi nhiều dậm nhưng cuối cùng bỏ đi, chứng tỏ nó đã đếm xong lực lượng của chúng tôi. Theo kế hoạch, chúng tôi tiếp tục tiến về phía trước và trong vòng 4 tiếng đồng hồ không thấy phi cơ nào khác của địch quân xuất hiện. Biển lặng như tờ. Thời tiết rất thích hợp cho phi cơ tấn công, nhắc tôi nhớ lại trận đánh ở Midway. Một ngày bất lợi biết bao, tôi thầm nghĩ.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip