Yamamoto va nhung tran danh tai TBD P6
Trong khi 20 chuyển vận hạm tiến chậm chạp dọc theo bờ biển, các khu trục hạm của chúng tôi đã lừa các khu trục hạm của Hoa Kỳ chạy ra hướng biển. Đó là 4 khu trục hạm Nicholas, O'Bannon, Taylor và Chevalier. Trước khi trời tối một vài giờ, 400 binh sĩ phải nằm lại trên các chuyển vận hạm đậu dọc theo bờ biển. Khi màn đêm buông xuống, tất cả đã đổ bộ lên bờ biển Horaniu. Như vậy, cuộc hành quân đổ bộ đã thành công trọn vẹn. Và như vậy, có thể kết luận rằng các khu trục hạm của Đại tá Thomas J.Ryan đã thất bại, và trong thất bại này có nhiều điều khúc mắc không thể giải thích được.
Tất cả các chiến hạm của Ryan chạy cùng một hướng với chiến hạm của chúng tôi mãi cho đến 23h32, và sau đó bỗng xoay hai lần 90 độ để hướng về các chuyển vận hạm Nhật. Một vài báo cáo cho biết sở dĩ ông ta đã từ bỏ cuộc săn đuổi các khu trục hạm chạy với vận tốc 35 hải lý của chúng tôi bởi lẽ các khu trục hạm của ông ta chỉ có thể chạy với tốc độ 30 hải lý mà thôi.
Nhưng sự thật lúc ấy tốc độ tối đa của khu trục hạm Shigure chỉ đạt đến 30 hải lý là cùng. Hơn nữa bánh lái của Shigure lại không được chính xác nên chắc chắn tàu này và Isokaze chạy không quá 28 hải lý. Mặt khác, hướng tiến của các chiến hạm Hoa Kỳ và hai chiến hạm Nhật , tôi được kiểm chứng lại qua các bản báo cáo của 2 bên sau này, cho thấy Đại tá Ryan không hề săn đuổi chúng tôi.
Lực lượng của Đại tá Ryan cũng không chủ tâm săn đuổi các chuyển vận hạm Nhật. Theo báo cáo, tất cả các khu trục hạm của ông ta đã bắn hết đạn nhưng vẫn còn lại một số đại đại liên, có thể đủ sức tấn công vào đoàn tàu chuyển vận không có vũ trang của chúng tôi. Nhưng theo kết quả đã thấy, chỉ có 2 chuyển vận hạm bị đánh chìm và không ai trên các tàu này thiệt mạng.
Qua những sự kiện này, cho thấy Đại tá Ryan có lẽ đã nghĩ đây là một trong các chuyến chuyển vận quen thuộc mà khu trục hạm Nhật thường đảm trách vai trò chính trong nhiệm vụ chuyên chở lực lượng đổ bộ, vì vậy khi các khu trục hạm của chúng tôi rút lui thì ông ta đã mãn nguyện, cho rằng cuộc hành quân đổ bộ của chúng tôi đã bị bẻ gãy, không cần phải truy đuổi xa hơn nữa.
Trong suốt trận đánh vừa qua, tôi cũng như tất cả các đồng nghiệp khác không hề nhìn thấy một quả ngư lôi nào được phóng đi. Điều này cũng gây thắc mắc cho chúng tôi, bởi vì cuộc đụng độ này xảy ra, chỉ cách có 10 ngày sau cuộc chiến thắng bằng ngư lôi của Mỹ tại cùng một khu vực. Sau này, Đề đốc Ijuin đã nói với tôi : "Tôi tin rằng các chiến hạm địch phải là tuần dương hạm chứ không phải khu trục hạm, bởi vì các chiến hạm này chỉ tham chiến bằng súng từ đầu đến cuối."
Lời ghi nhận của một quan sát viên trên khu trục hạm Shigure về việc một trong những quả ngư lôi của chúng tôi đã trúng tàu địch không bao giờ được kiểm chứng. Đó có thể là do sự quan sát lầm lẫn. Hình như quả ngư lôi phát nổ là do chạm phải các làn sóng do một chiếc tàu địch gây ra. Lối điều động không mấy hăng hái của địch quân sau báo cáo của quan sát viên, khiến cho tôi nghĩ nhận xét sau của tôi có lẽ đúng. Như vậy, có thể nói không có quả ngư lôi nào của Nhật chạm mục tiêu, nhưng một số đã gây chút ít rối loạn cho hàng ngũ đối phương.
Ijuin, sinh ra trong một dòng họ quý tộc và có những thói quen gia hệ, luôn luôn giữ trạng thái lạc quan. Ông ta không hề để tai đến những ngờ vực có tính cách bi quan của tôi. Do đó, trong bản báo cáo gửi cho Bộ Tư Lệnh Tối Cao Hải Quân Hoàng Gia, ông viết: "Chiếc khu trục hạm xuất sắc nhất thuộc phân đội của tôi là chiếc Shigure . Nó đã sử dụng ngư lôi đánh chìm một tuần dương hạm của địch quân.
Điều đáng phê phán nhất của toàn bộ trận đánh là việc Nhật Bản bất thình lình ngưng hướng tiến để xoay về hướng Tây Nam. Lý do là radar của chiếc Hamakaze đã khám phá ra một lực lượng địch quân hùng hậu trong khu vực phụ cận. Đây là một sự sai lầm, và chỉ có một cách giải thích sự sai lầm này: radar của Nhật Bản lúc đó không thể nào tin tưởng được, vì vậy lực lượng địch mà radar của chiếc Hamakaze phát hiện được thật ra là các chiếc tàu thuộc đoàn chuyển vận của chúng tôi.
Từ khi cuộc chiến chấm dứt, tôi đọc tất cả những lời đả kích mạnh mẽ của Hoa Kỳ nhắm vào hành động rút lui của Ijuin, bỏ mặc đoàn chuyển vận mà ông có nhiệm vụ bảo vệ. Tuy nhiên, một điều hơi lạ là dường như không có một lời chỉ trích nào nhắm vào vị chỉ huy Hoa Kỳ về việc ông ta không xúc tiến việc truy đuổi chúng tôi.
Theo tôi nghĩ, các vị chỉ huy của cả hai bên đều có sự bận tâm và bối rối riêng trong khi điều động trận đánh này. Sự thất bại ngày 7 tháng 8 tại Vịnh Vella hiển nhiên là có ảnh hưởng nặng nề đối với Ijuin, giống như trận Kolombangara vào ngày 12 tháng 7 đối với Ryan. Trong trận Kolombangara, Ryan chỉ huy một hải đội khu trục hạm khi một trong bốn chiếc tàu của ông bị đánh chìm, ba chiếc còn lại đã xoay hướng bỏ chạy một cách hỗn loạn, nhưng cũng bị các lực lượng vượt trội của Nhật đuổi theo và giáng cho các đòn chí tử. Tuy nhiên, các sử gia và phê bình gia thường không chú ý đến trạng thái tinh thần của các vị tư lệnh trong việc phê phán một trận đánh trên bộ hoặc trên mặt biển như thế này.
Bốn khu trục hạm của chúng tôi trở về Rabaul vào ngày 18 tháng 8. Qua ngày sau, thủy thủ đoàn sung sướng và hãnh diện của chiếc Shigure được nghỉ ngơi.
Trong giai đoạn tiêu hao khá cao của cả cuộc chiến này, một khu trục hạm trải qua 2 trận đánh liên tiếp mà không mang một vết thương nào thì thật là một điều đáng ngạc nhiên.
Trong chuyến trở về trước đó của chúng tôi, thiên hạ đã nhìn một cách điềm nhiên bởi vì họ cho rằng Shigure là chiếc tàu duy nhất của Nhật còn tồn tại trong trận đánh chỉ do may mắn mà thôi. Bây giờ thì không còn ai tỏ vẻ nghi ngờ về tài năng và sự kiêu hùng của nó.
Đề đốc Ijuin dùng cơm trưa với Đại tá Miyazaki và tôi tại CLB sĩ quan . Cả hai đều hết lời ca tụng chiến công của chiếc Shigure đến nỗi tôi cảm thấy bối rối nhưng pha lẫn chút ít sung sướng. Ijuin ghi nhận rằng từ ngày được tôi chỉ huy, khu trục hạm Shigure có nhiều thay đổi lớn lao, và ông kết luận:
"Tôi rất tiếc, Hara, mang tiếng là chỉ huy trưởng Hải đội mà anh chỉ có trong tay một chiếc tàu duy nhất, và chiếc tàu này lại còn lâu đời hơn chiếc Amatsukaze trước đây của anh. Nhưng hãy kiên nhẫn, không lâu nữa số tàu dưới quyền sẽ có đầy đủ cho anh."
Đề đốc Ijuin là một mẫu người rất dễ thân cận và hòa hợp. Mặc dù ông thuộc giai cấp quý tộc, sinh ra trong nhung lụa, nhưng ông đã tạo được một tiếng tăm lừng lẫy trong Hải quân như là một hoa tiêu xuất sắc.Thật đáng hài lòng khi thấy một người có khả năng và giai cấp như vậy lại chú tâm đến sự an vui của người khác.
Căn cứ Rabaul tương đối yên tĩnh vì không có những trận oanh kích xảy ra, do đó sau khi dùng cơm trưa xong, chúng tôi thả bộ quanh một vòng. Từng cơn gió nhẹ, từ hướng Đông Nam lướt đến, lay động hàng dừa rợp bóng trên đầu. Căn cứ vùng nhiệt đới này chỉ có vẻ nhộn nhịp tí chút ở bề ngoài. Chúng tôi đều mặc áo ngắn, vận quần tây ngắn và đội nón rơm. Ăn mặc như vậy thích thú hơn vì không ai chú ý và khỏi phải phiền phức đáp trả những cái chào của thủy thủ đi ngang qua chúng tôi.
Các cửa hàng trên hòn đảo vẫn mở cửa buôn bán như thường lệ, và hầu hết do người Trung Hoa làm chủ. Một dân tộc nhẫn nại và cần cù biết bao. Trong lúc Đồng Minh và Nhật Bản đang đụng độ một cách tàn khốc thì họ, những người Trung Hoa trầm tĩnh này, chỉ biết tìm cách gia tăng sức mạnh kiểm soát kinh tế địa phương của họ.
Khi băng qua một ngõ hẹp, chúng tôi bị một đám đông tụ tập trước sân của một lữ quán lôi cuốn. Đó là một đám khán giả của một nhóm vũ công địa phương khoảng chừng 40 người. Bốn mươi vũ công này không trang điểm gì khác hơn là vắt những chiếc lông chim trĩ lên tóc, vận sà rông màu sắc sặc sỡ và thân thể trần trùi trụi, rám nắng của họ được tô son vẽ phấn lòe loẹt. Họ múa may cuồng nhiệt đến nỗi thân thể ướt đẫm mồ hôi. Tiếng trống là âm điệu duy nhất phụ họa với điệu vũ này. Một số khán giả phụ nữ lâu lâu ném vài quả chuối hoặc các loại trái cây khác vào nhóm vũ công, và họ chụp lấy vừa ăn vừa nhảy múa. Thỉnh thoảng họ la lên, âm thanh giống như tiếng vịt kêu. Chúng tôi không hiểu được nguyên nhân nào mà dân địa phương tổ chức buổi khiêu vũ này, nhưng phải công nhận đây là một điệu vũ rất lôi cuốn. Gần nửa giờ, chúng tôi đứng quan sát nhóm vũ công trẻ tuổi hoa chân múa tay trong khi đầu lắc qua lắc lại liên hồi. Chỉ chừng bao nhiêu động tác ấy, nhưng hấp dẫn kỳ lạ.
Mayazaki nói: "Những người này họ bằng lòng với đời sống sơ khai của họ, họ ăn uống đạm bạc, ở trong những căn nhà tồi tàn, ăn vận thô sơ và họ không mơ ước gì hơn nữa. Đối với cuộc sống hiện đại của chúng ta, xem ra họ có vẻ biếng nhác. Nhưng thật ra ai là kẻ hạnh phúc hơn?"
Cuối cùng, Ijuin đề nghị đi chỗ khác, ông nói: "Tôi thích cuộc khiêu vũ này, nhưng tôi lại muốn đến viếng nơi tắm ở suối nước nóng mà hồi nãy chúng ta nhìn thấy. Các anh có bằng lòng theo tôi không?"
Lời đề nghị của Ijuin làm Miyazaki và tôi sửng sốt. Hồi nãy khi đi ngang qua suối nước nóng, chúng tôi có nói với Đề đốc về sự tuyệt diệu của chỗ tắm này. Bây giờ, khi nghe Ijuin nói, tôi định lên tiếng thì Miyazaki đã cướp ngang: Xin lỗi Đề đốc, suối nước nóng đó ở ngay ngoài trời. Tôi chưa thấy một vị Đề đốc nào đến đó tắm bao giờ."
Ijuin đáp: "Nhưng mà anh đã từng tắm ở đó rồi, phải không Đại tá thân mến của tôi? Và một khi anh có thể tận hưởng cuộc tắm ngoài trời sảng khoái như vậy được, tại sao tôi lại phải bằng lòng với cái buồng tắm chật hẹp và thiếu tiện nghi của tôi ở trên tàu?"
Không ai dám lý luận với một vị Đề đốc, nhất là khi ông ta nói rất hữu lý. Hải quân Nhật đã cho xây nhiều nhà tắm lộ thiên trên các suối nước nóng do núi lửa New Britain tạo thành. Ở đây có đặt những cái thùng bằng kim khí rộng lớn dùng để chứa nước . Ai muốn tắm thì đổ đầy nước trong và ấm vào thùng, rồi tắm theo lối Nhật , nghĩa là ngâm cả thân thể vào chiếc thùng đầy nước này. Tắm theo kiểu này thân thể sẽ đỏ hồng và cảm thấy khỏe khoắn hoàn toàn.
Bất cứ thủy thủ nào từng ghé Rabaul đều biết đến địa điểm tắm nước nóng ở đây. Nếu có giấy phép lên bờ, thủy thủ có thể đến tắm tự do, khỏi phải trả một khoản phí nào hết. Sau những ngày lênh đênh trên mặt biển, không hề biết đến việc tắm rửa là gì, đây là một địa điểm mà họ không thể nào quên được. Nhưng các sĩ quan cao cấp thì đã có nơi tắm riêng trên tàu, do đó, thật là đáng ngạc nhiên, khi nhìn thấy một vị Đề đốc, cũng là một vị Nam tước ngoài đời, lại lần mò đến những nơi tắm công cộng thế này.
Khi chúng tôi bắt đầu hứng nước nóng vào thùng, hai thủy thủ trẻ tuổi nhảy ra khỏi thùng của họ, chào chúng tôi và dành lấy công việc này. Phản ứng tự nhiên, chúng tôi chào trả lại họ, nhưng Ijuin nhanh miệng: "Được rồi, các chú, việc này có khó khăn gì đâu, chúng tôi có thể làm được mà. Trần truồng như thế này thì còn phân biệt giai cấp cái quái gì được nữa?"
Nhưng hai chàng thủy thủ trẻ tuổi dường như không nghe. Khi đổ nước đầy mấy cái thùng của chúng tôi xong, họ lặn khỏi địa điểm ngay lập tức.
Đề đốc Ijuin thở dài: "Dường như chúng ta đã quấy rầy cuộc vui của họ. Từ rày tôi sẽ không đến đây nữa."
Buổi tắm tuyệt thú. Sau khi tắm xong, chúng tôi kỳ lưng cho nhau và xếp thành hàng giống như ba con khỉ đột. Thật ra, đây là cái trò không lấy gì làm đứng đắn lắm đối với các sĩ quan Hải quân, nhưng chúng tôi cũng không để ý đến điều đó. Trong lúc đang hưởng sự thoải mái, Ijuin nói: "Sư tổ phóng lôi Hara, tôi muốn anh cho tôi biết ý kiến về hành động của tôi trong trận chiến vừa qua. Tám con cá của khu trục hạm Sanazami đã phí phạm một cách vô ích. Sao chúng ta không thể làm tốt hơn?"
"Thưa Đề đốc, theo tôi nghĩ, các ngư lôi đó thật sự không phí phạm một chút nào hết. Loạt phóng đầu tiên của chúng ta bị đối phương phát giác kịp thời, bởi lẽ có một quả ngư lôi đi sai hướng và bị gió thổi ngược trở lại. Nếu điều đó không xảy đến thì tôi tin rằng thế nào chúng ta cũng bắn trúng tàu địch."
Ijuin đồng ý lý luận của tôi, và ông nêu ý kiến thêm rằng khoảng cách của mục tiêu quá xa, nên dầu cho các ngư lôi có tầm xa cũng không thể nào trúng đích được. Tôi tiếp lời: "Đúng vậy, thưa Đề đốc, với sự tiến bộ về tầm phát hiện của radar địch, họ có thể bắn chúng ta từ xa, trong khi chúng ta khó mà có thể đến gần họ trong tầm 3.000m"
Ijuin nói: "Đó là sự thật. Địch quân hiện thời đã trên chân chúng ta. Điều khôn ngoan nhất cho chúng ta là cố gắng làm sao đừng gắng công đạt cho được chiến thắng mà phải chịu hao tổn quá nhiều. Không nên trả giá đắt về người và chiến hạm chỉ để đánh đổi một chiếc tàu địch."
Các cuộc tấn công của Đồng Minh ngày càng gia tăng nhanh chóng và mạnh mẽ, khiến Nhật Bản xoay trở khó khăn. Ngay chính vào ngày chúng tôi quay trở về và nghỉ ngơi tại Rabaul. Lực lượng bộ binh của Nhật bắt đầu triệt thoái khỏi căn cứ Santa Isabel, một hòn đảo có chiều dài nhưng không có chiều ngang thuộc quần đảo Solomon, nằm song song phía chính Đông của các đảo Vella Lavella, Kolombangara và New Georgia
Ba ngày được nghỉ ngơi tại Rabaul, Miyazaki và tôi được lệnh sử dụng 3 khu trục hạm để đến di tản càng nhiều càng tốt số binh sĩ đồn trú trên đảo Rekata nằm ở phía Đông Bắc Santa Isabel. Trước đó, 600 trong số 3.400 binh sĩ trú đóng trên đảo Rekata đã được một số khu trục hạm khác di tản.
Thêm một lần nữa, chiếc Shigure lại ra khơi với chiếc Hamakaze. Khu trục hạm hư hại Isokaze được chiếc Minazuki thay thế. Cả 3 khu trục hạm lên đường vào sáng ngày 22 tháng 8. Tàu của chúng tôi chất đầy thức ăn và đồ tiếp tế cho số binh sĩ còn kẹt lại trên đảo không di tản hết trong chuyến đi này vì tàu của chúng tôi mỗi chiếc chỉ có thể chở 250 người là cùng.
Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, nhiệm vụ giao phó cho chúng tôi đều gian nan vất vả. Cuộc di tản trước được thực hiện cách nay đúng 4 hôm, khiến cho công tác của chúng tôi trở nên khó khăn thêm. Địch quân đã được đặt trong tình trạng báo động. Chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng để đối phó nguy cơ trước mắt.
Hành trình đến căn cứ Retaka thật nguy hiểm với hằng hà sa số đá ngầm và nhiều nơi đáy biển không được đánh dấu. Hải đồ của chúng tôi sao y hải đồ của người Anh, thực hiện năm 1939 kèm theo lời ghi chú như sau: "Những hòn đảo này chỉ được nghiên cứu có một phần, và phần lớn còn lại vẫn chưa biết được. Tốt hơn nên cẩn thận khi di chuyển trong khu vực này."
Lúc chúng tôi rời khỏi căn cứ Rabaul chưa đầy 100 dặm thì 3 phi cơ địch xuất hiện ở độ cao 20.000 bộ ( khoảng 7.960m). Súng cao xạ đặt trên các khu trục hạm của chúng tôi khai hỏa tức khắc, nhưng ở cao độ như vậy súng của chúng tôi làm sao với nổi. Quả thật đáng lo.
Phi cơ địch không bỏ một quả bom nào, nhưng cứ quấy phá bằng cách bay vòng tròn trên đầu chúng tôi. Lối chọc tức này thật đáng chửi thề. Khoảng chừng 10 phút sau, 6 chiến đấu cơ Zero cất cánh từ căn cứ Buka xuất hiện trên không phận của khu vực. Sáu chiến đấu cơ Nhật đâm thẳng vào các oanh tạc cơ địch và khai hỏa. Nhưng phi cơ địch, dường như là loại oanh tạc cơ B-24, vẫn tiếp tục bay, hoàn toàn không có vẻ gì là rối loạn cả. Mọi loại súng của chúng tôi đều quay mũi lên trời sẵn sàng khai hỏa, nếu phi cơ địch bay vào tầm.
Quấy phá chúng tôi chùng 20 phút, các phi cơ địch bỏ đi. Sáu chiến đấu cơ của chúng tôi tiếp tục bay về hướng Nam, phía trên các chiến hạm của chúng tôi, cho đến chiều tối mới quay trở về căn cứ. Nhưng chúng tôi vẫn sống trong những giờ phút bất an, vì vậy chúng tôi vẫn phải duy trì tình trạng báo động. May mắn là không còn chiếc phi cơ nào đến quấy phá chúng tôi nữa. Chúng tôi tiến một cách chậm chạp dọc theo bờ biển Bougainville và luôn luôn phải đề phòng bất trắc trên đoạn hải trình nguy hiểm này.
Chúng tôi len lỏi tiến vào khu vực đầy đá nhọn và đáy biển nông, bao quanh đảo Choiseul. Ngay lúc đó, một công điện hỏa tốc được gửi đến từ căn cứ Rekata. Không một ai trong chúng tôi quên được khi đọc nội dung của công điện này: "Bốn tuần dương hạm và rất nhiều khu trục hạm địch được nhìn thấy lảng vảng gần cửa khẩu vào hải cảng Rekata."
Tôi la trời. Tất cả các chiến hạm của chúng tôi đều chạy một cách nặng nề và chậm chạp, với vận tốc tối đa 10 hải lý. Như vậy chúng tôi sẽ trở thành mấy con bồ câu bằng đất sét vĩ đại, làm mồi cho phi pháo và ngư lôi của địch quân.
Trong khi tôi rối trí trong tình cảnh tiến thoái lưỡng nan, đèn trên chiếc Hamakaze nhấp nháy một tín hiệu: "Xoay hướng tức khắc, chạy trở ra biển với tốc độ 24 hải lý cho đến khi nào chúng ta hiểu rõ địch tình."
Rời bờ biển để chạy ra khơi như vậy chúng tôi sẽ trở thành mục tiêu rất rõ cho radar của địch quân. Chúng tôi chạy theo hướng mới chưa đầy 10 phút, truyền tin của chúng tôi bắt được một công điện xuất phát từ một trinh sát cơ địch, báo cáo về sự xoay hướng của chúng tôi. Chúng tôi phải làm gì để kháng cự lại với một đối thủ đầy đủ tai mắt như vậy?
Sau khi xem xét hải đồ, chúng tôi biết rằng địch quân chỉ cách chúng tôi 30 dặm. Có thể nào chúng tôi tiến vào bờ để đánh lạc hướng radar địch hay không?
Sau khi xem xét hải đồ, chúng tôi biết rằng địch quân chỉ cách chúng tôi 30 dặm. Có thể nào chúng tôi tiến vào bờ để đánh lạc hướng radar địch hay không? Chạy trốn? Tấn công? Tấn công chắc chắn chúng tôi sẽ chỉ hạ gục một hay hai chiến hạm địch là cùng, và sau đó, những chiến hạm còn lại của địch chắc chắn sẽ nuốt sống chúng tôi. Đèn hiệu màu xanh sau lái của chiếc Hamakaze bắt đầu nhấp nháy: "Rabaul ra lệnh trở về căn cứ ngay lập tức, không được chạm trán với địch quân. Rút lui với tốc độ 30 hải lý."
Tôi thở phào nhẹ nhõm và cúi nhìn đồng hồ, lúc đó gần nửa đêm. Chúng tôi xoay hướng chạy thẳng về Rabaul và đến nơi vào trưa ngày 23 tháng 8. Nhưng chúng tôi chỉ có chút ít thời gian để phục hồi sức khỏe sau mấy đêm mất ngủ. Hai ngày sau đó, chúng tôi lại được lệnh đến căn cứ Retaka một lần nữa. Lần đi này, chúng tôi gặp may mắn, vì thời tiết ảm đạm, có nhiều mây mù, do đó phi cơ địch không phác giác ra chúng tôi. Mưa trút xuống từng cơn trên hải trình tiến về hướng Nam, khiến cho chúng tôi chỉ nhìn thấy cách xa chừng vài trăm mét vào ban đêm.
Tình trạng thời tiết vẫn không thay đổi khi tàu chúng tôi tiến đến Santa Isabel. Kể từ lúc không có dấu hiệu nào cho thấy chiến hạm địch lảng vảng xung quanh, chúng tôi mong ước bầu trời trong sáng trở lại. Chúng tôi hạ tốc độ xuống còn 6 hải lý để len lỏi qua các khoảng nông dẫn vào hải cảng Retaka, và cứ mỗi một trăm mét phải dừng lại để kiểm soát lại vị trí. Đây cũng là một điều làm điên đầu chẳng khác nào bị địch quân quấy phá.
Chúng tôi cứ dò dẫm như vậy suốt gần 2 giờ, cho đến lúc một ánh đèn lờ mờ xuất hiện. Đó là đèn hiệu của một binh sĩ thuộc lực lượng trú đóng Nhật báo cho chúng tôi biết đã đến cửa khẩu gần hải cảng. Cả 3 chiến hạm của chúng tôi đều băng qua vùng biển cạn nguy hiểm một cách an toàn. Chúng tôi cảm thấy nhẹ hẳn người khi cho tàu lướt vào hải cảng nhỏ bé này.
Lúc 1h đêm ngày 25 tháng 8, chúng tôi bắt đầu cho cất đồ tiếp tế lên bờ, trong khi trên cầu cảng hàng trăm binh sĩ xếp hàng chờ đợi lần lượt xuống tàu. Nhưng màn đêm yên tĩnh chợt bị phá tan một cách cuồng bạo. Hai chiếc oanh tạc cơ của địch gào thét trên các tháp, và biến mất vào những đám mây sà thấp trên nền trời, sau khi thả xuống một loạt bom. Những cột nước dâng cao quanh chúng tôi. Không một thiệt hại nào được ghi nhận, nhưng chính những quả bom không trúng đích này đã thúc đẩy chúng tôi xúc tiến nhanh chóng công việc chuyển hàng và nhận binh sĩ.
Khi đồ tiếp liệu đã được dọn sạch. Binh sĩ chờ đợi chạy như bay xuống tàu. Chớp mắt, các khu trục hạm của chúng tôi đầy nghẹt đám hành khách nhốn nháo. Chúng tôi lập tức quay tàu ra khơi. Tuy trời vẫn còn tối đen như mực, nhưng bây giờ chúng tôi có thể điều khiển chiếc tàu băng qua những vùng biển cạn mà không cần phải dừng lại để mò mẫm như trước đây. Ngay lúc nhìn thấy đèn báo hiệu của binh sĩ ở cửa khẩu, chúng tôi gia tăng tốc độ. Vào lúc 2h30 phút, tốc độ của chúng tôi lên đến 30 hải lý. Chắc chắn phi cơ địch sẽ quay lại tìm chúng tôi với số lượng nhiều hơn. Chúng tôi hy vọng rời khỏi hải cảng càng xa càng tốt trước khi trời sáng.
Trước bình minh một giờ, chúng tôi đã thoát ra khỏi đại dương bao la. Sau đó, chúng tôi cho tàu chạy dọc theo bờ biển Choiseul. Một giờ nữa trôi qua, chúng tôi tiến vào eo biển Bougainville, và cũng là lúc phi cơ địch xuất hiện.
May mắn cho chúng tôi là sớm rông thấy phi cơ địch bay đến nên tạo ngay một màn khói bao che và phân tán mỏng. Khu trục hạm Hamakaze và Minazuki tăng tốc độ tối đa 35 hải lý. Chiếc Shigure già nua mệt mỏi chỉ đủ sức chạy đến 30 hải lý là cùng. Phi cơ địch ít ra là hàng chục chiếc, dường như xuất hiện mọi nơi trên vòm trời. Chúng bay xuống bắn phá xung quanh chúng tôi. Tất cả mọi loại súng của chúng tôi đều chĩa lên trời bắn liên hồi nhưng không trúng mục tiêu nào cả. Lúc phi cơ trút bom, chúng tôi cho 3 chiến hạm xả hết tốc lực, chạy theo hình chữ chi và đan chéo nhau. Lúc đó, bánh lái của chiếc Shigure lại không sử dụng được như ý muốn.
Năm phút căng thẳng trôi qua. Tất cả các oanh tạc cơ của địch bay mất. May mắn thay, chiếc Shigure không bị trúng bom. Các bộ phận trên tàu báo cáo không thiệt hại cũng không có thương vong. Các quả bom đều rơi nổ cách xa chiếc Shigure.
Khi màn khói do Shigure tạo ra tan dần. Chúng tôi nhận thấy 2 khu trục hạm bạn chạy phía trước chừng 3.000m. Và khi màn khói của tất cả các chiến hạm khác biến mất, tôi mới biết chiếc Hamakaze đang lâm nạn. Sàn tàu của khu trục hạm này bốc cháy và đang di chuyển với một tốc độ giảm sút rõ rệt. Chiếc Manazuki vô hại, và đang chạy cặp kè chiếc Hamakaze để bảo vệ. Trong lúc chiếc Shigure tiến đến gần hai đồng đội, chiếc Hamakaze sử dụng tín hiệu bằng cờ báo tin: "Một quả bom rơi trúng sàn tàu, 36 thủy thủ thương vong. Tốc độ chỉ giới hạn 20 hải lý. Tôi muốn tiến về Shortland. Hạm trưởng Miyazaki."
Shortland là căn cứ gần chúng tôi nhất, cách khu vực này không đầy 30 dặm. Nhưng tôi biết rằng Shortland không phải là nơi an toàn cho tàu chiến, vì không có sự bao che bề mặt trên không. Tức khắc, tôi ra lệnh cho nhân viên truyền tin vẫy một công điện bằng cờ: "Đại tá Hara chống lại ý định của anh. Căn cứ ở Shortland không phải là nơi an toàn. Chúng ta hãy cứ quay về Rabaul, với tốc độ 20 hải lý. Nếu có rắc rối gì xảy ra, chiếc Shigure sẵn sàng kéo anh. Yêu cầu phúc đáp."
Miyazaki lập tức chấp nhận lời đề nghị của tôi. Ngọn lửa trên chiếc Hamazaki được dập tắt. Chúng tôi vầy đoàn tiếp tục chạy về hướng Bắc. Chúng tôi thâu ngắn đoạn hành trình còn lại chậm chạp một cách thảm thương, nhưng may mắn là không có một phi cơ địch nào bay đến tấn công chúng tôi nữa. Sau đó, chúng tôi tiến vào cảng Rabaul. Mọi người đứng trên cầu tàu đã sững sờ khi nhìn thấy khu trục hạm Shigure chạy dẫn đầu, theo sau là các chiếc Hamakaze và Minazuki. Bởi vì, đối với họ, nếu bất kỳ một trong số ba khu trục hạm này lâm nạn, chắc chắn phải là chiếc khu trục hạm yếu ớt Shigure, không thể nào là chiếc tàu mới tinh và chạy nhanh như chiếc Hamakaze được. Thủy thủ đoàn Shigure cảm thấy sung sướng và hãnh diện. Chúng tôi không sao quên được những lời đàm tiếu và khinh thị mà họ đã nhắm vào chiếc Shigure của chúng tôi trước đây.
Ngày hôm sau, khi gặp nhau tại Tổng Hành Dinh, tôi ngỏ lời chia buồn cùng Miyazaki. Một vị chỉ huy trưởng khu trục hạm lỗi lạc và tài giỏi như ông ta, một người đang được đề nghị thăng cấp Đề đốc, trong khi mới 40 tuổi, bây giờ trở thành một vị chỉ huy trưởng bất hạnh của một hải đội khu trục hạm với tất cả chiến hạm dưới quyền (Yukikaze, Isokaze, Hamanaze) đều bị hư hại nặng cần phải sửa chữa. Việc thăng cấp của ông hiện tại đã thành xa vời. Lúc gặp Miyazaki, tôi nhận thấy ông có vẻ buồn bã và hổ thẹn.
Ijuin đã đưa cho Miyazaki một mảnh giấy và nói: "Đừng ủ rũ nữa, Miyazaki. Hãy đọc mảnh giấy này và vui vẻ lên."
Đôi tay Miyazaki run run khi lướt mắt qua các dòng chữ, và sau đó trao cho tôi với nụ cười thoáng buồn. Đây là công điện gửi từ Shortland, cho biết phi cơ địch đã ồ ạt tấn công gây thiệt hại nặng nề cho căn cứ này. Miyazaki bắt tay tôi và nói: "Hara, anh đã cứu tôi cùng chiếc Hamazaki và thủy thủ đoàn cùng hàng trăm binh sĩ trên tàu. Nếu tôi không nghe lời anh, cứ cho chiếc tàu chạy đến Shortland, chắc chắn giờ này chúng tôi tan thành mảnh vụn rồi."
Bốn ngày sau đó, Đề đốc Ijuin cho mời tôi và hạm trưởng khu trục hạm Shigure đến văn phòng của ông. Vị tư lệnh phân đội của chúng tôi tỏ ra lo âu và có vẻ ngần ngừ trước khi nói: "Khu trục hạm Shigure phải đơn độc đảm nhận một công tác chuyển vận đến Tuluvu. Tôi không muốn giao cho các anh nhiệm vụ này. Nhưng tôi đã ra lệnh cho toàn thể các khu trục hạm khác cùng đi với tôi đến di tản các binh sĩ tại đảo Retaka. Shigure đã được chọn để đảm nhận công tác này một mình, bởi vì, Hara, tôi biết có mặt anh trên chiếc tàu. Tôi tin rằng nếu một người nào có thể đảm nhận công tác này, với một chiến hạm duy nhất, thì người đó phải là anh. Đây là một công tác khó khăn, và tôi hứa rằng ít nhất sẽ có hơn một chiếc khu trục hạm nữa gia nhập vào hải đội của anh, khi anh trở về."
"Thưa Đề đốc, tôi sung sướng được Đề đốc giao phó nhiệm vụ. Được chỉ huy chiếc Shigure trong chuyến đi đơn độc này, đó là một vinh dự to lớn đối với hạm trưởng Yamagami và tôi."
Gương mặt của Ijuin trở nên tươi tắn hẳn ra, ông tiếp, bằng một giọng đầy khôi hài: "Hara, anh đã tạo ra nhiều kinh ngạc với chiếc Shigure. Nó đáng mang danh hiệu "Khu trục hạm kiên cố" trong hàng ngũ hạm đội Nhật Bản. Chiếc tàu này lại nằm trong phân đội của tôi, đó là một điều đáng cho tôi hãnh diện. Tôi hy vọng chúng ta sẽ cùng đi chung với nhau trong một chuyến công tác khác."
Trên đảo Tuluvu, nằm ở cực bắc mũi Gloucester thuộc đảo New Britain, Nhật Bản có thiết lập một căn cứ không quân nhỏ. Mặc dầu địch quân đã nắm ưu thế trên không trong các vùng phụ cận, Tuluvu vẫn được xem là cứ điểm quan trọng, một tiền đồn quan sát của Rabaul. Không có một con đường nào nối liền Rabaul và Tuluvu ngoài đường biển. Do đó, tất cả đồ tiếp tế cho đảo này đều được vận chuyển bằng tàu thủy. Trong khoảng thời gian ngắn vừa qua, căn cứ nhỏ bé này thiếu thốn thực phẩm và đạn dược, những lời yêu cầu tiếp tế lập đi lập lại vẫn không được đáp ứng, vì lúc ấy gặp phải áp lực nặng nề của địch quân tại quần đảo Solomon. Bây giờ đã đến lúc Tuluvu không thể bị quên lãng được nữa, nếu Nhật Bản muốn giữ quyền kiểm soát hòn đảo này.
Tuluvu, cái tên âm vang như một lời đe dọa đối với tôi. Nó nằm tại cửa khẩu phía Tây vùng biển Bismarck, nơi mà đầu tháng ba vừa qua địch quân đã phóng ra những cuộc "oanh tạc nhảy", nhận chìm bốn trong số tám khu trục hạm và toàn thể tám chiếc chuyển vận hạm, thuộc đoàn convoy 16 chiếc của chúng tôi. Cũng chính cạnh bờ biển Tuluvu, chiếc Ariake thuộc hải đội của tôi cũng bị đánh chìm bằng phương pháp oanh tạc nhảy, cùng với chiếc Mikazuki, vào ngày 28 tháng 7. hai chiếc khu trục hạm này đã chạy rướn lên đá ngầm trong lúc cố né tránh cuộc oanh kích của phi cơ địch và sau đó bị triệt hạ luôn.
Tuluvu là một căn cứ nằm trong các cuộc tuần thám hàng ngày của phi cơ Đồng Minh. Bất cứ chiếc tàu nào của Nhật Bản bén mảng đến đây đều có thể hy vọng được oanh tạc cơ Đồng Minh tiếp đón nồng hậu, có khi bằng những trận oang tạc nhảy. Tôi phải cố gắng bằng mọi cách tìm cho ra một giải pháp chống lại hình thức tấn công này, mà chắc chắn chúng tôi phải đối diện. Nhưng, cho đến hiện tại, đầu óc tôi vẫn mù mịt, nếu không nói là bó tay.
Những người sống sót trong trận đánh ở biển Bismarck đẽ kể lại chiến thuật tránh né theo lối xưa cũ của các chiến hạm Nhật đã thất bại như thế nào. Tôi nghĩ có lẽ lúc bị oanh tạc nên quay mũi hướng thẳng về chiếc phi cơ địch, như vậy mức độ chính xác về thời gian được tính toán để thả bom sẽ bị sai lạc hẳn. Nhưng không có cách gì để kiểm chứng xem ý niệm này có đúng không, ngoài cách thử thách ngay trong trận đánh. Nhưng thử thách như vậy có khác nào đùa giỡn trên mạng sống của chiếc tàu và hơn 200 thủy thủ đoàn của chúng tôi. Vào trưa ngày một tháng 9, khu trục hạm Shigure rời căn cứ Rabaul trực chỉ Tuluvu. Chúng tôi cho tàu chạy dọc theo bờ biển phía Bắc đảo New Britain với tốc độ 18 hải lý. Hải vực tại đây cũng nguy hiểm không thua gì tại quần đảo Solomon, đầy dẫy đá ngầm, và nhiều nơi đáy biển rất nông không được ghi chú trên bản đồ.
Đêm xuống khi chúng tôi tiến vào Vịnh Hollmann..... Bo sung
Đêm xuống khi chúng tôi tiến vào Vịnh Hollmann, nằm ở cực Bắc của bán đảo Willaumez, khoảng nửa đường giữa Rabaul và Tuluvu. Khu trục hạm Shigure đang tiến vào vùng nguy hiểm.
Phòng truyền tin cho biết đã bắt được làn sóng vô tuyến của một phi cơ địch lảng vảng đâu đây. Tin tức này đã đến sớm hơn sự dự đoán của chúng tôi. Tôi ra lệnh cho các quan sát viên trông chừng phi cơ địch, cho dù mây mù và trời tối đen, khiến thị độ quan sát rất yếu kém.
Một giờ sau, nhân viên truyền tin báo cáo: "Một phi cơ địch lại gửi công điện. Ngay trên đầu. Chúng tôi không thể giải đoán công điện mã hóa này, nhưng hình như phi cơ địch báo cáo vị trí, hướng đi và tốc độ của chúng ta." Chúng tôi tiếp tục chạy về hướng Tây. Thời tiết đột nhiên xấu hơn không thể nào nhìn thấy vật gì trước mặt được nữa. Không khí trở nên oi bức. Mồ hôi rịn đọng trên mặt tôi. Vài phút trôi qua, phòng truyền tin lại gọi: "Một phi cơ địch tiếp tục theo dõi hướng tiến của chúng ta."
Lặng yên và căng thẳng gia tăng trên đài chỉ huy. Tôi lấy khăn tay ra lau mặt. Chưa lần nào không khí lại ngưng đọng như thế này. Đại úy Tsukihara, sĩ quan hoa tiêu cho biết sắp có một trận mưa. Anh ta đã tiên đoán đúng. Lúc 20h, cơn mưa trút xuống, ngăn hẳn tầm nhìn trong vòng một hai mét. Chúng tôi cho tàu giảm tốc độ, quay mũi về hướng Tây Nam và tiến vào bờ biển đầy đá tảng.
Phòng truyền tin báo cáo không còn bóng dáng một phi cơ nào của đối phương được ghi nhận. Đại úy Tsukihara nói: "Tốt, thời tiết quỷ quái này đã làm cho địch quân nản chí."
Bầu không khí căng thẳng trên đài chỉ huy đã được giải tỏa. Sĩ quan và thủy thủ bắt đầu nói chuyện lao xao. Họ ngáp dài và duỗi tay chân, sau khi mươi phút trôi qua mà không có liên lạc vô tuyến nào của địch quân được ghi nhận trong vùng lân cận.
Tuy nhiên, những cánh tay bỗng hóa tê cứng trong không khí, những cái miệng chợt há hốc sững sờ trước tiếng động đinh tai nhức óc của các oanh tạc cơ chúi xuống trút bom. Mọi người đều bò càng. Với một tiếng rít lạnh xương sống, một chiếc phi cơ chúi mũi thẳng xuống đài chỉ huy và tiếp theo đó là tiếng nổ đồng loạt của nhiều quả bom. Một phi cơ khác đang gầm thét trên cột buồm.
Tôi lảo đảo đứng dậy, tự hỏi phi cơ địch ở hướng nào? Tôi nhìn thấy Yamagami đang sờ soạng tìm nút báo động và ấn mạnh. Tiếng còi báo động vang lên một cách muộn màng. Chiếc Shigure xoay hẳn về phía tả. Một cột nước mọc lên ngay trong nửa vòng tròn của chiếc tàu vừa xoay, cách không đầy 10m. Cột nước chụp lên tháp canh và đổ ập xuống đài chỉ huy. Tôi vừa giũ nước vừa hét: "Cố bẻ lái qua bên phải! Tốc độ tối đa! Gia tăng tức khắc!"
Trung úy Tsukihara nhìn tôi một cách sửng sốt, và hỏi lại: "Gia tăng tốc độ tối đa tức khắc?"
"Tức khắc!" Tôi gào lên. Tsukihara, mặt tái xanh và tay run lẩy bẩy, ấn mạnh nút liên lạc phòng máy, và nhắm nghiền mắt lại. Cùng lúc, Yamagami gọi phòng máy ra lệnh gia tăng tốc độ tối đa tức khắc, và kêu lên nho nhỏ: "Trời ơi!"
Phản ứng của họ hoàn toàn tự nhiên. Trước đây, tôi chưa bao giờ ra một mệnh lệnh như vậy, và cũng có thể nói hầu hết sĩ quan Hải quân trong suốt cuộc đời binh nghiệp của họ cũng chưa ai từng ra mệnh lệnh này. Dưới các điều kiện thông thường, một chiếc tàu muốn gia tăng vận tốc từ 12 hải lý lên vận tốc tối đa 30 hải lý phải mất nửa giờ. Dưới các điều kiện chiến đấu, việc gia tăng vận tốc như vậy cũng mất ít nhất 16 phút.
Lệnh gia tăng vận tốc "tức khắc" của tôi đã vượt qua tất cả các phương thức thông thường, và có thể làm nổ turbin cùng guồng máy chiếc Shigure thân yêu của chúng tôi. Lệnh này đã gây ra sự náo động không thể tưởng tượng được dưới hầm tàu. Mối lo âu lớn của toán phòng máy là làm sao thi hành được mệnh lệnh này mà tránh cho các sợi dây của turbin khỏi bị đứt tung khi những cái van trong máy nở ra. Tất cả mọi người đều thi hành mệnh lệnh một cách khẩn cấp nhưng trong thâm tâm đều nghĩ tai họa chắc chắn sẽ xảy ra.
Những người đứng trên đài chỉ huy chờ đợi phi cơ địch tái xuất hiện không biết phút giây nào. Yamagami, đang hướng mặt về phía sau lái bỗng la to và đưa tay chỉ ống khói tàu. Từ miệng ống khói đang tuôn ra những dòng lửa có ngọn kéo dài theo chiều gió. Nhiên liệu dư quá nhiều, máy đốt không kịp nên tuôn ra ống khói và bốc cháy. Ngọn lửa sáng rực cả phần sau chiếc tàu.
Các oanh tạc cơ địch không bao giờ bỏ bom trật một mục tiêu như thế này. Sự lo âu chỉ kéo dài trong vài phút, nhưng đối với mọi người như kéo dài hàng nhiều giờ, và ngay lúc đó, phòng truyền tin báo cáo: "Sử dụng ngôn ngữ thông thường, phi cơ địch báo cáo đã oanh tạc vào ngay giữa một khu trục hạm. Chiếc tàu bốc cháy và đang chìm."
Tôi sợ tai mình nghe lầm, tôi yêu cầu đọc lại công điện một lần nữa. Khi nghe xong công điện đáng kinh ngạc này, Yamagami và Tsukihara reo lên vui mừng.
Không khí háo hức bị phá tan, một tiếng nói từ phòng máy vọng lên, hỏi xem có cần phải tiếp tục thi hành lệnh gia tăng tốc độ cấp tốc nữa không? Tôi sung sướng trả lời rằng lệnh này không còn cần thiết nữa, và bây giờ có thể giảm tốc độ xuống 12 hải lý trở lại. Ngọn lửa ở miệng ống khói tàu hạ xuống mau chóng, và chúng tôi tiếp tục di chuyển trong bóng đêm một cách bình yên.
Không còn chiếc phi cơ nào theo đuổi chúng tôi nữa. Đối phương xem ra đã xóa tên chiếc Shigure trên biển cả. Đoạn hải trình còn lại của chúng tôi thông suốt và thoải mái sau những phút giây dựng tóc gáy. Chúng tôi đổ hàng tiếp tế xuống Tuluvu và quay ra khơi trong không khí vui mừng náo nức của binh sĩ đồn trú trên đảo.
Một lần nữa, chúng tôi trở về căn cứ Rabaul bình an. Ngày hôm sau, tôi trình diện Đề đốc Ijuin. Ông cũng trở về bình an và thành công trong chuyến đi Retaka của ông.
Lúc tôi kể chuyện với ông về những việc đã xảy ra, ông cười muốn đứt hơi, và nói: "Xem ra bây giờ chúng tôi có thể gọi anh là Đại tá Hara Huyền diệu. Hara, ngoài anh, không ai có thể nghĩ ra chiến thuật kỳ dị và thành công đến như vậy trong giờ phút nguy nan đó."
Tôi sung sướng trước lời khen tặng của ông. Tôi nói: "Chiến tranh dường như có liên quan đến thế giới huyền nhiệm. May mắn cũng là một phần lớn trong sự huyền nhiệm này. Tôi nghĩ rằng sử dụng cùng mưu mẹo đó sẽ khó thành công trong kỳ khác."
Ngay sau khi Đề đốc Ijuin đọc bản phúc trình của tôi về chuyến đi Tuluvu, ông ra lệnh xem xét lại chiếc Shigure. Là một chuyên viên hoa tiêu, ông lo ngại những hậu quả gây ra từ việc gia tăng tốc độ cấp tốc mà chiếc tàu phải chịu đựng.
Sau khi đã chạy thử và xem xét cẩn thận, các kỹ sư bảo trì đã đệ lên Ijuin một báo cáo hoàn toàn đúng với điều lo ngại của ông. Theo đó, chiếc Shigure không còn đủ khả năng để dự trận được nữa. Bản báo cáo ghi nhận rằng chiếc Shigure bỏ qua kỳ hạn tu bổ quá lâu, máy móc đã đến mức tồi tệ, bánh lái và tay lái sai lệch. Thân tàu đóng đầy vỏ sò hến, và các cơ quan cần phải có sự chính xác khác đều không thể sửa chữa hoặc điều chỉnh được. Bản báo cáo kết luận: "Xin cho phép sửa chữa tạm thời tại Rabaul để khu trục hạm Shigure có thể di chuyển sớm chừng nào hay chừng ấy đến Sasebo để hoàn tất công việc tu bổ.
Khi một phó bản của báo cáo được gửi đến chiếc Shigure, mọi người đã chuyền tay nhau để xem. Phản ứng của thủy thủ đoàn mỗi người một khác, nhưng đều giống nhau trên căn bản: Không người nào muốn trở về Nhật. Sau khi tham dự nhiều trận đánh mà không một ai thương vong, tinh thần của thủy thủ đoàn Shigure lên cao tột đỉnh. Tất cả đều la lên giận dữ khi đọc qua bản báo cáo. Họ reo hò phản đối, hết lời thóa mạ và có người còn vung tay đe dọa "mấy tên thợ máy to đầu" ám chỉ mấy viên kỹ sư. Tất nhiên, Đề đốc Ijuin chấp thuận khuyến cáo của các viên kỹ sư.
Khi những chuyên viên sửa chữa lên tàu, thái độ của thủy thủ đoàn thay đổi mau chóng. Họ tỏ ra thân thiện và vui vẻ, vui lòng hợp tác với các chuyên viên trên mọi phương diện. Đại úy Hiroshi Kayanuma, cơ khí trưởng của Shigure, còn tỏ ra một cách thân thiện đặc biệt hơn. Với bộ râu dài, Kanayuma giống như một người tiền sử, nhưng trái lại anh ta là một người khôn khéo và thông minh, và cũng là một tay uống rượu cừ khôi nhất trên tàu. Kanayuma bắt bồ ngay với mấy viên cai trông coi toán sửa chữa, lôi họ đi nhậu nhẹt mỗi ngày, cố gắng tán tỉnh để họ xúc tiến công việc sửa chữa nhanh chóng. Anh ta nói với họ: "Rabaul đang thiếu tàu chiến. Ngay cái chậu cũ kỹ xộc xệch này xem ra còn xài được hơn mấy cái chậu mới, chỉ biết đưa lưng ra đỡ đạn. Chúng tôi muốn chiến đấu. Xin giúp chúng tôi cơ hội nhận chìm tàu địch càng sớm càng tốt."
Thái độ đó cũng là thái độ chung của thủy thủ đoàn Shigure. Chỉ trong vòng 6 tháng qua mà họ đã thay đổi biết bao! Hiện thời họ đã khiến cho tôi kiêu hãnh. Với tinh thần cao như vậy, tôi biết nếu tham dự bất kỳ trận đánh nào họ cũng đều có thể gặt hái thành công dễ dàng.
Công việc sửa chữa mất nhiều ngày giờ hơn dự tính của chúng tôi. Vì có thêm nhiều chỗ hư hỏng cần phải sửa chữa thật cẩn thận.
Trong tuần lễ đầu tiên ăn không ngồi rồi tôi ngã bệnh. Suốt tháng 8 đầy sôi động, tôi không bao giờ được nghỉ ngơi lâu dài sau các trận đánh dữ dội. Qua các trận đánh kéo dài nhiều giờ này, cộng thêm nhiều đêm không chợp mắt, khiến bao nhiêu sức lực của tôi đều tiêu tán. Trong giai đoạn nghỉ ngơi như thế này tôi lại uống quá nhiều rượu. Vào cuối tháng 8, tôi đã tiêu thụ cả thùng sake mỗi đêm trước khi ngủ. Sau một tuần nhàn rỗi và quen thói quen nhậu nhẹt, tôi sợ mình trở thành một con sâu rượu nên cố gắng giảm xuống. Nhưng sức khỏe tôi giảm sút khủng khiếp, không đủ trầm trọng để tôi nằm liệt giường, nhưng nó đủ sức gây cho tôi tính khí thất thường và hay tức bực.
Tôi ngẫm nghĩ về tình thế của cuộc chiến. Tại sao Nhật Bản không chịu thương lượng hòa bình trước khi việc này quá trễ tràng? Tôi không thể nào ngủ yên giấc. Mỗi khi tôi chợp mắt, những cơn ác mộng ùa đến và tôi bừng dậy, mồ hôi lạnh toát đầy thân.
Nghĩ lại, tôi nhớ ơn Đề đốc Ijuin. Ông biết tôi cần phải nghỉ ngơi, nên ông đã dành cho tôi thời gian này. Nhiệm vụ chỉ huy một chiếc tàu trong thời chiến là một nhiệm vụ đầy mệt mỏi, đó là không nói giữa lúc tôi còn khỏe mạnh, tuổi mới trên 40. Chỉ cần tưởng tượng tôi cũng thấy các vị sĩ quan cao cấp hơn đã gặp phải biết bao khó khăn. Các sử gia, những người thường hay chỉ trích những sĩ quan chỉ huy, phải nhìn một cách thích đáng những căng thẳng và những trách nhiệm nặng nề của một vị chỉ huy chiến đấu.
Thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi làm cho tôi hồi sinh. Hai tuần lễ này đã khôi phục đầy đủ năng lực tiêu tán của tôi. Vào giữa tháng 9, khi công việc sửa chữa chiếc tàu của chúng tôi xong xuôi, tôi mạnh hẳn về cả thể xác lẫn tinh thần.
Trong khi đó, tình thế cuộc chiến về phía Nhật Bản trở nên tồi tệ. Do đó, Bộ Tư Lệnh Tối Cao quyết định một cuộc hành quân triệt thoái khác. Lực lượng Nhật ở Kolombangara được di tản.
Tôi hoạt động trở lại đúng thời gian có cuộc hành quân chuyển vận Buka. Hòn đảo thuộc quần đảo Solomon này nằm gần Rabaul nhất. Đề đốc Ijuin cho rằng cuộc hành quân dễ dàng này sẽ lấy lại phong độ cho tôi.
Cuộc di tản ở khu vực Kolombangara bắt đầu vào ngày 21 tháng 9. tất cả binh sĩ Nhật trấn đóng trên hai đảo Arundel và Gizo, ở mạn phía Nam và Đông Nam của Kolomban gara, được rút hết cùng ngày. Vào ngày 27, cuộc hành quân chuyển vận Buka hoàn tất, tôi gia nhập vào cuộc di tản gần 10.000 binh sĩ trú phòng ngay trên đảo chính là Kolombangara. Cuộc di tản này thành công hoàn toàn vào đầu tháng 10, chỉ có 66 binh sĩ thương vong.
Chương trình triệt thoái kế tiếp là Vella Lavella. Từ đây giống như từ các địa điểm di chuyển khác, binh sĩ được rút đi đều mang hết về Bougainville. Ijuin được lệnh điều khiển cuộc di tản 600 binh sĩ ở đảo Horaniu, thuộc Vella Lavella.
Để thực hiện cuộc hành quân triệt thoái này, Ijuin đã vạch một kế hoạch công phu, đòi hỏi 3 nhóm hộ tống gồm 9 khu trục hạm...
Chương trình triệt thoái kế tiếp là Vella Lavella. Từ đây giống như từ các địa điểm di chuyển khác, binh sĩ được rút đi đều mang hết về Bougainville. Ijuin được lệnh điều khiển cuộc di tản 600 binh sĩ ở đảo Horaniu, thuộc Vella Lavella.
Để thực hiện cuộc hành quân triệt thoái này, Ijuin đã vạch một kế hoạch công phu, đòi hỏi 3 nhóm hộ tống gồm 9 khu trục hạm. Nếu so sánh với tổng số 25 khu trục hạm được sử dụng trong cuộc di tản 10.000 binh sĩ ở Kolombangara, cuộc di tản nhỏ bé này đã quy tụ một lực lượng hộ tống vượt mức. Ijuin giải thích rằng mặc dù các cuộc hành quân ở Kolombangara không gặp phải sự ngăn trở nào đáng kể, nhưng với các cuộc hành quân sau này, địch quân đã hiểu chiến lược của chúng tôi, nên phải chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với sự ngăn cản mạnh mẽ hơn.
Sự buồn cười có lẽ là đặc tính nổi bật nhất của cuộc hành quân quá tỉ mỉ này, bởi sự thật, 600 binh sĩ ở Horaniu không được di tản đâu xa hơn là Buin, nằm ở phía Nam Bougainville, nghĩa là cách xa địa điểm di tản không quá 50 dặm. Hơn nữa, và là một sự mỉa mai, 400 trong số 600 binh sĩ được di tản lại do chính Ijuin hộ tống đổ bộ lên Horaniu một tháng trước đó.
Trận đánh khu trục hạm xảy ra vào hai ngày 6 và 7 tháng 10 là một trong những trận đánh hỗn loạn nhất của cuộc chiến Thái Bình Dương. Ngay khởi đầu, cuộc xung đột được điều động bởi những người khư khư ôm lấy ảo tưởng và những sai lầm, nhưng có một vài điểm khá chính xác: Người Mỹ đã đánh giá đúng sức mạnh của Nhật ở Horaniu, và họ biết Nhật sắp đưa ra một nỗ lực để triệt thoái lực lượng bị cô lập trên hòn đảo này. Người Mỹ cũng biết rằng sau một năm của cuộc chiến tiêu hao, sức mạnh trên mặt biển của Nhật đã sút giảm nghiêm trọng, nhưng họ không bao giờ tưởng tượng Hải quân Nhật đã tung đến 9 khu trục hạm, 4 tàu săn ngầm và 20 chuyển vận hạm vào một cuộc hành quân nhỏ bé như vậy.
Đề đốc Ijuin đã đảm trách quá nhiều nhiệm vụ trong những tháng vừa qua, vì vậy ông đã mỏi mệt. Trong khi sức khỏe của tôi có dịp phục hồi, tinh thần và thể xác căng thẳng của ông qua các cuộc chiến đấu liên miên không có một dịp nào khác để nghỉ ngơi. Vấn đề này là một yếu tố quan trọng trong cuộc đụng độ sắp xảy ra.
Lực lượng đảm trách cuộc di tản ở Vella Lavella Đề đốc Ijuin, xuất phát từ Rabaul vào sáng sớm ngày 6 tháng 10, tổ chức như sau:
I. Nhóm khu trục hạm hộ tống, Đề đốc Ijuin tổng chỉ huy, chia thành 2 nhóm nhỏ:
Nhóm A: Khu trục hạm Akigumo, Isosake, Kazegumo, Yugumo do Đại tá Miyazaki chỉ huy.
Nhóm B: Khu trục hạm Shigure, Samidare do Đại tá Hara chỉ huy.
II. Nhóm khu trục hạm chuyển vận do Đại tá Kunizo Kanaoka chỉ huy bao gồm 3 khu trục hạm Fumizuki, Matsukaze và Yunagi.
III. Nhóm tàu chống ngầm và chuyển vận hạm do Đại tá Shigoroku Nakayama chỉ huy bao gồm 4 tàu chống ngầm và 20 chuyển vận hạm.
Tất cả đều dưới quyền tổng chỉ huy của Ijuin, soái hạm của ông là chiếc Akigumo, kế đó là Đại tá Miyazaki đầy đủ kinh nghiệm với chiếc Isokaze của ông, và thành phần còn lại tiếp theo sau. Chọn chiếc Akigumo làm soái hạm, có lẽ Ijuin không muốn Miyazaki mó tay vào các quyết định mặt trận quan trọng của ông. Trên chiếc Akigumo, với vị hạm trưởng và các sĩ quan ít kinh nghiệm. Ijuin sẽ mạnh miệng hơn khi tạo ra các quyết định riêng của ông.
Trái hẳn ý kiến của một số người Mỹ từng tham dự vào trận đánh sắp xảy ra - họ cho rằng Ijuin không muốn chạm trán với họ. Sự thật, Ijuin mong muốn và rất sẵn sàng để đánh. Số lượng chiến hạm mà ông mang theo đã chứng tỏ điều này. Từng là một chuyên viên hoa tiêu, ông tránh dàn binh theo đội hình phức tạp, và sự thành công của đội hình từng gây bối rối cho đối phương trong cùng một khu vực bảy tuần lễ trước đây vẫn còn trong ký ức ông. Hiện tại ông lại mệt mỏi, ý niệm điều quân mới mẻ không thể hy vọng sẽ có nơi ông.
Bốn chiến hạm thuộc nhóm đầu tiên của ông đều có khả năng đạt được tốc độ đến 35 hải lý. Do đó, trong một phiên họp chiến thuật, Ijuin có nói với chúng tôi rằng ông sẽ điều quân để nhử địch vào vị trí chọn lựa, nơi đây hai khu trục hạm của tôi có thể đưa ra một cú đấm gây sửng sốt cho địch quân, để nhờ vậy, nhóm khu trục hạm thứ ba của chúng tôi có thể tiến đến đoàn tàu chuyển vận suôn sẻ. Chín khu trục hạm của chúng tôi cũng triển khai thành nhiều nhóm riêng rẽ để địch quân không thể đoán nổi sức mạnh thật sự của chúng tôi. Quả thật, địch quân đã khinh thường lực lượng của chúng tôi, nhưng họ lại không đánh theo sự sắp xếp của Ijuin.
Ngày đó trời đầy mây và mưa sa từng chặp. Lướt vào những cơn mưa, chúng tôi tìm thấy chốn ẩn thân tuyệt hảo. Khi chạy men theo bờ biển phía Đông Bougainville vào buổi trưa hôm đó, truyền tin của chúng tôi chặn bắt được một công điện viết bằng những con số của địch quân. Công điện này do trinh sát cơ hoặc một số quan sát viên bí mật được địch quân cài trong rừng rậm Bougainville gửi đi. Chúng tôi không có cách nào để biết có phải công điện này đã báo cáo đầy đủ hay chỉ từng nhóm tàu chiến riêng rẽ của chúng tôi. Nên biết, hiện tại các chiến hạm của chúng tôi chia ra làm 3 nhóm chạy riêng rẽ và cách xa nhiều dặm. Nhưng dù thế nào, công điện này cũng chứng tỏ sự hiện diện của chúng tôi đã bị địch quân sớm phát hiện.
Sau khi bắt được công điện, khoảng cách giữa các khu trục hạm của chúng tôi được nới rộng thêm từ 1000m, nhằm chuẩn bị đón nhận một cuộc tấn công của phi cơ địch.
Khoảng 15h, đúng ngay lúc chúng tôi đang chống trả với một cơn mưa ào ạt, nhiều phi cơ địch từ hướng Choiseul bay đến. Cơn mưa bão đã bảo vệ chúng tôi hữu hiệu. Bầu trời thẩm tối trong nửa giờ, phi cơ địch không biết chúng tôi ở đâu mà mò, nên đành bỏ cuộc săn đuổi.
Lúc mặt trời lặn, chúng tôi nhận được một công điện của Đề đốc Ijuin cho biết nhóm tàu của ông đang tiến thẳng đến Vella, và chỉ thị thành phần còn lại "hãy giảm tốc độ xuống còn 9 hải lý, và chờ ở phía Đông đảo Shortland để gặp đoàn tàu chuyển vận", mà ông hy vọng sẽ đến sớm. Sau khi gửi chỉ thị, nhóm tàu gồm 4 chiếc của Ijuin chạy với tốc độ 26 hải lý, hướng mũi vào eo biển Bougainville. Eo biển này ban ngày di chuyển đã khó khăn, trong đêm tối còn khó khăn hơn nữa, nhưng các chiến hạm của ông không gặp tai nạn nào. Một hoa tiêu xuất sắc, tiếng tăm của Ijuin không có gì quá đáng.
Hai khu trục hạm của tôi chạy chầm chậm ngang qua eo biển và đã gặp các chuyển vận hạm ở phía Đông Shortland theo như sự sắp xếp. Sau đó, chúng tôi tiếp tục chạy về hướng Đông Nam, với vận tốc nhàn nhã 9 hải lý.
Giữa lúc hầu như đã đặt chân đến Horaniu, Ijuin phát hiện 4 khu trục hạm địch xuyên qua đêm tối. Một cơn bão đến bất thình lình che phủ mọi vật. Lần này cơn mưa nghiêng phần lợi thế về phía địch quân, lúc ấy vẫn chưa phát hiện các khu trục hạm của Ijuin. Mò mẫm trong bóng tối như bưng, và chợt nghĩ đến các khẩu súng có radar hướng dẫn của đối phương, Ijuin đã lưỡng lự. Ngay lúc đó, phòng truyền tin trao ông một công điện: "Một trinh sát cơ Nhật phát hiện 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm địch từ hướng Tây tiến về phía Bắc Vella Lavella."
Ijuin gật mạnh đầu, và bình thản ra lệnh cho nhóm tàu của ông xoay hướng. Báo cáo này hoàn toàn sai lầm, và đã dẫn đến hầu hết những sai lầm tiếp theo khác của Nhật Bản trong trận đánh này. Làm sao báo cáo này được tin tưởng và được phổ biến? Câu hỏi chưa bao giờ có giải đáp dứt khoát. Theo tôi phỏng đoán, viên phi công của trinh sát cơ là một tay mới vào nghề. Hắn ta có thể đã nhìn thấy nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ thấp thoáng qua các cụm mây, hắn ta bay qua vị trí khác và hướng khác, rồi lại quan sát. Cứ như vậy, hắn ta đã nhìn một nhóm tàu địch thành hai hoặc thành ba, và nhắm mắt báo cáo bừa. Đó là một sai lầm nghiêm trọng và tai hại thật sự.
Nếu báo cáo quan sát đầu tiên này chính xác, toàn thể quanh cảnh của trận đánh sẽ khác biệt hẳn. Theo báo cáo, lực lượng đối phương gồm 4 tuần dương hạm. Một tuần dương hạm mang hỏa lực gấp 10 lần một khu trục hạm và loại tàu này còn được trang bị những pháo khẩu điều khiển bằng radar rất hữu hiệu. Mặc dù Ijuin biết trong tình trạng đêm tối và mưa gió radar sẽ hoàn toàn vô dụng, nhưng các chiến hạm của ông không thể nào đương đầu nổi với lực lượng đối phương hùng hậu như vậy. Do đó, ông chỉ còn một cách lựa chọn mà thôi: Xoay hướng.
Khi công điện chuẩn bị đổi hướng đến chiếc Shigure, tôi đã tỏ ra kinh ngạc về sự xuất hiện quá sớm của địch quân, nhưng tôi không có lý do nào để ngờ vực sự chính xác của báo cáo do trinh sát cơ cung cấp. Tôi chỉ thoáng hình dung vẻ mặt u sầu của Ijuin khi bỏ ngang kế hoạch đã được sắp xếp của ông. Ông đang ở vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Ông sẽ có 2 đường để chọn, đình chỉ hẳn hoặc cố gắng tiếp tục nhiệm vụ được giao phó. Lực lượng hùng hậu hiện thời của ông không tương xứng chút nào với nhiệm vụ di tản nhỏ bé được giao phó. Do đó, bỏ ngang nhiệm vụ, ông sẽ không còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ. Hơn nữa, không có lý lẽ nào để tin tưởng cuộc hành quân di tản này được hoãn lại để thực hiện lần sau sẽ gặp một lực lượng địch quân yếu kém hơn.
Trong khi Ijuin bị dày vò với muôn ngàn ý nghĩ và nhóm tàu của ông tiếp tục chạy về hướng Nam với vận tốc 26 hải lý, Đại tá Walker trên soái hạm Selfridge, dẫn đầu một nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ, đã phát hiện những gì mà ông ta đoán quyết là một đoàn chuyển vận hạm của Nhật Bản. Lúc đó là 23h31 (giờ địa phương). Và trong khi Walker ra lệnh cho các chiến hạm thuộc quyền của ông gia tăng tốc độ lên 23 hải lý để chạy đua với "đoàn chuyển vận hạm" Nhật, ông đã gọi thêm một nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ khác, hiện đậu ở cạnh bờ biển phía Bắc New Gerorgia, cách 20 dặm phía Tây vị trí của ông.
Có thể đêm đẹp trời này là đêm của biến cố, đêm của đổi thay. Thời tiết bỗng trong sáng đến nỗi có thể nhìn thấy các mục tiêu cách xa trên 15.000m, Nhưng thỉnh thoảng các đám sương mờ và hơi nước bốc lên che khuất hẳn tầm nhìn. Đại tá Walker, qua radar, đã nhìn thấy các chiến hạm Nhật, trong khi Ijuin không hay biết gì đến sự có mặt của các khu trục hạm Hoa Kỳ.
Lực lượng của Walker nhanh chóng tiến sát đến các khu trục hạm Nhật trong khi Ijuin đánh đi công điện kế tiếp của ông, ra lệnh cho "hai chiếc tàu của tôi kết hợp với ông càng nhanh càng tốt." Tôi nhận công điện này vào lúc 20h10 và cấp tốc đáp ứng lệnh đưa ra bằng cách xả hết tốc lực 30 hải lý, trực chỉ về hướng nhóm tàu của Ijuin.
Ijuin vẫn chưa biết gì về vị trí và động tĩnh của đối phương. Mối đe dọa này đã bị sương mù của đêm che khuất. Nhưng, trong cố gắng nhằm để các khu trục hạm của tôi gặp ông dễ dàng, Ijuin đã xoay hướng nhóm tàu của ông về phía tây vào lúc 20h29. Sáu phút sau, tôi đánh đi một công điện kêu cứu: "Không thể nào tìm thấy anh, bởi lẽ sương mù quá dày đặc. Yêu cầu khu trục hạm Yugumo bật đèn lái màu xanh." Ngay lúc đó, 20h35, Ijuin lại xoay hẳn hướng các chiến hạm của ông sang trái trong khi chiếc Yugumo cho biết đã bật đèn lái theo lời yêu cầu của tôi.
Nhóm tàu của Ijuin lại nhanh chóng xoay trái hai lần nữa, lần xoay sau cùng thực hiện vào lúc 20h38, khi tôi đã nhìn thấy đèn hiệu màu xanh của chiếc Yugumo. Một phút sau đó, Ijuin phát hiện lực lượng địch đang tiến đến từ hướng Đông. Cấp tốc 4 khu trục hạm Nhật gia tăng tốc độ lên 35 hải lý chạy về hướng Nam. Hơi nước lúc ấy bốc lên mù mịt, che khuất hẳn tầm nhìn. Ijuin đăm đăm nhìn về phía địch quân, nhưng ông vẫn chỉ thấy lờ mờ và vẫn tin rằng lực lượng địch bao gồm 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm theo như báo cáo của phi cơ. Xuyên qua màn hơi nước, ông ước lượng khoảng cách của các chiến hạm ẩn hiện như bóng ma của địch quân độ chừng 10.000m, và ông quyết định lặp lại chiến thuật mà ông đã từng sử dụng vào ngày 17 tháng 8.
Theo đó, Ijuin dự định quay về hướng Tây Tây Nam với tốc độ cao để vừa chạy vừa phóng ngư lôi. Nhưng, một việc thường thấy ở biển, mục tiêu xuất hiện thường thấy gần hơn là khoảng cách thực sự của nó. Vì vậy, Ijuin đã sai lầm khi ước lượng khoảng cách giữa ông và địch quân.
Ông cho tàu vung nhẹ sang hướng Nam Đông Nam, tức hướng 235 độ, và vào lúc 20h40 ông xoay về hướng tây tây Nam. Chỉ huy trưởng 4 chiếc tàu săn ngầm, Đại tá Nakayama gửi công điện báo cáo đoàn chuyển vận hạm đã hướng thẳng đến Horaniu. Tin này khiến Ijuin vui mừng, vì như vậy là đoàn tàu sẽ di chuyển an toàn ngang qua phía sau lực lượng đối phương.
Vào lúc 20h45, Đề đốc Ijuin khám phá ra sự sai lầm của ông. Lực lượng địch vẫn duy trì hướng tiến cũ, nhưng khoảng cách giữa ông và họ xa hơn ông tưởng. Ông lập tức xoay về hướng Nam Đông Nam trở lại và, sau đó, khi đã điều chỉnh lại sự ước lượng khoảng cách sai lầm và sắp xếp một kế hoạch tấn công bằng ngư lôi, vào lúc 20h48, ông ra lệnh cho các tất cả các chiến hạm của ông đồng loạt xoay về bên phải 45 độ.
Tới đây, Ijuin lại tạo ra một lỗi lầm khác. Đồng loạt xoay hướng là một hành động vô cùng khó khăn. Việc này đòi hỏi sự chính xác của thời gian, đó là không nói đến sự rắc rối khi thi hành, bởi lý do các khu trục hạm đang chạy trong một đội hình hàng dọc khít khao. Muốn thi hành sự xoay hướng này, điều kiện tuyệt đối là soái hạm phải biết đầy đủ tình trạng và vị trí chính xác của từng chiếc tàu một trong đội hình. Nhưng ở hiện tại, các đường liên lạc vô tuyến của soái hạm chỉ liên lạc được với 3 khu trục hạm, còn liên lạc với chiếc Shigure của tôi, bị cắt đứt hoàn toàn.
Sau sự sai lầm ước lượng khoảng cách của địch quân, tiến đến sự sai lầm trong lệnh xoay hướng đồng loạt, Ijuin cho nhóm chiến hạm của ông kết hợp thành đội hình hàng dọc tạm thời tiến về hướng Nam. Nhìn qua tình hình này, Ihuin có vẻ lo ngại, vì ông hiểu rằng các chiến hạm của ông hiện thời đã trở thành mục tiêu lộ liễu cho địch quân. Ông nhớ lại hình ảnh xoay hướng về bên phải khéo léo và thần tốc của 4 khu trục hạm Hoa Kỳ trong trận đánh ngày 17 tháng 8 trước đây. Nếu lúc này địch quân cũng làm như vậy, lực lượng của ông sẽ lãnh một cú đấm tàn khốc, để rồi tiếp sau đó, chiến hạm địch sẽ đổ xô về phía Nam và dọn sạch đoàn tàu chuyển vận. Ám ảnh mạnh mẽ bởi mối đe dọa này, cộng thêm với thể xác mệt mỏi vì chiến trận, và cái thói quen không chịu lưu ý hoặc nghe theo khuyến cáo của các thuộc cấp đầy kinh nghiệm, Đề đốc Ijuin đã tạo nên một sai lầm thứ ba, một sai lầm vĩ đại nhất trong cuộc đời ông. Ông ra lệnh cho tất cả chiến hạm của ông đồng loạt xoay hướng một lần nữa, lần này xoay về bên trái. Bây giờ các chiến hạm Nhật nằm trong đội hình hàng ngang so le, từ phía Nam tiến về phía Đông, và như vậy càng khiến cho lực lượng của Ijuin trở thành mục tiêu dễ nuốt đối với địch quân hơn.
Ijuin không bao giờ đưa ra bất kỳ lý lẽ nào khác để bào chữa cho hành động này ngoài việc thừa nhận lỗi lầm của ông. Nhưng theo tôi tin tưởng, sở dĩ ông đưa ra hành động này là cố ý nhử địch quân bỏ hướng tiến về phía Nam của họ, nhằm để cứu đoàn chuyển vận hạm thoát khỏi một cuộc tấn công.
Lúc 20h56 nhóm tàu 4 chiếc của Ijuin lại đồng loạt xoay hướng qua phải, để chạy về phía Nam, với đội hình hàng dọc như cũ, nghĩa là quay lái vào mạn tàu địch quân. Do đó, chiếc Yugumo, chạy cuối cùng, chỉ cách các họng súng điều khiển bằng radar của địch quân có 3.000m.
Ngay khi 4 khu trục hạm vừa xoay hướng xong, các chiến hạm địch lập tức khai hỏa và phóng ngư lôi. Trúng một loạt 5 quả đại pháo, chiếc Yugumo liền lách qua trái để tách rời khỏi đội hình, các pháo khẩu bắn trả địch quân và đồng thời bắn 8 quả ngư lôi. Chiếc Kazegumo, chạy kế phía trước, cũng khai hỏa nhưng không dám phóng ngư lôi vì sợ trúng đồng đội đã bị hư hại của mình. Xạ trường bị hai khu trục hạm đang lâm chiến án mất, hai chiếc Isokaze và Akigumo không bắn được phát nào. Khu trục hạm Yugumo lĩnh thêm nhiều quả đạn nữa, tay lái hoàn toàn tê liệt, trôi dạt dần về hướng Đông Nam. Lúc 21h03, mạn trái của chiếc tàu này hứng trọn một quả ngư lôi địch, lảo đảo nhiều phút rồi sau đó biến mất trên đại dương. Toàn thể thủy thủ đoàn 241 người của Yugumo không còn ai sống sót. Ba chiếc tàu còn lại của Ijuin tháo chạy toán loạn, mất 10 phút sau mới vầy đoàn, và sắp xếp lại đội ngũ di chuyển về hướng Tây.
Ba khu trục hạm Hoa Kỳ, được điều động một cách tài tình, hiện tại có vẻ như đã hả hê với chiến thắng, nên vội bỏ rơi các nạn nhân còn tồn tại. Lúc 20h56, sau khi khai hỏa và phóng ngư lôi đanh chìm chiếc Yugumo, các chiến hạm Hoa Kỳ vung sang bên phải. Nếu các chiến hạm này cứ chạy theo đúng hướng mới này thì niềm vui chiến thắng của chúng sẽ được trọn vẹn. Nhưng sau khi chạy được một phút rưỡi, ba chiến hạm địch phát hiện 2 khu trục hạm khác của Nhật (tức hai chiếc Samidare và Shigure của tôi) chạy ngay phía trước, cách 13.000m. chiến hạm địch vội vã xoay hướng để chạy song song với hai mục tiêu mới này, và chuẩn bị tấn công. Cách điều binh của địch quân như vậy là rất đúng, nhưng khi làm như vậy, địch quân lại không chịu để ý đến cú đấm ngư lôi cuối cùng trước khi dãy chết của chiếc Yugumo. Phấn khởi với dịp may hiếm có, ba chiến hạm Hoa Kỳ đã cấp tốc vung sang phải và tất cả trọng pháo được nâng lên nhắm thẳng vào hai nạn nhân mới mà không hề hay biết các quả ngư lôi Oxygen vô hình vô ảnh của Nhật Bản đang lướt về phía chúng.
Lúc 21h, một trong các quả ngư lôi do chiếc Yugumo phóng đi trúng thẳng vào buồng chứa đạn của khu trục hạm Chevalier của Hoa Kỳ. Chiếc tàu này nổ tung và chìm trước chiếc Yugumo hai phút. Nhiều tin tức loan đi trên báo chí Hoa Kỳ nói rằng chiếc Chevalier bị trúng ngư lôi trong lúc đang chuẩn bị "đấu súng" với một số ngư lôi đĩnh Nhật Bản. Các tin tức này hoàn toàn tưởng tượng hoặc có tính cách câu độc giả. Không hề có một chiếc ngư lôi đĩnh nào của Nhật hoạt động trong khu vực này vào thời gian đó.
Vào lúc 21h5, đúng ngay lúc chiếc Yugumo biến mất trên mặt đại dương, lực lượng Hoa Kỳ nhận lĩnh thảm họa thứ hai. Khu trục hạm O'Bannon đụng dữ dội vào chính giữa mạn của chiếc Chevalier đang giãy chết. Sự đụng chạm này có lẽ là do tín hiệu cấp cứu sai lầm của chiếc Chevalier. Cũng có thể giải thích là do màn khói dày đặc giữa hai chiến hạm hoặc sự xoay hướng bất thình lình của chiếc tàu khi bị trúng ngư lôi, nên sự đụng chạm không sao tránh khỏi.
Selfridge, khu trục hạm thứ ba của Hoa Kỳ, chiếc tàu duy nhất còn nguyên vẹn, vẫn tiếp tục thẳng tiến đến hai chiếc chiến hạm Nhật Samidare và Shigure. Tất cả các họng súng trên chiếc tàu này đều rực lửa, nhưng không hiệu quả. Cảnh tượng này xảy ra vào lúc 21h4, và chỉ kéo dài hai phút rưỡi. Chiếc Selfridge nhận lĩnh một quả ngư lôi ngay mũi. Đây là một trong số 16 quả ngư lôi tầm xa do Shigure và Samidare phóng đi.
Đó là tất cả những chi tiết thực sự đã xảy ra cho 4 chiếc tàu của Ijuin trong trận đánh này. Bây giờ tôi xin thuật những chi tiết này dưới mắt nhìn riêng của tôi khi đứng trên đài chỉ huy của chiếc Shigure.
Vào lúc 20h38, ba phút sau khi chiếc Yugumo báo cho biết đã bật đèn tín hiệu theo lời yêu cầu của tôi, tôi nhìn thấy một ánh đèn xanh lờ mờ cách trước mặt khoảng 15.000m nên ra lệnh xả hết tốc lực chạy về đó.
Một khối màu đen bỗng xuất hiện ở mạn trái, giống như một hòn đảo nhỏ. Nhưng trong khu vực này không có đảo gì cả. Trong lúc tôi còn đang tự hỏi khối màu đen đó là cái gì, quan sát viên Yamashita la to: "Nhiều vật không nhận diện được, ở 50 độ mạn trái. Hình như là các tuần dương hạm và khu trục hạm, rõ ràng là của địch quân, đang tiến đến."
Tôi dùng ống nhòm khổng lồ 20 tấc để quan sát. Chúng kia kìa, các chiến hạm, tôi không thể nào đếm được, vì chúng chạy theo đội hình hàng dọc thật thẳng, tiến về phía chúng tôi. Một ánh đèn chớp lên từ phía Samidare vào lúc 20h40, cho biết chiếc tàu này cũng đang theo dõi các mục tiêu: "Chiến hạm địch, ở hướng 115 độ".
Tàu địch tiến sát thật nhanh chóng. Tôi vẫn quan sát qua ống nhòm và tìm cách xem phải phản ứng ra sao. Khoảng cách đôi bên ở hiện tại là 13,000m. Tôi quyết định tốt nhất là nên tấn công bằng ngư lôi tầm xa. Hướng tiến của chúng tôi là Nam Tây Nam, trong lúc hướng tiến của địch quân là Tây Nam, nghĩa là từ hướng Đông tiến đến, bây giờ khoảng cách còn chừng 11.000m. Như vậy, hai bên gần như chạy cùng hướng, chỉ xê xích khoảng 10 độ. Mục tiêu ở một góc độ phóng ngư lôi khó trúng. Do đó, để thích hợp, tôi ra lệnh xoay hướng từ từ về phía trái.
Vào 20h55, khoảng cách của đôi bên chì còn 10.000m và hiện tại chúng tôi đang nằm trong tầm súng điều khiển bằng radar của đối phương. Tôi không thể kéo dài cuộc tìm kiếm ánh đèn màu xanh của chiếc Yugumo lâu hơn nữa. Khi khoảng cách sinh tử thâu ngắn lại còn 9.000m, cho thấy một cách rõ ràng ý định của địch quân là cố đẩy một cái chốt vào giữa 4 chiếc tàu của Ijuin và 2 chiếc tàu của tôi. Lúc 20h56, tôi ra lệnh xoay hướng cấp tốc sang phải. Chiếc Samidare cũng xoay hướng giống như chúng tôi. Sở dĩ tôi phải làm như vậy là nhằm để tránh sự đe dọa của các mũi súng địch, đồng thời cải đổi góc độ phóng ngư lôi khác thích hợp hơn.
Khi Shigure và Samidare đang bận xoay hướng, chúng tôi không nhìn thấy các quả ngư lôi trao đổi giữa chiếc Yugumo và đối phương. Hơn nữa, thời tiết quá xấu, chúng tôi cũng khó có thể quan sát rõ từng chi tiết một của cuộc đụng độ này.
Tôi cảm thấy hai khu trục hạm của tôi bị áp lực nặng nề. Làm sao chúng tôi có thể chống trả nổi lực lượng địch "mạnh mẽ" (mà lúc ấy chúng tôi vẫn tin tưởng bao gồm 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm, theo như dự báo của các trinh sát cơ). Nếu để địch quân nắm phần chủ động họ có thể đập tan chúng tôi. Nhưng làm sao chúng tôi nắm được phần chủ động? Hơi thở tôi dồn dập vì hồi hộp.
Vào lúc 20h58, nhìn thấy tàu địch xoay sang phải, tôi cũng ra lệnh cho chiếc tàu của tôi xoay nhanh sang phải. Các mục tiêu bây giờ ở khoảng cách 8.500m như dự trù của tôi. Lối chạy song song và cùng hướng với đối phương là một trong những công thức nằm trong lý thuyết phóng ngư lôi của tôi. Lối chạy này làm dự tính tung ra một cuộc tấn công bằng ngư lôi của địch trở nên ngỡ ngàng và cho phép tôi chọn lựa thời gian, góc độ để ra tay.
Tôi ra lệnh cho chiếc Samidare bằng đèn hiệu và vô tuyến: "Hãy chuẩn bị các pháo khẩu và ngư lôi nhắm vào mục tiêu ở mạn phải." Trong lúc đó, mạn trái của tàu địch hướng về phía chúng tôi, do đó tất cả súng ống của họ đều chĩa vào chúng tôi. Biết được điều này, tôi ra lệnh xoay phải một lần nữa vào lúc 20h59, để tiến sát vào địch quân càng nhanh càng tốt, nhằm để loại bỏ điểm nhắm và thời gian đã chuẩn bị của họ. Tôi phát khùng khi hạm trưởng của chiếc Samidare đã ngu dại sử dụng vô tuyến hỏi tôi xem có phải lần xoay hướng này chúng tôi sẽ tấn công đối phương hay không? Cố dằn cơn nóng giận xuống, tôi ra lệnh cho truyền tin: "Hãy nói với ông ấy là chúng ta sẽ lại xoay sang trái trước khi khai hỏa vào địch quân."
Tiến sát vào lực lượng Hoa Kỳ khoảng 500m nữa, tôi ra lệnh xoay sang trái và phóng ngư lôi. Lúc ấy là 21h30. Địch quân ở ngay 50 độ và cách 7.000m mạn phải chúng tôi, một góc độ phóng ngư lôi lý tưởng. Từ hai khu trục hạm Nhật, 16 con cá chạy xuyên dưới mặt nước, và các thủy thủ bắt đầu đưa vào ống những con cá khác.
Ngay khi loạt ngư lôi đầu tiên của chúng tôi đang trên đường hướng đến mục tiêu, nhiều cột nước mọc lên cả hai bên tàu của chúng tôi. Đó là loạt đại pháo đầu tiên của địch quân. Những quả đạn bắn dang chân này hiển nhiên là do các pháo khẩu có điều khiển nên trông rất đẹp mắt, nhưng không trúng chiếc tàu nào của chúng tôi. Lối bắn "dang chân" này vẫn tiếp tục trong khi các thủy thủ của chúng tôi nạp các quả ngư lôi khác vào ống phóng một cách vụng về bối rối. Chớ cho công việc này hoàn tất, tôi nhận thấy loạt phóng thứ hai đã mất đi thời gian tính, nên ra lệnh cho các pháo khẩu khai hỏa.
Chiếc Shigure chao đi chao lại khi các pháo khẩu 127mm của nó gầm thét dữ dội. Các họng súng không ngớt rực lửa khiến đôi mắt của mọi người hầu như mù lòa, hiện tượng này rất quen thuộc trong những trận dạ chiến xảy ra trong bóng đêm mù mịt của đại dương. Các cột khói đã ngăn hẳn tầm quan sát trên đài chỉ huy của tôi trong chốc lát. Tiếng đầu tiên vang lên trong cảnh náo động và âm u là tiếng la to của quan sát viên Yamashita. Hắn cho biết ngư lôi của chúng tôi đã trúng mục tiêu.
Khi mắt tôi quen với quanh cảnh hiện tại, tôi có thể xác nhận một tiếng nổ phát ra từ chiếc tàu dẫn đầu đoàn tàu của địch quân, nhưng ngoài chiếc tàu này ra không còn chiếc tàu nào khác. Hai chiếc tàu địch còn chạy theo sau chiếc tàu dẫn đầu chỉ một vài phút trước đây không còn thấy đâu nữa. Hỏi lại các quan sát viên, họ xác nhận chỉ còn nhìn thấy một chiến hạm địch duy nhất mà thôi. Việc này khiến chúng tôi tin rằng cà 3 chiếc tàu đều trở thành nạn nhân của các quả ngư lôi của chúng tôi. Đây là ý kiến của tàu bạn Samidare đưa ra. Nhưng chúng tôi không thể nào tưởng tượng được hai khu trục hạm địch bị mất tích này, tức hai chiếc Chevalier và O'Bannon, đang thả trôi lênh đênh cách 6.000m phía sau chiếc tàu dẫn đầu. Lý do sự quan sát kém cỏi của chúng tôi vào lúc ấy là bởi hỏa lực và khói súng che phủ tầm mắt.
Vẫn còn tin tưởng sự hiện diện của các tuần dương hạm theo như báo cáo của phi cơ, tôi đã tự hỏi hiện tại chúng lảng vảng ở đâu. Tôi ra lệnh cho tất cả súng ống đều hướng về mạn phải và đưa ống nhòm lên, mở to mắt ra tìm kiếm mấy tuần dương hạm không có thực này. Cuối cùng, xuyên qua bóng đêm và sương mù, tôi thấy hai chấm đen nhỏ bé. Tôi vội cho ngay đó là các tuần dương hạm địch chứ không còn gì khác. Hai chấm đen này không tiến đến chúng tôi vì vậy tôi cho rằng tàu địch đang bỏ chạy. Thật ra, đây là hai chiếc khu trục hạm địch: Chiếc O'Bannon đã què quặt và chiếc Chevalier sắp chìm.
Nhằm kiểm soát kết quả của cuộc tấn công ngư lôi vừa qua của chúng tôi, tôi ra lệnh cho 2 khu trục hạm Shigure và Samidare quay sang phải. Sự quan sát hiện thời rất khó khăn, chúng tôi không thể nhìn thấy vật gì hết. Khoảng 10 phút tìm kiếm vô hiệu quả, tôi ra lệnh xoay 90 độ về phía tả và trực chỉ căn cứ.
Báo cáo sai lầm của trinh sát cơ tiếp tục truyền nhiễm nhóm chiến hạm của Ijuin. Chúng đã chạy toán loạn trong nhiều phút sau khi đồng đội Yugumo bị đánh chìm. Đến khi gặp hai chiếc Chevalier và O'Bannon, ba chiến hạm Nhật vẫn còn ngơ ngác và bối rối trước sự mất mát đồng đội một cách bất ngờ, nên đã nhìn thấy hai chiếc tàu chạy quờ quạng này thành ra 4 tuần dương hạm địch, và cho rằng chúng tiến đến để dọn dẹp chiến trường.
Vào lúc 21h19, ba khu trục hạm của Ijuin phóng một loạt 24 quả ngư lôi nhắm vào 4 đối thủ ảo tưởng của chúng. Xuyên qua đêm tối đầy sương mù, thủy thủ Nhật hân hoan ngắm nhìn ngọn lửa bốc cao trên hai chiếc O'Bannon và Chevalier, và báo cáo rằng các ngư lôi của họ đã đánh chìm hai tuần dương hạm (hoặc hai khu trục hạm lớn) của địch quân. Lại một sự ảo tưởng khác nữa.
Với "chiến quả" này, Ijuin ra lệnh cho các chiến hạm của ông xoay hướng Bắc để trở về căn cứ. Trong lúc đó, đoàn tàu chuyển vận của Nhật đã đến Horaniu mà không gặp bất kỳ một sự ngăn chặn nào của địch quân. Trong vòng 2 giờ, toàn thể 589 binh sĩ trú đóng trên hòn đảo đều được di tản.
Một nhóm khu trục hạm thứ hai của Hoa Kỳ gồm ba chiếc Ralph Talbot, Taylor và La Vellette, chạy từ hải phận New Georgia tiến vào khu vực xảy ra trận đánh ngay khi chiến hạm cuối cùng của Nhật Bản vừa rời khỏi. Không tìm thấy đối thủ, chiếc La Vellette xoay sang ban cho chiếc Chevalier một quả ngư lôi "ân huệ". Ba khu trục hạm địch tiếp cứu những người còn sống sót, và sau đó dìu dắt hai chiếc Selfridge và O'Bannon bị hư hại về căn cứ Tulagi.
Như vậy, trận đánh kết thúc, Hoa Kỳ bị đánh chìm một khu trục hạm và hai chiếc khác bị hư hại nặng nề. Nhật thiệt hại mất một khu trục hạm. So sánh về thương vong, Hoa Kỳ nhẹ hơn Nhật Bản, vì phần lớn thủy thủ đoàn của chiếc Chevalier được cứu thoát trong khi toàn thể thủy thủ đoàn của chiếc Yugumo đều thiệt mạng. (Nhưng lúc ấy chúng tôi không hay biết việc khoảng một phần ba thủy thủ đoàn của chiếc Yugumo được các khu trục hạm Hoa Kỳ tiếp cứu). Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là mặc dù vấp nhiều sai lầm, nhiệm vụ hộ tống của Ijuin đã diễn tiến đúng như kế hoạch một cách tốt đẹp, và điều này cũng là sự chiến thắng của ông.
Theo ý kiến của tôi, Hoa Kỳ có thể chiến thắng trong trận đánh này nếu các khu trục hạm của Walker xoay về hướng Nam thay vì xoay về hướng Bắc. Ông sẽ có một ngày tròn để truy đuổi ba khu trục hạm mất tinh thần của Nhật Bản. Một cuộc truy đuổi như vậy không cần phải sử dụng ngư lôi mà chỉ cần sử dụng đại pháo có radar hướng dẫn là có thể tiêu diệt được các khu trục hạm đang trốn chạy của Ijuin. Nhưng ý kiến này chỉ có tính cách ước đoán, và các trận đánh trên biển luôn luôn đầy dẫy sự sai lầm, ảo tưởng và kinh ngạc.
Khi trở về Rabaul, tôi nhận thấy Ijuin xao xuyến và hổ thẹn. Ông không bị quở trách công khai, nhưng Bộ Tư Lệnh Tối Cao đã chứng tỏ sự lượng xét hành động của ông bằng cách tổ chức một buổi lễ trao tặng trường kiếm cho tôi và đoản kiếm cho Thiếu tá Kimio Yamagachi, hạm trưởng khu trục hạm Shigure, và Thiếu tá Yoshiro Sugihara, hạm trưởng khu trục hạm Samidare. Không một người nào thuộc nhóm chiến hạm của Ijuin được ân thưởng hoặc tuyên dương công trạng nào trong cuộc chiến thắng đầu tiên của Hải quân trong khoảng thời gian 3 tháng trở lại đây
Mừng chiến thắng ngày 6 tháng 10 của Hải quân được tổ chức vào ngày kế đó, qua một buổi lễ trao kiếm và một bữa tiệc. Bữa tiệc mở ra tại CLB dành cho sĩ quan cao cấp, với sự tham gia của tất cả sĩ quan hàng đầu của Hải quân ở Rabaul, trong đó có Phó Đô đốc Jinichi Kusaka - Tư Lệnh Hạm Đội Khu Vực Đông Nam kiêm Tư Lệnh Không Hạm Đội thứ 11, và Phó Đô đốc Tomoshige Samejima, Tư Lệnh Hạm Đội Thứ 8.
Khối lượng sake vĩ đại được tiêu thụ, buổi tiệc diễn ra thật vui vẻ với sự có mặt của một số nữ tiếp viên. Thường thường thì các nữ tiếp viên đều thuộc giới Gheisa, được Bộ Chỉ Huy Hải quân chỉ định đến các căn cứ tuyền tuyến quan trọng với nhiệm vụ gây phấn khởi cho tinh thần binh sĩ.
Mặc dù là khách danh dự của buổi tiệc, tâm tư tôi vẫn nặng trĩu, không cảm thấy vui vẻ như những người khác. Tôi muốn được say, nên đã uống liên tu bất tận.
Kusaka đọc một bài diễn văn ca ngợi khu trục hạm Shigure. Ông nói: "Hy vọng tồn tại của các khu trục hạm đóng tại Rabaul chỉ trung bình có 2 tháng. Nhưng có một chiếc tàu cũ kỹ đã chiến đấu dũng mãnh gần 3 tháng ròng rã mà không hề mang thương tích hay mất mát một thủy thủ nào. Hãy nâng ly để chúc mừng Đại tá Hara, Thiếu tá Yamagachi và tất cả thủy thủ đoàn của chiếc Shigure vĩ đại."
Tâm tư của tôi mỗi lúc càng nặng trĩu thêm. Đáng ra bữa tiệc này phải dành cho toàn thể 240 thủy thủ sáng chói của tôi hơn là dành riêng cho mấy sĩ quan chỉ huy của họ. Trong khi tôi đang suy nghĩ, buổi tiệc trở nên ồn ào náo nhiệt, và sau đó một sĩ quan tham mưu lên tiếng: "Kính thưa Đô đốc Kusaka, từ lâu tôi có nhiều vấn đề nhưng không bao giờ dám hỏi. Bây giờ, thưa Đô đốc, tôi có thể mạn phép nêu lên được không?
Bữa tiệc rơi vào yên lặng sau câu hỏi đột ngột này. Phó Đô đốc Kusaka gật đầu, và viên sĩ quan trẻ tiếp tục: "Thưa Đô đốc, Đô đốc vừa ghi nhận hy vọng tồn tại ngắn ngủi của một khu trục hạm. Có phải chúng tôi đã chấp nhận một số phận như thế? Tại sao tất cả các tàu lớn của chúng ta đều nằm lì ở Truk? Có phải buổi lễ mà chúng ta sẽ tổ chức vào ngày 26 tháng 10 tới đây là buổi lễ kỷ niệm trận đánh cuối cùng trong lịch sử có sự tham dự của các hàng không mẫu hạm Nhật hay không? Trong suốt năm qua, các khu trục hạm của chúng ta không những được giao phó các nhiệm vụ chuyển vận không mấy phấn khởi mà chúng còn nhận lĩnh tất cả các gánh nặng chiến đấu trong hải phận này. Xin Đô đốc tha thứ câu hỏi vụng về của tôi. Câu hỏi này không nhằm chỉ trích Đô đốc, nhưng mà tất cả chúng tôi đều biết rằng không chỉ Không Hạm Đội thứ 11 của Đô đốc đã nằm miết ở bờ biển từ khi cuộc chiến bắt đầu. Trong giai đoạn khủng hoảng này, tại sao các khu trục hạm phải gồng gánh tất cả các sức nặng mà không được các hàng không mẫu hạm, thiết giáp hạm và tuần dương hạm chia sẻ?"
Các câu hỏi dồn dập này thật là ngoài sức tưởng tượng, những đều là cảm nghĩ chung của hầu hết đám đông hiện diện trong phòng. Những lời có vẻ vô lễ của viên sĩ quan say rượu khiến cho một số bạn bè của anh ta lo âu. Phó Đô đốc Kusaka không nói tiếng nào. Phó Đô đốc Samejima phá vỡ bầu không khí căng thẳng: "Tôi biết Tổng Tư Lệnh Koga đang chuẩn bị một trận đánh hải quân quyết định, trong trận đánh này tất cả đại chiến hạm của chúng ta sẽ tham dự."
Viên sĩ quan trẻ tuổi không đắn đo, lớn tiếng hỏi: "Khi nào? Khi nào các đại chiến hạm sẽ hành động? Chúng đã đứng ngoài trận chiến một năm tròn nay, và một năm đó với các khu trục hạm chúng tôi lâu bằng một thế kỷ. Trong thời gian này địch quân đã đuổi kịp và vượt qua chúng tôi."
Một sĩ quan cố gắng ngăn cản không cho đồng bạn lên tiếng nữa, anh ta cho rằng đã quá muộn, nên đi về thì hơn. Nhưng viên sĩ quan đã ngà ngà say vẫn tiếp tục nói: "Và những gì mà Bộ Tư Lệnh Tối Cao đang làm ở Tokyo? Chỉ là những thông báo vang lên như tiếng kèn mỗi ngày, theo đó, Nhật Bản đã đánh cho địch quân phải kéo cờ trắng trên quần đảo Solomon. Nếu có kéo cờ trắng thì kẻ kéo đó là chúng ta, không phải địch quân."
Hai sĩ quan bạn phải đứng dậy lôi kéo viên sĩ quan trẻ ra khỏi phòng. Đôi mắt hắn ta đầy nước mắt và bật khóc nức nở. "Yugumo bị chìm, chiếc Yugumo khốn khổ đã mang theo nhiều bạn bè của tôi."
Đoạn bị kịch đã gây một ảnh hưởng kỳ dị trong tôi. Tôi cũng đã say, nhưng tôi cố giữ vững đôi chân trong buổi lễ lĩnh trường kiếm do Phó Đô đốc Samejima trao tặng. Tôi bước đến trước mặt ông và nói: "Kính thưa Đô đốc, tôi muốn trả lại thanh kiếm này, vì tôi xét thấy không xứng đánh nhận lãnh nó. Ngay cả tôi có xứng đáng đi nữa, tôi sẽ sử dụng một thanh kiếm vào việc gì trên chiến hạm?"
Quả bom của tôi đã gây kinh ngạc cho mọi người. Đại tá Miyazaki lộ hẳn sự xúc động, ông bước đến bên tôi và nói: "Anh đã mệt mỏi, Hara. Chúng ta nên đi về nghỉ ngơi."
Tôi vừa đẩy nhẹ ông ta sang một bên vừa nói: "Không, cám ơn Miyazaki." Và tiếp tục: "Tôi muốn đổi thanh kiếm này để lấy rượu sake cho thủy thủ đoàn tuyệt vời của tôi. Nếu có ân thưởng thì họ chính là những người xứng đáng được ân thưởng. Không phải tôi. Thưa Đô đốc, hãy mua rượu cho các thủy thủ của tôi."
Tới đây, Đề đốc Ijuin, chỉ huy trưởng trực tiếp của tôi, tiến đến bên cạnh tôi cố gắng khuyên lơn: "Anh hoàn toàn đúng, Hara. Tôi sẽ mua rượu cho thủy thủ của anh, nhưng hiện giờ tất cả chúng ta đều mệt mỏi, tốt hơn chúng ta nên chấm dứt buổi tiệc."
Sáng hôm sau thức dậy, tôi cảm thấy rã rời thân thể. Trung tá Yamagami với vẻ mặt dầu dầu, đã kể lại tỉ mỉ cho tôi nghe về quang cảnh hai vở bi kịch ngoạn mục do viên sĩ quan trẻ và tôi thủ diễn đêm rồi ra sao, Đề đốc Ijuin và Đại tá Miyazaki đã cố gắng bịt miệng tôi như thế nào. Hành vi như thế chưa bao giờ được nghe nói đến trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp thuộc Hải quân Hoàng Gia, và hậu quả sẽ không thể nào lường được. Tôi cảm thấy bất an.
Nhưng lạ lùng thay, hành vi vô hạnh kiểm của tôi không bị khiển trách. Sau đó, tên tuổi của tôi trở thành quen thuộc với họ. Hậu quả không xảy ra cho tôi, đã chứng tỏ thượng cấp của tôi cùng chia sẻ sự bất mãn chung đối với Bộ Tư Lệnh Tối Cao.
Bộ Tư Lệnh Hải quân ở Tokyo đã ra lệnh cho chúng tôi triệt thoái đến Bougainville, và xem nơi đây như là phòng tuyến cuối cùng. Việc này càng gây bi quan trong khu vực chiến đấu. Bougainville rộng gần gấp ba Guadalcanal. Với bờ biển quá dài và chưa được điều nghiên sâu rộng, hòn đảo này sẽ cung cấp nhiều điểm đổ bộ thuận lợi cho địch quân. Nhiều hộp thức ăn khô của Mỹ đã được tìm thấy trong rừng rậm cho biết có sự hoạt động của địch trên hòn đảo, và dĩ nhiên các điểm đổ bộ tốt nhất đã được họ chọn lựa.
Bộ Tự Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp ở Truk không làm được gì thêm cho chúng tôi. Các vị tân chỉ huy đầu não cũng không xuất sắc hơn những vị tiền nhiệm của họ. Đô đốc Mineichi Koga, nắm quyền Tổng Tư Lệnh sau cái chết của Yamamoto vào tháng 4 năm 1943, hầu như khoanh tay ngồi yên. Riêng Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, từ khi thay thế Nagumo trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm vào tháng 11 năm 1942, không hề đạt được một chiến thắng đáng kể nào. Và Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, Tư Lệnh Đệ Nhị Hạm Đội, mệt mỏi và bất thường, vừa được Phó Đô đốc Takeo Kurita thay thế vào tháng 8 năm 1943.
Ba vị tân tư lệnh này chịu khó và siêng năng làm việc, nhưng họ không thể nào tạo ra các phép lạ. Sự khiếm khuyết căn bản nằm ở Tokyo, trong Tổng Hành Dinh Hải quân Hoàng Gia, hiện vẫn còn được Đô đốc Osami Nagano điều khiển.
Kể từ khi Yamamoto thiệt mạng, nửa năm đã trôi qua, vậy mà các chính sách của ông vẫn còn được theo đuổi. Trong trận hải chiến ở biển Java vào tháng 2 năm 1942, tôi nhận thấy mặt trận đã dạy nhiều bài học hơn cả ngàn buổi thao luyện. Chẳng may, các vị Đô đốc Tư Lệnh đã không chia sẻ quan điểm này. Họ giữ sức mạnh chính yếu của Hải quân ở Rabaul hoặc, tồi tệ hơn nữa, ở các hải phận Nhật Bản, nhằm để "bảo tồn chiến hạm và huấn luyện thủy thủ". Kết quả, cả tàu và người đều chứng tỏ không thích hợp khi được tung ra mặt trận.
Bước tiến của đối phương không bao giờ ngừng nghỉ. Trở về trong chiến thắng, giống như chiến thắng của chúng tôi trong Vịnh Vella, hiếm khi xảy ra. Điều này cho thấy tình thế đã ngặt nghèo đến mức độ như thế nào. Vào ngày 12 tháng 10, một cuộc không tập ở Rabaul do 349 phi cơ xuất phát từ các căn cứ trên đất liền của đối phương thực hiện. Tuy nhiên, một cuộc không tập với cao độ quá cao không mấy chính xác và chỉ một chuyển vận hạm bị đánh chìm.**********
********: Đó là chuyển vận hạm Keisho Maru, 5.879 tấn, của Hải quân. Ngoài ra cuộc không tập này còn đánh chìm 3 chuyển vận hạm của Lục quân là Tsukinada -526 tấn, Kamoi Maru -513 tấn, Fuku Maru -132 tấn và tàu tuần tiễu Mishima Maru của Hải quân. Ba khu trục hạm, ba tiềm thủy đĩnh, một tàu chở dầu và một tàu kiểm soát bị hư hại.
Một cuộc không tập quy mô nhắm vào một căn cứ chính của Nhật Bản là một việc gây nhiều chú ý và xúc động với Tổng Hành Dinh Truk. Nhưng Đô đốc Koga vẫn còn lưỡng lự. Nếu đối phương có thể tung nhiều phi cơ đóng trên các căn cứ ở đất liền để tấn công Rabaul như vậy, hải vực quanh quần đảo Solomon sẽ bất lợi đối với lực lượng Nhật nếu xảy ra đụng độ.
Vào ngày 18 tháng 10, một loạt không tập quy mô khác xảy ra ở Rabaul và Buin, căn cứ không quân chính ở Bougainville. Cuối cùng, Koga ra lệnh cho 2 tuần dương hạm hạng nặng và một phân đội khu trục hạm tiến từ Truk đến Rabaul. Đây là hành động rập khuôn theo lối tăng viện nhỏ giọt của Yamamoto, sẽ gây cho Koga sự hối tiếc sau này.
Các cuộc không tập mạnh mẽ lại xảy Rabaul năm ngày sau đó, và tiếp tục hàng ngày cho đến khi Buin trở thành đống gạch vụn. Trong lúc đó, các đơn vị trên mặt biển đến Rabaul vào ngày 21 tháng 10. Trong số các khu trục hạm đến căn cứ này có chiếc Shiratsuyu, tức khu trục hạm tăng phái, bây giờ trở lại kết hợp với hải đội của tôi. Cuối cùng, tôi lấy làm phấn khởi được nắm trong tay 3 khu trục hạm, nghĩa là sáu tháng sau khi tôi được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng hải đội. Trong thời gian này, có rất nhiều hải đội bao gồm không quá 3 chiếc tàu.
Shiratsuyu, 1.980 tấn, là một chiếc tàu đàn chị của Shigure và Samidare. Mặc dù được đóng từ 1933, chiếc tàu này có vẻ còn mới. Bị phi cơ địch oanh kích gây hư hại nặng nề gần Buna, New Guinea, vào tháng 11 năm 1942, chiếc Shiratsuyu được tu bổ lại ở Truk.
Mặc dù phấn khởi, tôi đã lo ngại cho chiếc tàu này, bởi vì hầu như tất cả thủy thủ đoàn còn thiếu kinh nghiệm, và tôi không tin sẽ giữ nó lâu dài trong hải đội của tôi.
Vào ngày 23 tháng 11, tôi mang cả 3 khu trục hạm của tôi tham dự vào một nhiệm vụ vận chuyển đến Iboki, cách phía Đông mũi Gloucester khoảng 50 dặm. Ngày đó, cuộc không tập đầu tiên, nằm trong một loạt không tập hàng ngày của địch quân, xảy ra ở Rabaul và Buin, nhưng các chiếc tàu của tôi cũng được phi cơ địch đón tiếp nồng hậu trong nhiều giờ trước bình minh. Ba chiếc tàu phải phân tán để chạy riêng rẽ, và khi ngày lên hẳn, phi cơ địch bỏ săn đuổi chúng tôi. Các chiến hạm đã tụ họp một cách có trật tự, và tôi hài lòng khi nhận thấy tất cả còn nguyên vẹn. Chiếc Shiratsuyu đã chứng tỏ có nhiều hứa hẹn hơn là tôi tưởng.
Sáu ngày sau đó, tôi thực hiện một chuyến chuyển vận đến đảo Gavore, nằm ở phía Bắc đảo Willaumez, với 2 chiếc Shigure Shiratsuyu. Vài phi cơ địch bay đến tấn công chúng tôi một cách qua loa. Tuy nhiên, Shiratsuyu đã thi hành nhiệm vụ khá đẹp, do đó, tôi xem như chiếc tàu này thuộc hẳn vào "tài sản của hải đội". Tôi đã sai lầm biết bao.
Trong khi đó, vào ngày 27 tháng 10, địch quân đã thực hiện một cuộc đổ bộ lên đảo Mono, một căn cứ nhỏ của Nhật cách phía Nam Bougainville 20 dặm. Ngày hôm sau, lực lượng nhảy dù của địch quân cũng được thả xuống Choiseul, và Đô đốc Koga nhận thấy thời gian quyết định đã đến, dù ông muốn hay không. Bộ Tư Lệnh Tối Cao Hoàng Gia yêu cầu ông, bằng tất cả mọi giá, phải giữ Bougainville cho đến ngày 30 tháng 10.
Koga lập tức Rabaul lệnh cho 3 hàng không mẫu hạm của Đề đốc Ozawa, bao gồm 173 phi cơ, đến Rabaul. Đồng thời, ông ra lệnh cho Rabaul mở các cuộc phản công quanh Bougainville.
Nhưng thời khóa biểu điều binh của Hoa Kỳ không chờ đợi Koga. Khi lực lượng hùng hậu của địch quân đổ bộ lên mũi Torokina, nằm ở bờ biển phía Tây Bougainville thì 3 hàng không mẫu hạm Zuikaku, Shokaku và Zuiho vẫn còn cách phía Bắc Rabaul khá xa, Cuộc đổ bộ diễn ra vào lúc 7h sáng ngày một tháng 11, hiển nhiên là không gặp một sự đề kháng nào. Phó Đô đốc Kusaka tung tất cả phi cơ thuộc không hạm đội thứ 11 của ông đến Torokina. Nhưng 104 chiến đấu cơ và 16 oanh tạc cơ này không thể nào ngăm chặn được địch quân như cơn thủy triều dâng ngập hòn đảo. Ba hàng không mẫu hạm của Ozawa, ban đầu còn dè dặt, sau đó đã cho 173 phi cơ cất cánh khi còn cách phía Bắc 200 dặm.
Ở Truk, Đô đốc Konga muốn tránh các sai lầm của 15 tháng trước đây khi địch quân đổ bộ lên đảo Guadalcanal, qua việc Đề đốc Mikawa hướng dẫn 7 chiến hạm của ông đến một chiến thắng ngoạn mục, nhưng ông lại không tiếp tục rượt đuổi đoàn tàu chuyển vận của địch quân. Do đó, hiện tại Koga quyết định tung tất cả chiến hạm khả dụng đến Torokina và tiếp liền theo sau là một đoàn tàu chuyển vận lực lượng Nhật để mở một cuộc đổ phản công.
Koga chỉ định Đề đốc Sentaro Omori chỉ huy cuộc hành quân này. Omori vừa mới đến Rabaul với 2 tuần dương hạm 12.374 tấn Myoko và Haguro của ông. Mặc dù trước đây Omari chỉ ở Nhật hoặc ở Truk, nhưng lại được Konga hy vọng ông ta sẽ vượt qua chiến công Mikawa. Có nghĩa là ông ta không chỉ nhận chìm chiến hạm mà còn quét sạch tàu chuyển vận của địch quân.
Hai tuần dương hạm hạng nặng của Omori được yểm trợ bởi hai đơn vị bao che. Sườn trái của ông bao gồm tuần dương hạm hạng nhẹ 5.595 tấn của Ijuin và 3 khu trục hạm của tôi - đây là đơn vị duy nhất của lực lượng có kinh nghiệm trận mạc. Đơn vị bao che sườn bên phải, dưới quyền của Đề đốc Hiroshi Matsubara và Wakatsuki, cũng bao gồm một tuần dương hạm nhẹ và 3 khu trục hạm - không có chiếc nào trong 4 chiếc tàu này hoạt động chung với nhau trước đây, và Đề đốc Matsubara chưa từng biết đến dạ chiến là gì.
Trong một cuộc thuyết trình hành quân ngắn ngủi mở ra trên soái hạm Myoko, Đề đốc Omori đã nói: "Trước đây chúng ta chưa từng bao giờ hoạt động chung với nhau, điều đó có thể gây bất lợi trầm trọng trong chiến đấu. Nhưng Đề đốc Mikawa, đã xúc tiến nhiệm vụ thành công với các chiến hạm không hề có sự huấn luyện phối hợp trước đó của ông. Do đó, hiện tại chúng ta cũng có thể làm được như vậy. Tôi vững tin vào tài năng của mỗi sĩ quan chỉ huy và khả năng của mỗi thủy thủ dưới quyền. Tôi tin tưởng chúng ta sẽ chiến thắng.
Khi buổi thuyết trình chấm dứt, Ijuin vỗ vào vai tôi nói: "Hara, một công tác khó khăn đó nhe. Tôi sẽ tựa vào anh."
Tôi cười: "Vậy thì tôi phải chuẩn bị bơi và phải bơi như cá voi mới được." Nhưng tôi nhận thấy ngay là Ijuin không có vẻ gì là đùa cợt cả."
Ông tiếp, có vẻ buồn bã: "Tôi không thích chiếc tuần dương hạm Sendai. Nó già nua và chạy chậm như rùa."
Tôi biết ông muốn nói gì rồi, nhiều tháng nay ông không sử dụng tuần dương hạm 9 tuổi này, mặc dù nó là soái hạm của Phân đội 3 khu trục hạm do ông chỉ huy. Ông thích đặt soái kỳ trên khu trục hạm.
Ijuin thêm: "Nhưng chiếc Sendai còn nhỏ tuổi hơn chiếc Shigure của anh. Cuộc hành quân này tôi thấy bất an, tôi đặt hy vọng vào các chiến hạm vừa từ Truk đến, chúng sẽ thi hành nhiệm vụ tốt đẹp hơn. Mặc dù thủy thủ đoàn của các chiến hạm này thiếu kinh nghiệm, nhưng họ đều còn trẻ và chưa mệt mỏi như chúng ta."
Chúng tôi đi im lặng cho đến cầu thang của soái hạm Myoko, Ijuin bắt tay rồi nói: "Phiền muộn không tốt với chúng ta, Hara. Chúng ta phải chiến đấu và chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Nhật Bản sẽ sụp đổ nếu Bougainville thất thủ."
Trở về chiếc Shigure, tôi không thể nào xua đuổi sự phiền muộn. Tôi không hiểu tại sao Koga có thể chọn Omori chỉ huy một cuộc hành quân quan trọng như thế này. Ông ta mới vừa được huấn luyện chiến thuật ở trường ngư lôi và chưa bao giờ tham dự một trận hải chiến quan trọng nào.
Vào lúc 15h20 phút ngày một tháng 11, mười chiến hạm của chúng tôi rời khỏi Rabaul. Ngay khi ra khỏi hải cảng, chúng tôi lập tức di chuyển theo đội hình đã được vạch ra. Chiếc Sendai của Ijuin chạy dẫn đầu, tiếp theo là 3 khu trục hạm Shigure, Samidare, Shiratsuyu của tôi - trong đội hình hàng dọc chặt chẽ ở bên trái và hơi nhích về phía trước của 2 tuần dương hạm Myoko và Haguro. Ở bên phải của 2 tuần dương hạm là tuần dương hạm hạng nhẹ Agano của Matsubara và theo kế đó là 3 khu trục hạm Naganami, Hatsukaze và Wakatsuki. Đoàn chuyển vận binh sĩ gồm 5 chiếc, được 5 khu trục hạm hộ tống, chạy cách khoảng nhiều dặm ở phía sau.
Ban ngày trời lạnh lẽo, và mưa phùn u ám, tầm quan sát rất giới hạn. Ngoài cơn gió Đông Nam thổi lao xao, mặt đại dương hoàn toàn lặng yên. Lực lượng chúng tôi chưa qua khỏi eo biển St. George, truyền tin của chúng tôi chặn bắt được các công điện chuyển đi của địch quân quanh quẩn đâu đó. Chúng tôi không nhìn thấy gì hết, nhưng công điện này rõ ràng của các trinh sát cơ địch có trang bị radar đã phát hiện chúng tôi từ trong những đám mây dày đặc.********
*******: Đây là hai oanh tạc cơ có trang bị radar SB-24 thuộc Không đoàn 5 oanh tạc cơ Hoa Kỳ, bay cách phía Đông mũi St. George khoảng 15 dặm, đã thông báo từng giây từng phút hướng tiến về Vịnh Empress Augusta của các chiến hạm Nhật cho hai Đề đốc Halsey và Macrill.
Vào lúc 19h45, một trong hai oanh tạc cơ SB-24 thoát ra khỏi đám mây, chúi xuống chiếc Sendai và thả nhiều quả bom, nhưng không quả nào trúng đích. Cũng vào thời gian này, các trinh sát cơ của Nhật báo cáo tình hình của đối phương phía Nam: "Ba thiết giáp hạm, nhiều tuần dương hạm và khu trục hạm đang ở Vịnh Empress Augusta, gần Torokina." Lực lượng địch này mạnh mẽ hơn tiên đoán của chúng tôi, và dường như họ đã chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp chúng tôi.
Omori hội ý với Tổng Hành Dinh Rabaul, và lúc 21h30, Đô đốc Kusaka ra lệnh cho đoàn tàu chuyển vận thối lui. Ông kết luận rằng một cuộc đổ bộ phản công trực diện với một lực lượng địch mạnh mẽ như vậy khó thể thực hiện. Nhưng ông vẫn ra lệnh cho các chiến hạm của Omori tiếp tục tiến về phía trước để hạ các chiến hạm của địch quân.
Mười chiến hạm Nhật chia ra làm 3 nhóm tiếp tục lướt xuyên qua mây mù dày đặc với khoảng cách quan sát không đầy 5.00m. Các tàu của tôi nằm trong nhóm chạy gần quần đảo Bougainville nhất, nhưng không phân biệt được gì dọc theo bờ biển đen thẫm. Tôi nghĩ tình trạng này không khác với tình trạng ở Vịnh Vella vào ngày 6 tháng 8. Tốc lực của chúng tôi vẫn giữ nguyên 18 hải lý. Tôi vẫn lo lắng khi nhìn quang cảnh gần như đui mù ở phía trái chúng tôi. Các chiến hạm địch đều được trang bị radar, nhìn ban đêm cũng như ban ngày, nên có thể tấn công chúng tôi dễ dàng.
Vào lúc 23h24 , một chiếc SB-24 khác lộ diện khỏi bóng tối, nhào xuống oanh tạc tuần dương hạm Haguro, nhưng không trúng trái nào. Kẻ thù luôn luôn bám sát biết rõ vị trí cũng như hướng tiến của chúng tôi. Khi cuộc oanh tạc chấm dứt, Haguro tung lên một trinh sát cơ, và 14 phút sau đó phi cơ báo về: "Phát hiện một tuần dương hạm và 3 khu trục hạm địch cách mũi Mutupina 50 dặm, hướng 330 độ."
Vị trí này chỉ cách phía Nam đoàn tàu của chúng tôi 20 dặm. Omori chỉ thị trinh sát cơ tiếp tục tìm kiếm thêm sự hiện diện của các tàu địch khác, và ra lệnh cho tất cả chiến hạm của ông đồng loạt xoay hướng từ từ để chờ đợi một báo cáo mới của trinh sát cơ. Mười chiến hạm Nhật, với đội hình chặt chẽ, xoay 180 độ, lướt tới trước khoảng 10.000m, và xoay một lần nữa để nhắm hướng chuẩn bị tiến về phía Nam. Cách điều động này, nhằm để chờ đợi báo cáo của trinh sát cơ, rất hữu hiệu vào năm 1942, nhưng từ năm 1943, nó tỏ ra vô hiệu trước một địch quân được các dụng cụ radar thông báo liên tục và chính xác động tĩnh của chúng tôi.
Trong suốt vòng quay tròn này, chúng tôi nôn nóng chờ đợi các báo cáo khác của trinh sát cơ, nhưng vô ích. Chúng tôi không bao giờ tưởng tượng lực lượng của Đề đốc Hoa Kỳ Merrill, gồm 4 tuần dương hạm và 8 khu trục hạm, được phi cơ thông báo đầy đủ diễn tiến hoạt động của chúng tôi, đang cấp tốc lướt về phía Nam để chặn đánh chúng tôi.
Hai mươi lăm phút sau nửa đêm, khi chúng tôi chuẩn bị hướng tiến sau vòng xoay thứ hai, tôi nhìn thấy một trái chiếu sáng màu đỏ lập lòe trên nền trời ở 70 độ mạn trái, phù hợp với hướng vị trí địch quân do trinh sát cơ của chiếc Haguro báo cáo. Trái chiếu sáng nhìn thấy lờ mờ, chứng tỏ khoảng cách xa ít nhất 20.000m, và biến mất sau 2 hoặc 3 giây. Tôi mãi lo nhìn mục tiêu xa này mà không biết có những thay đổi gần. Đây là một lỗi lầm của tôi.
Nếu tôi nhìn gần hơn trong thời gian này, tôi sẽ nhận thấy đội hình của các chiến hạm Nhật đang rối loạn và ép sát vào nhau một cách nguy hiểm. Đó là hậu quả mấy lần xoay hướng phức tạp mà chúng tôi thực hiện. Chiếc Samidare chạy ra khỏi đội hình về mạn phải và 3 chiếc tàu khác chạy sát vào nhau trong vòng 300m thay vì 500m bắt buộc.
Tôi đoan quyết trái chiếu sáng là do một trong những trinh sát cơ của chúng tôi thả xuống để đánh dấu vị trí của địch quân. Tôi gửi ngay một công điện khẩn cấp cho tất cả các chiến hạm Nhật. "Phát hiện địch quân 70 độ mạn trái., và ra lệnh chuẩn bị để chuyển cấp tốc một chỉ thị thứ hai cho các khu trục hạm thuộc hải đội của tôi.
Không có một ai trong lực lượng chúng tôi tưởng tượng rằng lực lượng chính của đối phương đang từ phía Nam tiến tới và nhắm thẳng vào mặt trước của chúng tôi. Khi quan sát viên của tôi la to: "Bốn chiến hạm địch, 70 độ mạn trái", tôi ra lệnh chuyển ngay chỉ thị thứ hai của tôi. Lúc đó là 0h45 ngày 2 tháng 11.
Tôi đoán 4 chiến hạm địch, từ vị trí của trái chiếu sáng hồi nãy, vẫn tiếp tục thẳng tiến. Tuy nhiên, 4 trong số 8 khu trục hạm thuộc lực lượng này đã xoay hướng để tiến từ Nam đến Bắc. Chúng tôi chỉ phát hiện 4 chiến hạm này sau khi chúng đã xoay xong hướng nhắm để phóng ngư lôi.
Thám sát viên của tôi báo cáo: "Lực lượng địch chia thành hai nhóm. Một nhóm chạy lảng ra xa, một nhóm chạy song song với hướng tiến của chúng ta. Đó là các khu trục hạm, khoảng cách 7.000m." Tôi rùng mình, vì hiểu rằng tàu địch đang phóng ngư lôi. Tầm quan sát hiện thời nằm trong tay đối phương với radar của họ.
Tôi ra hai lệnh liên tục: "Phóng ngư lôi! Bẻ hẳn tay lái về bên phải."
Lệnh được lập tức thi hành. Chiếc Shigure xoay về bên phải đồng lúc với 8 quả ngư lôi xé nước lướt đến các mục tiêu trong vòng hai giây. Tôi bình tĩnh lại, chắc chắn đã tránh thoát tất cả các ngư lôi do tàu địch phóng ra. Nhìn theo hướng tiến của mấy quả ngư lôi do Shigure phóng ra, thân thể tôi lạnh toát khi nhận thấy chiếc Sendai đang hướng thẳng mũi vào chiếc tàu của tôi. Cùng lúc với chiếc Shigure, chiếc tuần dương hạm này cũng xoay sang phải, nhưng xoay thật mạnh và gấp rút vượt hẳn quy tắc, đoạn tiến sát vào chiếc Shigure đến nỗi làm tôi xanh cả mặt mày vì sợ hãi. Chiếc tuần dương hạm khổng lồ này, lớn gấp 3 lần chiếc Shigure, đâm thẳng mũi vào mạn trái chúng tôi.
Tôi hét: "Bẻ lái về bên phải! Xả hết tốc độ!"
Mồ hôi lạnh chảy dài xuống, và hơi thở của tôi như một người sắp chết đuối khi thân xác nặng nề của chiếc Sendai lướt ngang qua phía sau lái của chiếc Shigure, chỉ trong đường tơ kẽ tóc.
Giây phút hiểm nghèo đã trôi qua, tôi lo lắng hướng mắt về chiếc Samidare, mặt tôi xanh xám một lần nữa. Chiếc khu trục hạm này đã xoay hẳn về phía phải, chắn ngang hướng tiến điên cuồng của chiếc Sendai, và chạm vào cạnh của chiếc Shiratsuyu đang chạy cùng hàng. Vỏ mạn trái và sàn tàu của chiếc Shiratsuyu vỡ vụn ra từng mảnh, tất cả pháo khẩu và ống phóng ngư lôi hầu như bị nghiền nát.
Chiếc Shiratsuyu mới gia nhập chưa hề mang một lợi ích nào cho hải đội của tôi mà đã hư hại rồi. Nhưng điều gây xúc động cho tôi nhất là việc đổi hướng thình lình của chiếc Sendai mà không đưa ra một dấu hiệu nào để lưu ý các chiến hạm chạy theo sau. Bối rối vì chiếc tàu dở chứng. Ijuin ra lệnh cho tàu trở ngược tay lái ngay sau khi vừa thoát khỏi va chạm với chiếc Shigure trong gang tấc. Chiếc tàu đảo sang trái và chạy tụt về phía sau.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng hơi thở lại bế tắc ngay khi tôi nghe thấy tiếng của một loạt đại pháo bay đến, và cho dù chạy quờ quạng, chiếc Sendai đã lãnh trọn một trái ngay giữa tàu. Tôi chưa từng chứng kiến cảnh pháo kích nào đạt đến mức chính xác một cách ngoạn mục như vậy.
Chiếc Sendai tiếp tục hứng loạt pháo kích thứ hai và thứ ba, với mức chính xác kỳ dị không thua gì loạt đầu, và bùng cháy như một bó đuốc khổng lồ. Mạch sống của chiếc tàu đã ngừng đập, nhưng vẫn gom hết sức tàn phóng một loạt 8 quả ngư lôi nhắm đại khái vào kẻ tử thù.
Cột khói khổng lồ của chiếc Sendai, lan rộng 500m, ngăn hẳn tầm mắt khiến tôi không thể nhìn thấy nới xuất phát các quả đạn của đối phương. Nhưng chiếc Samidare, chạy ngoài vòng 500m, có thể định vị trí của các chiến hạm địch. Hạm trưởng đầy kinh nghiệm của chiếc Samidare là Thiếu tá Yoshiro Sugihara đã phóng một lượt 16 quả ngư lôi vào lúc 0h52.
Bốn tuần dương hạm Hoa Kỳ không nhìn thấy trước đó, bây giờ xuất hiện cách chúng tôi khoảng 15.000m. Vào lúc 0h51, tất cả các chiếc tàu này đảo mạnh về bên phải, tránh thoát 16 quả ngư lôi của Samidare. Tuy nhiên, khu trục hạm Foote, chạy cuối cùng trong nhóm khu trục hạm thứ hai của Hoa Kỳ, hơi chậm chân nên lĩnh một quả ngư lôi vào lúc 1h08. Chiếc tàu bị loại khỏi vòng chiến nhưng không chìm
Nhưng chiến công này không lấy gì làm chắc, sự vui mừng trên các khu trục hạm thuộc hải đội của tôi không trọn vẹn, trong lúc đó, sự hỗn loạn và kinh hoàng đã xảy ra trong hai nhóm chiến hạm khác của chúng tôi.
Thời gian tôi báo cáo phát hiện địch quân, lúc 0h45, Đề đốc Omori lại không nhìn thấy gì cả. Năm phút sau đó, ông mới thấy chiếc Sendai bao trùm trong lửa đỏ và ông đồ chừng chiếc tàu đang cháy này ở ngay phía trước, cách ít ra là 1000m và cùng một hướng tiến với soái hạm Myoko của ông. Nhưng thật ra chiếc tàu này nằm ở ngay phía trái của ông.
Sau đó, Omori đã phải sửng sốt khi nhận ra sự sai lầm này. Phản ứng của ông - ảnh hưởng bởi tư tưởng bảo thủ đang thịnh hành trong giới chỉ huy - thay vì điều chỉnh các chiến hạm của ông cho đúng lại với đội hình nguyên thủy, ông vội vã ra lệnh quay đầu.
Qua hành động này, Omori đã bị chỉ trích mạnh mẽ sau đó, nhưng ông không bao giờ đưa ra một lý luận nào để biện minh. Quay đầu là một việc có thể làm được với điều kiện là tất cả các chiến hạm đều phải đáp ứng nhịp nhàng. Nhưng hai nhóm trong số các nhóm tàu của Omori lại do các sĩ quan thiếu kinh nghiệm hoạt động ban đêm, và kết quả đã đưa đến sự rối loạn. Nhóm tàu thứ ba của Đề đốc Matsubara còn tạo ra một sai lầm khác.
Mặc dù thiếu kinh nghiệm chiến đấu, Matsubara nổi tiếng là một tay hăng hái và bướng bỉnh. Khi nghe báo cáo phát hiện địch quân của tôi, ông ra lệnh cho nhóm tàu của ông xả hết tốc độ đổ xô về hướng mà tôi đã báo cáo. Nhưng chạy liên tục như vậy trong 10 phút, ông vẫn không tìm thấy địch quân ở đâu. Cuối cùng, khi nhìn thấy hai tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro xoay hướng, ông đâm ra bối rối, vội vã ra lệnh cho các chiến hạm của ông xoay theo một cách vụng về, phạm phải điều cấm kỵ nhất khi di chuyển vào ban đêm. Sau khi xoay hướng, tuần dương hạm Agano, soái hạm của Matsubara, và 4 khu trục hạm nối đuôi nhau chạy về phía Bắc, Matsubara không lưu ý đến việc các chiến hạm của ông lúc này chạy xiên ngang qua hướng tiến của hai chiếc Myoko và Haguro ở một góc thẳng. Kết quả, tuần dương hạm Myoko lướt ngang phía trước khu trục hạm Hatsukaze, chiếc tàu chạy hàng thứ ba trong đội hình hàng dọc của Matsubara, và chạm nhẹ vào mũi chiếc khu trục hạm 2.500 tấn này. Hai chiến hạm chạy theo sau Myoko và Hatsukaze là tuần dương hạm Haguro và khu trục hạm Wakatsuki, vội vã né tránh nhưng lại đụng nhau dữ dội gấp mấy lần hai đồng đội phía trước.
Cực kỳ bối rối, Matsubara cho tàu của ông quay lại chiếc khu trục hạm hư hại nặng của ông. Chỉ cần xem sơ qua, ông hiểu ngày là không thể làm gì kịp cho chiếc tàu này trong lúc địch quân đã đuổi theo đến nơi, một lần nữa, ông quay tàu để chạy song song với 2 tuần dương hạm hạng nặng.
Vào lúc 1h15, đạn đại pháo Hoa Kỳ bắt đầu rơi dọc theo cả mạn trái và phải của hai chiếc Myoko và Haguro. Các khẩu đại pháo của hai tuần dương hạm này đều khai hỏa khái quát vào những mục tiêu không nhìn thấy và phóng một loạt 24 quả ngư lôi vài phút sau đó. Dĩ nhiên, tất cả đều hoang phí một cách vô ích.
Radar của địch quân đã đè bẹp ưu thế hoạt động đêm của Nhật Bản trước đây.
Trong lúc Omori và Matsubara đang trải qua những giờ phút vất vả này, tôi cũng lâm vào tình cảnh khó khăn không kém gì họ. Tuần dương hạm Sendai bốc cháy và đang giãy chết đã cầm chân chúng tôi. Pháo của địch vẫn tiếp tục dập chiếc tàu này không ngừng nghỉ. Khiến chúng tôi muốn sáp lại để giải cứu thủy thủ đoàn nhưng không thể nào làm được. Hai chiếc Samidare và Shiratsuyu hư hại đã rút lui theo lệnh của Omori. Các khu trục hạm Hoa Kỳ đã chứng tỏ tài năng của chúng. Ba chiến hạm Nhật bị loại ra khỏi vòng chiến chỉ trong một cú đấm.
Quan sát viên trên đài chỉ huy của tôi ghi nhận tín hiệu đèn nhấp nháy những lời kêu cứu lặp đi lặp lại đầy thảm não của chiếc Sendai: "Shigure, hãy tiến lại tôi... Shigure, hãy tiến lại tôi... Shigure, hãy tiến lại tôi..."
Tàu của tôi vẫn còn cách mạn phải của chiếc Sendai 500m. Không có quả đạn nào của địch rơi gần chúng tôi, mà chỉ liên tục nhằm thẳng vào nạn nhân đang hấp hối. Người bạn tốt nhất của tôi, Ijuin, đang cần sự giúp đỡ, nhưng chiếc Shigure khó mà trở về khi lọt vào hỏa ngục đó. Tôi đứng chết lặng trên đài chỉ huy. Bóng dáng 43 thủy thủ của chiếc Amatsukaze thiệt mạng dưới hỏa lực tập trung của tuần dương hạm Helena, do một lỗi lầm của tôi vào năm trước, như hiện ra trước mắt. Tôi đã thề với linh hồn của những người này là tôi sẽ không bao giờ phạm phải lỗi lầm như vậy nữa.
Hạm trưởng của Shigure hết kiên nhẫn rồi nên la to: "Tiến đến, Đại tá Hara! Tiến đến Sendai! Chỉ huy trưởng Phân đội đã ra lệnh cho chúng ta."
Giọng nói khẩn khoản của Thiếu tá Yamagami đã gây ảnh hưởng nơi tôi, trái ngược hẳn những gì mà anh ta hy vọng. Dẹp hẳn sự lưỡng lự sang một bên, tôi đáp: "Không, Yamagami, tôi quyết định không tiến đến. Nếu chúng ta tiến đến chiếc Sendai, hỏa lực của địch quân sẽ ghìm chúng ta như nó. Chúng ta có thể giải cứu một vài thủy thủ, nhưng tất cả thủy thủ đoàn của Shigure sẽ bị tiêu diệt."
"Nhưng chúng ta có lệnh của Đề đốc là phải tiến đến." Yamagami lớn tiếng một cách nóng nảy.
Tôi phẫn nộ: "Lệnh? Anh đúng! Tôi đồng ý hoàn toàn! Lệnh sơ khởi ban cho chúng ta là đánh địch quân. Công việc tiếp cứu trên mặt biển luôn đứng hàng thứ yếu. Hãy đi cho rồi!"
"Nhưng các bạn của chúng ta đang yêu cầu giúp đỡ." Yamagami van nài: "Họ đang chết trước mắt chúng ta."
Câu nói này càng gây thêm sự tức giận nơi tôi, tôi hét to : "Im ngay! Đây không phải là nơi để nói chuyện tình cảm và tranh luận. Tôi có trách nhiệm với chiếc tàu này. Đừng có lấn quyền!"
Yamagami nín lặng. Tôi ra lệnh: "Xoay sang trái! Xả hết tốc lực chạy về phía trước. Chúng ta tấn công!"
Máy của chiếc Shigure rồ mạnh và cấp tốc vọt lên tốc độ tối đa 30 hải lý. Với hành động này, tôi muốn kết hợp với bất kỳ chiến hạm Nhật nào vẫn còn khả năng chiến đấu để sau đó quay lại phản công đối phương. Nhưng tôi không gặp Omori mà cũng không gặp Matsubara, và họ cũng không báo cho tôi biết hoạt động của họ như thế nào. Tôi xoay sang tìm kiếm các mục tiêu, bằng cách theo dấu hỏa lực của địch quân, nhưng tôi đã phí công vô ích. Súng của đối phương đã im tiếng hẳn. Sau đó, của Shigure chạy về hướng Nam, và đến 1h34, chúng tôi nhận được lệnh rút lui để trở về Rabaul của Omori.
Omori quyết định chấm dứt cuộc hành quân, bởi vì ông tin rằng chúng tôi đã đối đầu với hai lực lượng địch, bao gồm 7 tuần dương hạm và 9 khu trục hạm, và hai lực lượng này đang tiến về phía Nam, cùng một hướng tiến với ông. Sự xét đoán sai lầm này phát xuất từ báo cáo sơ khởi về lực lượng địch và báo cáo sai lầm của các trinh sát cơ.
Hai tuần dương hạm hạng nặng đã chiến đấu với một ảo ảnh chỉ hiện hữu trong tâm trí của các vị chỉ huy trên hai chiếc tàu này. Sự thật, chỉ có 4 tuần dương hạm Hoa Kỳ đang chạy về hướng Nam, bỗng quay đầu để chạy về hướng Bắc vào lúc 1h01 và sau đó đã pháo kích vào 2 tuần dương hạm Myoko và Haguro. Hai tuần dương hạm Nhật cũng bắn trả và phóng ngư lôi. Trận đụng độ này đưa đến kết quả ảo tưởng là Omori đã đánh chìm cấp kỳ một tuần dương hạm và gây hư hại cho 2 khu trục hạm địch. Omori không ý thức rằng hai chiếc tàu của ông đã chạy quờ quạng như 2 kẻ đui mù, chỉ phí đạn và nhiên liệu mà thôi.
Tim tôi trĩu nặng khi chiếc Shigure nối đuôi một cách mệt nhọc theo sau 5 chiến hạm có vận tốc nhanh phía trước. Dõi mắt về hướng mà chúng tôi nhìn thấy soái hạm Sendai lần cuối cùng, lòng tôi cảm thấy quặn thắt. Cùng lúc, tôi nghĩ đến hai chiếc Samidare và Shiratsuyu, cả hai đã bị loại ra khỏi vòng chiến do sự va chạm với chiếc Sendai, tôi độ chừng một số chiến hạm địch thế nào cũng truy đuổi ráo riết hai chiến hạm què quặt này, nên sự sống sót của chúng chỉ hy vọng vào sự may mắn. Trong sự yên lặng trên đài chỉ huy của chiếc Shigure, những người hiện diện đã chia sẻ ý nghĩ tang tóc của tôi.
Trên hải trình xuôi về phía Bắc, tôi nhớ lại chuyến trở về từ Guadalcanal đầy âu sầu của Đề đốc Abe trước đây. Các chiến thuật mà Abe đã áp dụng trong trận đánh Guadalcanal đã bị chỉ trích mạnh mẽ chưa bao giờ thấy vào thời gian đó. Và bây giờ, hơn một năm sau, Omori đã lặp lại những sai lầm của Abe. Cả hai vị Đề đốc cũng điều binh theo đội hình phức tạp và bám riết lấy đội hình này, cho đến nỗi phải rước lấy thảm bại trước chiến thuật nghi binh của đối phương. Nhưng Đề đốc Abe còn có cái may là đối thủ của ông cũng mắc phải nhiều sai lầm không kém gì ông. Trái lại, đối thủ của Omori hành động một cách hoàn hảo.
Trong trận đánh Guadalcanal, tôi đã mang khu trục hạm Amatsukaze trở về cùng với xác 43 thủy thủ và chiếc tàu bị hư hại nặng. Bây giờ, trong trận đánh Empress Augusta, chiếc Shigure còn nguyên vẹn và thủy thủ đoàn không một ai thương vong. Do đó, tôi như được an ủi một phần nào, vì nghĩ rằng ít ra tôi đã không lặp lại những sai lầm cũ. Điều này nhắc tôi nhớ lại chiếc Samidare cũng đã sống sót trong chuyến đi một năm trước đây của Abe, tôi hơi khuây khỏa khi nghĩ chiếc tàu đầy kinh nghiệm chiến đấu đang mất tích này sẽ tồn tại để trở về với hải đội. Trái lại, đối với chiếc Shiratsuyu, tôi xem nó như đã bị xóa tên rồi. Nếu không xảy ra sự va chạm, ba khu trục hạm của tôi có thể gây nhiều bối rối cho địch quân, giống như tôi đã làm ở Guadalcanal trong chuyến đi với Abe. Bốn khu trục hạm địch chúng tôi chạm mặt lần này tỏ ra còn vụng về hơn 4 khu trục hạm địch mà chúng tôi đối đầu ở vịnh Vella vào ngày 6 tháng 8 năm 1943.
Trong trận vừa rồi, mặc dù địch quân nắm ưu thế, tất cả ngư lôi do họ phóng ra đều sai đích rất xa, cho đến nỗi chúng to lớn như vậy mà không một ai trong chúng tôi nhìn thấy bóng dáng quả nào lướt qua.
Nhìn lại, tôi cũng công nhận phần lợi thế trong trận đánh này nằm ở phía Hoa Kỳ, riêng phía Nhật Bản không mấy hy vọng đạt được chiến thắng, nhưng tôi cũng công nhận đáng lẽ ra chúng tôi có thể làm tốt hơn những gì mà chúng tôi đã làm.
Ijuin phải chịu trách nhiệm về việc đã để cho nhóm chiến hạm của ông rối loạn hàng ngũ. Ông là một người đã mệt mỏi, kiệt sức và chán nản. Và qua sự mất mát của khu trục hạm Yugumo một tháng trước đây, ông không còn mảy may tin tưởng vào khả năng của ông nữa. Một người thuộc giai cấp quý tộc khi gặp nghịch cảnh thường sụp đổ tinh thần một cách mau lẹ như vậy.
Nhưng Đề đốc Omori là người phải gánh chịu phần trách nhiệm lớn hơn. Qua lệnh xoay hướng về phía sau của Omori, tức là đưa lưng về phía địch quân, chẳng khác nào ông ta trói tay Ijuin, giới hạn một cách nghiêm trọng các hành động đang diễn tiến.
Về phía Hoa Kỳ, hình như họ đã chiến đấu một cách không mấy hăng hái trong trận đánh này. Nếu họ không chấm dứt hành động ngay sau khi hai chiến hạm Nhật bị què quặt do sự đụng chạm gây ra, họ có thể đánh chìm thêm nhiều chiếc tàu của chúng tôi hơn nữa. Tôi không hiểu tại sao màn pháo kích tiêu diệt của họ nhắm vào chiếc Sendai không được họ lặp lại với các chiến hạm khác đang nằm trong tình trạng bối rối như thế? Trong nhiều năm sau trận đánh, câu hỏi này vẫn lảng vảng trong tâm trí tôi.
Máy móc của chiếc Shigure trở nên yếu kém, có thể đây là hậu quả của một giờ chạy hết tốc lực trong trận đánh vừa qua. Hiện thời tốc độ của chiếc tàu giảm còn 18 hải lý. Nhưng điều này không làm tôi mảy may bận tâm. Tôi đang bực bội vì lệnh bỏ dở trận đánh giữa chừng, với tốc độ chậm chạp này, tôi hy vọng một số chiến hạm địch sẽ đuổi kịp chúng tôi, chừng ấy chiếc Shigure sẽ quay lại quần thảo với họ một chập nữa. Dù vậy, tôi cũng gọi vô tuyến báo cáo cho Đề đốc Omori biết tình trạng của chúng tôi và yêu cầu thêm là ông hãy sắp xếp công việc giải cứu những người còn sống sót của chiếc Sendai.
Omori đáp ngay: "Chúng tôi đang chạy với tốc độ 12 hải lý, do đó tàu của anh có thể bắt kịp. Tôi đã yêu cầu Rabaul phái một tàu ngầm đến vớt các thủy thủ của hai chiếc Sendai và Hatsukaze." Lần đầu tiên, qua câu đáp của Omori, tôi mới mỉm cười được sau nhiều giờ căng thẳng. Xem ra Omori cũng là một mẫu người thận trọng.
Sau đó, chiếc Shigure bắt kịp chiếc Myoko. Với tốc độ giảm xuống, máy móc của Shigure có vẻ chạy êm thắm.
Vào lúc 20h ngày 2 tháng 2, chúng tôi tiến vào cảng Rabaul. Tôi yên lòng khi nhìn thấy hai khu trục hạm khác của tôi đang buông neo trong hải cảng Simpson (tức hải cảng của Rabaul). Chiếc Shiratsuyu hư hại không bao nhiêu, nhưng chiếc Samidare được xem là tồi tệ.
Ngay khi nhìn thấy Shigure, Samidare đã dùng đèn hiệu báo cáo các hoạt động của mình. Vào lúc 1h45 phút, chiếc tàu này bắt đầu đụng độ với các khu trục hạm của đối phương trong một trận chiến lưu động. Kéo dài một giờ đồng hồ. Kết quả, 5 thủy thủ của Samidare thiệt mạng và 5 bị thương do hai quả đạn pháo trực xạ gây ra. Hai quả đạn này cũng gây hư hại cho guồng lái của con tàu. Sau đó, Samidare phải sử dụng sức người để bẻ lái trở về Rabaul. Viên hạm trưởng kết luận: "Chúng tôi đã bắn trả và phóng 6 ngư lôi vào đối phương, và chúng tôi tin tưởng đã phục thù được những cú đấm mà chúng tôi đã nhận."
Qua báo cáo, hạm trưởng của chiếc Shiratsuyu có vẻ hối tiếc vì đã để cho chiếc tàu va chạm, và câu sau cùng đã làm cho những người hiện diện trên chiếc Shigure cười ồ: "Chúng tôi tháo lui dễ dàng. Máy móc của chiếc tàu tỏ ra còn tốt, không một quả đạn nào của địch quân bắt kịp chúng tôi."
Một công điện từ soái hạm Myoko gửi đến đã gây buồn vui lẫn lộn: "Tàu ngầm I-104 cho biết đã tiếp cứu được Đề đốc Ijuin và 37 thủy thủ khác của tuần dương hạm Sendai, nhưng tất cả thủy thủ đoàn của chiếc khu trục hạm Hatsukaze không được tìm thấy."
Sáng sớm hôm sau, hạm trưởng của Shigure đề nghị chúng tôi lên soái hạm Myoko để phúc trình đầy đủ chi tiết trận đánh cho Đề đốc Omori. Tôi nói: "Việc này chúng ta có thể làm sau, Yamagami. Rời tàu ngay bây giờ không ổn đâu, bởi vì Rabaul không còn là nơi an toàn nữa. Hôm nay đối phương có thể tung ra một cuộc không kích quy mô, chúng ta phải ở lại tàu để chào đón phi cơ họ. Hãy chuẩn bị đầy đủ cho chiếc Shigure đối phó với của tấn công mạnh mẽ từ trên không."
Trong tuần lễ vừa qua,phi cơ Hoa Kỳ đã tấn công Rabaul bốn lần. Sáng ngày 3 tháng 11, nhìn thấy thời tiết quang đãng, tôi có linh cảm là các phi cơ địch sẽ ào đến. Với ý nghĩ này, tôi cũng đã chỉ thị cho 2 khu trục hạm Samidare và Shiratsuyu chuẩn bị chiến đấu với tất cả năng lực có thể.
Toàn thể thủy thủ đoàn trên ba chiếc tàu của tôi hăng hái thi hành mệnh lệnh một cách hoàn bị. Phi cơ địch đến như thác lũ từ phía Bắc, bay ở một cao độ không quá 50m tính từ mặt biển. Các cuộc không tập Rabaul trước đây đều được phi cơ địch thực hiện với cùng một cao độ và cùng một chiến thuật, nhưng hôm nay chiến thuật này có sự thay đổi. Trận chiến đang diễn tiến có lẽ là trận chiến ngoạn mục nhất đời tôi.
Shigure là chiến hạm Nhật đầu tiên nhảy vào vòng chiến, kế đó Samidare và Shiratsuyu. Mọi loại súng ống của chúng tôi đều chĩa lên trời, và khi làn sóng phi cơ đầu tiên ùa đến, các pháo thủ đã hoạt động chẳng khác nào những kẻ điên khùng. Họ bắn không ngừng nghỉ, hình những để giải tỏa nỗi uẩn ức sau chuyến trở về đầy thất vọng từ Vịnh Empress Augusta. Ngày hôm đó, có tất cả 80 oanh tạc cơ B-25 và 80 chiến đấu cơ P-38 tấn công Rabaul, và hầu hết đều bu quanh trên các tháp của 3 khu trục hạm do tôi chỉ huy. Ba chiến hạm nhỏ đã thoát chạy kịp thời ra ngoài vòng của hải cảng. Đó là việc mà các phi công Hoa Kỳ không thể nào tiên đoán được.
Ho đuổi theo ngăn chặn chúng tôi, nhưng hiển nhiên các oanh tạc cơ Hoa Kỳ không sẵn sàng hoặc không trù tính sử dụng các quả bom của chúng nhắm vào ba chiến hạm nhỏ bé. Một vài trái bom đã trúng thẳng vào ba chiếc tàu, nhưng chỉ gây thiệt hại nhỏ trên chiếc Shiratsuyu. Hỏa lực của chúng tôi lên tiếng dữ dội. Đội hình phi cơ địch bị cắt ra từng mảnh khi lướt ngang qua chúng tôi.
Kết quả cuộc không tập, 18 phi cơ Nhật bị tiêu diệt, chỉ có hai tàu buôn nhỏ và một tàu săn ngầm bị đánh chìm. Với một cuộc tấn công quy mô như vậy, kết quả này không đúng như ý muốn của đối phương. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn phải giá: 8 oanh tạc cơ B-25 và 9 chiến đấu cơ P-28 bị bắn rơi cùng nhiều chiếc hư hại khác đã lê lết được về đến căn cứ, nhưng bị vỡ tan hoặc bốc cháy khi đáp xuống.
Hỏa lực từ các chiến hạm đang chạy trên mặt biển khó thể nào bắn trúng phi cơ bay nhanh. Nhưng ngày hôm đó lại khác hẳn, phi cơ địch hình như tìm họng súng của chúng tôi để chui đầu vào. Tôi nhìn thấy tận mắt chiếc Shigure đã bắn hạ ít nhất 5 phi cơ địch.***********
(********: Đại tá Hara đã nói đúng về các thành quả mà súng phòng không trên các khu trục hạm của ông đã đạt được trong ngày này. Tài liệu lịch sử chính thức của Không quân và Lục quân Hoa Kỳ đã ghi: "Hai khu trục hạm Nhật nằm cạnh cửa sông Warangoi đã đối đầu trực tiếp với hướng tiến của các phi cơ Hoa Kỳ. Hỏa lực của 2 chiếc tàu này đã gây nhiều xáo trộn cho cuộc không tập, ngăn chặn hẳn các chiến đấu cơ hộ tống, khiến cho các oanh tạc cơ B-25 phải phá vỡ đội hình để thi hành nhiệm vụ oanh tạc và không kích từng cặp, hoặc từng chiếc riêng rẽ.)
Xế trưa hôm đó, các khu trục hạm của tôi quay vào quân cảng Rabaul, toàn thể thủy thủ đều lộ vẻ kiêu hãnh và hớn hở. Tình trạng căng thẳng của buổi sáng trôi qua hẳn. Sĩ quan cũng như thủy thủ lại cười nói ồn ào. Vào chiều tối, tôi bước lên soái hạm Myoko và cảm thấy dễ chịu hơn khi làm nhiệm vụ phúc trình lại chi tiết về trận đánh vịnh Empresss Augusta mà tôi không mấy hài lòng trước đó.
Đề đốc Omori vẫn đón tiếp tôi một cách thân mật như thường lệ. Sau khi nghe các chi tiết do tôi tường trình liên quan đến nhóm chiến hạm của Ijuin, ông nói: "Tôi nghĩ hành động của anh rất đúng. Trong khi chiếc Sendai bị hỏa lực tập trung của địch quân, anh chạy tránh xa nó là phải. Về các điểm khác, tôi muốn cảm ơn công điện phát hiện địch quân của anh gửi cho tôi lúc 0h45. Lúc bấy giờ ngoài anh ra không ai khác nhìn thấy tàu địch. Không có báo cáo của anh, cả nhóm tàu của tôi sẽ rước lấy thảm họa."
Khi tôi cáo từ và xoay lưng bước ra cửa, Đề đốc Omori gọi tôi lại. Ông rút bóp lấy một số tiền đặt trên bàn, mỉm cười nói: " Đây là 30 yên ( khoảng 90.000 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa vào thời giá năm 1974, còn so với tiền Việt Nam bây giờ thì.... Heo hổng có biết ). Số tiền không nhiều nhỏi gì, anh hãy nhận để mua rượu cho thủy thủ của anh chơi, và xem đây như là món quà kỷ niệm của tôi."
Tiếng cười to của ông khiến tôi giật mình. Tôi nhận tiền bắt tay ông, và cả hai cùng cười to với nhau. Đoạn bi hài kịch trả kiếm và đòi tiền mua rượu của tôi chắc hẳn đã đến tai ông. Câu chuyện này xảy ra lúc ông chưa đến Rabaul.
Trận hải chiến vịnh Empress Augusta kết thúc. Hoa Kỳ đã đạt chiến thắng trên mọi phương diện. Khu trục hạm Foote đã nhận lĩnh một quả ngư lôi của Samidare, hư hại khá nặng, nhưng vẫn trở về căn cứ được. Trong trận đánh quan trọng này, chỉ có khoảng 40 thủy thủ Hoa Kỳ thương vong.
Phía Nhật Bản đã thiệt mất tuần dương hạm Sendai với 335 người trong số thủy thủ đoàn, và khu trục hạm Hasukaze với toàn thể thủy thủ đoàn 240 người. Nhiều quả đạn trúng thẳng vào hai tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro, và khu trục hạm Samidare, gây nhiều thiệt hại cho ba chiếc tàu này, nhưng về nhân sự chỉ có 6 thủy thủ thiệt mạng và 7 bị thương.
Ngay sau trận đánh, Omori rời khỏi chức vụ hiện thời, và được chuyển về trông coi Trường Ngư Lôi. Matsubara cũng mất chức, và được chỉ định vào một nhiệm vụ trên bờ.
Vào ngày 3 tháng 11, chiếc tàu ngầm I-104 về đến Rabaul với các thủy thủ sống sót của tuần dương hạm Sendai. Tôi đứng đón chờ những kẻ may mắn trở về. Nhìn Đề đốc Ijuin bước lên cầu tàu không ai là không động lòng. Tôi bước ngay đến ông và cất lời xin lỗi đã không đáp ứng lời yêu cầu giúp đỡ của ông.
Trong sự xúc động lớn lao, ông nói: "Đừng nói như vậy, Hara. Hành vi của tôi vừa qua đã khiến tôi xấu hổ. Đừng bao giờ lặp lại những lời mà anh vừa nói. Anh đã hành động đúng."
Vài ngày sau Ijuin trở về Tokyo. Sau một vài tháng nghỉ ngơi, ông quay lại Nam Thái Bình Dương và chiến đấu rất dũng cảm. Vào ngày 24 tháng 5 năm 1944, ông thiệt mạng trong khi chỉ huy lực lượng hộ tống một đoàn tàu chuyển vận. Chiếc soái hạm của ông bị tàu ngầm Raton của Hoa Kỳ phóng ngư lôi đánh chìm
Nếu mọi người tỏ vẻ nghi ngờ khả năng chiến đấu của Đề đốc Ijuin, lời tiên đoán của ông về việc Nhật Bản sẽ sụp đổ sau khi để cho Bougainville rơi vào tay địch lại tỏ ra chính xác một cách lạ lùng.
Vì thời tiết, cuộc không kích Rabaul của đối phương vào ngày 2 tháng 2 chỉ gây chút ít thiệt hại, nhưng 3 ngày sau đó tai biến mới thực sự xảy ra. Nhười Mỹ đã xem cuộc không kích Trân Châu Cảng của Nhật như là một thảm họa đối với họ, nhưng cuộc không tập vào ngày 5 tháng 11 của họ lại là một thảm họa to lớn hơn đối với Nhật. Một hạm đội bao gồm đa số tuần dương hạm, được giữ gìn như báu vật hơn một năm nay, bỗng tan tành chỉ trong một ngày. Làm sao một việc như vậy có thể xảy ra?
Sự sụp đổ ngày 5 tháng 11 của Rabaul đã làm lu mờ trận đánh đầy bi thảm ở Vịnh Empress Augusta, khiến cho không còn ai nhắc nhở đến nó nữa. Trận đánh bị lãng quên này đã dạy cho người Nhật nhiều bài học quý giá mà họ không biết. Các sai lầm được lặp lại, và lặp lại cho đến khi trở thành tự sát.
Đáng lẽ qua trận đánh Empress Augusta. Nhật Bản phải biết rằng các nỗ lực thám thính của mình đã vấp phải nhiều khiếm khuyết. Không phải chỉ phóng một vài chiếc phi cơ lên trời với các mục đích thám thính là đủ, mà cần đòi hỏi các phi công đầy đủ kinh nghiệm lái các phi cơ đó. Bộ Tư Lệnh Tối Cao chắc hẳn phải biết điều này, nhưng chỉ vì tình thế không cho phép cải thiện.
Nếu các phúc trình chi tiết liên quan đến trận hải chiến ở Vịnh Empress Augusta không bị thêm thắt để đánh lừa Bộ Tư Lệnh Tối Cao, chúng tôi sẽ không bao giờ dám đổ lỗi sự sụp đổ Rabaul cho thượng cấp. Còn nhiều yếu tố lừa dối khác sau trận đánh. Chẳng hạn như tàu ngầm I-104, trong phúc trình về công cuộc tiếp cứu những thủy thủ sống sót của chiếc Sendai đã viết: "Chúng tôi thấy nhiều thủy phi cơ và chiến hạm địch bận rộn trong các hoạt động tiếp cứu, điều này chứng tỏ một số tàu địch đã bị đánh chìm trong trận Empress Augusta." Và một điển hình khác: Đoàn tàu chuyển vận bị đình hoãn trước đó của chúng tôi cuối cùng đã rời khỏi Rabaul vào ngày 2 tháng 11, chỉ có 4 khu trục hạm hộ tống, và thành công trong việc đổ bộ 930 binh sĩ lên Torokina. Chỉ huy trưởng đoàn tàu chuyển vận đã báo cáo một cách vui vẻ: "Chúng tôi không hề gặp một sự chống đối nào trên mặt biển, hiển nhiên là hạm đội địch đang lo chắp vá các vết thương do lực lượng của Đề đốc Omori gây ra."
Tuy nhiên, sự thật Hoa Kỳ đã chọn để giăng một cái bẫy trên đất liền nhắm vào lực lượng bộ binh sau khi họ đã đổ bộ, và cái bẫy này công hiệu hoàn toàn. Nhưng đây là vấn đề riêng của Lục quân, không dính dáng gì đến Hải quân.
Cả chục điều tệ hại do lực lượng Omori gây ra vì vậy mà đã không được sửa chữa chút nào. Do đó khi trở về Tokyo sau cuộc hành quân, Omori không cảm thấy một chút hổ thẹn nào hết, và hơn thế nữa, ông được thăng cấp, và được tái bổ nhiệm vào chức vụ chỉ huy trưởng Trường Ngư Lôi của Hải quân.
Đô đốc Koga, Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp, chấp nhận giá trị phúc trình của Omori. Koga cảm thấy đã thu hoạch được các dữ kiện mà ông kiên nhẫn đợi chờ, và cho rằng cơ hội "dứt khoát" với địch quân tại quần đảo Solomon đã đến. Do đó, dựa trên căn bản các phúc trình của Omori, vào ngày 3 tháng một, ông ra lệnh cho 7 tuần dương hạm khởi hành từ Truk tiến về hướng Nam. Cả Koga lẫn bộ tham mưu của ông không một ai ra trận trong thời gian gần đây để biết sức mạnh gia tăng của địch quân. Bởi vậy, tính tự phụ tự mãn đã mọc rễ trong họ.
Ở Rabaul, Đô đốc Kusaka đã giật mình khi nghe kế hoạch cho các tuần dương hạm xuất quân của Koga, và ông đã cố gắng ngăn cản hành động này. Nhưng ông không thể nào giải thích sự nghi ngờ của ông về các chi tiết nằm trong phúc trình của Omori. Hơn nữa, chỉ một đôi lời của ông không thể nào đầy đủ ý nghĩa thuyết phục được Koga. Và do đó, 7 tuần dương hạm Nhật vẫn tiếp tục tiến về phía Nam, dưới sự dòm ngó từng bước một của các trinh sát cơ Hoa Kỳ.
Phó Đô đốc Takeo Kurita, thay thế Kondo trong chức vụ Tư Lệnh Đệ Nhị Hạm Đội, cũng là một tay tự mãn không kém gì Koga. Tính tự mãn này là do các tin tức về các cuộc không tập liên tục của địch quân ở Rabaul vào thời gian gần đây đến tai ông. Theo đó, không có một phi cơ địch nào oanh tạc trúng thẳng được vào một chiến hạm Nhật. Nên biết, hơn một năm nay Kurita không ra trận lần nào, vì vậy ngay cả chiến đấu cơ Nhật Bản mà ông nghĩ đến là các chiến đấu cơ của năm 1942, tức thời gian Nhật Bản vượt trội Đồng Minh cả hai mặt phi cơ và phi công. Sự khinh thường khả năng của không lực Đồng Minh vào thời gian đó là rất đúng, nhưng hiện tại sự khinh thường đó không còn đứng vững.
Sáng sớm ngày 5 tháng 11, lực lượng của Kurita đến Vịnh Simpson, Rabaul. Tôi đã kinh ngạc khi thấy soái hạm Atago chậm rãi buông neo trong hải cảng nhỏ hẹp mà hiện tại gần như nứt ra, vì phải chứa đựng cả 7 tuần dương hạm và khoảng 40 tàu yểm trợ khác nữa. Những chiến hạm mới đến này đã gây cho tôi sự băn khoăn và suy nghĩ.
Vào lúc 7h sáng cùng ngày, một phi cơ tuần tiễu báo cáo phát hiện một lực lượng địch gồm 5 tuần dương hạm hạng nặng, 7 khu trục hạm và 2 chuyển vận hạm tại ví trí cách mũi St.George 150 dặm, hướng 140 độ. Tổng Hành Dinh Rabaul kết luận rằng các chiến hạm này có vẻ như sắp thực hiện một cuộc đổ bộ. Đó là phản ứng đã trở thành thói quen đối với các sĩ quan tham mưu ở Rabaul trong những tháng gần đây. Không một ai tưởng tượng được rằng hai "chuyển vận hạm" chính là hai hàng không mẫu hạm Saratoga và Princeton.
Nhiều tháng nay các phi cơ Nhật Bản không được nhìn thấy hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Ngay cả trong trận đánh ở Biển San Hô vào tháng 5 1942, nhiều phi cơ đầy đủ kinh nghiệm của chúng tôi còn nhận diện sai lầm các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ. Nhưng mà không một ai ở Rabaul nhớ lại việc đó. Kusaka ra lệnh cho các trinh sát cơ cố gắng theo dõi động tĩnh từng bước một của đối phương. Các phi cơ này đã cố gắng, nhưng các báo cáo đều không đúng lúc, thành thử lực lượng đặc nhiệm Nhật không thể hành động chính xác.
Lúc 9h sáng, còi báo động phi cơ địch tấn công ở Rabaul vang rền. Khu trục hạm Shigure của tôi luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng nên đã tham chiến nhanh chóng, và thoát ra hải cảng nhỏ hẹp trong khi nhiều chiến hạm khác vẫn buông neo. Lúc 9h15, khi các tuần dương hạm to lớn vẫn còn loay hoay nhổ neo, phi cơ địch xuất phát từ hai "chuyển vận hạm" ùa đến oanh tạc. Khoảng 50 chiến hạm Nhật nằm phơi lưng làm bia cho 23 phi cơ Avenger phóng ngư lôi, 22 oanh tạc cơ Dauntless và 42 chiến đấu cơ Hellcat của Hoa Kỳ.
Chiếc Shigure vừa chạy ra khỏi hải cảng vừa khai hỏa mọi loại súng vào các mục tiêu lướt nhanh qua. Hỏa lực của chúng tôi đã hạ 4 phi cơ địch. Thảm họa đã không xảy ra, nếu tất cả chiến hạm Nhật đều thoát chạy được ra ngoài hải cảng như chiếc Shigure. Nhưng ngày hôm đó, ngoài chiếc Shigure, không có một chiếc tàu nào nhúc nhích được. Hai khu trục hạm Samidare và Shiratsuyu không có mặt ở Rabaul, ngày trước đó cả hai đã lên đường đi Truk để sửa chữa.
Khoảng 10h, chiếc Shigure quay vào hải cảng. Cảnh tượng trước mắt làm tôi choáng váng cả giờ. Tôi nhớ lại cảnh đổ vỡ xảy ra vào tháng Giêng năm 1942, khi các phi cơ Hoa Kỳ gây hư hại cho tuần dương hạm Myoko tại Vịnh Malalag. Và bây giờ, nơi đây, chỉ trong vòng hai năm sau, chúng tôi đã vấp phải cùng một lỗi lầm. Thật đáng tủi hổ biết bao.
Soái hạm Atago đang bùng cháy, hai tuần dương hạm Maya và Takao bị hư hại nặng nề. Cả 3 tuần dương hạm hạng nặng này, sau một năm được giữ gìn cẩn thận, chưa đụng độ với địch quân bao giờ, đã nằm phơi mình như ba xác chết dưới cuộc không tập. Hai tuần dương hạm hạng nặng Mogami và Chikuma, hai tuần dương hạm hạng nhẹ Agano và Noshiro, cũng như hai khu trục hạm Fujinami và Amagiri đều bị thiệt hại. Tôi nhắm mắt lại và tự hỏi cảnh tượng này lại có thể là sự thật được sao?
Đó là sự thật, một sự thật hoàn toàn. Tại Tổng Hành Dinh Rabaul, như thường lệ, Kusaka nổi nóng. Ông chửi rủa hết người này đến người khác.
Trong lúc đó, các phi trường Rabaul lên cơn sốt, giống như một tổ ong bị chọc phá. Mọi phi cơ khả dụng đều được tung lên để truy đuổi những kẻ tấn công. Cuối cùng, khoảng 100 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ Nhật tìm thấy vị trí lực lượng đặc nhiệm đối phương, cách Rabaul khoảng 235 dặm, hướng 145 độ. Sau đó, các phi cơ báo cáo đã đánh chìm một hàng không mẫu hạm lớn, hai tuần dương hạm và một khu trục hạm, cũng như gây hư hại cho một hàng không mẫu hạm hạng trung khác.
Báo cáo này hoàn toàn có tính cách thêu dệt. Khi một người đang choáng váng thì người đó khó có thể nhìn sự việc một cách bình tĩnh và khách quan. Kiểm soát lại các phúc trình đáng nghi ngờ trong cuộc chiến chỉ được thực hiện đối với một kẻ đang chiến thắng. Do đó, báo cáo tưởng tượng vừa nêu đã đi ngay vào tủ hồ sơ chính thức mà không hề được đánh giá lại. Đô đốc Kusaka, còn sống sót sau cuộc chiến, đã giải thích: "Thật sự tôi đã ngờ vực các chi tiết nằm trong bản báo cáo, cũng như đa số các bản báo cáo khác của Nhật Bản trong thời gian đó, khi tôi biết được không quân của chúng ta khiếm khuyết các phi công giỏi. Nhưng nếu đặt vấn đề ra, hoặc yêu cầu kiểm soát lại các bản phúc trình, sẽ gây chán nản và bực bội cho những người đã cố gắng thi hành nhiệm vụ với tất cả khả năng mà họ có thể làm."
Ngày hôm sau, 6 tháng 11, các tuần dương hạm Atago, Takao và Mogami, được hai tuần dương hạm không bị hư hại hộ tống, rời khỏi Rabaul chạy khập khiễng trở về Truk, thật là đau buồn khi đứng nhìn theo bóng dáng của 5 tuần dương hạm này, người ta có thể xem đây là chuyến hải xuất vô dụng nhất trong toàn thể cuộc chiến của Hải quân Nhật Bản. Chỉ cách 3 ngày trước đó, tôi cũng đã từng đau buồn chứng kiến cảnh tuần dương hạm của Omori và 2 khu trục hạm của tôi ra đi với những vết thương trầm trọng.
Tuần dương hạm hạng nặng Maya vẫn còn ở lại hải cảng Rabaul, vì tất cả máy móc đều hư hại, không thể di chuyển được. Chiếc Agano, tuần dương hạm hạng nhẹ nằm gần đó cũng không khác gì đống sắt nổi. Những mất mát vô ích và sự ngu dốt của cấp chỉ huy khiến tôi tiêu tán hết nghị lực. Tôi hết lời thóa mạ, và tự hỏi Nhật Bản có thể làm gì nữa đây?
Trưa ngày hôm đó tôi đến Tổng Hành Dinh . Phó Đô đốc Samejima có vẻ bồn chồn khi tiếp tôi. Ông nói: "Tôi muốn đêm nay anh thi hành một nhiệm vụ với khu trục hạm Shigure và tuần dương hạm Yubari - chiếc tuần dương hạm duy nhất của chúng tôi còn hoạt động được ở đây. Tình thế tồi tệ lắm rồi. Có lẽ chúng ta bắt buộc phải bỏ hẳn Bougainville, nhưng chúng ta phải bám vào căn cứ Buka, nằm gần Rabaul. Do đó, công việc tăng cường cho các cơ cấu phòng thủ Buka đã được quyết định.
Quyết định này không làm cho tôi ngạc nhiên. Tôi chào và xoay lưng, nhưng Samejima gọi lại: "Tôi cũng cần nói với anh, Hara, đây sẽ là nhiệm vụ cuối cùng của anh được cắt đặt dưới quyền hạn chỉ huy của tôi. Quả thật, tôi không bao giờ muốn để anh đi, đặc biệt trong lúc này, nhưng chỉ vì chiếc Shigure đã tới giai đoạn cần phải sửa chữa trên ụ nổi, và tất nhiên, trong thời gian sửa chữa anh được nghỉ ngơi."
Buka là hòn đảo thuộc quần đảo Solomon gần với Rabaul nhất. Shigure và Yubari tấp vào bãi của hòn đảo này trong đêm đó để đổ 700 binh sĩ thuộc sư đoàn 17 bộ binh và 25 tấn tiếp liệu lên bờ.
Cuộc hành quân tuy ngắn ngủi nhưng cũng gây căng thẳng tột độ trên cả hai chiến hạm. Chúng tôi không gặp ngăn trở nào của địch quân. Trở về Rabaul vào ngày hôm sau, tôi trình diện Tổng Hành Dinh và chào từ biệt Phó Đô đốc Samejima.
Tôi lưu ý ông: "Cuộc hành quân xúc tiến rất dễ dàng. Nhưng nếu cuộc hành quân kế tiếp vẫn áp dụng giống như vậy, tôi sợ không suôn sẻ. Những chiến thuật cứ lặp đi lặp lại mãi sẽ gặp phản ứng ngược."
Samejima gật đầu: "Tôi tán thành sự lưu ý của anh, và tôi sẽ không để cho các chiến hạm khác thi hành nhiệm vụ giống như vậy. Hara, anh đi lần này chúng tôi biết là sẽ mất anh. Hiện thời chúng tôi khiếm khuyết các sĩ quan có đầy đủ kinh nghiệm như anh. Tôi rất muốn được trông thấy anh quay trở lại đây."
Cuối cùng ông hỏi tôi có thể sắp xếp thế nào để thi hành một "nhiệm vụ ngoại lệ" hay không? Nhiệm vụ ngoại lệ này là chiếc Shigure sẽ hộ tống hai chuyển vận hạm và trên đường sẽ ghé Kavieng. Ông giải thích rằng Rabaul, sau trận không tập vào tháng 11, đã thiếu chiến hạm để thi hành các công tác, nên ngay cả chiếc Shigure cần phải sửa chữa mà còn phải lưu dụng trong cuộc hành quân đổ bộ vừa qua. Nhiệm vụ ngoại lệ xem ra dễ dàng hơn bất cứ một nhiệm vụ nào tôi đã từng thi hành trong những tháng vừa qua, do đó tôi đã chấp thuận lời yêu cầu của Samejima một cách vui vẻ.
Vào lúc 2h30 sáng ngày 7 tháng 11, khu trục hạm Shigure rời Rabaul với hai chuyển vận hạm Ontakesan Maru và Tokyo Maru. Khi ngày lên hẳn, tôi đứng phía sau tàu mơ màng ngắm nhìn các miệng núi lửa đang tỏa khói. Rabaul là một hòn đảo hẻo lánh và ảm đạm. Nhưng, đặt chân đến đây từ tháng 7, bây giờ bỗng chốc rời xa hòn đảo này, bỗng nhiên tôi cảm thấy xúc động sâu xa. Rabaul không có gì hấp dẫn, nhưng mỗi lần ra khơi, chúng tôi đều mong mỏi được trở về để nhìn lại nó. Bây giờ, chúng tôi ra đi, để trở về quê nhà, và rất có thể không bao giờ chúng tôi nhìn thấy lại Rabaul nữa.
Trong ba tháng ngắn ngủi, chúng tôi đã mất hết hòn đảo này đến hòn đảo khác thuộc nhóm đảo Solomon, và đến hiện tại, Nhật Bản chỉ còn lại hòn đảo Buka. Hòn đảo này sẽ rơi vào tay địch quân không biết giờ phút nào, và sẽ đến lượt Rabaul. Không phải chỉ một mình tôi, mà tất cả mọi người đều nghĩ đến việc này.
Tôi hồi tưởng đến bạn bè, chiến hữu của tôi đã ra đi vĩnh viễn trong các trận đánh đẫm máu ở vùng biển này, và rồi còn nhiều người khác sẽ tiếp tục nối bước ra đi như vậy, mắt tôi bỗng dưng đầy lệ. Nhìn quanh, tôi thấy nhiều người khác trên chiếc Shigure cũng chia sẻ cảm nghĩ của tôi. Những thủy thủ đứng trên boong tàu đã vẫy tay từ biệt những kẻ đứng trên bờ dõi mắt trông theo. Chỗ nào đó, một giọng hát cất lên: "Sabara, Rabauru Yo, mata kuru made ma ... ( Tạm biệt Rabaul, chúng tôi sẽ sớm trở về...) Bài ca đầy sầu thảm này đã từng dội trên sóng nước Thái Bình Dương một thời, nhưng không một ai biết rõ xuất xứ của nó.*********
******* (Bác Ominowada hát thử anh em nghe cái )
Chúng tôi nhanh chóng tiến ra mặt biển bao la. Một ngày tràn ngập ánh nắng, đại dương lặng sóng. Cảnh sắc vui tươi, không khí như đổi mới trên chiếc tàu, chẳng khác nào một chuyến rong chơi mùa hạ. Tôi mơ màng nhớ đến những nhiệm vụ và hàng loạt hải xuất mà tôi đã thực hiện trong thời gian ở Rabaul vừa qua. Tôi cũng nhớ lại khi đặt chân đến Truk vào ngày 21 tháng 3, và qua cuộc hội kiến Đô đốc Kondo, tôi được biết chúng tôi đang đối diện với nhiều vấn đề khó khăn. Hai trong số những vấn đề chính yếu nhất là các pháo khẩu có trang bị radar và chiến thuật oanh tạc nhảy của đối phương.
Tôi tạm hài lòng với vấn đề đầu tiên, vì xem như tôi đã tìm được phương pháp chống trả hỏa lực có radar điều khiển trên các chiến hạm địch. Shigure là chiếc tàu không thiệt mất một thủy thủ nào. Vấn đề thứ hai là làm cách nào để đối phó với chiến thuật oanh tạc nhảy thì tôi đành bó tay. Nhiều lần chiếc Shigure chống trả với địch, nhưng không lần nào chúng tôi được nhìn thấy tận mắt chiến thuật oanh tạc nhảy này được áp dụng.
Hoàng hôn. Chúng tôi vẫn chạy dọc theo bờ biển phía Đông Nam New Ireland. Phải mất nhiều giờ chúng tôi mới vượt qua đoạn hải trình 250 dặm, vì tốc độ của các chuyển vận hạm rất chậm chạp, chỉ đạt đến 12 hải lý. Thời tiết quang đãng. Dưới hàng vạn tinh tú chiếu lấp lánh trên bầu trời, chúng tôi tiến vào eo biển Isabel, và khi ba chiếc tàu xoay về hướng chính Đông để chạy đến Kavieng, phòng truyền tin báo cáo đã nghe được các công điện mã hóa được đánh đi gần đâu đây. Điều này chứng tỏ phi cơ địch đang hoạt động trong khu vực phụ cận chúng tôi. Như vậy là "kỳ nghỉ hè trên mặt biển" đã bị phá đám. Tôi nhớ lại lần tăng tốc độ khẩn cấp từ 12 hải lý lên 28 hải lý để tránh né một chiếc oanh tạc cơ tấn công trước đây. Hiện tại, chiếc Shigure với máy móc đã bệ rạc, không thể nào làm như vậy một lần nữa. Vả lại, lúc đó chiếc tàu chỉ tự bảo vệ lấy thân, còn bây giờ nó phải bảo vệ thêm hai chuyển vận hạm.
Tôi cho gia tăng tốc độ lên 18 hải lý, và ra lệnh tạo một màn khói bao che hai chuyển vận hạm trong khi mọi quan sát viên đều phải dõi mắt lên trời. Hai chuyển vận hạm chạy chầm chậm về hướng Tây với tốc độ tối đa 16 hải lý. Tôi ra lệnh cho Shigure gia tăng tốc độ thêm nữa, và chạy theo hình chữ chi xuyên qua xuyên lại giữa hai chiếc tàu chạy chậm như rùa bò, thoạt ẩn thoạt hiện trong màn khói dày đặc.
Một quan sát viên thình lình lớn tiếng cho biết hai phi cơ xuất hiện ở mạn phải, hướng 50 độ. Tôi đã nhìn thấy chúng. Đó là 2 oanh tạc cơ, đang bay thẳng đến của Shigure. Tôi nghĩ chắc phi cơ địch sẽ không tấn công vào hai tàu chuyển vận. Cả hai chiếc phi cơ thình lình đổi hướng, đảo ngang, bay chiếc trước chiếc sau, ngược chiều với Shigure và mất hút về phía sau lái. Lúc tôi còn đang tự hỏi không hiểu đối phương định làm gì, quan sát viên đã la to: "Các phi cơ quay lại bên mạn trái."
Bây giờ cả hai phi cơ sà thật thấp và đâm thẳng vào hông chiếc tàu. Tôi hiểu ngay là chiến thuật oanh tạc nhảy sắp được áp dụng. Cuối cùng, tôi cũng đối mặt với vấn đề không giải đáp nổi. Trong tình cảnh khẩn cấp này, một giải pháp bỗng nhiên lóe sáng trong tâm trí tôi, tôi hét thật to: "Tất cả cao xạ chuẩn bị khai hỏa ở hướng 150 độ mạn trái."
Và xoay qua Đại úy Tsukihara, hoa tiêu trưởng, tôi nói: "Không chạy theo hình chữ chi. Chúng ta tiếp tục chạy thẳng."
Kinh ngạc, Tsukihara ấp úng hỏi: "Cái gì... cái gì? Thưa Đại tá, chúng ta không né tránh?"
"Hãy thi hành mệnh lệnh, tôi sẽ giải thích sau."
Chiếc Shigure đã gia tăng tốc độ gần 30 hải lý. Hai phi cơ chỉ còn cách một vài trăm mét. Tôi ra lệnh khai hỏa. Một màn hỏa lực căng ra dày đặc. Giữa tiếng nổ đinh tai nhức óc, tôi nghe tiếng hỏi to của Tsukihara: "Chúng ta vẫn chạy thẳng?"
Giây phút hiện tại chỉ còn một trong hai lối để chọn lựa, là giết địch hoặc bị địch giết, không thể nào giải thích rõ cách chống trả cấp thời phát sinh trong trí tôi cho hắn ta hiểu. Tôi chỉ đáp hai tiếng cộc lốc: "Chạy thẳng!"
Bây giờ, nhiều năm sau cuộc chống trả đáng ghi nhớ này, phương pháp oanh tạc nhảy không có gì khó giải thích: Các phi cơ địch tiến sát đến chiếc tàu, ở một khoảng cách tối thiểu, trước khi khi thực hiện phương pháp oanh tạc nhảy. Trước đây, lối né tránh thông thường của một chiếc tàu khi bị phi cơ tấn công bằng bom là chạy theo hình chữ chi, càng nhặt càng tốt. Nhưng chạy theo hình chữ chi khiến cho tốc độ của chiếc tàu có những khoảng chậm lại, và các oanh tạc cơ sẽ canh đúng khoảng chậm này để cắt bom. Tôi đã suy nghĩ hiện thời guồng lái và tay lái của chiếc Shigure không chính xác, không chạy theo hình chữ chi chẳng những khiến cho tốc độ của tàu nhanh hơn, mà còn khiến cho sự lượng định oanh tạc của phi cơ trở nên khó khăn hơn. Chạy thẳng còn có một lợi ích khác là các súng cao xạ trên chiếc tàu sẽ bắn chính xác hơn.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip